Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Việt Nam gia nhập hiệp định về đàn cá di cư của Liên Hợp Quốc năm 1995 thách thức và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 95 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN THỊ KIM ANH



VIỆT NAM GIA NHẬP HIỆP ĐỊNH VỀ ĐÀN CÁ
DI CƯ CỦA LIÊN HIỆP QUỐC NĂM 1995,
THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP




Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 60 38 60



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: TS. Đinh Xuân Thảo







HÀ NỘI - 2009


2
Danh mục bảng biểu

Loại
Tên
Trang
Phụ lục


1.1
Mô tả sự di chuyển của đàn cá lưỡng cư và di cư xa

3.1
Danh mục các văn bản quy phạm pháp luật về thủy sản
còn hiệu lực tính đến 8/2008































3
Mục lục

Trang phụ bìa


Lời cam đoan
2


Danh mục bảng biểu
3

Mở đầu
7

Chương 1. Bối cảnh ra đời và việc gia nhập Hiệp định về đàn
cá di cư của liên hợp quốc năm 1995

1.1.
Một số khái niệm

1.1.1
Điều ước quốc tế

1.1.2
Đàn cá lưỡng cư

1.1.3
Đàn cá di cư

1.2.
Những khoảng trống của Công ước năm 1982

1.2.1
Một số nét về Công ước năm 1982

1.2.2
Những khoảng trống của Công ước năm 1982


1.3.
Cơ sở, nền tảng sự phát triển của Hiệp định năm 1995

1.4.
Thực tiễn gia nhập Hiệp định năm 1995 của một số nước
trên thế giới

1.4.1.
Khái quát chung về tình hình gia nhập Hiệp định năm 1995 của
các nước trên thế giới

1.4.2.
Kinh nghiệm của Nhật Bản

1.4.3.
Kinh nghiệm của ấn Độ


Chương 2. Khảo cứu nội dung cơ bản của Hiệp định về đàn
cá di cư của liên hợp quốc năm 1995 trong mối tương quan
với Công ước năm 1982

2.1.
Nội dung cơ bản của Hiệp định năm 1995

2.1.1.
Nguyên tắc quản lý và bảo tồn các đàn cá lưỡng cư và di cư xa

2.1.2.
Cơ chế hợp tác quốc tế về đàn cá lưỡng cư và di cư xa


2.1.3.
Trách nhiệm của quốc gia mà tàu cá mang cờ

2.1.4.
Tuân thủ và thực thi

2.1.5.
Nhu cầu của các quốc gia đang phát triển

2.1.6.
Giải quyết các tranh chấp



4
2.2.
Xem xét Hiệp định năm 1995 trong mối tương quan với
Công ước năm 1982

2.3.
Tóm tắt về tình hình thực thi Hiệp định năm 1995 thông qua
các Hội nghị của các quốc gia là thành viên của Hiệp định

2.3.1.
Các Hội nghị không chính thức

2.3.2.
Hội nghị rà soát



Chương 3. Thực trạng nghề cá Việt Nam và việc gia nhập
Hiệp định về đàn cá di cư của liên hợp quốc năm 1995 trong
giai đoạn hiện nay

3.1.
Một số nét về ngành Thuỷ sản Việt Nam

3.1.1.
Điều kiện tự nhiên

3.1.2.
Tiềm năng nguồn lợi thuỷ sản

3.1.3.
Đặc điểm nghề cá biển của Việt Nam

3.1.4.
Một số nét về hệ thống pháp luật về thuỷ sản của Việt Nam

3.2.
Việc gia nhập Hiệp định năm 1995 của Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay

3.2.1.
Những lợi ích khi Việt Nam gia nhập Hiệp định năm 1995

3.2.2.
Những thách thức, khó khăn khi Việt Nam gia nhập Hiệp định
năm 1995


3.3.
Quy định của pháp luật Việt Nam trong việc gia nhập Hiệp
định năm 1995

3.3.1.
Pháp luật Việt Nam về ký kết, gia nhập Điều ước quốc tế

3.3.2.
Trình tự, thủ tục để Việt Nam gia nhập Hiệp định năm 1995


Chương 4. Bài học kinh nghiệm và một số giải pháp đối với
Việt Nam trong việc gia nhập Hiệp định về đàn cá di cư của
liên hợp quốc năm 1995

4.1.
Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam trong việc gia nhập
Hiệp định năm 1995

4.1.1.
Bài học về nghiên cứu trước khi xem xét, gia nhập Hiệp định

4.1.2.
Bài học về xây dựng hệ thống pháp luật về thuỷ sản hoàn thiện,
thống nhất



5

4.1.3.
Bài học về việc hội nhập kinh tế thuỷ sản thông qua việc sớm gia
nhập tổ chức quản lý nghề cá khu vực

4.1.4.
Bài học về chú trọng công tác nâng cao năng lực cho cán bộ thực
thi ngành thuỷ sản

4.1.5.
Bài học về đầu tư cơ sở hạ tầng nghề cá

4.2.
Một số giải pháp đối với Việt Nam trong việc gia nhập Hiệp
định năm 1995

4.2.1.
Xây dựng lộ trình cụ thể để Việt Nam xem xét, gia nhập Hiệp
định năm 1995

4.2.2.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuỷ sản của Việt Nam

4.2.3.
Nghiên cứu để Việt Nam sớm tham gia Tổ chức quản lý nghề cá
khu vực

4.2.4.
Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý,
thực thi pháp luật, nghiên cứu khoa học


4.2.5.
Nâng cao công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho ngư dân

4.2.6.
Tăng cường hợp tác với các đối tác nước ngoài, trao đổi, học tập
kinh nghiệm của các quốc gia có nghề cá phát triển hoặc tương
đồng với Việt Nam


Kết luận


danh mục Tài liệu tham khảo


Phụ lục



6
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hiện có một số văn bản pháp luật quốc tế điều chỉnh về quản lý nghề cá,
đó là: Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (sau đây gọi là Công
ước năm 1982); Bộ quy tắc ứng xử nghề cá có trách nhiệm của Tổ chức Nông
lương thế giới (FAO) năm 1993, Hiệp định thực thi các điều khoản của Công
ước năm 1982 về bảo tồn và quản lý các đàn cá lưỡng cư và di cư xa của Liên
hợp quốc năm 1995 (sau đây gọi là Hiệp định năm 1995)… Cho đến nay, Việt
Nam đã tham gia Công ước năm 1982; Bộ quy tắc ứng xử nghề cá có trách
nhiệm. Đây là cơ sở pháp lý để Việt Nam tiến hành đàm phán, hợp tác về nghề

