Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Pháp luật về chống bán phá giá của Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 90 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT







HOÀNG THỊ PHƯỢNG






PHÁP LUẬT VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA
TRUNG QUỐC VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO
CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM





Chuyên ngành : Luật Quốc tê
Mã số : 60 38 60



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Bá Chiến





Hà Nội – 2012

3
MỤC LỤC

Trang
Lời cam đoan
2
Mục lục
3
Danh mục các kỹ hiệu, các chữ viết tắt
5
Danh mục các bảng
6
Danh mục các bản đồ, hình vẽ
7
MỞ ĐẦU
8
CHƢƠNG 1 – QUY ĐỊNH VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA TRUNG
QUỐC ……………………………………………………………


11
1.1 Các đạo luật của Trung Quốc có liên quan đến Bán phá giá ……………
11
1.2 Khái niệm về bán phá giá của Trung Quốc ………………………………
13
1.3 Quy định của Trung Quốc về xử lý các hành vi Bán phá giá ……………
18
1.3.1 Cơ quan có thẩm quyền điều tra hành vi Bán phá giá ………………….
18
1.3.2 Trình tự tiến hành xử lý Bán phá giá …………………………………
19
CHƢƠNG 2 - THỰC TIẾN VỀ HOẠT ĐỘNG CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ
CỦA TRUNG QUỐC

40
2.1 Tổng quan về thực trạng bán phá giá vào thị trường Trung Quốc
40
2.1.1 Thống kê các vụ bán phá giá vào thị trường Trung Quốc
40
2.1.2 Thực trạng xử lý các vụ bán phá giá vào thị trường Trung Quốc
42
2.2 Nhận xét về việc áp dụng luật chống bán phá giá của Trung Quốc
59
2.2.1 Phản ứng của các quốc gia đối với luật chống bán phá giá của Trung
Quốc

59
2.2.2 Ảnh hưởng của pháp luật chống bán phá giá đến bản thân các doanh
nghiệp Trung Quốc


61
CHƢƠNG 3 - BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP CHO VIỆT
NAM

67
3.1 Một số vụ kiện chống bán phá giá điển hình có liên quan đến Trung
Quốc và Việt Nam

67
3.2 Những kinh nghiệm rút ra từ việc nghiên cứu pháp luật và thực tiễn
chống bán phá giá của Trung Quốc đối với Việt Nam

67
3.2.1 Bài học kinh nghiệm đối với việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật


4
Việt Nam
67
3.2.2 Bài học kinh nghiệm đối với doanh nghiệp trong vấn đề phòng và
chống bị kiện bán phá giá ………………………………………….
71
3.3 Các giải pháp cho doanh nghiệp Việt Nam trong vấn đề bán phá giá
81
3.3.1 Nhóm giải pháp nhằm tránh bị liên quan đến các vụ kiện bán phá giá
81
3.3.2 Nhóm giải pháp cần tiến hành khi bị kiện bán phá giá
83
KẾT LUẬN

88
TÀI LIỆU THAM KHẢO
90


















5
DANH MỤC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
AD
Chống phá giá hàng hoá (Anti Dumping)
BOFT
Phòng Xuất Nhập khẩu và Triển lãm Thương mại Trung Quốc (Bureau of
Import & Export Fair Trade)
CFA
Tổ chức nuôi cá da trơn Mỹ (Catfish Farmers of America)

DOC
Bộ Thương mại Hoa Kỳ ( Department of Commerce)
IBII
Phòng Điều tra Thiệt hại đối với ngành sản xuất Trung Quốc (Industry
Injury Investigation Bureau)
EC
Uỷ ban Châu Âu (European Commission)
EU
Công đồng Châu Âu (European Union)
MOEA
Bộ Kinh tế (Ministry of Economic Affairs)
MOFCOM
Bộ Thương mại (Ministry of Commerce of the People
,
s Republic of
China).
MOFTEC
Bộ Hợp Tác Kinh Tế và Ngoại Thương (The Ministry of Foreign Trade
and Economic Cooperation)
SETC
Uỷ ban Kinh tế và Thương mại Nhà nước (The State Economic and Trade
Commission)
USITC
Uỷ ban thương mại quốc tế Hoa Kỳ (US International Trade Council)
VASEP
Hiệp hội những nhà chế biến và xuất khẩu thuỷ sản (Vietnam Association
of Seafood Exporters and Producers)
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
WTO

Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization)


6
DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Tên
Trang
Bảng 2.1: Tình hình các vụ kiện chống bán phá giá của Trung
Quốc trong hoạt động thương mại quốc tế 1995-2006
62























7
DANH MỤC BẢN ĐỒ, HÌNH VẼ
Tên
Trang
Biểu đồ 2.1: Số liệu các vụ Trung Quốc khởi xướng điều tra theo
nhóm mặt hàng từ 1995-2010
40
Biểu đồ 2.2: Số liệu các vụ Trung Quốc có các biện pháp áp dụng
theo nhóm mặt hàng từ 1995-2010
41
Biểu đồ 2.3: Số liệu về các quốc gia bị Trung Quốc áp dụng các biện
pháp chống bán phá giá từ 1995-2010.
42











8
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Luật chống bán phá giá là một trong những bộ luật non trẻ nhất của hệ thống
thương mại quốc gia cũng như thế giới, bởi cho đến đầu thế kỷ XX, khái niệm chống bán
phá giá hầu như vẫn chưa hình thành.
Tuy nhiên trong bối cảnh tự do hóa thương mại ngày càng phát triển, khi mà các
hàng rào thương mại cổ điển dần được xóa bỏ, thì khái niệm bán phá giá và chống bán
phá giá ngày càng phổ biến, và vì thế luật chống bán phá giá ngày càng được chú trọng.
Điều này minh chứng qua số lượng ngày càng tăng các quốc gia tự xây dựng luật chống
bán phá giá của quốc gia mình.
Nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa (gọi tắt là Trung Quốc), với tư cách
là quốc gia láng giềng, có quan hệ chính trị - ngoại giao, kinh tế - thương mại và giao lưu
văn hóa với Việt Nam từ rất lâu đời; đồng thời, trong những năm gần đây, Trung Quốc
nổi lên như một hiện tượng của kinh tế thế giới với những chính sách mở cửa về ngoại
thương cũng như những thành tựu đáng kinh ngạc về kinh tế, đặc biệt Trung Quốc là một
trong những quốc gia tiên phong trong khu vực châu Á trong việc xây dựng hệ thống
pháp luật về chống bán phá giá. Một điểm đáng lưu ý là, nhìn chung Việt Nam và Trung
Quốc có nền kinh tế tương tự nhau, hai nền kinh tế đều duy trì vai trò chủ đạo, định
hướng phát triển của Nhà nước, có thị trường hàng hóa khá tương đồng và vì thế là hai
môi trường có tính cạnh tranh cao. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã
có dịp “đối mặt” với luật chống bán phá giá của Trung Quốc. Do vậy, để tránh những
lúng túng và tranh chấp trong quan hệ thương mại liên quan đến việc bán phá giá thì việc
nghiên cứu và tìm hiểu pháp luật về chống bán phá giá của Trung Quốc là điều hết sức
cần thiết và có ý nghĩa sâu sắc đối với Việt Nam.
Đây chính là lý do em chọn đề tài “Pháp luật về chống bán phá giá của Trung
Quốc và bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiêp Việt Nam” để thực hiện bài Luận văn
tốt nghiệp của mình, với mong muốn đưa ra cái nhìn tổng quan về pháp luật chống bán
phá giá của Trung Quốc, để từ đó đưa ra những giải pháp, bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

