Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Pháp luật quốc tế, pháp luật nước ngoài về bảo vệ quyền trẻ em

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (910.46 KB, 103 trang )



0
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT









NGUYỄN THỊ HUYỀN






PHÁP LUẬT QUỐC TẾ, PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI
VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM






LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC











HÀ NỘI - 2012



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT








NGUYỄN THỊ HUYỀN





PHÁP LUẬT QUỐC TẾ, PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI

VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM


Chuyờn ngành : Luật Quốc Tế
Mó số : 60 38 60





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS.GVC. LÊ VĂN BÍNH




HÀ NỘI - 2012




MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM 7
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển 7

1.1.1 Trên thế giới 7
1.1.2. Tại Việt Nam 10
1.2. Khái niệm quyền trẻ em trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt
Nam 13
1.2.1. Khái niệm về trẻ em 13
1.2.2. Quyền trẻ em 16
1.3. Đặc điểm các quan hệ pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em. 18
1.3.1. Đặc điểm các quan hệ pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền trẻ em. 18
1.3.2. Đặc điểm pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền trẻ em. 20
1.4. Mối quan hệ giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế trong
việc bảo vệ quyền trẻ em. 21
1.5. Các nguyên tắc cơ bản trong bảo vệ quyền trẻ em 23
1.5.1. Nguyên tắc không phân biệt đối xử 23
1.5.2. Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là trách nhiệm của mọi công
dân, gia đình, nhà nước và toàn xã hội 24
1.5.3. Nguyên tắc dành lợi ích tốt nhất cho trẻ em 24
1.5.4. Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt đều được giúp đỡ để hòa nhập với
gia đình, cộng đồng 25
CHƢƠNG 2: PHÁP LUẬT QUỐC TẾ, PHÁP LUẬT NƢỚC NGOÀI VÀ
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM 27
2.1. Pháp luật quốc tế, pháp luật ngƣớc ngoài về bảo vệ quyền trẻ em 27
2.1.1. Quyền sống còn của trẻ em 27


2.1.2. Quyền được bảo vệ 30
2.1.3.Quyền được phát triển 45
2.1.4. Quyền được tham gia 48
2.2. Bảo vệ quyền trẻ em theo pháp luật Việt Nam 50
2.2.1 Quyền sống còn 50
2.2.2. Quyền được bảo vệ 51

2.2.3. Quyền được phát triển 60
2.2.4. Quyền được tham gia 62
2.3. Các thiết chế bảo vệ quyền trẻ em 64
2.3.1. Các thiết chế quốc tế về bảo vệ quyền trẻ em 64
2.3.2. Các thiết chế bảo vệ quyền trẻ em ở Việt Nam 66
CHƢƠNG 3: BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ
ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM 72
3.1. Tình hình bảo vệ quyền trẻ em ở Việt Nam 72
3.1.1. Thành tựu đạt được trong công tác bảo vệ quyền trẻ em ở Việt
Nam 72
3.1.2. Hạn chế trong công tác bảo vệ quyền trẻ em ở Việt Nam 78
3.1.3 Nguyên nhân của việc bảo vệ quyền trẻ em ở Việt Nam còn hạn
chế 84
3.2.1. Đối với hệ thống pháp luật quốc tế 85
3.2.2. Đối với hệ thống pháp luật Việt Nam 86
KẾT LUẬN 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO


LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và hướng dẫn tận
tuỵ, đầy nhiệt huyết của Tiến sĩ – Giảng viên chính Lê Văn Bính – Khoa
luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Tôi xin cảm ơn các thầy cô Bộ môn Luật
Quốc tế đã dạy dỗ tôi trong suốt những năm qua, cảm ơn thư viện Quốc gia,
Thư viện nhà trường, các cơ quan đơn vị đã cung cấp số liệu, tài liệu, tập thể
lớp cao học Luật Quốc tế K15, gia đình đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn
Thạc sĩ.
Để hoàn thành luận văn Thạc sĩ, tôi đã có nhiều cố gắng, nỗ lực của bản
thân nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự

đóng góp ý kiến của các quý thầy cô và bạn bè.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


Hà Nội ngày 2 tháng 05 năm 2012
Học viên



Nguyễn Thị Huyền



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƢỜI CAM ĐOAN


Nguyễn Thị Huyền





1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
“Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai” là câu nói bao hàm đầy đủ ý
nghĩa về Trẻ em. Trẻ em hôm nay là tương lai của nhân loại, của thế giới, của
mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng, mỗi họ tộc và mỗi gia đình mai sau.
Nhiều thập kỷ qua, việc chăm sóc trẻ em ở hầu hết các quốc gia trên thế
giới đã được quan tâm ở những mức độ khác nhau và ở nhiều mặt như miễn
giảm chi phí khám chữa bệnh cho trẻ dưới 6 tuổi, được khuyến khích đưa trẻ
đến trường, phổ cập giáo dục tiểu học, được hỗ trợ tiền sách vở, được miễn
giảm học phí đối với trẻ em con hộ nghèo, ở vùng sâu vùng xa, được tạo điều
kiện vui chơi giải trí nhân ngày quốc tế thiếu nhi 1-6, ngày tết trung thu. Với
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ vào đời sớm thì xã hội cũng mở rộng vòng
tay trong điều kiện có thể như: phát triển, nâng cấp các mái ấm, nhà nuôi,
trường tương lai, viện mồ côi… Điều đó cho thấy đời sống xã hội ngày càng
phát triển, trẻ em cũng có điều kiện được quan tâm, chăm lo nhiều hơn. song
do một vài yếu tố chủ quan và khách quan như thiên tai, mất mùa, chiến
tranh, hoặc do trình độ dân trí thấp… trẻ em vẫn còn phải gánh chịu những
nỗi đau, những thiệt thòi, trẻ em vẫn bị đói rét và vẫn bị giết hại trong những
cuộc chiến, nhiều em bé phải đi lang thang xin ăn, đi đánh giầy, bán báo .v.v.
hoặc phải lao động sớm trong điều kiện nặng nhọc độc hại để duy trì sự sống
qua ngày, bị lạm dụng làm công cụ kiếm tiền cho bọn người xấu, trẻ em bị
xâm hại lạm dụng tình dục, trẻ bị buôn bán, bị bắt cóc.v.v.
Ngày 20/11/1989, Liên hợp quốc đã thông qua và phê chuẩn “Công
ước về quyền trẻ em” bao gồm 54 điều khoản có hiệu lực từ ngày 20/11/1990.
Trong lời mở đầu, công ước đã khẳng định: “Để phát triển đầy đủ và hài hòa

nhân cách của mình, trẻ em cần được lớn lên trong môi trường gia đình,
trong bầu không khí hạnh phúc, yêu thương và cảm thông… Trẻ em cần
được chuẩn bị đầy đủ để sống cuộc sống cá nhân trong xã hội và cần được