cá với các quốc gia láng giềng nói riêng và với các quốc gia trên thế giới nói
chung. Riêng đối với Hiệp định năm 1995, chúng ta đang được khuyến nghị là
nên xem xét để gia nhập Hiệp định này. Cuối năm 2005, Chính phủ đã giao Bộ
Thuỷ sản, nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với
Bộ Ngoại giao sớm xây dựng lộ trình để trình Thủ tướng Chính phủ về việc xem
xét, gia nhập Hiệp định này.
Công ước năm 1982 đã quy định về các vấn đề hợp tác liên quan đến luật
biển nói chung và về hợp tác nghề cá nói riêng. Trước khi có Công ước năm
1982, việc quản lý, khai thác, sử dụng nguồn lợi thuỷ sản trên biển của các quốc
gia chủ yếu tùy thuộc vào ý muốn chủ quan của mỗi quốc gia. Trong khi đó,
thuỷ sản khác với các nguồn tài nguyên khác: thuỷ sản luôn vận động; có thể di
chuyển từ vùng này sang vùng khác, quốc gia này sang quốc gia khác, khu vực
này sang khu vực khác…; là tài nguyên sinh vật nên có thể tái tạo. Do vậy, nếu
không có sự quản lý tốt, mạnh ai nấy làm, khai thác một cách bừa bãi, sẽ dẫn tới
tình trạng nguồn lợi sinh vật biển dần bị cạn kiệt và có nguy cơ tuyệt chủng.
Nguồn lợi thuỷ sản không phải là vô hạn mà đã đến lúc phải có cơ chế để
quản lý nguồn lợi thuỷ sản nói chung ở trong vùng đặc quyền kinh tế của mỗi
quốc gia và ở vùng biển cả. Vấn đề đặt ra là phải có sự hợp tác giữa các quốc gia
để cùng chung tay khai thác và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản một cách bền vững.


7
Công ước năm 1982 đã quy định các vấn đề liên quan đến nghề cá như:
về quyền đánh cá trên biển; cân bằng lợi ích của các quốc gia; tài nguyên sinh
vật biển được chia sẻ cho hai hay nhiều quốc gia; ngăn chặn sự suy giảm tài
nguyên thuỷ sản trên biển và giải quyết tranh chấp quốc tế về khai thác thuỷ sản.
Tuy nhiên trong Công ước năm 1982 còn một số vấn đề quy định còn
thiếu hoặc đã được quy định nhưng chưa thật cụ thể. Đó là, Điều 63 và Điều 64,
Công ước năm 1982 chưa có quy định về việc quản lý nguồn lợi đối với đàn cá
di cư, chưa đưa ra được cách thức hợp tác giữa các quốc gia; từ Điều 116 đến

Điều 119, Công ước chưa nêu rõ được hình thức hợp tác giữa các quốc gia là
như thế nào.
Hiệp định năm 1995 đã cụ thể hoá các điều khoản của Công ước năm
1982 về việc bảo tồn và quản lý các đàn cá lưỡng cư và di cư xa.
Những nội dung chính của Hiệp định năm 1995 là: nguyên tắc bảo tồn và
quản lý; cơ chế hợp tác quốc tế trong bảo tồn và quản lý; cơ chế giám sát, kiểm
soát và thi hành; yêu cầu của quốc gia đang phát triển và giải quyết tranh chấp
đều nhằm mục tiêu là bảo đảm sự tồn tại dài hạn và sử dụng bền vững đàn cá di
cư.
Khi tham gia Công ước năm 1982 và Hiệp định năm 1995, các quốc gia
phải có trách nhiệm nội luật hoá các quy định của Công ước năm 1982 và Hiệp
định năm 1995; đảm bảo nguồn lợi thuỷ sản được khai thác một cách bền vững,
an toàn nhằm duy trì bảo tồn, quản lý nguồn lợi thuỷ sản, chống hành vi đánh
bắt thuỷ sản bất hợp pháp, không theo quy định hoặc không báo cáo.
Khi tham gia Hiệp định năm 1995, các quốc gia có quyền thu thập, xử lý
và trao đổi thông tin về đàn cá lưỡng cư và di cư xa; thực hiện việc kiểm tra,
kiểm soát đối với các hoạt động khai thác nguồn lợi ở vùng biển cả; tiêu thụ sản
phẩm thuỷ sản an toàn, có nghĩa là ngư dân phải dán nhãn xuất xứ hàng hoá đối
với sản phẩm thuỷ sản do quốc gia mình khai thác được; nghiên cứu khoa học
phục vụ cho công tác khai thác nguồn lợi sinh vật biển đảm bảo ở mức cho


8
phép… Như vậy, có thể nói, việc tham gia Hiệp định về đàn cá lưỡng cư và di
cư xa mang lại nhiều lợi ích cho quốc gia là thành viên của Hiệp định.
Việt Nam là Quốc gia ven biển, nằm trong khu vực Đông Nam á, có chiều
dài bờ biển hơn 3.260 km, diện tích vùng nội thuỷ và lãnh hải rộng 226.000 km
2
,
vùng đặc quyền kinh tế rộng trên một triệu km

2
với những tiềm năng lớn cả về
nuôi trồng và khai thác thuỷ sản. Trong những năm gần đây, ngành Thuỷ sản
được coi là Ngành kinh tế mũi nhọn và có vai trò quan trọng trong sự phát triển
kinh tế – xã hội của đất nước, góp phần xóa đói giảm nghèo và nâng cao mức
sống cho cộng đồng ngư dân.
Tổng sản lượng toàn ngành Thuỷ sản năm 2007 đạt 4,15 triệu tấn, trong
đó, sản lượng khai thác biển là 2.060.000 tấn và tổng giá trị kim ngạch xuất
khẩu đạt 3,8 tỷ đô-la Mỹ [20].
Năm 2008, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng thuỷ sản đạt 4,5 tỷ USD, tăng
19,6% so với cùng kỳ năm trước [21].
Biển Việt Nam có trên 2030 loài cá, trong đó có khoảng 130 loài kinh tế,
1.600 loài giáp xác, 2.500 loài nhuyễn thể, ngoài ra còn có các loài rong tảo,
chim và thú biển khác như rùa, cá heo, bò biển…Trữ lượng cá ở biển Việt Nam
dao động trong khoảng từ 3,1 – 4,2 triệu tấn và khả năng khai thác bền vững từ
1,5 – 1,7 triệu tấn [34].
Việt Nam có nghề cá quy mô nhỏ, nghề cá nhân dân, là nước đang phát
triển nên việc xem xét để gia nhập Hiệp định năm 1995 vừa là điều kiện tất yếu
khách quan trong xu thế hội nhập, vừa là điều kiện chủ quan. Bởi Việt Nam đã
là thành viên của Công ước năm 1982 vào năm 1994, và những lợi ích của Công
ước năm 1982, Hiệp định năm 1995 mang lại sẽ có nhiều lợi ích đối với nước ta,
một quốc gia đang trong giai đoạn phát triển. Tuy nhiên, cho đến nay mới chỉ có
75 quốc gia và vùng lãnh thổ là thành viên của Hiệp định. Trong khi đó, ở khu
vực Đông Nam á chưa có quốc gia nào tham gia Hiệp định này. Nhiều quốc gia,
như Hàn Quốc, Trung Quốc, Malaixia, Thái Lan… đang trong quá trình nghiên


9
cứu, cân nhắc việc gia nhập Hiệp định. Việt Nam cũng nằm trong những quốc
gia đó.