9

Pháp luật về chống bán phá giá và việc nghiên cứu về nó không còn là một đề tài
mới trên thế giới, và ở Việt Nam từ những năm trở lại đây, khi Nhà nước ta nhìn nhận
được vai trò to lớn của đầu tư nước ngoài cũng như những tranh chấp xoay quanh nó
ngày càng phức tạp thì việc tìm hiểu pháp luật về chống bán phá giá cũng rất được quan
tâm và có rất nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu về nó. Hiện nay có một số đề tài, công
trình tiêu biểu nghiên cứu về vấn đề này như: Trần Văn Hải (2007), “Một số vấn đề cơ
bản về pháp luật chống bán phá giá của WTO, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật, Đại
học quốc gia Hà Nội, Nguyễn Trần Duy (2007), Pháp luật về chống bán phá giá thương
mại quốc tế, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội; Trong các
đề tài này, vấn đề về pháp luật chống bán phá giá đã được các nhà nghiên cứu đưa ra một
cách chung nhất và khái quát nhất. Tuy nhiên, chưa có một đề tài nào đi sâu nghiên cứu
về “Pháp luật về chống bán phá giá của Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho các
doanh nghiệp Việt Nam”.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Với tính chất là một đề tài Thạc sĩ, đi sâu nghiên cứu pháp luật của Trung Quốc từ
đó đưa ra bài học kinh nghiệm và giải pháp cho Việt Nam, do đó tác giả không đi sâu
nghiên cứu các vấn đề về pháp luật chống bán phá giá trong thương mại quốc tế nói
chung như: các biện pháp chống bán phá giá, các Điều ước quốc tế liên quan đến bán phá
giá mà các quốc gia ký kết hoặc tham gia, cơ chế giải quyết tranh chấp liên quan đến bán
phá giá
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Trên đối tượng và phạm vi nghiên cứu hạn hẹp, để đạt được các mục đích và
nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, tác giả sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử với các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp thống kê, tổng hợp
so sánh, phân tích, phương pháp lịch sử và logic
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Với tính cấp thiết của đề tài, tác giả đặt ra cho mình mục đích là nghiên cứu một
cách có hệ thống về pháp luật chống bán phá giá của Trung Quốc, thực trạng xử lý các vị
kiện chống bán giá tại Trung Quốc, từ đó tìm ra những bài học kinh nghiệm và giải pháp

cho Việt Nam.

10
Để đạt được các mục đích trên, việc nghiên cứu đề tài có các nhiệm vụ cụ thể: hệ
thống toàn bộ các quy định của Trung Quốc về chống bán phá giá, làm sáng tỏ sự phù
hợp của các quy định này so với các quy định về chống bán phá giá của WTO khi mà
Trung Quốc đã trở thành thành viên của WTO; xem xét thực tiễn hoạt động chống bán
phá giá của Trung Quốc, đưa ra bài học kinh nghiệm và giải pháp cho Việt Nam.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Đây là đề tài nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về pháp luật chống bán
phá giá của Trung Quốc và bài học kinh nghiệm, giải pháp cho Việt Nam, trên cơ sở đó
có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp mới của đề tài:
- Hệ thống hóa các quy định của pháp luật hiện hành của Trung Quốc về chống
bán phá giá;
- Thực tiễn chống bán phá giá của Trung Quốc, bao gồm: việc thống kê những vụ
bán phá giá vào thị trường Trung Quốc, thực trạng xử lý các vụ việc;
- Chỉ ra những kinh nghiệm và giải pháp cho Việt Nam.
7. Cơ cầu của Luận văn
Luận văn chia làm 3 phần chính:
Chương 1: Quy định về Chống bán phá giá của Trung Quốc;
Chương 2: Thực tiễn về hoạt động chống bán phá giá của Trung Quốc;
Chương 3: Bài học kinh nghiệm và giải pháp cho Việt Nam.

11
CHƢƠNG 1
QUY ĐỊNH VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA TRUNG QUỐC

1.1 Các đạo luật của Trung Quốc có liên quan đến Bán phá giá.
Về cơ bản, có thể tóm lược quá trình ban hành các đạo luật liên quan đến vấn đề
chống bán phá giá của Trung Quốc như sau:

Luật ngoại thương năm 1994, được sửa đổi, bổ sung năm 2004;
Luật chống bán phá giá và chống trợ cấp có hiệu lực vào tháng 4 năm 1997;
Ngày 01/01/2002, Trung Quốc ban hành hai Quy định mới là: “Các quy định về
chống bán phá giá” và “ Các quy định về chống trợ cấp”;
Tháng 3 năm 2004, Trung Quốc đã sửa đổi, bổ sung quy định về chống bán phá giá và
chống trợ cấp, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 6 năm 2004.
Nhìn chung, các đạo luật liên quan đến chống bán phá giá của Trung Quốc có sự thay
đổi cho phù hợp với từng giai đoạn. Việc tìm hiểu nội dung từng đạo luật nói trên có thể
đánh giá được bước phát triển trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật về chống
bán phá giá của Trung Quốc để phù hợp với pháp luật quốc tế.
Luật Ngoại thương ban hành năm 1994 và được sửa đổi, bổ sung năm 2004. Đây là
nguồn luật chính điều chỉnh các mối quan hệ trong ngoại thương của Trung Quốc. Luật
này có 11 chương bao gồm các điều khoản chung, thương nhân ngoại thương, xuất nhập
khẩu hàng hoá và công nghệ, thương mại quốc tế trong dịch vụ, bảo hộ các lĩnh vực khác
liên quan đến thương mại như quyền sở hữu trí tuệ, trật tự trong ngoại thương, các cuộc
điều tra ngoại thương, biện pháp ngoại thương, xúc tiến ngoại thương, trách nhiệm pháp
lý và các điều khoản thi hành. Các quy định về chống bán phá giá thuộc chương về các
biện pháp khắc phục ngoại thương. Luật Ngoại thương được coi là bước phát triển quan
trọng nhất làm thay đổi chế độ thương mại quốc tế của Trung Quốc. Trung Quốc cam kết
cho phép tất cả các doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia vào hoạt động mua bán
hàng hoá quốc tế trừ danh mục một số mặt hàng cụ thể là đối tượng của kinh doanh nhà
nước trong vòng 3 năm kể từ khi gia nhập. Luật sửa đổi nhằm thực thi các cam kết có
hiệu lực vào ngày 01/07/2004 gắn liền với lĩnh vực phân phối nội địa của doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài.

12
Để cụ thể hoá các quy định về các biện pháp khắc phục thương mại, năm 1997 Hội
đồng nhà nước Trung Quốc đã ban hành các quy định và thủ tục kiện chống bán phá giá
và đối kháng, gọi là các quy định về chống bán phá giá và chống trợ cấp của CH DCND
Trung Hoa (thường được gọi là Quy định cũ). Quy định này gồm 42 điều nhằm xem xét