2
nuôi dưỡng theo tinh thần các lý tưởng được nêu ra trong hiến chương
Liên hợp quốc, đặc biệt trong tinh thần hòa bình, phẩm giá, khoan dung, tự
do, bình đẳng và đoàn kết”.
Ngày 26 tháng 1 năm 1990, Việt Nam đã ký Công ước về quyền trẻ em
1989 và phê chuẩn Công ước ngày ngày 20 tháng 2 năm 1990, mà không kèm
theo bảo lưu nào. Việt Nam là quốc gia thứ hai trên thế giới và cũng là quốc
gia đầu tiên ở Châu Á phê chuẩn Công ước này. Việc phê chuẩn Công ước đã
tạo cơ sở pháp lý quốc tế cho việc bảo vệ trẻ em ở Việt Nam, đồng thời cũng
đặt ra những nghĩa vụ ràng buộc Việt Nam đối với việc thực thi Công ước.
Tuy nhiên việc đảm bảo và thực hiện quyền trẻ cũng còn nhiều hạn chế, tình
trạng xâm hại trẻ em thực sự đáng báo động, rất nhiều hành vi vi phạm quyền
trẻ em mà chưa chịu sự trừng trị của pháp luât. Theo báo cáo năm 2009 của
Bộ Lao động – Thương binh Xã hội về tình hình trẻ em Việt Nam, thì tình
trạng bạo lực trẻ em trong những năm gần đây diễn biến phức tạp và có xu
hướng gia tăng. Trong hai năm 2008-2009, cả nước đã xảy ra 5.956 vụ (bình
quân gần 3.000 vụ một năm) [9.tr1]. Theo báo cáo của Bộ Công an (12/2009)
cũng đưa ra con số hết sức lo ngại: Số vụ xâm hại tình dục trẻ em có xu
hướng gia tăng trong những năm gần đây. Trong ba năm (từ 2005 - 2007), đã
có 1.520 trẻ em bị xâm hại tình dục, năm 2008 có 1.427 trẻ em bị xâm hại, 9
tháng đầu năm 2009 có 813 trẻ em bị xâm hại (22 trẻ em bị giết, 246 trẻ em bị
hiếp dâm, 267 trẻ em bị xâm hại tình dục ), có trên 100 vụ giết trẻ em và 50
vụ bắt cóc, buôn bán trẻ em được phát hiện và xử lý, trong đó có một số vụ
gây bức xúc trong dư luận xã hội [8.tr.2]. Nhiều trẻ em bị chính cha mẹ,
người thân, thầy cô giáo, người sử dụng lao động và những người có trách

nhiệm nuôi dưỡng chăm sóc trẻ em có hành vi bạo lực trẻ em. Điển hình là
các vụ: Cháu Nguyễn Thị Bình bị vợ chồng chủ quán phở Chu Văn Đức và
Trịnh Hạnh Phương ở quận Thanh Xuân, Hà Nội ngược đãi, đánh đập hành
hạ trong một thời gian dài. Vụ chị Quản Thị Kim Hoa đánh đập nhóm trẻ


3
được bố mẹ gửi tại gia đình chị (Biên Hòa, Đồng Nai). Vụ cháu Hồng Anh 4
tuổi ở Xuân Mai – Hà Nội bị người “cha hờ” đánh đập, hành hạ dã man. Vụ
cháu Nguyễn Hào Anh 14 tuổi (Cà Mau) bị vợ chồng chủ trại nuôi tôm
Minh Đức hành hạ trong suốt một thời gian dài bằng các hình thức dã man như
dùng kìm bấm vào môi, bẻ răng, dùng bàn là nóng dí lên da thịt. Vụ việc bắt cóc,
tống tiền không thành dẫn đến việc sát hại 2 trẻ em ở Đắk Lắk [59]
Theo một thống kê của UNICEF, trung bình mỗi ngày thế giới có hơn
24.000 trẻ em dưới 5 tuổi tử vong; hàng năm khoảng 500 triệu tới 1,5 tỷ trẻ em bị
bạo hành; khoảng 150 triệu trẻ em tuổi từ 5-14 trở thành lao động chính. Ở một số
khu vực của châu Á và châu Phi, số trẻ em không được chăm sóc sức khoẻ, đảm
bảo dinh dưỡng và đi học lên đến hàng triệu. Trẻ em bị tàn tật, trẻ em thuộc dân
tộc thiểu số hoặc sống lang thang, trẻ em vi phạm pháp luật, trẻ em sống trong các
trung tâm giáo dưỡng và trẻ em tị nạn hoặc buộc phải di chuyển chỗ ở là những
nhóm trẻ có nguy cơ bị bạo hành cao. Tại cuộc hội thảo giữa các nước trong khu
vực Đông Á và Thái Bình Dương về phòng chống tình trạng bạo hành trẻ em vào
ngày 19/10/2006, ông Laurence Gray, Giám đốc phụ trách Vận động xã hội văn
phòng World Vision khu vực phát biểu: “Trong khi chúng ta luôn cho rằng nạn
bạo hành ở trẻ em thường do những kẻ côn đồ gây ra nhưng trong thực tế trẻ
thường bị bạo hành trong gia đình, xã hội và các tổ chức chính quyền. Việc đánh
đập và xúc phạm về tình cảm và tâm lý của trẻ dưới bất cứ khung cảnh nào đều
không thể chấp nhận được”.
Như vậy, có thể nói quyền trẻ em từ trước đến nay luôn là vấn đề được tất cả
các quốc gia trên thế giới quan tâm. Tình trạng vi phạm quyền trẻ em luôn diễn ra

và ngày càng phức tạp, Chính phủ các nước phải hành động như thế nào đây để
thực hiện nghĩa vụ của mình trong việc phòng và loại trừ nạn bạo hành đối với trẻ
em. Xuất phát từ tính cấp thiết của vấn đề về bảo vệ Quyền trẻ em trong phạm vi
quốc gia và trên thế giới, nên học viên chọn “Pháp luật quốc tế, pháp luật nước
ngoài về bảo vệ quyền trẻ em” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ luật học.