Để có cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xem xét, gia nhập Hiệp định này
trong thời gian tới, tác giả mạnh dạn lựa chọn đề tài “Việt Nam gia nhập Hiệp
định về đàn cá di cư của Liên Hợp quốc năm 1995, thách thức và giải pháp”
làm đề tài nghiên cứu của mình với mong muốn đóng góp phần nào vào quá
trình chuẩn bị để Việt Nam sớm gia nhập Hiệp định này.
2. Tình hình nghiên cứu
Luận văn đề cập đến một vấn đề hoàn toàn mới mà trước nay ở Việt Nam
chưa có công trình nào nghiên cứu. Mong muốn của tác giả là thông qua luận
văn này, đưa ra được những đánh giá về lợi ích và khó khăn, thách thức đối với
Việt Nam khi gia nhập Hiệp định; trên cơ sở khái quát thực trạng việc gia nhập
Hiệp định này theo pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia, luận văn nêu lên
một số đề xuất về các giải pháp để Việt Nam sớm là thành viên của Hiệp định
này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là góp phần làm rõ hơn nội dung của
Hiệp định năm 1995 trong mối tương quan với các điều ước quốc tế về thuỷ sản
có liên quan, đồng thời, nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của một số quốc
gia trên thế giới trong việc gia nhập và thực hiện Hiệp định này. Trên cơ sở đó,
rút ra những bài học kinh nghiệm, đề xuất các giải pháp góp phần đẩy nhanh
tiến trình để Việt Nam sớm gia nhập Hiệp định này.
3.2. Nhiệm vụ
Với mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ cơ bản sau đây:
- Phân tích, làm rõ nội dung cơ bản và những điểm nổi bật của Hiệp định
năm 1995.


10
- Tìm hiểu những kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới trong
việc gia nhập Hiệp định, cũng như quá trình thực thi Hiệp định của các quốc gia

là thành viên trong giai đoạn hiện nay.
- Đánh giá thực trạng nghề cá Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra những thách
thức có thể gặp phải khi Việt Nam gia nhập Hiệp định năm 1995 trong giai đoạn
hiện nay.
- Rút ra bài học kinh nghiệm và đề xuất các giải pháp để Việt Nam sớm
gia nhập Hiệp định năm 1995.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Luận văn đi sâu nghiên cứu về nội dung cơ bản, những điểm nổi bật của
Hiệp định năm 1995 so với các điều ước quốc tế về thuỷ sản khác có liên quan.
Từ đó đề ra các giải pháp để Việt Nam sớm là thành viên của Hiệp định năm
1995.
Về phạm vi nghiên cứu, luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề sau:
- Một số vấn đề lý luận về Hiệp định năm 1995;
- Phân tích, tìm hiểu những kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới
trong việc gia nhập Hiệp định, cũng như quá trình thực thi Hiệp định của các
quốc gia là thành viên trong giai đoạn hiện nay;
- Phân tích, đánh giá thực trạng nghề cá Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra
những thách thức có thể gặp phải khi Việt Nam gia nhập Hiệp định năm 1995
trong giai đoạn hiện nay.
- Rút ra bài học kinh nghiệm và đề xuất các giải pháp để Việt Nam sớm
gia nhập Hiệp định năm 1995.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở các quan điểm của Chủ nghĩa Mác -
Lê nin và tư tưởng Hồ Chính Minh về pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà
nước Việt Nam về việc ký kết, gia nhập điều ước quốc tế.


11
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã áp dụng một số phương pháp cụ
thể như: Phương pháp phân tích để làm sáng tỏ những nội dung thuộc phạm vi

nghiên cứu; phương pháp so sánh được sử dụng để làm rõ mức độ tương quan
giữa quy định của pháp luật quốc tế với pháp luật Việt Nam và đặc biệt là thông
qua phương pháp này để có được những đánh giá khách quan giữa quy định của
pháp luật với thực tiễn thực hiện các quy định ấy; phương pháp tổng hợp và
thống kê được sử dụng để khái quát nội dung nghiên cứư một cách hệ thống,
làm cho vấn đề nghiên cứu trở nên ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu. Đồng thời,
phương pháp này được dùng để thu thập và cung cấp một số số liệu liên quan
đến việc thực thi Hiệp định năm 1995 trên thực tiễn; phương pháp xã hội học
được dùng để đánh giá, phân tích nhữnh điều kiện kinh tế, chính trị xã hội với
việc thực hiện Hiệp định năm 1995 ở Việt Nam
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
- Luận văn góp phần xác định rõ sự cần thiết phải sớm nghiên cứu và xây
dựng lộ trình Việt Nam gia nhập Hiệp định năm 1995, những thuận lợi và thách
thức có thể gặp phải khi Việt Nam gia nhập Hiệp định này.
- Đưa ra những bài học kinh nghiệm và đề xuất những giải pháp để Việt
Nam sớm gia nhập Hiệp định năm 1995.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan, đơn vị, cá
nhân có liên quan trong quá trình tìm hiểu nội dung, cũng như xây dựng lộ trình
để tham gia Hiệp định năm 1995.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
có 4 chương, 12 tiết.
Chương 1. Bối cảnh ra đời và việc gia nhập Hiệp định về đàn cá di cư của
Liên hợp quốc năm 1995
Chương 2. Khảo cứu nội dung cơ bản của Hiệp định về đàn cá di cư của
Liên hợp quốc năm 1995 trong mối tương quan với Công ước năm 1982


12
Chương 3. Thực trạng nghề cá Việt Nam và việc gia nhập Hiệp định về

đàn cá di cư của Liên hợp quốc năm 1995 trong giai đoạn hiện nay
Chương 4. Bài học kinh nghiệm và giải pháp đối với Việt Nam trong việc
gia nhập Hiệp định về đàn cá di cư của Liên hợp quốc năm 1995.