việc đánh thuế đối với mặt hàng ế thừa và được hưởng trợ cấp của Chính phủ nước ngoài
nhập khẩu vào bán phá giá ở Trung Quốc, hướng dẫn các Công ty trong nước cách thức
thưa kiện về những vụ tranh chấp, các biện pháp “trả đũa” với những nước áp dụng các
mức thuế mang tính kỳ thị với hàng hoá của Trung Quốc. Mặc dù, các quy định được
soạn thảo bằng cách tham khảo Hiệp định các biện pháp đối kháng, chống trợ cấp và
chống bán phá giá của WTO, tuy nhiên còn rất nhiều điều khoản trong đó khá chung
chung, hầu như không hướng dẫn về việc áp dụng các quy định vào thực tế như thế nào.
Hơn nữa, một số điều khoản trong đó khác với trong các hiệp định của WTO. Trong suốt
quá trình đàm phán gia nhập WTO của Trung Quốc, một số thành viên WTO lo ngại rằng
hệ quả của việc áp dụng các điều khoản này là các cuộc điều tra về các biện pháp khắc
phục thương mại mà chính quyền Trung Quốc tiến hành sẽ không phù hợp với các quy
định của WTO nếu như Trung Quốc trở thành thành viên của WTO.
Sau 15 năm đàm phán căng thẳng, Trung Quốc chính thức trở thành thành viên thứ
143 của WTO vào ngày 11 tháng 12 năm 2001. Việc gia nhập WTO đã tác động lớn đến
hệ thống pháp luật và thể chế của Trung Quốc. Để thực hiện các cam kết của WTO,
Trung Quốc đã tiến hành một đợt rà soát pháp luật toàn diện. Theo đó, Trung Quốc phải
bãi bỏ các quy định cũ và ban hành hai quy định mới là “Các quy định về chống bán phá
giá” và “Các quy định về chống trợ cấp” bằng cách tách các vấn đề về chống bán phá giá
ra khỏi các vấn đề về trợ cấp đối kháng. Các quy định này có hiệu lực từ 01/01/2002 ngay
sau khi lộ trình gia nhập vào WTO được Quốc hội Trung Quốc phê chuẩn. Quy định mới
về chống bán phá giá được đưa ra một cách toàn diện và cụ thể với 59 điều khoản trong 6
chương. Các quy định này được chi tiết hoá bởi rất nhiều các quy định tạm thời do Bộ
Hợp Tác Kinh Tế và Ngoại Thương (MOFTEC) và Hội đồng nhà nước về Thương mại
và Kinh tế (SETC) ban hành.
Theo Điều 71 Hiến pháp Trung Quốc, đối với các vấn đề thuộc quyền hạn của chính
quyền, các bộ, các uỷ ban và các cơ quan ban ngành khác của Nhà nước có thể ban hành
các quy định phù hợp với luật quốc gia, các quyết định và chỉ thị mang tính hành chính
của Hội đồng nhà nước. Trong thực tế các quy định này tồn tại dưới hình thức các quy

13

định tạm thời do chưa có một luật hay quy định hành chính hiện hành nào phù hợp hoặc
do Quốc hội hay Uỷ ban Nhà nước chưa sẵn sàng soạn thảo luật cho một vấn đề cụ thể
nhưng các quy định lại trở nên rất cần thiết. Người ta dự định rằng các quy định tạm thời
sẽ dần được thay thế bởi các luật cụ thể hay các quy định hành chính.
Quy định về chống bán phá giá và chống trợ cấp đã được sửa đổi vào tháng 3/2004
và có hiệu lực từ 01/06/2004. Quy định về chống bán phá giá năm 2004 bao gồm nhiều
vấn đề từ xác định việc bán phá giá, tính toán biên độ, xác định thiệt hại, quy trình điều
tra, thuế chống bán phá giá, cam kết về giá, rà soát cuối kỳ và thông báo. Vào tháng
10/2003, MOFCOM đã ban hành “Quy định về thiệt hại ngành trong cuộc điều tra chống
bán phá giá” và “Quy định về thiệt hại ngành trong cuộc điều tra chống trợ cấp”.
1.2 Khái niệm về Bán phá giá của Trung Quốc
Theo quy định của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì khái niệm “Bán phá giá”
được nêu tại Hiệp định về việc thực thi Điều VI của Hiệp định chung về Thuế quan và
thương mại 1994 (GATT 1994): “Một sản phẩm bị coi là Bán phá giá (tức là được đưa
vào lưu thông thương mại của một nước khác với giá thấp hơn trị giá thông thường của
sản phẩm đó) nếu như giá xuất khẩu của sản phẩm được xuất khẩu từ một nước này sang
một nước khác thấp hơn mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được tiêu
dùng tại nước xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông thường” [10].
Đối với Trung Quốc, thuật ngữ “Bán phá giá” được đưa ra tại Điều 3, Các quy định
về chống bán phá giá có hiệu lực từ ngày 1/1/2001, cụ thể là: “Bán phá giá có nghĩa là
một sản phẩm nhập khẩu được giới thiệu, trong điều kiện thương mại bình thường, vào
thương mại trong Cộng hoà dân chủ nhân dân Trung Hoa tại một mức giá xuất khẩu thấp
hơn giá trị thông thường của nó” [2].
Để hiểu rõ về khái niệm bán phá giá, ta sẽ đi sâu nghiên cứu về “Giá xuất khẩu” và
“Giá trị thông thường”.
Theo Quy định về chống bán phá giá của Trung Quốc có đưa ra khái niệm khá cụ
thể về Giá trị thông thường. Tại Điều 4 của Quy định này [2] có đưa ra 2 cách xác định
giá trị thông thường như sau :
Giá trị thông thường của một sản phẩm nhập khẩu sẽ được xác định theo các
phương pháp sau đây bằng cách phân biệt giữa các trường hợp khác nhau:


14
1. Trường hợp có giá so sánh đối với sản phẩm giống với sản phẩm nhập khẩu trong
quá trình thương mại thông thường tại thị trường nội địa của nước (khu vực) xuất
khẩu, giá so sánh đó sẽ là giá trị thông thường;
2. Trường hợp không có hoạt động mua bán sản phẩm giống với sản phẩm nhập khẩu
trong quá trình thương mại thông thường tại thị trường nội địa của nước (khu vực)
xuất khẩu, hoặc giá và chất lượng của hàng hóa không cho phép một sự so sánh
công bằng, giá trị thông thường sẽ là giá so sánh của sản phẩm giống nhau khi
được xuất khẩu vào nước (khu vực) thứ ba thích hợp, hoặc chi phí sản xuất sản
phẩm giống nhau tại nước (khu vực) xuất xứ cộng với một giá trị hợp lý cho chi
phí và lợi nhuận.
Trường hợp một sản phẩm không được nhập khẩu trực tiếp từ nước (khu vực) xuất
xứ, giá trị thông thường sẽ được xác định theo Điểm 1 nêu trên. Tuy nhiên, với tình
huống là sản phẩm này hoàn toàn chuyển qua nước xuất khẩu, hoặc sản phẩm này không
được sản xuất tại nước (khu vực) xuất khẩu, hoặc không có giá so sánh đối với sản phẩm
này tại nước xuất khẩu, giá của sản phẩm giống nhau tại nước (khu vực) xuất xứ có thể
được chọn làm giá thông thường. [2]
Theo hiệp định chống bán phá giá năm 1994 của WTO thì giá trị thông thường nói
chung là giá của sản phẩm tương tự được bán trên thị trường nội địa của nước xuất khẩu
đến người tiêu dùng trong quá trình thương mại thông thường. [10]
Tuy nhiên, một trong những vấn đề phức tạp nhất trong điều tra bán phá giá là liệu
việc tiêu thụ trên thị trường nội địa có được "thực hiện trong quá trình thương mại thông
thường" hay không? Một trong những cơ sở để xác định điều đó là so sánh giá bán trên
thị trường nội địa với chi phí. Hiệp định quy định những trường hợp cụ thể mà việc tiêu
thụ hàng hoá ở thị trường nội địa với giá thấp hơn chi phí của quá trình sản xuất sẽ không
được coi là " thực hiện trong quá trình thương mại bình thường". Theo điều 2 thì đó là khi
hàng hoá được bán với giá thấp hơn chi phí cố định, chi phí biến đổi cộng chi phí hành
chính, chi phí bán hàng, chi phí khác trong khoảng thời gian kéo dài (thường là một năm
trong bất kì trường hợp nào cũng không ít hơn sáu tháng) và với một số lượng đáng kể.