4
2. Tình hình nghiên cứu
Trong nhưng năm vừa qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn đặt con người
vào vị trí trung tâm của mọi chính sách, coi con người vừa là động lực, vừa là mục
tiêu của công cuộc phát triển, đường lối đổi mới, không chỉ tác động đến kinh tế, xã
hội mà đồng thời chi phối mạnh mẽ nhận thức và thực tế bảo đảm quyền con người ở
nước ta. Cùng với khái niệm quyền con người, khái niệm quyền trẻ em cũng được
chính thức đề cập trong các văn kiện của Đảng và các văn bản pháp luật của Nhà
nước. Đã có khá nhiều sách, báo, tạp chí, đề tài nghiên cứu về quyền trẻ em: “Những
điều cần biết về quyền trẻ em” – Tác giả Vũ Ngọc Bình, sách do Nhà xuất bản Chính
trị Quốc gia, Hà Nội xuất bản năm 1996; “Bảo vệ quyền trẻ em trong pháp luật Việt
Nam” - sách do Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản năm 1996; “Bảo vệ quyền trẻ em
trong pháp luật về quốc tịch và đăng ký hộ tịch ở Việt Nam” – Tác giả Hoàng Thế
Liên, sách do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, xuất bản năm 2000; “Quyền trẻ em
trong pháp luật Việt Nam” - sách do Nhà xuất bản Tư pháp, xuất bản năm 2005;
“Bảo vệ quyền của người chưa thành niên trong pháp luật hình sự và tố tụng hình sự
Việt Nam” – sách do Nhà xuất bản Tư pháp, xuất bản năm 2006; “Giới thiệu Công
ước của Liên Hợp Quốc về Quyền trẻ em” – Tác giả Vũ Ngọc Bình, sách do Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, xuất bản năm 2007; “Công ước về quyền trẻ em năm
1989 – cơ sở cho việc bảo vệ quyền trẻ em” - Tạp chí luật học số 3 tháng 5,6 năm
2003; “Quyền trẻ em trong pháp luật” bài viết của Thạc sĩ Lê Thị Nga đăng trên báo
điện tử của Tổng cục Dân số - Kế hoạch hoá gia đình, số 5 ngày 21/07/2007; “Quyền
trẻ em và yếu tố văn hoá” – Tác giả Mai Huy Bích, tạp chí Nghiên cứu con người số

4(49) năm 2010; “Cơ chế pháp lý bảo vệ quyền trẻ em ở Việt Nam” - Luận văn Thạc
sĩ luật học Chu Mạnh Hùng… Những tài liệu này đã góp phần làm sáng tỏ các quy
chế pháp lý về quyền trẻ em, tuy nhiên các nghiên cứu này chỉ mang tính chất chung
về quyền trẻ em ở Việt Nam mà chưa nêu nên được cơ sở pháp lý bảo vệ quyền trẻ
em trong pháp luật quốc tế, mối liên hệ giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế
trong bảo vệ quyền trẻ em.


5
Chính vì vậy nên tác giả chọn đề tài: “Pháp luật quốc tế, pháp luật nước
ngoài về bảo vệ quyền trẻ em” để nghiên cứu luận văn thạc sĩ luật học là cần thiết.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
Mục đích của đề tài nhằm giúp cho người nghiên cứu hiểu hơn về hệ thống
pháp luật quốc tế, pháp luật Việt Nam trong việc bảo vệ và chăm sóc trẻ em. Với
một phạm vi nghiên cứu rộng như vậy nên trong khuôn khổ của luận văn này, tác
giả chỉ đề cập dưới góc độ lý luận chung về pháp luật nhằm tìm ra những nét khát
quát chung mang tính chất tổng quan, làm rõ đối tượng, phạm vi điều chỉnh của vấn
đề chứ không đi sâu phân tích những vấn đề cụ thể.
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản như sau:
Một số nét tổng quan pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền trẻ em;
Pháp luật quốc tế, pháp luật nước ngoài, pháp luật Việt Nam điều chỉnh vấn
đề bảo vệ quyền trẻ em;
Pháp luật Việt nam về bảo vệ quyền trẻ em, trên cơ sở nghiên cứu tác giả đề
xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc
thực thi pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em ở nước ta hiện nay.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở các nguyên tắc và phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước và pháp luật, trên nền tảng tư tưởng, quan điểm
của Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh về con người và sự phát triển của con
người. Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp phân tích đối chiếu,

phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, làm rõ cơ chế pháp lý và thực tiễn bảo
vệ quyền trẻ em tại pháp luật quốc tế, pháp luật một số nước và pháp luật Việt Nam.
4. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn được kết cấu làm 3 chương.
- Chương I: Khái quát chung về bảo vệ quyền trẻ em.
- Chương II: Pháp luật quốc tế, pháp luật nước ngoài và pháp luật Việt


6
Nam về Bảo vệ quyền trẻ em.
- Chương III: Bảo vệ quyền trẻ em ở Việt Nam và một số đề xuất nhằm
hoàn hiện pháp luật Việt Nam.