13
Chương 1
Bối cảnh ra đời Và VIệC GIA NHậP
Hiệp định về đàn cá di cư của liên hợp quốc năm 1995
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Điều ước quốc tế
Theo Luật Ký kết và gia nhập điều ước quốc tế của Việt Nam năm 2005,
“Điều ước quốc tế” được hiểu như sau: “Điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập là thoả thuận bằng văn bản được ký
kết hoặc gia nhập nhân danh Nhà nước hoặc nhân danh Chính phủ nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với một hoặc nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế
hoặc chủ thể khác của pháp luật quốc tế, không phụ thuộc vào tên gọi là hiệp
ước, công ước, hiệp định, định ước, thoả thuận, nghị định thư, bản ghi nhớ,
công hàm trao đổi hoặc văn kiện có tên gọi khác” [15].
Các hiệp định nói chung và Hiệp định năm 1995 cũng là một trong những
hình thức của điều ước quốc tế.
1.1.2. Đàn cá lưỡng cư
Trong quan niệm dân gian cũng như trong văn bản pháp luật của nước ta,
khái niệm “động vật lưỡng cư” hay ”loài lưỡng cư” là để chỉ sự thích nghi với
môi trường sống của một loài động vật, như: ếch, cá sấu là loài vừa sống trên
cạn, vừa sống dưới nước
Khái niệm ”đàn cá lưỡng cư” không đồng nghĩa với khái niệm ”động vật
lưỡng cư”. Theo quy định của Hiệp định năm 1995 thì khái niệm ”đàn cá lưỡng
cư” là để chỉ sự di chuyển, thay đổi nơi sinh sống của một đàn cá từ vùng biển
này đến vùng biển khác. Ví dụ như cá ngừ đại dương lúc ở vùng biển Việt Nam

lúc di chuyển ra vùng biển nước khác hoặc biển quốc tế.
1.1.3. Đàn cá di cư xa
Khái niệm “đàn cá di cư xa” được nêu tại Điều 64 và Phụ lục, Công ước
năm 1982.


14
Bản chất của đàn cá di cư xa là những đàn cá sống trong vùng biển rộng
lớn thuộc vùng đặc quyền kinh tế của một hoặc nhiều quốc gia và biển cả.
Theo nhiều nghiên cứu, đặc biệt là nghiên cứu của Bà Ê-vê-lin Me-Giơ,
chuyên gia luật pháp của Ca-na-đa đã được nhiều chuyên gia trên thế giới công
nhận, sử dụng làm tài liệu tại các Hội nghị quốc tế, mô tả đàn cá lưỡng cư và di
cư xa được phân thành 9 nhóm khác nhau căn cứ theo đặc thù của chúng khi
sống và di chuyển trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế – biển cả - vùng đặc
quyền kinh tế (Xem phụ lục số 1.1), bao gồm:
Hình 1, mô tả đàn cá lưỡng cư xuất hiện trong cả vùng đặc quyền kinh tế
và biển cả. Một số đàn cá có thể xuất hiện chủ yếu ở một vùng đặc quyền kinh
tế;
Hình 2, mô tả đàn cá lưỡng cư xuất hiện trong cả vùng đặc quyền kinh tế
và biển cả. Một số đàn cá có thể xuất hiện chủ yếu ở biển cả;
Hình 3, mô tả một số đàn cá có thể được phân bố đều ở cả vùng đặc
quyền kinh tế và biển cả;
Hình 4 và 5, mô tả đàn cá lưỡng cư gồm các loài phân bố rộng và các loài
có vòng đời xuất hiện tại các vùng biển có thể xuất hiện ở biển cả và ở một hoặc
nhiều vùng đặc quyền kinh tế;
Hình 6 và 9, mô tả không phải là đàn cá lưỡng cư và di cư xa mà chỉ là
loài chuyên di chuyển xuyên biên giới và đàn cá riêng biệt (chỉ ở một vùng duy
nhất);
Hình 7 và 8, mô tả loài cá di cư xa (cá ngừ và các loài thuộc họ cá ngừ).
1.2. Những khoảng trống của Công ước năm 1982

1.2.1. Một số nét về Công ước năm 1982
Công ước năm 1982 có hiệu lực từ ngày 16/11/1994 – sau 12 tháng kể từ
ngày nước Guyana (nước thứ sáu mươi) phê chuẩn Công ước vào ngày
16/11/1993. Đến tháng 11/1996, Công ước đã có 108 nước phê chuẩn.


15
Đây là một trong những công ước có quá trình chuẩn bị và đàm phán thông
qua văn kiện lâu nhất (10 năm, từ năm 1973 đến năm 1982). Công ước này không
chỉ được các quốc gia ven biển mà cả các quốc gia không có biển quan tâm. Công
ước năm 1982 không chỉ bao gồm các điều khoản mang tính điều ước mà còn là
văn bản pháp điển hoá các quy định mang tính tập quán. Chính điều này cắt nghĩa
vì sao Công ước năm 1982 được các quốc gia viện dẫn và áp dụng một cách rộng
rãi ngay cả khi còn chưa có hiệu lực. Với 320 điều khoản, 17 phần và 9 phụ lục,
hơn 1.000 quy phạm pháp luật, Công ước năm 1982 thực sự là một “bản hiến
pháp” về biển của cộng đồng quốc tế là một trong những thành tựu có ý nghĩa nhất
trong lĩnh vực quốc tế của thế kỷ XX. Lần đầu tiên trong lịch sử, Công ước năm
1982 đã đưa ra một tổng thể các quy định bao trùm tất cả các vùng biển và lĩnh
vực sử dụng biển: chế độ pháp lý của tất cả các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền
chủ quyền và quyền tài phán quốc gia; biển cả và vùng di sản chung của loài
người; các quy định hàng hải và hàng không; sử dụng và quản lý tài nguyên biển,
sinh vật và không sinh vật; bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, an
ninh trật tự trên biển, đấu tranh chống các tội phạm trên biển và hợp tác quốc tế về
biển. Công ước đã thiết lập một trật tự pháp lý mới trên biển, tương đối công bằng
và được thừa nhận rộng rãi. “ Công ước luật biển năm 1982 vừa là cơ sở pháp lý
quốc tế quan trọng giúp các quốc gia trong việc quản lý, khai thác, sử dụng và
bảo vệ có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên của biển cả vừa là cơ sở pháp lý
cho các quốc gia trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ biển cả” [25, tr.
88].
1.2.2. Những khoảng trống của Công ước năm 1982

Công ước năm 1982, Điều 63 quy định về các đàn cá ở trong vùng đặc
quyền kinh tế của hai hay nhiều quốc gia ven biển hoặc đồng thời ở trong vùng
đặc quyền kinh tế và trong một khu vực nằm ngoài và tiếp liền với vùng đặc
quyền kinh tế và Điều 64 quy định về các loài cá di cư xa. Theo đó, tại Mục 2,
Phần VII, từ Điều 116 đến Điều 119 của Công ước năm 1982 có quy định về
quyền đánh bắt ở biển cả (Điều 116); nghĩa vụ của các quốc gia có các biện