Số lượng hàng bán được thực hiện với số lượng đáng kể khi: (1) giá bán bình quân gia
quyền thấp hơn chi phí bình quân gia quyền; (2) chiếm 20% lượng tiêu thụ được sử dụng
để xác định giá trị thông thường [10].

15
Tuy nhiên, việc loại trừ những khối lượng hàng bán thấp hơn chi phí có thể tạo ra
một mức độ khối lượng bán hàng không đủ để xác định giá trị thông thường dựa trên giá
cả thị trường nội địa. Điều này sẽ không cho phép một sự so sánh chính xác giữa giá thị
trường nội địa và giá xuất khẩu. Vì vậy, trong hiệp định quy định rằng khối lượng hàng
bán ở thị trường nội địa phải bằng ít nhất 5% lượng xuất khẩu của sản phẩm đó tại thị
trường nước nhập khẩu, tuy nhiên một tỉ lệ thấp hơn "nên" được chấp nhận nếu khối
lượng hàng bán ở thị trường nội địa ở tầm cỡ đủ để đưa ra sự so sánh công bằng.
Trong trường hợp việc bán hàng ở thị trường nước xuất khẩu không phải là cơ sở
chính xác, ví dụ không có sản phẩm tương tự được bán trên thị trường nội địa của nước
xuất khẩu hoặc khối lượng bán hàng ở thị trường nội địa thấp hơn 5% khối lượng xuất
khẩu, thì việc xác định giá trị thông thường sẽ căn cứ vào:
Giá mà sản phẩm được bán cho nước thứ ba. ()
Trị giá cấu thành của sản phẩm. ()
(): Giá đó được xác định là giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự khi
xuất khẩu đến nước thứ ba thích hợp, miễn là giá đó được coi là tiêu biểu. Hiệp
định không chỉ rõ bất cứ tiêu chuẩn nào để xác định nước thứ ba như thế nào là
thích hợp.
(): Trị giá cấu thành được xây dựng gồm ba bộ phận:
Chi phí sản xuất ( nguyên vật liệu, lao động, chi phí quản lí sản xuất )
Chi phí quản lí và bán hàng nội địa.
Một giới hạn lãi hợp lí.
Ngoài ra, khi sản phẩm không được nhập trực tiếp từ nước sản xuất mà được xuất
khẩu từ một nước trung gian, hiệp định quy định rằng giá trị thông thường sẽ được xác
định trên cơ sở khối lượng bán hàng trên thị trường nước xuất khẩu. Tuy nhiên, hiệp
định nhận thấy điều này sẽ tạo ra sự so sánh không chính xác hoặc không thể so sánh

được ví dụ nếu sản phẩm không được sản xuất hoặc sản phẩm chỉ được chuyển tải qua
nước xuất khẩu. Vì vậy, giá trị thông thường có thể được xác định trên cơ sở giá của sản
phẩm ở nước xuất xứ chứ không phải giá ở thị trường xuất khẩu.
Với trường hợp đặc biệt của những nền kinh tế mà chính phủ hoàn toàn hoặc thực tế
là hoàn toàn độc quyền và tất cả giá cả trong nước đều được quyết định bởi chính phủ -

16
hay còn gọi là nền kinh tế phi thị trường - trong điều 2 khoản 7, Hiệp định chống bán phá
giá 1994 quy định rằng một sự so sánh chính xác với giá nội địa có thể không thích hợp,
do đó nước nhập khẩu thực hiện tuỳ theo ý mình trong tính toán giá trị thông thường của
sản phẩm xuất khẩu từ nước có nền kinh tế phi thị trường. Có thể thấy rõ - thế nào là kinh
tế phi thị trường - những tiêu chuẩn chính xác để xác định điều này đều không được đưa
ra trong hiệp định này. Điều khoản trên công nhận rằng chỉ cần phương pháp dùng để xác
định giá trị thông thường hợp lí, các nước thành viên có thể dùng giá trị thị trường nội địa
của một sản phẩm nhập khẩu nào đó làm giá trị thông thường, hoặc dựa trên cơ sở giá cả
của một sản phẩm tương tự được sản xuất ở nước khác (nước thứ ba) xác định trị giá cấu
thành của sản phẩm này. Căn cứ vào quy định này các nước phát triển trong khi điều tra
chống bán phá giá sản phẩm nhập khẩu từ các nước kinh tế phi thị trường đều lấy giá cả
của một sản phẩm nào đó cùng loại của nước thứ ba làm giá trị thông thường, hay chính
là dựa trên cơ sở "nước thay thế" để phán đoán. Có thể nói đây là một kẽ hở của hiệp định
mà bị lợi dụng rất nhiều bởi các nước phát triển như Mỹ, EU, Trong luật chống bán
phá giá của EU chỉ đơn giản liệt kê 15 nước như Trung Quốc, Nga, Mông Cổ vào danh
mục các nước có nền kinh tế phi thị trường và áp dụng "đãi ngộ đặc biệt" khi thực hiện
luật chống bán phá giá. Tính "đặc biệt" không những được thể hiện trong việc xác định
giá trị thông thường như trên mà còn thể hiện ở chỗ một khi việc bán phá giá được xác
định, thì tất cả các nhà xuất khẩu của nước có nền kinh tế phi thị trường đều sẽ bị thu
mức thuế chống bán phá giá đồng nhất, mà không xem xét sự khác nhau về biên độ phá
giá, giá xuất khẩu của các doanh nghiệp. Đến tháng 4 năm 1998 trong điều lệ 905/98, EU
mới sửa đổi quy định trên đối với Trung Quốc, Nga. Về mặt lí thuyết thì công nhận Trung
Quốc là nền kinh tế thị trường nhưng thực tế thì vị trí "kinh tế thị trường" của các doanh

nghiệp Trung Quốc chỉ được xác nhận khi các doanh nghiệp chủ động làm đơn xin xét và
đưa ra bằng chứng thoả mãn năm điều kiện về kinh tế thị trường mà EU đặt ra. Tuy nhiên
đến cuối tháng 5/2000 trong số hai mươi bảy doanh nghiệp Trung Quốc nộp đơn thì chỉ
có ba doanh nghiệp được công nhận là doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường bởi
việc xét cụ thể quá ngặt nghèo. Nói tóm lại, sự lỏng lẻo trong quy định về kinh tế phi thị
trường vô hình chung đã tiếp tay cho sự phát triển của chủ nghĩa bảo hộ, đi ngược lại mục
đích tốt đẹp ban đầu mà WTO đặt ra.
Sau khi đã xác định được giá trị thông thường của hàng hoá, bước tiếp theo là phải
xác định giá xuất khẩu của hàng hoá đó. Theo quy định của Quy định về chống bán phá