7
CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
1.1.1 Trên thế giới
1.1.1.1 Giai đoạn trƣớc năm 1989
Trẻ em là một thuật ngữ nhằm chỉ một nhóm xã hội thuộc về độ tuổi
nhất định trong giai đoạn đầu của sự phát triển con người. Trong suốt một

thời gian dài trong lịch sử, trẻ em chỉ được coi là đối tượng phụ thuộc, phải
chịu sự chi phối hoàn toàn của người lớn, thậm chí bị coi là tài sản riêng của
cha mẹ. Tuy nhiên, sự phát triển mạnh mẽ của quá trình công nghiệp hóa ở
châu Âu thế kỷ XVI, XVII và XVIII đã kéo theo tình trạng bóc lột sức lao
động trẻ em một cách phổ biến, khắp nơi trên thế giới, rất nhiều thảm kịch về
trẻ em đã diễn ra. Thêm vào đó cuộc chiến tranh thế giới lần thứ I (1914 -
1918) đã đẩy hàng triệu trẻ em vào hoàn cảnh khốn khổ. Tất cả các vấn đề đó
đã tác động sâu sắc đến dư luận và bảo vệ trẻ em trở thành vấn đề được cộng
đồng quốc tế hết sức quan tâm. Năm 1919, một tổ chức cứu trợ trẻ em đã
được thành lập ở Anh và Thụy Điển. Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã ban
hành một số công ước nhằm bảo vệ trẻ em trong các lĩnh vực lao động, việc
làm và bảo trợ xã hội. Tuy nhiên những văn kiện đó chưa đặt vấn đề dưới góc
độ các “quyền” của trẻ em. Năm 1923, người sáng lập ra Quỹ cứu trợ trẻ em ở
nước Anh – bà Eglantuyne Jebb đã đưa ra tuyên bố nổi tiếng “Tôi nghĩ rằng
chúng ta cần đòi hỏi một số quyền nhất định cho trẻ em và phấn đấu cho sự
công nhận rộng rãi các quyền này”. Bà Eglantuyne Jebb đã thành lập Hội
quốc tế và Qũy cứu trợ trẻ em, khởi thảo hiến chương trẻ em. Đây được coi là
mốc quan trọng trong lĩnh vực bảo vệ trẻ em.
Năm 1924, tuyên ngôn Giơnevơ về quyền trẻ em được Hội Quốc Liên
thông qua, khái niệm “quyền trẻ em” mới chính thức được đề cập trong luật
Quốc tế. Năm 1948 Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua tuyên ngôn thế


8
giới về quyền con người. Đây là văn kiện quốc tế đầu tiên về các quyền và tự
do của con người, tuy không phải là văn kiện quốc tế dành riêng cho trẻ em
nhưng một số điều khoản của tuyên ngôn đã đề cập trực tiếp đến một số nhu
cầu riêng biệt của trẻ em như điều 25 khoản 3 quy định “Người mẹ và trẻ em
được bảo đảm chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt. Tất cả trẻ em dù sinh ra trong
hay ngoài giá thú đề được hưởng sự bảo trợ xã hội như nhau”. Năm 1959 Đại

hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua tuyên ngôn (thứ 2) về quyền trẻ em gồm
10 điểm. Tuyên ngôn khẳng định “Loài người có trách nhiệm trao cho trẻ em
điều tốt nhất”. Từ năm 1959 đến 1980 một loạt các văn kiện quốc tế khác
cũng được thông qua, các văn kiện này đã trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến
các quyền trẻ em. Điều 24 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
năm 1966 nêu rõ “Các trẻ em … phải được gia đình, xã hội và quốc gia bảo
hộ”. Điều 10 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm
1966 quy định “Thanh thiếu niên phải được bảo vệ chống mọi hình thức bóc
lột về kinh tế và xã hội”. Một số văn kiện khác như Tuyên ngôn về việc bảo
vệ phụ nữ và trẻ em trong các trường hợp khẩn cấp hoặc xung đột vũ trang
năm 1974. Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ
nữ năm 1979. Quy tắc chuẩn tối thiểu của Liên Hợp Quốc về việc áp dụng
pháp luật với người chưa thành niên năm 1985 cũng quy định nội dung tương
tự… Tuy nhiên, các văn kiện trên hoặc không có tính ràng buộc về mặt pháp
lý hoặc chưa tiếp cận từ vị thế đặc biệt của trẻ em, chưa chú trọng đầy đủ đến
những nhu cầu và quyền đặc thù của trẻ em nên tính khả thi của những văn
kiện này còn hạn chế. Tình trạng trẻ em bị xâm phạm, bị ngược đãi, bị bóc lột
về lao động, bị mua bán vẫn còn xảy ra ở tất cả các khu vực trên thế giới.


9
1.1.1.2. Từ năm 1989 đến nay
Sau 10 năm soạn thảo Công ước về quyền trẻ em (1979 – 1989) đã
hoàn thành, được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 10/11/1989 và
có hiệu lực từ ngày 2/9/1990. Công ước này đã để ngỏ cho tất cả các quốc gia
ký, phê chuẩn và gia nhập.
Công ước về quyền trẻ em đã bao quát được tất cả các khía cạnh của
quyền trẻ em, nội dung của công ước gồm 3 phần với 54 điều khoản, tập hợp
các nguyên tắc, các quyền trẻ em và các bảo đảm cho trẻ em được bảo vệ, chăm
sóc một cách có hiệu quả, được phát triển toàn diện cả về thể chất, trí tuệ, tình

cảm, đạo đức và xã hội. Công ước không chỉ để cập đến quyền trẻ em nói chung
mà còn đề cập đến việc bảo vệ và quyền của nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
như: Trẻ em tị nạn, trẻ em trong khu vực có xung đột vũ trang, trẻ em bị bóc lột,
trẻ em thuộc dân tộc thiểu số… Công ước còn xác lập một cơ chế quốc tế về thực
hiện Công ước như theo dõi, giám sát kiểm tra, báo cáo … các quyền trẻ em ở các
quốc gia. Có thể nói công ước là văn kiện pháp lý quốc tế cơ bản và toàn diện nhất
về quyền trẻ em, có 193 quốc gia thành viên [61]. Đây là điều ước quốc tế đa
phương có số lượng các thành viên lớn nhất trong hệ thống các điều ước quốc tế
về quyền con người của Liên Hợp Quốc, phản ánh tầm quan trọng của vấn đề bảo
vệ quyền trẻ em cũng như sự quan tâm của các quốc gia đối với thế hệ trẻ.
Năm 1990, tại New York đã diễn ra hội nghị thượng đỉnh thế giới về
trẻ em. Hội nghị đã thông qua tuyên bố thế giới và kế hoạch hành động về sự
sống còn, phát triển và bảo vệ trẻ em, đồng thời đề cập đến những thách thức,
mục tiêu cụ thể nhằm bảo đảm cuộc sống và các quyền của trẻ em trong giai
đoạn 1990 - 2000.
Năm 2000 Liên Hợp Quốc còn thông qua hai nghị định bổ sung Công
ước quyền trẻ em: Nghị định thư không bắt buộc về việc sử dụng trẻ em trong
xung đột vũ trang; Nghị định thư không bắt buộc về buôn bán trẻ em, mại
dâm trẻ em và văn hoá phẩm khiêu dâm trẻ em. Kết thúc gia đoạn này, nhân