16
pháp bảo tồn tài nguyên sinh vật của biển cả đối với các công dân của mình
(Điều 117); sự hợp tác của các quốc gia trong việc bảo tồn và quản lý tài nguyên
sinh vật (Điều 118); việc bảo tồn tài nguyên sinh vật của biển cả (Điều 119).
Các quyền và nghĩa vụ của quốc gia ven biển đối với những nguồn lợi
sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế được quy định tại phần V của Công ước
năm 1982. Theo khoản 1, Điều 61, Công ước năm 1982, quốc gia ven biển có
quyền xác định sản lượng đánh bắt cho phép trong vùng đặc quyền kinh tế của
mình. Những khoản còn lại của Điều 61 quy định rõ nghĩa vụ gắn liền với khả
năng phục hồi của hệ sinh thái biển, sự phụ thuộc lẫn nhau của các đàn cá và
trách nhiệm của các quốc gia trong việc trao đổi số liệu liên quan đến đàn cá.
Chỉ nghĩa vụ bảo tồn nguồn lợi quy định tại Điều 119, Công ước năm
1982 là phù hợp với những nghĩa vụ tương ứng tại Điều 61 về vùng đặc quyền
kinh tế. Do vậy, cần thiết phải có những biện pháp quản lý đối với vùng đặc
quyền kinh tế để áp dụng cho những vùng biển cả liền kề. Hay nói một cách
khác, liên quan đến nghề cá, trong Công ước năm 1982 mới chỉ xác định trách
nhiệm của các quốc gia đối với vùng đặc quyền kinh tế, còn đối với vùng biển
cả cũng như cơ chế quản lý vùng này như thế nào chưa được đề cập cụ thể.
Trong khi đó, đặc điểm của nguồn lợi thuỷ sản nói chung và của nguồn lợi sinh
vật biển nói riêng có thể di chuyển, có thể sống ở vùng đặc quyền kinh tế của
quốc gia này hoặc ở quốc gia khác, thậm chí di cư ra vùng biển cả. Để quản lý
có hiệu quả thì vấn đề đặt ra là phải quản lý nguồn lợi thuỷ sản bao trùm hết quá

trình vận động của nó.
Như vậy, trong Công ước năm 1982 chưa giải quyết đầy đủ vấn đề về bảo
tồn và quản lý các đàn cá di cư xa trong các khu vực nằm ngoài vùng thuộc
quyền tài phán của quốc gia, mặc dù đã nhận thức được sự phụ thuộc lẫn nhau
giữa các đàn cá này với các đàn cá nằm trong vùng đặc quyền kinh tế. Đây là
khoảng trống mà chưa có văn bản pháp luật quốc tế nào điều chỉnh nhằm quản
lý có hiệu quả đối với những đàn cá lưỡng cư và di cư xa này. Khoảng trống này
cho thấy việc khai thác thuỷ sản không theo quy định theo cơ chế tiếp cận mở ở


17
ngoài khơi đã gây ra tình trạng khai thác thuỷ sản quá mức các nguồn lợi sinh
vật biển nói trên, đồng thời gây ra những căng thẳng trong thời gian gần đây
giữa các quốc gia có bờ biển và các quốc gia khai thác thủy sản viễn dương.
Hiệp định năm 1995 tiến một bước quan trọng tới việc giải thích những
cách thức hợp tác, tính tương thích và trách nhiệm như đã được quy định trong
Công ước năm 1982. Nói cách khác, Hiệp định năm 1995 hướng dẫn việc thực
hiện những quyền và nghĩa vụ được quy định trong Công ước năm 1982, bổ
sung phần quản lý nguồn lợi thuỷ sản nối dài ra vùng biển cả. Hiệp định này
được coi là một trong những văn bản pháp lý đa phương về nghề cá quan trọng
nhất từ khi Công ước năm 1982 được ký kết.
1.3. Cơ sở, nền tảng sự phát triển của Hiệp định năm 1995
Hiệp định thực hiện các điều khoản Công ước của Liên hợp quốc về Luật
biển năm 1982 đối với bảo tồn và quản lý các đàn cá lưỡng cư và di cư xa được
coi là văn bản mang tính ràng buộc pháp lý đa phương quan trọng nhất về bảo
tồn và quản lý nghề cá trên biển cả kể từ khi Công ước của Liên hợp quốc về
Luật Biển năm 1982 được ký kết. Mục tiêu của Hiệp định là bảo đảm việc bảo
tồn dài hạn và sử dụng bền vững đàn cá lưỡng cư và di cư xa thông qua việc
thực hiện hiệu quả những điều khoản có liên quan đến Công ước năm 1982.
Hội nghị của Liên hợp quốc về Môi trường và Phát triển (UNCED) tổ

chức tại Rio de Janeiro năm 1992 là một sự kiện quan trọng giải quyết được mối
quan hệ của phát triển kinh tế và việc sử dụng các nguồn lợi tự nhiên của con
người với sự cần thiết phải bảo vệ môi trường tự nhiên. Các nguyên tắc chung
trong Tuyên bố Rio và các điều khoản trong Chương trình nghị sự 21 thể hiện
kỳ vọng của cộng đồng quốc tế và tạo cơ sở cho chính sách quốc gia và quốc tế,
cũng như phát triển thể chế trên nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có quản lý
các nguồn lợi sinh vật biển.
Chương XVI của Chương trình nghị sự 21 tập trung vào các vấn đề biển
và đại dương trên thế giới, cũng như những quan ngại của cộng đồng quốc tế về
các vấn đề như đánh bắt hải sản trái quy định, tàu cá tuỳ tiện thay cờ hiệu khi đi


18
đánh bắt, đầu tư vốn quá mức vào ngành công nghiệp khai thác hải sản, thực thi
nghề cá không đầy đủ và thiếu sự hợp tác giữa các quốc gia.
Hội nghị này đã yêu cầu Liên hợp quốc tổ chức một hội nghị về thực thi
các điều khoản có liên quan của Công ước năm 1982 và xây dựng một cơ chế
bảo tồn và quản lý các đàn cá lưỡng cư và di cư xa. Theo đó, từ năm 1993 đến
năm 1995 đã diễn ra tổng cộng 6 vòng đàm phán để thảo luận về các nội dung
của Hiệp định năm 1995. Kết quả, ngày 4/8/1995, trong vòng đàm phán cuối
cùng, Hội nghị của Liên hợp quốc đã thông qua Hiệp định thực thi các điều
khoản của Công ước năm 1982 về bảo tồn và quản lý đàn cá lưỡng cư và di cư
xa của Liên hợp quốc năm 1995. Lễ ký kết Hiệp định năm 1995 được tổ chức
ngày 4/12/1995. Hiệp định có hiệu lực hoàn chỉnh vào ngày 11/12/2001. Đây là
thời điểm mà trước đó một tháng (ngày 11/11/2001), Bộ Ngoại giao Man – Ta
gửi văn kiện xin gia nhập Hiệp định lên ngài Tổng Thư ký Liên hợp quốc và
được phê chuẩn. Đây là văn kiện xin gia nhập thứ 30 mà theo Khoản 1, Điều 40
của Hiệp định năm 1995 thì: “Hiệp định này có hiệu lực thi hành sau 30 ngày kể
từ ngày nộp lưu chiểu văn bản phê chuẩn hoặc gia nhập thứ 30”.
Hiệp định có mục đích đảm bảo việc bảo tồn lâu dài và sử dụng bền vững