17
giá của Trung Quốc thì Giá xuất khẩu của sản phẩm nhập khẩu được xác định theo
phương pháp sau đây bằng cách phân biệt giữa các vụ việc khác nhau:
- Giá thực trả hoặc phải trả đối với sản phẩm nhập khẩu là giá xuất khẩu;
- Trường hợp không có giá xuất khẩu đối với sản phẩm nhập khẩu hoặc giá này
không tin cậy, giá xuất khẩu có thể được xây dựng trên cơ sở giá tại đó sản phẩm
nhập lần đầu tiên được bán lại cho người mua độc lập; tuy nhiên, nếu sản phẩm
nhập khẩu không được bán lại cho người mua độc lập, hoặc không được bán lại
với điều kiện như nhập khẩu, giá xuất khẩu có thể xác định trên cơ sở giá hợp lý
được xây dựng bởi MOFTEC [2]
Nếu không có giá xuất khẩu đối với sản phẩm được đưa ra, ví dụ giao dịch xuất
khẩu là một sự chuyển đổi nội bộ, hoặc sản phẩm được trao đổi trong giao dịch hàng đổi
hàng; hay giá giao dịch mà nhà xuất khẩu bán sản phẩm đến nước nhập khẩu có thể
không đáng tin cậy do có sự liên kết hoặc một thoả thuận bồi hoàn giữa nhà xuất khẩu và
nhà nhập khẩu hoặc bên thứ ba, như vậy giá giao dịch có thể bị thao túng hoặc không thể
hiện quan hệ cung cầu thị trường. Trong các trường hợp trên hiệp định quy định một
phương pháp thay thế để xác định giá xuất khẩu - đó là giá xuất khẩu cấu thành. Giá này
được tính trên cơ sở giá mà sản phẩm nhập khẩu được bán lại đầu tiên cho người mua độc
lập. Nếu sản phẩm nhập khẩu không được bán lại cho người mua độc lập hoặc không
được bán lại khi nhập khẩu, cơ quan điều tra có thể xác định một cơ sở hợp lí để tính giá

xuất khẩu. Pháp luật về chống bán phá giá của các quốc gia khác cũng có quy định tương
tự đối với việc xác định giá xuất khẩu.
Luật chống bán phá giá của Liên Minh Châu Âu cũng có những quy định tương tự,
theo đó giá xuất khẩu là mức giá thực sự được trả hay phải trả cho sản phẩm khi sản
phẩm được xuất khẩu từ nước xuất khẩu vào khối Cộng Đồng.
Luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ cũng có những quy định tương tự, ngoài ra còn
có những quy định chi tiết hơn. Giá xuất khẩu, theo luật của Hoa Kỳ, là giá mà mỗi nhà
nhập khẩu bán cho bên mua không liên kết đầu tiên tại Hoa Kỳ. Có hai loại giá xuất khẩu:
giá xuất khẩu và giá xuất khẩu giả định.
Giá xuất khẩu: là giá mà người mua không liên kết tại Hoa Kỳ mua hàng hoá đó.
Giá khởi điểm để tính giá xuất khẩu là tổng giá bán thể hiện trên hoá đơn thương mại
xuất khẩu gửi nhà nhập khẩu không liên kết đầu tiên tại Hoa Kỳ.

18
Giá xuất khẩu giả định: là giá hàng hoá mà nhà nhập khẩu không liên kết bán hàng
hoá đó. Ví dụ: giá hàng hoá của một công ty con làm chức năng phân phối cho một nhà
xuất khẩu nước ngoài bán cho người mua không liên kết đầu tiên tại Hoa Kỳ. Cụ thể là
hoá đơn do nhà nhập khẩu hoặc nhà phân phối có liên kết với nhà sản xuất phát hành. Ví
dụ: nếu hoá đơn được phát hành dưới tiêu đề của một công ty Hoa Kỳ liên kết với một
nhà xuất khẩu thì giá xuất khẩu giả định có thể sẽ được áp dụng.
Giá trị thông thường và giá xuất khẩu sau khi được xác định sẽ được so sánh một
cách công bằng, trên cơ sở đó sẽ xác định liệu hàng hoá có bị bán phá giá hay không.
Việc xác định sẽ căn cứ trên biên độ phá giá. Biên độ phá giá là lượng chênh lệch giữa
giá trị thông thường vượt qua giá trị xuất khẩu. Nếu giá trị biên độ phá giá vượt qua giới
hạn mà các quốc gia quy định thì hàng hoá được coi là có bán phá giá.
1.3 Quy định của pháp luật Trung Quốc về xử lý hành vi bán phá giá
1.3.1 Cơ quan có thẩm quyền điều tra hành vi bán phá giá
Cùng với sự hình thành của các điều luật liên quan, phạm vi thẩm quyền xét xử hành
vi bán phá giá cũng thay đổi theo.
Năm 1997, Quy định về chống bán phá giá và Chống trợ cấp đã được ban hành, theo

đó quy định Bộ Hợp Tác Kinh Tế và Ngoại Thương (MOFTEC) phụ trách việc khởi
xướng các cuộc điều tra và báo cáo kết quả còn Uỷ Ban Kinh Tế và Thương Mại Nhà
Nước (SETC) sẽ chịu trách nhiệm điều tra các thiệt hại. Khi có các quyết định, cơ quan
Hải quan chiểu theo thi hành.
Đến “Các quy định về chống bán phá giá” có hiệu lực từ ngày 01/01/2002, thì tại
Điều 3 có quy định rõ “Bộ Hợp Tác Kinh Tế và Ngoại Thương (MOFTEC) chịu trách
nhiệm cho việc điều tra và xác định bán phá giá. Đồng thời tại Điều 7 quy định: “Uỷ ban
kinh tế và Thươn mại Nhà nước (SETC) chịu trách nhiệm cho việc điều tra và xác định
thiệt hại” [2].
Đến tháng 3/2004, theo Nghị quyết của Quốc hội về Cải cách thể chế của Uỷ ban
nhà nước và thông báo của Uỷ ban Nhà nước về cơ cấu tổ chức thì Bộ Thương mại
(MOFCOM) được thành lập để đảm nhận trách nhiệm của MOFTEC và SETC, trong đó
có vai trò điều chỉnh bán phá giá và trợ cấp. Cơ quan này có thể tự tiến hành điều tra hoặc
điều tra khi nhận được đơn kiện của ngành sản xuất nội địa. Quy định về chống bán phá
giá của Trung Quốc công nhận quyền khởi kiện của một ngành sản xuất nội địa, một cá

19
nhân, một pháp nhân hay một tổ chức có liên quan đại diện cho ngành sản xuất nội địa đệ
đơn lên MOFCOM xin tiến hành một cuộc điều tra chống bán phá giá.
1.3.2 Trình tự tiến hành xử lý bán phá giá
1.3.2.1 Thủ tục bắt đầu điều tra.
a. Đơn xin điều tra.
* Quyền nộp đơn:
Theo quy định tại Điều 13 của Quy định về chống bán phá giá (01/01/2002) thì:
“Bất kỳ ngành công nghiệp trong nước hoặc thể nhân, pháp nhân hoặc tổ chức có liên
quan thay mặt cho ngành công nghiệp trong nước (Sau đây gọi chung là “người nộp
đơn”) có thể gửi một văn bản để MOFCOM cho một cuộc điều tra chống bán phá giá
theo quy định của Quy chế này [2].
Quyền đệ đơn được đề cập trong các quy định tạm thời về Tiến hành điều tra chống
bán phá giá. Theo các quy định này thì một đơn kiện phải do một ngành sản xuất nội địa

hoặc tổ chức đại diện đưa ra và khi đó cơ quan chức năng sẽ tiến hành điều tra chống bán
phá giá nếu các nhà sản xuất trong nước ủng hộ đơn kiện này có sản lượng sản phẩm
tương tự chiếm hơn 50% tổng sản lượng được sản xuất ra bởi tất cả các nhà sản xuất
trong nước đã bày tỏ ý kiến ủng hộ hoặc phản đối đơn kiện và sản lượng sản phẩm tương
tự của các nhà sản xuất này chiếm ít nhất là 25% tổng sản lượng sản phẩm tương tự của
toàn bộ ngành sản xuất trong nước. Nếu ngành sản xuất nội địa sụp đổ và kéo theo một số
lượng lớn các nhà sản xuất khác thì MOFCOM sẽ xem xét lại vai trò của nguyên đơn
bằng các phương pháp thống kê lấy mẫu đang được sử dụng.
* Nội dung của đơn
Đơn xin điều tra theo quy định tại Điều 14, Quy định về chống bán phá giá của
Trung Quốc [2] phải có những nội dung sau:
- Tên, địa chỉ và các thông tin có liên quan của người nộp đơn;
- Một mô tả đầy đủ của các sản phẩm nhập khẩu trong câu hỏi, bao gồm tên của sản
phẩm, xuất khẩu quốc gia (vùng) hoặc các quốc gia (vùng) xuất xứ có liên quan,
danh tính của các nhà xuất khẩu đã biết hoặc nhà sản xuất, thông tin về giá của sản
phẩm để tiêu thụ tại thị trường trong nước của nước xuất khẩu (vùng) hoặc các
quốc gia (vùng) xuất xứ, và thông tin về giá xuất khẩu;