10
loại đã đạt được những thành quả bước đầu trong việc bảo đảm quyền trẻ em.
Từ ngày 8/5 đến 10/5/2002, một khóa họp đặc biệt về trẻ em đã được
Liên Hợp Quốc tổ chức tại New York. Hội nghị đã xác định những mục tiêu
toàn cầu về trẻ em giai đoạn 2001 - 2010 nhằm “Xây dựng một thế giới phù
hợp với trẻ em”. Tính từ đầu thế kỷ XX đến nay, đã có rất nhiều văn kiện
quốc tế liên quan đến quyền trẻ em được ban hành: Tuyên bố Giơnevơ năm
1924; Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền 1948; Tuyên bố của Liên Hợp Quốc về
quyền trẻ em năm 1959; Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt

chủng tộc năm 1969, Các quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên Hợp Quốc về
việc áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên (quy tắc Bắc Kinh)
Hầu khắp các nước, trẻ em đã được thừa nhận và đối xử với tư cách là chủ thể
có quyền chứ không chỉ là đối tượng của tình thương hay lòng nhân đạo. Đây
là thành quả của gần một thế kỷ đấu tranh liên tục của nhân loại nhằm cải
thiện vị thế và cuộc sống của trẻ em.
1.1.2. Tại Việt Nam
Từ thế kỷ thứ XV, Bộ luật Hồng Đức do vua Lê Thánh Tông ban hành
đã có nhiều điều khoản quy định trách nhiệm của quan lại và dân chúng địa
phương phải giúp đỡ trẻ em tàn tật, trẻ mồ côi, như quy định tại điều 313 con
gái và những trẻ nhỏ mồ côi… quy định việc trừng trị tội gian dâm với trẻ em
gái như điều 404 “Gian dâm với con gái nhỏ 12 tuổi dù nó thuận tình thì vẫn
xử như tội hiếp dâm”, tội buôn bán trẻ em… Đến ngày nay Đảng và Nhà
nước Việt Nam vẫn luôn chú trọng đến việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em, thế hệ
của tương lai. Hiến pháp đầu tiêu của Việt Nam năm 1946 đã quy định “Trẻ
em được quyền săn sóc giáo dưỡng” (điều 14) và các bản Hiến pháp được sửa
đổi, bổ sung sau này, vẫn khẳng định và phát triển hơn việc bảo vệ trẻ em.
Điều 24 Hiến pháp năm 1959 “Nhà nước bảo hộ quyền lợi của người mẹ và
trẻ em”; “Nhà nước và xã hội chú trọng bảo vệ, chăm sóc và giáo dục thiếu
niên, nhi đồng, mở rộng dần việc đảm nhiệm nuôi dạy trẻ em, làm cho sinh


11
hoạt, học tập và trưởng thành của trẻ em được bảo đảm.” (điều 65, Hiến pháp
năm 1980); “Trẻ em được gia đình, Nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục” (điều 65, Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001).
Năm 1941 tổ chức đầu tiêu của trẻ em được thành lập, nay là đội thiếu
niên Tiền phong Hồ Chí Minh. Năm 1961 Ủy ban thiếu niên, nhi đồng Việt
Nam được thành lập. Tháng 9/1972 Ủy ban thường vụ Quốc hội đã phát động
phong trào bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em theo khẩu hiệu “Tất cả vì

tương lai con em chúng ta”. Năm 1979 Ủy ban năm Quốc tế thiếu nhi được
thành lập để phối hợp với Ủy ban năm Quốc tế trẻ em của Liên Hợp Quốc và
Ủy ban thường vụ Quốc Hội đã thông qua pháp lệnh bảo vệ chăm sóc và giáo
dục trẻ em.
Ngày 26/01/1990 Việt Nam đã ký công ước về quyền trẻ em và phê
chuẩn công ước này ngày 20/2/1990, (không bảo lưu điều khoản nào). Việt
Nam là quốc gia đầu tiên ở châu Á và là quốc gia thứ hai trên thế giới phê
chuẩn Công ước về quyền trẻ em. Ngày 20/12/2001, Việt Nam phê chuẩn
Nghị định thư về việc sử dụng trẻ em trong xung đột vũ trang và Nghị định
thư về buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa khiêu dâm trẻ em bổ sung
cho Công ước quyền trẻ em.
Để đảm bảo được quyền trẻ em thực hiện tốt và phù hợp với công ước
quốc tế về quyền trẻ em, Việt Nam đã ban hành và sửa đổi nhiều đạo luật:
Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1991 được sửa đổi năm
2004, (điều 5) quy định “Trong mọi hoạt động của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá
nhân có liên quan đến trẻ em thì lợi ích của trẻ em phải được quan tâm hàng đầu”,
đặc biệt là các quyền cơ bản và các bổn phận của trẻ em.
Luật phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991, điều 2 quy định “Giáo dục
tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, có nhiệm vụ xây
dựng và phát triển tình cảm, đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và thể chất của trẻ em,
nhằm hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển toàn diện nhân cách con


12
người Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
Bộ luật Lao động năm 2001 sửa đổi, bổ sung năm 2002, đã quy định độ
tuổi tối thiểu trong việc sử dụng lao động là trẻ em “cấm trẻ em chưa đủ 15
tuổi vào làm việc (điều 120), nghiêm cấm lao động trẻ em “cấm sử dụng
người lao động chưa thành niên làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm
hoặc tiếp xúc với chất độc hại hoặc chỗ làm việc, công việc ảnh hưởng xấu