các đàn cá lưỡng cư và di cư xa, bao gồm một số nguyên tắc về bảo tồn và quản
lý, cùng với các điều khoản khác, về áp dụng phương pháp tiếp cận phòng ngừa;
tính tương thích của các biện pháp bảo tồn và quản lý; hợp tác trong bảo tồn của
các nước không phải là thành viên của các Tổ chức quản lý nghề cá khu vực;
nhiệm vụ, tuân thủ và thực thi của các quốc gia mà tàu mang cờ; sự hợp tác
trong việc thực thi tại khu vực và tiểu khu vực; trình tự lên tàu và thanh tra; các
biện pháp do những quốc gia có cảng tiến hành; những yêu cầu đặc biệt và hình
thức hợp tác với các quốc gia đang phát triển; và giải quyết tranh chấp. Hiệp
định xây dựng một hệ thống các quyền và nghĩa vụ đối với các quốc gia nhằm
bảo tồn và quản lý hai đàn cá lưỡng cư và di cư xa, cũng như các loài sống theo
đàn hoặc độc lập khác nhằm bảo vệ môi trường biển nói chung.


19
Cuộc họp của các quốc gia là thành viên của Hiệp định năm 1995 được tổ
chức thường niên kể từ khi Hiệp định này có hiệu lực thi hành. Tại Hội nghị
thường niên này, các quốc gia không phải là thành viên và các tổ chức quốc tế
có thể tham dự với tư cách là quan sát viên. Nội dung chủ yếu của Hội nghị này
là rà soát việc thực thi, mở rộng việc gia nhập, cũng như chuẩn bị các nội dung
cho Hội nghị rà soát.
Hội nghị rà soát, theo quy định tại Điều 36 của Hiệp định năm 1995 được
tổ chức bốn (04) năm sau ngày Hiệp định có hiệu lực. Hội nghị tiến hành rà soát
và đánh giá sự chính xác của các điều khoản của Hiệp định, đề xuất các phương
án nhằm tăng cường khả năng thực thi của Hiệp định để bảo tồn và quản lý đàn
cá lưỡng cư và di cư xa một cách có hiệu quả.
1.4. Thực tiễn gia nhập Hiệp định năm 1995 của một số nước trên thế giới
1.4.1. Khái quát chung về tình hình gia nhập Hiệp định năm 1995 của
các nước trên thế giới
Mục tiêu cơ bản của Hiệp định năm 1995 là việc thực hiện có hiệu quả
những điều khoản có liên quan của Công ước năm 1982 và thiết lập khung cho

việc quản lý và bảo tồn những nguồn lợi xuất hiện ở biển cả. Mong muốn là tất
cả các bên tham gia Công ước năm 1982 đều trở thành thành viên của Hiệp định
năm 1995. Sự cần thiết này đã được nhắc lại nhiều lần trong Nghị quyết của Đại
Hội đồng Liên hợp quốc, nhưng điều này chưa thành hiện thực. Cho đến nay có
157 thành viên tham gia Công nước năm 1982, nhưng chỉ có 75 thành viên tham
gia Hiệp định năm 1995. Mặc dù Hiệp định năm 1995 phù hợp và nhất quán với
Công ước năm 1982, nhưng nhiều quốc gia quan tâm đến những vấn đề nêu ra
trong Hiệp định năm 1995 hiện vẫn chưa tham gia Hiệp định này. Tuy nhiên,
ngay cùng thời điểm đang trong quá trình soạn thảo, đã có 57 quốc gia và vùng
lãnh thổ đã ký vào bản Hiệp định và 29 quốc gia và vùng lãnh thổ đã phê chuẩn
việc gia nhập Hiệp định này [26]. Điều này cho thấy, Hiệp định năm 1995 được
xây dựng trên cơ sở đồng thuận của nhiều quốc gia, đã giải quyết được những
vấn đề về nghề cá mà nhiều quốc gia đang quan tâm. Cũng có những quốc gia


20
chưa là thành viên của Công ước năm 1982 nhưng đã tham gia Hiệp định năm
1995 (Mỹ); có quốc gia đã tham gia các Tổ chức Quản lý nghề cá khu vực,
nhưng chưa gia nhập Hiệp định năm 1995 (như Trung Quốc, Hàn Quốc ). Tuy
nhiên, rất nhiều các quốc gia chưa phải là thành viên của Hiệp định đều quan
tâm và đang trong quá trình nghiên cứu để sớm gia nhập Hiệp định này. Thể
hiện rõ nhất là mặc dù chưa phải là thành viên của Hiệp định nhưng nhiều quốc
gia và vùng lãnh thổ đã cử các đoàn công tác tham dự các Hội nghị thường niên
và Hội nghị rà soát liên quan đến Hiệp định năm 1995 do Liên hợp quốc tổ chức
với tư cách là quan sát viên. Cụ thể: Hội nghị rà soát tổ chức vào năm 2007 có
28 quốc gia và vùng lãnh thổ chưa phải là thành viên của Hiệp định tham dự;
Hội nghị thường niên năm 2008 có 37 quốc gia và vùng lãnh thổ chưa phải là
thành viên của Hiệp định tham dự. Nhiều nước ở Châu á đã cử các đoàn công
tác tham dự, như: Trung Quốc, Malaixia, Inđônêxia, Philippin, Thái Lan,
Myanma, Hàn Quốc… [37]. Việt Nam cũng đã cử các đoàn công tác tham dự

Hội nghị thường niên và Hội nghị rà soát vào các năm 2006 và 2007. Bên cạnh
đó, Việt Nam cũng cử đại diện của mình tại Liên hợp quốc tham dự tất cả các
phiên họp do Liên hợp quốc tổ chức liên quan đến Hiệp định năm 1995.
1.4.2. Kinh nghiệm của Nhật Bản
1.4.2.1. Vài nét về ngành thuỷ sản Nhật Bản
Nhật Bản là một trong những quốc gia có nghề cá phát triển trên thế giới
và là quốc gia có tàu mang cờ khai thác các đàn cá lưỡng cư và di cư xa tại
nhiều vùng biển khơi. Nhật Bản cũng là một trong những nước nhập khẩu cá và
các sản phẩm chế biến từ cá lớn nhất thế giới. Nhật Bản được bao bọc xung
quanh là biển, gặp nhau giữa 2 dòng hải lưu nóng - lạnh nên rất thuận lợi để phát
triển ngành thuỷ sản.
Trong các thập niên 70 và 80 của thế kỷ trước, Nhật Bản luôn là cường
quốc thuỷ sản hàng đầu thế giới. Năm 1990 sản lượng khai thác thuỷ sản của
Nhật Bản đạt mức kỷ lục 10,3 triệu tấn [27, tr. 575], nhưng đến năm 2007 giảm
xuống chỉ còn 6,4 triệu tấn. Nguyên nhân chủ yếu là do nguồn lợi thuỷ sản ngày