20
- Mô tả về khối lượng và giá trị của sản xuất trong nước của sản phẩm tương tự;
- Ảnh hưởng của khối lượng và giá cả của sản phẩm nhập khẩu trong các câu hỏi về
ngành công nghiệp trong nước;
- Các thông tin mà đương đơn sẽ xem xét nếu cần thiết phải gửi đi
* Vai trò của các ngành sản xuất nội địa.
Theo các nguyên tắc và quy định của Trung Quốc, thuật ngữ “ngành sản xuất nội
địa” được hiểu là toàn bộ các nhà sản xuất sản phẩm tương tự ở Trung Quốc hoặc một số
nhà sản xuất trong đó có sản lượng sản phẩm chiếm tỷ lệ lớn trong tổng sản lượng sản
phẩm đó trên cả nước và “tỷ lệ lớn” này là hơn 50%. Một số nhà sản xuất trong nước sẽ
không nằm trong danh sách các nhà sản xuất nội địa nếu các nhà sản xuất này có liên
quan tới các nhà xuất khẩu hoặc nhập khẩu sản phẩm này hoặc chính họ là các nhà nhập

khẩu hàng hóa hoặc các sản phẩm tương tự được bán phá giá.
Thêm vào đó, các quy định tạm thời bao gồm cả khái niệm “khu vực sản xuất nội
địa vùng”. Theo đó, những nhà sản xuất ở một khu vực nhất định trong nước có thể được
coi như một ngành sản xuất riêng biệt (ngành sản xuất nội địa vùng) miễn là họ bán tất cả
hoặc hầu hết các sản phẩm tương tự ở khu vực thị trường đó, và các nhà sản xuất ở những
khu vực khác của Trung Quốc không đáp ứng đủ nhu cầu về sản phẩm tương tự của thị
trường này. Khi xác định một “ngành sản xuất nội địa vùng” như vậy thì phải tính đến cả
tình hình bán hàng và nhu cầu với sản phẩm ở trong khu vực đó.
Một vài khía cạnh trong các quy định và luật lệ của Trung Quốc có thể được đưa ra
xem xét bằng cách so sánh với luật lệ của WTO.
Điểm phân tích đầu tiên là khái niệm ngành sản xuất nội địa. Làm thế nào để định
nghĩa khái niệm “ngành sản xuất nội địa” là một vấn đề thiết yếu liên quan đến các vấn
đề như vị trí, xác định thiệt hại, phạm vi các loại sản phẩm chịu thuế chống bán phá giá.
Theo Hiệp định chống bán phá giá của WTO, thuật ngữ “ ngành sản xuất nội địa” dùng
để chỉ các nhà sản xuất sản xuất tất cả các sản phẩm tương tự hoặc các nhà sản xuất có
sản lượng sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản lượng sản phẩm tương tự sản xuất
trong nước [10]. Do thuật ngữ “tỷ trọng lớn” không được định nghĩa trong Hiệp định
chống bán phá giá của WTO nên vẫn có nhiều tranh luận khi thuật ngữ này được dịch ra.

21
Ví dụ như trong Vụ kiện chống bán phá giá sản phẩm gia cầm của Argentina, Brazil
đã kiện rằng do thuật ngữ “a major proportion” cũng giống như “the majority” (có nghĩa
là hơn 50%) nên Argentina đã vi phạm quy định của WTO khi cho rằng ngành sản xuất
nội địa là những nhà sản xuất có tổng sản lượng chiếm hơn 46% tổng sản phẩm nội địa và
thu thập được những số liệu về thiệt hại liên quan đến các nhà sản xuất này. Chống lại
đơn kiện này, Argentina (bên bị đơn), Mỹ và EC (các bên thứ 3) lập luận rằng việc sử
dụng thuật ngữ “a major proportion” khác với “the major proportion”, “the major
proportion” không nhất thiết phải là một tỷ trọng lớn. Theo họ, “a major proportion” có
nghĩa là một tỷ trọng có ý nghĩa quan trọng mà không nhất thiết phải là tỷ trọng lớn. Các
lý do mà Hoa Kỳ và EC đưa ra cho việc dịch các thuật ngữ này là:

(i) Thực tế là các nhà soạn thảo ra điều khoản về ngành sản xuất nội địa đã nêu không rõ
ràng về thuật ngữ “tỷ lệ 50%” trái với điều 5.4 (tỷ lệ yêu cầu là 50%). Điều 5.4 chỉ ra
rằng họ dự định đưa ra một tiêu chuẩn khác.
(ii) Theo điều 5.4, một đơn kiện có thể được coi là đại diện cho ngành sản xuất nội địa
thậm chí nếu các nhà sản xuất ủng hộ đơn này có sản lượng sản xuất ra chiếm dưới 50%
tổng sản phẩm nội địa. Vì thế cho nên ở điều 4.1, tỷ trọng chủ yếu có thể dưới 50%.
(iii) Điều 4.1 chỉ đề cập đến khái niệm “ngành sản xuất nội địa” và không đặt ra bất kỳ
trách nhiệm nào cho các thành viên.
Trong khi khước từ khiếu nại của Mỹ rằng điều 4.1 chỉ đơn thuần là một điều khoản
nêu định nghĩa, thì Ban hội thẩm cũng tán thành quan điểm của Mỹ và EC rằng chúng ta
được phép định nghĩa “ngành sản xuất nội địa” theo hướng là các nhà sản xuất trong
nước mà chiếm giữ tỷ lệ quan trọng, có ý nghĩa trong tổng sản phẩm nội địa.
Vấn đề này cũng đang được đưa ra tranh luận trong các vòng đàm phán Doha. Thí
dụ như Nhóm các nước chống bán phá giá đã đưa ra quy định về ngưỡng 50%. Theo
nhóm này thì nếu được chấp thuận tỉ lệ này có thể tăng cường tính nhất quán trong việc
xác định thiệt hại trong quy trình điều tra chống bán phá giá. Cho dù quy định nào được
áp dụng thì Các quy định của Trung Quốc dường như vẫn phù hợp với các quy định của
WTO vì tỷ lệ hơn 50% chắc chắn là một tỷ lệ lớn. Quy định này là một minh chứng cho
sự rõ ràng về nghĩa trong các điều khoản của WTO.
Điểm phân tích thứ hai là trong khái niệm ngành sản xuất nội địa không đề cập đến
phạm vi của các nhà sản xuất. Hiệp định chống bán phá giá của WTO cho phép loại trừ