đến nhân cách của họ…(điều 121).
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, quy định thủ tục tố tụng đặc biệt đối
với người bị hại, người bị bắt, bị tạm giam, bị can, bị cáo… là người chưa
thành niên. Các quy định bắt giữ, tạm giam, tạm giữ là biện pháp ngăn chặn
chỉ áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội khi có những căn cứ tại
điều 80,81,82,86,88 và 120 của Bộ Luật tố tụng hình sự. Ngoài ra việc bắt
người chưa thành niên phạm tội còn phải đáp ứng các điều kiện sau: Có đủ
căn cứ quy định về việc bắt bị can, bị cáo để tạm giữ, tạm giam, bắt người
phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã; Chỉ bắt người chưa thành niên phạm
tội trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng, tức là tội phạm gây nguy hại cho
xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên năm năm
tù; Người chưa thành niên phạm tội đó phải đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Việc bắt người chưa thành niên chỉ được thực hiện vào ban ngày, trừ những
trường hợp không thể vào ban ngày hoặc những trường hợp không thể trì
hoãn mới được thực hiện vào ban đêm. “Cơ quan ra lệnh bắt, tạm giữ, tạm
giam người chưa thành niên phải thông báo cho gia đình, người đại diện hợp pháp
của họ biết ngay sau khi bắt, tạm giữ, tạm giam” (khoản 3, điều 303 BLTTHS)
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2005 với những quy định nhằm bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của phụ nữ và trẻ em. (Điều 103) “Giao người chưa
thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo
dục; Giao người chưa thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục được áp dụng nếu việc giải quyết vụ án có liên


13
quan đến người chưa thành niên chưa có người giám hộ.”
Các nghị định, thông tư hướng dẫn và các văn bản dưới luật khác liên
quan đến bảo vệ quyền trẻ em đã được ban hành.
1.2. Khái niệm quyền trẻ em trong pháp luật quốc tế và pháp luật
Việt Nam

1.2.1. Khái niệm về trẻ em
1.2.1.1. Trẻ em theo công ƣớc về quyền trẻ em năm 1989 và pháp
luật nƣớc ngoài
Điều 1, Công ước về quyền trẻ em đã ghi nhận “Trẻ em là bất kỳ người
nào dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể được áp dụng với trẻ em đó
quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Dưới góc độ luật học việc xác định trẻ em
căn cứ vào độ tuổi và yếu tố tâm lý trong từng giai đoạn phát triển. Theo các
nhà luật học, giai đoạn kết thúc của trẻ em là 18 tuổi, ở độ tuổi này đã có sự
phát triển đầy đủ về thể chất, trí tuệ và tâm hồn, làm chủ được suy nghĩ, đưa
ra được những hành vi xử sự phù hợp với xã hội, đạo đức và pháp luật.
Trung quốc: Điều 2, luật Bảo vệ người chưa thành niên quy định, trẻ
em còn được gọi là trẻ chưa thành niên, là công dân dưới 18 tuổi, được hưởng
quyền sống, quyền phát triển, quyền được bảo vệ và quyền tham gia. Nhà
nước phải bảo vệ và chăm sóc đặc biệt cho sự phát triển thể chất và tinh thần
của trẻ chưa thành niên, đảm bảo các quyền bất khả xâm phạm quyền và lợi
ích hợp pháp của người chưa thành niên.
Nhật Bản: Điều 4, luật Phúc lợi trẻ em năm 1947 cũng quy định trẻ em
là người dưới 18 tuổi. Pháp luật tôn trọng và thực thi toàn bộ những quy định
để đảm bảo mọi phúc lợi cho trẻ em.
Luật liên bang Nga số 124-FZ ngày 21/7/1998 "Về đảm bảo các quyền
trẻ em tại Liên bang Nga. Luật này đã được sửa đổi nhiều lần vào các thời
gian khác nhau, cụ thể như: ngày 20/7/2000; ngày 22/8/2004 và ngày
21/12/2004; ngày 26-30/6/2007; ngày 23/7/2008; ngày 28/4/2009, ngày


14
03/6/2009 và ngày 17/12/2009; ngày 21/7/2011 và 03/12/2011. Việc luật
được sửa đổi nhiều lần như vậy phần nào đó đã chứng tỏ rằng Nhà nước Liên
bang Nga đã đặc biệt quan tâm đến trẻ em, đến các quyền và và việc bảo vệ
các quyền của trẻ em cho phù hợp với sự phát triển kinh tế-xã hội Nga.

Luật bang Nga số 124-FZ ngày 21/7/1998 (sửa đổi) nói trên đã thiết
lập những bảo đảm về quyền cơ bản và lợi ích hợp pháp của trẻ em trên cơ sở
Hiến pháp của Liên bang Nga năm 1992, đồng thời xây dựng các điều kiện
kinh tế - xã hội, luật pháp cho việc thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp
của trẻ em.
Nhà nước Liên bang Nga công nhận thời thơ ấu là giai đoạn quan trọng
của cuộc sống của con người và dựa trên nguyên tắc cần có sự chuẩn bị ưu
tiên các điều kiện thuận lợi nhất để cho trẻ em một cuộc sống đầy đủ trong xã
hội, tạo ra sự phát triển ở trẻ em các hoạt động xã hội có ý nghĩa và sáng tạo,
giáo dục trẻ em có phẩm chất đạo đức cao, lòng yêu nước và tính công dân.
Theo Điều 1 Luật liên bang Nga số 124-FZ ngày 21/7/1998 (sửa đổi),
thì trẻ em được hiểu là người ở độ tuổi dưới 18; trẻ em có hoàn cảnh khó
khăn là trẻ em sống không có sự chăm sóc của cha mẹ, trẻ em khuyết tật; trẻ
em khuyết tật, là trẻ em phát triển không đầy đủ về thể chất và tâm thần; trẻ
em là nạn nhân của xung đột vũ trang và xung đột giữa các dân tộc, thảm
họa môi trường và công nghệ, thiên tai; trẻ em từ các gia đình người tị nạn
và buộc phải di cư; trẻ em trong điều kiện khắc nghiệt; trẻ em là nạn nhân
của bạo lực, trẻ em là người đang chấp hành hình phạt trong các cơ sở giáo
dục vị thành niên; trẻ em trong các cơ sở giáo dục đặc biệt; trẻ em sống
trong gia đình nghèo có thu nhập thấp; trẻ em có vấn đề về hành vi; Trẻ em
mà sinh hoạt của họ bị hủy hoại vì hoàn cảnh khách quan và không thể khắc
phục những trường hợp này một mình hoặc với sự giúp đỡ của gia đình.
Tại Điều 6 Luật này quy định việc đảm bảo các quyền của trẻ em tại
Liên bang Nga từ khi sinh ra và được Nhà nước đảm bảo các quyền và tự do