21
càng cạn kiệt vì các lý do như tình trạng khai thác thuỷ sản đã quá mức; các
nước láng giềng là Hàn Quốc và Trung Quốc cùng khai thác; vấn đề nước thải,
vấn đề lấn biển tại các bãi triều, vấn đề gia tăng nghề câu cá giải trí không
được giải quyết tốt. Trước tình hình đó, Nhật Bản đang không ngừng nghiên
cứu, áp dụng công nghệ mới nhằm tăng cường quản lý tốt hơn hoạt động thuỷ
sản của đất nước, như:
- Hạn chế khai thác, duy trì nguồn lợi phát triển bền vững;
- Tái tạo nguồn lợi bằng cách nuôi, thả thuỷ sản ra biển;
- Cải thiện môi trường, tạo vùng cư trú cho cá sinh sống;
- Phát triển nuôi trồng thuỷ sản (bao gồm nuôi nước ngọt, nước lợ và nuôi
biển).
Để hạn chế sản lượng khai thác thuỷ sản, hàng năm Nhật Bản chủ yếu áp

dụng phương thức quản lý đầu vào, tức là hạn chế số lượng tàu thuyền khai thác
bằng cách khống chế tổng công suất máy tàu cho phép hàng năm. Điều này phù
hợp với đặc điểm thuỷ sản mang tính đa loài ở Nhật, cũng như ở các nước Châu
á khác. Tuy nhiên, để phù hợp với thông lệ quốc tế, Nhật Bản cũng áp dụng
phương thức quản lý đầu ra, tức là quản lý bằng cấp quo-ta sản lượng khai thác
cho từng tàu cá đối với 7 loài cá chủ yếu: cá minh thái, cá ngừ, bạc má, trích, thu
đao, cua tuyết, mực. Thực tế cho thấy dù quản lý theo phương thức nào cũng
đều nhằm mục đích vì lợi ích kinh tế.
Luật Thuỷ sản Nhật Bản ban hành từ năm 1963 và được sửa đổi ngày
22/6/2002. Luật Thuỷ sản chung của Nhật Bản là luật mang tính định khung
tổng hợp tất cả các lĩnh vực của hoạt động thuỷ sản. Ngoài ra, mỗi lĩnh vực hoạt
động thuỷ sản cụ thể lại có Luật riêng, như: Luật Cảng cá, Chợ cá, Luật Sản
xuất nuôi trồng thuỷ sản bền vững, Luật Hợp tác xã nghề cá
Việc xây dựng pháp luật thuỷ sản ở Nhật Bản được xuất phát từ tập quán,
quy tắc do người dân hình thành và thực hiện, do đó phát huy ý thức tự chủ của


22
người dân trong quá trình xây dựng và thực hiện chính sách pháp luật của Nhà
nước.
Một số nét chính của Luật Thuỷ sản Nhật Bản mới được sửa đổi:
- Mục tiêu: Bảo đảm sử dụng nguồn lợi thuỷ sản bền vững, phát triển bền
vững ngành thuỷ sản nhằm cung cấp ổn định sản phẩm thuỷ sản cho nhân dân.
- Đối tượng: Bao gồm toàn bộ hoạt động thuỷ sản, cả chế biến và lưu
thông. Trọng tâm là xây dựng kế hoạch đảm bảo tỉ lệ tự cung cấp trong nước và
xác định rõ sản lượng khai thác trong kế hoạch cơ bản.
- Về nguồn lợi thuỷ sản: Nội dung cơ bản của Luật là quản lý nguồn lợi
thuỷ sản một cách hợp lý để có thể sử dụng bền vững. Đưa thêm nghề câu cá
giải trí vào đối tượng quản lý, đồng thời, quan tâm đến môi trường nước và bảo
vệ hệ sinh thái.

- Vấn đề kinh doanh nghề cá và người hành nghề: Nâng cao hiệu quả,
hiện đại hoá, đồng thời coi trọng phát triển liên tục, bền vững các doanh nghiệp
hoạt động thuỷ sản; có chính sách đào tạo rộng rãi người làm nghề cá, kể cả việc
thu hút những người ngoài nghề cá tham gia hành nghề thuỷ sản.
- Vấn đề lưu thông, chế biến, tiêu thụ: Triển khai chính sách coi trọng
người tiêu dùng, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng với chất lượng hàng thuỷ
sản tươi sống đảm bảo an toàn thực phẩm.
- Làng cá: Triển khai chính sách để nâng cao dần, hoàn thiện môi trường
sống so với thành thị, đồng thời thúc đẩy hoạt động chung của các làng cá.
- Cơ sở hạ tầng thuỷ sản: Triển khai chính sách theo hướng hoàn thiện
đồng bộ cơ sở hạ tầng từ khâu sản xuất đến khâu lưu thông.
Nguồn lợi thuỷ sản ở Nhật Bản là đa dạng, đa loài nên việc bảo vệ nguồn
lợi này rất phức tạp. Để ban hành chính sách về bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, ở
Nhật Bản thường phải trải qua các công đoạn sau: hội nghị tư vấn - Bộ Nông -
Lâm - Ngư quyết định - địa phương hướng dẫn thi hành - hợp tác xã cụ thể hoá -