22
các thành viên của mình ra khỏi phạm vi của ngành sản xuất nội địa mà được gọi là “các
nhà sản xuất có liên quan”, họ là các nhà sản xuất trong nước có liên quan tới các nhà
xuất khẩu hoặc nhập khẩu hoặc chính họ là những nhà nhập khẩu các sản phẩm được cho
là bán phá giá. Hiệp định này đưa ra định nghĩa cho từ “có liên quan” mà sử dụng mối
quan hệ với từ “kiểm soát” là tiêu chuẩn chính như sau:
Các nhà sản xuất được cho là có liên quan tới các nhà xuất khẩu hoặc nhập khẩu chỉ
khi (a) một bên trực tiếp hoặc gián tiếp kiểm soát bên kia; hoặc (b) cả hai bên đều bị kiểm

soát trực tiếp hoặc gián tiếp bởi một bên thứ 3; hoặc (c) cả hai trực tiếp hoặc gián tiếp
kiểm soát một bên thứ 3 miễn là có cơ sở để tin tưởng hay nghi ngờ rằng ảnh hưởng của
mối liên hệ như vậy khiến cho các nhà sản xuất có liên quan cư xử khác với các nhà sản
xuất không liên quan [10].
Theo các quy định của Trung Quốc, các cơ quan điều tra có thể loại trừ các nhà sản
xuất trong nước có liên quan tới các nhà xuất khẩu hoặc nhập khẩu hoặc chính họ là những
nhà nhập khẩu sản phẩm được cho là bán phá giá. Tuy nhiên nếu loại trừ quá mức thì sẽ tạo
ra sự thiếu nhất quán. Hiệp định của WTO cho phép loại trừ một số nhà sản xuất có liên
quan nhất định được đề cập trong Hiệp định chống bán phá giá. Hiệp định này đặt ra 2 điều
kiện để được xem là các nhà sản xuất có liên quan: (i) sự tồn tại mối liên hệ kiểm soát; và
(ii) bất kỳ lý do nào để nghi ngờ rằng ảnh hưởng của mối liên hệ đó sẽ khiến cho các nhà
sản xuất có liên quan cư xử khác với các nhà sản xuất không liên quan. Trong trường hợp
mà việc loại trừ các nhà sản xuất có liên quan là một yêu cầu quan trọng thì trách nhiệm
chứng minh liệu các điều kiện này có phù hợp trong một trường hợp cụ thể hay không
thuộc về bên cố gắng loại trừ một số các nhà sản xuất nhất định ra khỏi phạm vi của ngành
sản xuất nội địa với lý do là có sự tồn tại của mối liên hệ kiểm soát. Có nghĩa là nếu một cơ
quan điều tra đang cố gắng giới hạn ngành sản xuất nội địa bằng cách loại trừ một số các
nhà sản xuất trong nước nhất định thì cơ quan này không những phải chỉ ra mối liên hệ
kiểm soát tồn tại giữa các nhà sản xuất và các nhà xuất khẩu hoặc nhập khẩu mà còn phải
đưa ra cơ sở cho sự nghi ngờ rằng mối liên hệ này sẽ dẫn tới các cách cư xử khác nhau của
họ. Do vậy khi đưa ra quyết định về nhà sản xuất có liên quan nếu cơ quan điều tra bỏ qua
việc xem xét điều kiện hoặc đẩy trách nhiệm chứng minh cho các nhà xuất khẩu hoặc cho
bên đệ đơn thì họ đã vi phạm các quy định có liên quan của WTO.
MOFCOM có thể định nghĩa thuật ngữ “các nhà sản xuất có liên quan” theo nghĩa
rộng hơn trong hiệp định của WTO. Điều này có thể xảy ra khi điều kiện thứ hai không

23
được xem xét tới hoặc khi chuyển giao trách nhiệm chứng minh. Nếu được hiểu theo
nghĩa rộng hơn thì bất kỳ nhà sản xuất nào mà không có liên quan tới các nhà xuất khẩu
hoặc nhập khẩu cũng có thể được xem như các nhà sản xuất có liên quan và loại trừ ra

khỏi phạm vi của ngành sản xuất nội địa. Trong trường hợp không có điều khoản định
nghĩa cho thuật ngữ “có liên quan” trong luật và các quy định của Trung Quốc (mà trái
ngược với hiệp định của WTO) thì sẽ luôn luôn tiềm ẩn khả năng loại trừ quá mức và sự
thiếu nhất quán với quy định của WTO.
Điểm thứ ba là điều khoản về ngành sản xuất nội địa vùng trong các quy định của
Trung Quốc phù hợp với Hiệp định chống bán phá giá của WTO ở chỗ là cả hai đều điều
chỉnh các yếu tố như nhau (ví dụ như tình hình kinh doanh và nhu cầu) được xem như các
tiêu chí để nhận biết một ngành sản xuất nội địa độc lập. Trong thực tế mặc dù hiếm khi
được MOFCOM sử dụng nhưng điều khoản này rất phù hợp khi được áp dụng ở một lãnh
thổ rộng lớn như Trung Quốc. Theo các quy định của WTO, khi nhận biết một ngành sản
xuất nội địa vùng thì thuế chống bán phá giá sẽ được áp dụng chủ yếu với các sản phẩm
trong diện nghi vấn được bán để phục vụ cho việc tiêu dùng cuối cùng ở khu vực cụ thể.
Các cơ quan có thẩm quyền của Trung Quốc vẫn rất chú ý đến điều này khi đưa ra các
quyết định.
b. Tiến hành điều tra
Theo các quy định chống bán phá giá của Trung Quốc, trong vòng 60 ngày kể từ khi
có đơn kiện, MOFCOM phải xem xét nội dung của đơn, chứng cứ và đơn có do ngành
sản xuất nội địa hay đại diện của họ đưa ra hay không, đồng thời quyết định có tiến hành
điều tra hay không. Trước khi đưa ra quyết định tiến hành điều tra MOFCOM phải thông
báo quyết định này cho chính phủ của nước xuất khẩu. Theo quy định tại Khoản 2, Điều
22, Luật mẫu về Chống bán phá giá của WTO thì: “… Cơ quan điều tra sẽ, trên cơ sở đơn
có điền các yêu cầu của Điều 21, Luật này, thông báo ngay cho chính phủ của mỗi nước
xuất khẩu có liên quan” [12]. Như vậy, Trách nhiệm thông báo theo quy định của Trung
Quốc khá phù hợp với quy định của WTO.
Trong trường hợp đặc biệt, MOFCOM có thể tiếp tục tự mình tiến hành một cuộc
điều tra chống bán phá giá. Để làm được điều này, MOFCOM phải đưa ra các chứng cứ
đầy đủ về việc bán phá giá, thiệt hại và mối quan hệ nhân quả giữa hai yếu tố đó. Cơ chế
tự điều tra và các điều kiện phải phù hợp với quy định chống bán phá giá của WTO. Theo