15
của con người và công dân phù hợp với Hiến pháp của Liên bang Nga, phù
hợp với các nguyên tắc pháp luật phổ quát đã được công nhận chung và các
quy phạm của luật pháp quốc tế, các điều ước quốc tế của Liên bang Nga và

của luật này, phù hợp với Bộ luật hôn nhân và gia đình và các văn bản quy
phạm pháp luật khác của Liên bang Nga.
Như vậy, việc bảo vệ các quyền của trẻ em tại Liên bang Nga đã được định
chế trong pháp luật là phù hợp với hệ thống pháp luật quốc tế về quyền trẻ em. Điều
đó đã được khẳng định trong Hiến pháp năm 1992 của Liên bang Nga. Theo đó,
Hiến pháp Liên bang Nga năm 1992 đã quy định rằng: các nguyên tắc và các quy
phạm được công nhận chung của luật quốc tế là một bộ phận cấu thành của hệ thống
pháp luật Liên bang Nga (khoản 4, Điều 15); Liên bang Nga công nhận và đảm bảo
các quyền và tự do của con người và công dân phù hợp với các nguyên tắc và các
quy phạm được công nhận chung của luật quốc tế và với Hiến pháp Nga (khoản 1,
Điều 17); Liên bang Nga đảm bảo các quyền của các dân tộc phù hợp với các nguyên
tắc chung và các quy phạm luật quốc tế và với các điều ướ quốc tế mà Liên bang Nga
đã ký kết hoặc gia nhập (Điều 69). [11.tr99]
1.2.1.2. Trẻ em theo pháp luật Việt Nam
Điều 1, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 quy định
“Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Luật Hôn nhân gia đình 2000
xác định tuổi nuôi con nuôi là từ 15 tuổi trở xuống (điều 34). Trong khi đó,
Bộ luật Hình sự 1999 lại quy định người chưa thành niên phạm tội là người từ
đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi. Bộ luật Lao động 1994 (sửa đổi bổ sung năm
2001, 2006, 2007) quy định người lao động chưa thành niên là người lao động
dưới 18 tuổi (điều 119), khái niệm trẻ em được hiểu là người chưa đủ 15 tuổi
(điều 120). Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính 2002 lại quy định tuổi chịu
trách nhiệm hành chính “Là người từ đủ 14 tuổi trở nên có thể bị xử phạt vi
phạm hành chính”. Như vậy theo pháp luật Việt Nam có thể hiểu trẻ em bao
gồm cả người chưa thành niên (dưới 18 tuổi). Cách hiểu này cũng phù hợp


16
với khái niệm trẻ em của công ước về quyền trẻ em. Từ những quy định về độ
tuổi của người chưa thành niên trong các văn bản pháp luật khác nhau trên

chúng ta có thể hiểu và đưa ra một khái niệm về trẻ em như sau “Trẻ em là
người dưới 18 tuổi”, khái niện này phù hợp với Công ước quốc tế quyền trẻ
em và pháp luật Việt Nam.
1.2.2. Quyền trẻ em
Quyền trẻ em chính là quyền của con người được cụ thể hóa cho phù
hợp với nhu cầu, đặc trưng phát triển và tính chất cuộc sống trẻ em.
1.2.2.1. Quyền trẻ em theo công ƣớc quốc tế về quyền trẻ em
Công ước về quyền trẻ em năm 1989 là cơ sở cho các quốc gia thành viên
luật hoá các quy phạm pháp luật trong nước nhằm mục đích chăm sóc, bảo vệ thế
hệ tương lai của đất nước. Công ước đã đứng từ vị thế đặc biệt của trẻ em, đã chú
trọng đến các nhu cầu và quyền đặc trưng của trẻ em vì thế công ước đã bao quát
được tất cả các khía cạnh của quyền trẻ em, bao gồm: Quyền sống còn (điều 6);
quyền được có họ tên và có quốc tịch (điều 7); quyền giữ gìn bản sắc (điều 8);
quyền không bị cách ly khỏi cha mẹ (điều 9); quyền tự do phát biểu, tự do bày
tỏ ý kiến (điều 12 và 13); quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo (điều
14); quyền được tự do kết giao và tự do hội họp hòa bình (điều 15); quyền
được tiếp cận thông tin (điều 17); quyền được bảo vệ và chăm sóc (điều 18);
quyền được chăm sóc sức khỏe (điều 24); quyền được học hành (điều 28); quyền
được giải trí (điều 31); quyền được bảo vệ chống lại sự lạm dụng tình dục
(điều 34)…Trên cơ sở của các quyền trên, có thể gộp lại thành các nhóm quyền
cơ bản của trẻ em là: Quyền sống còn; quyền được phát triển; quyền được bảo vệ;
quyền được tham gia và một số biện pháp bảo vệ dành cho các trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt.
1.2.2.2. Quyền trẻ em theo pháp luật Việt Nam
Hiến pháp 1992, khẳng định quyền trẻ em gồm quyền được học tập,
chăm sóc và bảo vệ về mặt sức khỏe, thể chất. Nhà nước có chính sách học