23
người dân thực hiện. Ngoài ra, việc xây dựng chính sách còn phải dựa trên luận
chứng khoa học, có sự kiểm nghiệm trong thực tế cuộc sống.
Cục Nghề cá Nhật Bản đã xây dựng quy chế nhằm giảm bớt năng lực khai
thác, cụ thể:
- Hạn chế số lượng tàu thuyền vào khai thác thuỷ sản ở các vùng biển
(đây được xem là mục tiêu hàng đầu);
- Quản lý ngư trường: đảm bảo trật tự khai thác trên các ngư trường;
- Duy trì giá cả nhằm duy trì hiệu quả khai thác;
- Tái tạo nguồn lợi thuỷ sản, bảo vệ nguồn cá con, nguồn cá bố mẹ.
Nhật Bản áp dụng hệ thống quản lý đi từ dưới lên trên, nghĩa là xuất phát
từ thực tế hoạt động và quản lý nghề cá ở địa phương, cơ sở để Nhà nước nghiên
cứu, xây dựng, ban hành chính sách pháp luật cho phù hợp. Vì vậy, pháp luật về

thuỷ sản ở Nhật Bản khi được ban hành có tính khả thi cao, ý thức chấp hành
pháp luật của ngư dân rất tốt.
1.4.2.2. Quá trình Nhật Bản gia nhập Hiệp định năm 1995
Chính phủ Nhật Bản đánh giá cao sự cần thiết phải tham gia tích cực vào
công tác quản lý và bảo tồn các đàn cá lưỡng cư và di cư xa nhằm đảm bảo khai
thác thuỷ sản bền vững và ổn định. Theo đó, Nhật Bản đã gia nhập và trở thành
thành viên của Hiệp định năm 1995. Nhật Bản cũng nhận thức sâu sắc trách
nhiệm của mình với tư cách là quốc gia có cảng và quốc gia nhập khẩu trong
việc chống lại nạn khai thác thuỷ sản bất hợp pháp, không báo cáo và không
theo quy định (IUU). Từ nhận thức nêu trên, Nhật Bản đã tham gia tích cực vào
quá trình đàm phán của Liên hợp quốc về Hiệp định năm 1995 ở cả 6 vòng đàm
phán, diễn ra từ năm 1993 đến năm 1995. Tuy nhiên, Nhật Bản phải mất 10 năm
nghiên cứu, xem xét và chính thức trở thành thành viên của Hiệp định này vào
ngày 7/8/2006.
Hiệp định năm 1995 đã đưa ra một số nguyên tắc chung quan trọng về
quản lý nghề cá. Đó là áp dụng phương pháp tiếp cận thận trọng, thông qua các


24
phương pháp tiếp cận theo hệ sinh thái, bảo vệ đa dạng sinh học, các biện pháp
quản lý và bảo tồn dựa trên cơ sở khoa học, tính tương thích trong cách thức
quản lý và bảo tồn giữa các vùng thuộc quyền tài phán quốc gia và các vùng
biển cả, hợp tác thông qua các Tổ chức quản lý nghề cá khu vực, trách nhiệm
của các quốc gia mà tàu cá mang cờ, các biện pháp thực thi và tuân thủ, và trình
tự giải quyết tranh chấp. Do những nguyên tắc trên được cộng đồng quốc tế xem
như là quy tắc chung, nên Nhật Bản cho rằng đó chính là nhiệm vụ của một
quốc gia có nghề cá có trách nhiệm khi trở thành thành viên của Hiệp định này.
Về trình tự trong nước của Nhật Bản để trở thành thành viên của Hiệp
định năm 1995:
Quốc hội Nhật Bản là cơ quan xem xét, phê chuẩn việc gia nhập Hiệp

định năm 1995. Cục Nghề cá thuộc Bộ Nông – Lâm – Ngư và Bộ Ngoại giao là
hai cơ quan trình.
Tiến trình phê duyệt việc gia nhập Hiệp định năm 1995 ở Nhật bản gồm
các bước sau đây:
Thứ nhất, dịch chính thức các văn bản của Hiệp định năm 1995.
Bộ Ngoại giao Nhật Bản đã dịch chính thức các văn bản của Hiệp định từ
tiếng Anh sang tiếng Nhật Bản. Dựa theo đó, Nhật Bản đã ban hành cuốn sách
diễn giải về Hiệp định gửi tới các cơ quan có liên quan. Đồng thời, Nhật Bản
cũng xuất bản cuốn sách giải thích về Hiệp định này nhằm cung cấp cho các đối
tượng có liên quan có thể tiếp cận Hiệp định một cách chuẩn xác và dễ hiểu
nhất.
Thứ hai, rà soát chi tiết tính tương thích giữa các văn bản pháp luật có liên
quan ở trong nước với nội dung của Hiệp định.
Đây là giai đoạn khá quan trọng. Công việc này được giao cho một đội
ngũ chuyên gia có kinh nghiệm chuyên sâu về thủy sản, về pháp luật quốc tế.
Nhóm nghiên cứu này đã tiến hành đọc từng câu, chữ của Hiệp định, đối chiếu
các quy định của Hiệp định vào các quy định của các văn bản pháp luật trong


25
nước xem có điểm nào phù hợp, điểm nào chưa phù hợp, từ đó xác định những
vấn đề cần sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật
trong nước để phù hợp với Hiệp định năm 1995. Trong giai đoạn này, Cục Nghề
cá thuộc Bộ Nông – Lâm – Ngư Nhật Bản còn tổ chức lấy ý kiến tham vấn của
các ngư dân.
Thứ ba, sửa đổi và xây dựng các văn bản pháp luật trong nước để đảm
bảo tính phù hợp với các nội dung quy định trong Hiệp định.
Nhật Bản đặc biệt lưu ý đến tính tương thích giữa các văn bản pháp luật
trong nước của Nhật Bản với Hiệp định liên quan đến các thủ tục lên tàu và
thanh tra ngoài khơi được quy định tại các Điều 21 và Điều 22 của Hiệp định.

Tuy nhiên, vì Nhật bản đã là thành viên của hầu hết các Tổ chức quản lý nghề cá
khu vực có thẩm quyền tại các vùng biển mà tàu cá của Nhật Bản hoạt động, do
đó, các văn bản pháp luật trong nước của Nhật Bản đã cụ thể hoá các quy định
này, đảm bảo tính phù hợp với các quy định của Hiệp định năm 1995. Trong các
điều kiện hạn chế khi cấp phép khai thác thủy sản do Bộ Nông – Lâm – Ngư của
Nhật Bản quy định đã bao gồm các yêu cầu về các biện pháp quản lý và bảo tồn
do các Tổ chức quản lý nghề cá khu vực quy định, kể cả thủ tục lên tàu và thanh
tra ngoài khơi. Luật Nghề cá Nhật Bản và Quy định về quản lý và thực thi việc
cấp phép nghề khai thác thủy sản cấp Bộ đã tạo cơ sở cho việc xây dựng các
điều kiện và hạn chế khi cấp phép khai thác thuỷ sản.
Thứ tư, các cơ quan có liên quan của Chính phủ phê duyệt.
Bộ Nông – Lâm – Ngư Nhật Bản gửi các cơ quan có liên quan, như: Bộ
Giao thông vận tải, cơ quan Cảnh sát Biển, Bộ Tư pháp… cho ý kiến đối với
việc gia nhập Hiệp định năm 1995.
Thứ năm, nội các Chính phủ phê duyệt; trình Hiệp định và các văn bản
pháp luật trong nước có liên quan lên Quốc hội.
Thứ sáu, Quốc hội xem xét, phê chuẩn.

×