24

quy định tại Điều 26, Luật mẫu về Chống bán phá giá của WTO về “Tự tiến hành” thì: “
Trong trường hợp đặc biệt, cơ quan điều tra có thể tiến hành cuộc điều tra mà không cần
nhận được đơn bằng văn bản bởi hay nhân danh ngành công nghiệp quốc gia để tiến hành
điều tra. Trong trường hợp đó, họ sẽ tiến hành chỉ khi có đầy đủ chứng cứ về phá giá,
thiệt hại và quan hệ nhân quả, trong phạm vi cách hiểu của Phần II Luật này, để đánh giá
việc tiến hành một cuộc điều tra” [12]. Như vậy, có thể nhận thấy các quy định này của
Trung Quốc khá phù hợp với Luật mẫu của WTO. Điều này cho thấy sự hài hoà hoá
trong hệ thống pháp luật thế giới của Trung Quốc.
MOFCOM phải công bố quyết định để bắt đầu một cuộc điều tra và thông báo cho
người nộp hồ sơ, các nhà xuất khẩu và nhập khẩu được biết, chính phủ của một nước xuất
khẩu (khu vực) và các tổ chức khác quan tâm và các bên (sau đây gọi chung là "các bên
quan tâm"). Ngay sau khi quyết định để bắt đầu một cuộc điều tra đã được xuất bản,
MOFCOM sẽ cung cấp các văn bản đầy đủ của các ứng dụng để các nhà xuất khẩu được
biết đến và các chính phủ của nước xuất khẩu (vùng).
Các cơ quan điều tra có thể tiến hành điều tra và thu thập thông tin từ các bên quan
tâm, trong số những người khác, gửi câu hỏi, sử dụng mẫu, tổ chức điều trần công khai và
làm cho xác minh tại chỗ. Các cơ quan điều tra sẽ cung cấp cơ hội cho tất cả các bên quan
tâm có liên quan để trình bày quan điểm của họ và hỗ trợ lập luận.
MOFCOM có thể gửi các nhân viên của mình cho các quốc gia (vùng) có liên quan
để thực hiện điều tra nếu xét thấy cần thiết để làm như vậy, trừ khi các quốc gia (vùng) có
liên quan đối tượng để điều tra như vậy.
Một bên liên quan có trách nhiệm cung cấp thông tin xác thực và tài liệu có liên
quan cho cơ quan điều tra trong quá trình điều tra. Trong trường hợp bất kỳ liều bên liên
quan không cung cấp thông tin xác thực và tài liệu có liên quan, hoặc không cung cấp
thông tin cần thiết trong một giới hạn thời gian hợp lý hoặc cản trở đáng kể việc điều tra
theo cách khác, các cơ quan điều tra có thể đưa ra các quyết định trên cơ sở các sự kiện
đã được biết đến và các thông tin tốt nhất sẵn có.
Một bên liên quan có thể yêu cầu các cơ quan điều tra để xử lý các thông tin nó cung
cấp như bảo mật nếu nó cho rằng bất kỳ công bố thông tin như vậy sẽ tạo ra hiệu ứng bất
lợi đáng kể. Các cơ quan điều tra phải xử lý các thông tin được gửi bởi các bên liên quan

là bí mật nếu họ cho rằng yêu cầu bảo mật là chính đáng, và sẽ yêu cầu các bên liên quan

25
để cung cấp tóm lược không bảo mật của chúng. Các thông tin bí mật không được tiết lộ
mà không có sự cho phép của các bên liên quan trình.
Các cơ quan điều tra phải cho phép người nộp đơn và các bên quan tâm để có thể
truy cập vào các thông tin có liên quan để điều tra, cung cấp thông tin đó chưa được coi là
bí mật
Thời hạn điều tra
Theo quy định của Trung Quốc thì thời hạn của một cuộc điều tra là 12 tháng kể từ
ngày công bố quyết định để bắt đầu điều tra và có thể được gia hạn trong trường hợp đặc
biệt, tuy nhiên thời gian gia hạn này cũng không quá 6 tháng [2]. Quy định này khá phù
hợp với quy định của WTO.
Kết thúc điều tra
Theo quy định tại Điều 27 – Các quy định về chống bán phá giá của Trung Quốc [2]
có nêu về các trường hợp chấm dứt cuộc điều tra, cụ thể là: MOFCOM phải kết thúc điều
tra khi xảy ra một trong các trường hợp sau:
(i) bên kiện rút đơn;
(ii) không có đầy đủ chứng cứ về việc bán phá giá, thiệt hại và mối quan hệ nhân quả
giữa hai yếu tố đó;
(iii) biên độ phá giá dưới 2%;
(iv) số lượng thực tế và ước tính của hàng nhập khẩu bị bán phá giá hoặc thiệt hại là
không đáng kể;
(v) các trường hợp khác mà MOFCOM cho là không thích hợp để tiếp tục điều tra chống
bán phá giá.
Các căn cứ để kết thúc điều tra có vẻ phù hợp với các quy định chống bán phá giá
của WTO trong Hiệp định chống bán phá giá của WTO quy định mức chuẩn biên độ phá
giá tối thiểu là 2%. Tuy nhiên vẫn nảy sinh các tranh luận xung quanh tiêu chuẩn “số
lượng nhập khẩu không đáng kể”. Theo quy định của WTO thì nếu lượng hàng hoá bán
phá giá nhập khẩu từ một nước nhất định chiếm dưới 3% lượng nhập khẩu hàng hóa

tương tự của nước nhập khẩu thì lượng hàng hoá nhập khẩu bán phá giá được coi là
không đáng kể, và cơ quan điều tra phải chấm dứt quá trình điều tra. Trong Quy định về

26
chống bán phá giá của Trung Quốc thì mức tiêu chuẩn lượng nhập khẩu 3% này được nêu
ra trong Điều 9 về “đánh giá tích lũy về bán phá giá”, trong khi đó một mức tiêu chuẩn
như vậy lại không được nêu ra trong Điều 27, điều khoản chung quy định về bất cứ
trường hợp nào mà hàng hoá nhập khẩu không đáng kể. Về lý thuyết, người ta có thể nghi
ngờ việc MOFCOM sử dụng mức tiêu chuẩn 3% khi đánh giá lượng hàng nhập khẩu bán
phá giá là không đáng kể chứ không cộng dồn lượng hàng hoá bán phá giá được nhập
khẩu từ nhiều nước. Do vậy nếu MOFCOM tiến hành bất cứ cuộc điều tra nào hoặc
không chấm dứt điều tra thì sẽ là vi phạm các quy định của WTO cho dù lượng nhập
khẩu hàng bán phá giá từ một nước cụ thể chiếm dưới 3% lượng hàng nhập khẩu tương tự
ở Trung Quốc. Tuy nhiên trong thực tế MOFCOM đã chấp nhận mức chuẩn 3% như một
mức ngưỡng để xác định lượng hàng nhập khẩu không đáng kể trong mọi trường hợp.
1.3.2.2. Kết luận sơ bộ
Cơ quan điều tra có trách nhiệm trên cơ sở những phát hiện của họ, làm một kết luận
sơ bộ về bán phá giá và thương tích tương ứng, xác định sơ bộ về việc có tồn tại một
quan hệ nhân quả giữa bán phá giá và thương tích. Các kết luận sơ bộ được công bố bởi
MOFCOM. Tuy nhiên, các quy định của Trung Quốc không thấy quy định về thời hạn
phải ra quyết định sơ bộ kể từ khi quyết định điều tra. Trong khi đó, theo quy định của
WTO thì có quy định khá rõ về thời hạn này, cụ thể là: “Cơ quan điều tra sẽ ra quyết định
sơ bộ về phá giá, thiệt hại, mối quan hệ nhân quả trong thời gian từ 60 đến 180 ngày, sau
khi bắt đầu. Quyết định sơ bộ sẽ dựa trên thông tin đã có trước cơ quan điều tra vào thời
điểm đó” [10]. Đồng thời cũng đưa ra những quy định rất cụ thể về việc thông báo công
khai quyết định sơ bộ này, Cơ quan điều tra sẽ ra một thông báo công khai về quyết định
sơ bộ, hoặc là khẳng định hoặc là phủ định. Thông báo về quyết định sơ bộ sẽ nêu ra một
cách chi tiết các phát hiện và kết luận đạt được về mọi vấn đề trên khía cạnh thực tế và
luật pháp, có xem xét một cách đầy đủ đến những yêu cầu bảo vệ thông tin bí mật. Cơ
quan điều tra sẽ đưa thông báo lên Công báo của đất nước và/hoặc trên một tờ báo được

biết đến rộng rãi trong nước. Thông báo công khai sẽ được gửi đến nước hay các nước
xuất khẩu sản phẩm bị điều tra và tới các bên quan tâm khác.
Đây cũng là một vấn đề mà Trung Quốc nên bổ sung vào quy định chống bán phá
giá của mình.
1.3.2.3. Xác định biên độ phá giá

×