17
phí, học bổng đối với trẻ em năng khiếu, trẻ em tàn tật hoặc có hoàn cảnh

khó khăn. Nghĩa vụ bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em là của gia đình, Nhà
nước và xã hội.
Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 đã nói rõ quyền
cơ bản và bổn phận của trẻ em. Trong đó, quyền cơ bản của trẻ em như:
Quyền được khai sinh và có quốc tịch, quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng,
quyền được sống chung với cha mẹ, quyền được tôn trọng, bảo vệ tính
mạng, thân thể, nhân phẩm và danh sự, quyền được chăm sóc sức khỏe,
quyền được học tập, quyền được vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, nghệ
thuật, thể dục, thể thao, du lịch, quyền được phát triển năng khiếu, quyền
có tài sản, quyền được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến và tham gia hoạt
động xã hội.
Bộ luật Dân sự năm 2005 có những quy định riêng nhằm xác định
địa vị pháp lý của trẻ em trong lĩnh vực dân sự, gồm quyền, nghĩa vụ và
những đảm bảo pháp lý. Bảo vệ quyền trẻ em được thể hiện ở các quy định
về năng lực chủ thể dân sự của người chưa thành niên, về giám hộ đối với
người chưa thành niên, về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chưa
thành niên và do người chưa thành niên gây ra, về thừa kế.
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2005 đã có những quy định trẻ em
như là một thành viên đặc biệt của gia đình, cần có sự bảo hộ pháp lý đặc
biệt. Bảo vệ quyền trẻ em được thể hiện trong các quy định về mối quan hệ
giữa các thành viên trong gia đình như cha mẹ với các con, anh chị em với
nhau, ông bà với các cháu về quyền được khai sinh, quyền được xác định
cha mẹ, quyền được cha mẹ yêu thương, trông nom, dạy dỗ, quyền tài sản,
quyền được cấp dưỡng, quyền được cha mẹ thay mặt bồi thường thiệt hại
cho người khác.
Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 xác định trẻ em với tư cách là
một cá nhân, nên quyền có quốc tịch là một trong những quyền cơ bản và


18

thiêng liêng nhất của trẻ em. Quốc tịch là căn cứ để trẻ em được hưởng sự
bảo hộ pháp lý của Nhà nước, là một trong những điều kiện cơ bản để xác
định tình trạng nhân thân của một con người từ khi sinh ra cho đến khi
chết. Trẻ em sinh ra trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh có
cha mẹ đều là công dân Việt Nam thì có quốc tịch Việt Nam. Trẻ em sinh
ra trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh có cha hoặc mẹ là công
dân Việt Nam còn người kia là người không quốc tịch hoặc có mẹ là công
dân Việt Nam còn cha không rõ là ai thì có quốc tịch Việt Nam. Trẻ em khi
sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là công dân
nước ngoài thì có quốc tịch Việt Nam, nếu có sự thoả thuận bằng văn bản
của cha mẹ vào thời điểm đăng ký khai sinh cho con. Trường hợp trẻ em
được sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà cha mẹ không thoả thuận được
việc lựa chọn quốc tịch cho con thì trẻ em đó có quốc tịch Việt Nam. Điều
17 của Luật cũng quy định, trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà khi
sinh có cha mẹ đều là người không quốc tịch, nhưng có nơi thường trú tại
Việt Nam thì có quốc tịch Việt Nam. Trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam
mà khi sinh có mẹ là người không quốc tịch, nhưng có nơi thường trú tại
Việt Nam, còn cha không rõ là ai thì có quốc tịch Việt Nam. Trẻ sơ sinh bị
bỏ rơi, trẻ em được tìm thấy trên lãnh thổ Việt Nam mà không rõ cha mẹ là
ai thì có quốc tịch Việt Nam.
Như vậy quyền cơ bản của trẻ em được pháp luật Việt Nam quy định
phù hợp với những quy định của công ước quốc tế về quyền trẻ em, được
cụ thể hóa trong điều kiện hoàn cảnh quốc gia, văn hóa đặc trưng của Việt
Nam.
1.3. Đặc điểm các quan hệ pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em.
1.3.1. Đặc điểm các quan hệ pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền trẻ em.
Quan hệ pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền trẻ em, về bản chất thì đó
chính là các quan hệ pháp luật điều chỉnh các quyền con người, được cụ thể



19
hóa cho phù hợp với nhu cầu, đặc trưng phát triển và tính chất cuộc sống của
trẻ em. Pháp luật quốc tế về quyền con người nói chung, quyền trẻ em nói
riêng được ghi nhận chủ yếu trong các văn kiện pháp lý quốc tế của Liên Hợp
Quốc, bao gồm Công ước về quyền trẻ em năm 1989, Công ước về quyền dân
sự và chính trị năm 1966, Công ước về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm
1966. Hai nghị định thư bổ sung công ước về quyền trẻ em được thông qua
năm 2000: Nghị định thư về buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa
phẩm khiêu dâm trẻ em; Nghị định thư về việc sử dụng trẻ em trong xung đột
vũ trang; Tuyên bố về nhân quyền của Liên Hợp Quốc 1948… ngoài ra còn
có các văn kiện của tổ chức Lao động quốc tế (ILO) cũng ghi nhận quyền trẻ
em trong lĩnh vực lao động như: Công ước 138 về tuổi tối thiểu được đi làm,
công ước 182 nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xóa bỏ các hình thức lao
động trẻ em tồi tệ nhất…Chương trình phối hợp của Liên Hợp Quốc về
HIV/AIDS nhằm mục đích quyền của phụ nữ, thành thiếu niên và trẻ em phải
được bảo vệ nếu muốn tránh lây nhiễm và chặn đứng tác động của HIV.
Công ước quốc tế về quyền trẻ em là văn kiện pháp lý quan trọng nhất,
là thoả thuận quốc tế được ký kết giữa các quốc gia và các chủ thể khác của
luật quốc tế và được luật quốc tế điều chỉnh. Nguyên tắc chung của việc thực
hiện điều ước quốc tế về quyền trẻ em là nguyên tắc tận tâm thực hiện cam
kết quốc tế (nguyên tắc Pacta sutservanda) đòi hỏi các quốc gia có nghĩa vụ
thực thi các điều ước quốc tế một các tự nhiên và nghiêm chỉnh. Đối tượng
điều chỉnh của các thỏa thuận đó là các quyền trẻ em bao gồm quyền sống
còn, quyền được bảo vệ, quyền được phát triển và quyền được tham gia.
Công ước về quyền trẻ em ràng buộc nghĩa vụ của các quốc gia đã phê
chuẩn hoặc gia nhập trong việc thực hiện các quyền trẻ em. Công ước đã xác
lập một cơ chế pháp lý quốc tế để theo dõi, giám sát quá trình thực hiện quyền
trẻ em ở các quốc gia. Công ước quốc tế về quyền trẻ em là văn kiện pháp lý
quốc tế cơ bản và toàn diện nhất về quyền trẻ em

×