Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Pháp luật về khoảng không vũ trụ tiếp cận từ góc độ luật học so sánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (911.89 KB, 104 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT








HOÀNG TRUNG KIÊN




PHÁP LUẬT VỀ KHOẢNG KHÔNG VŨ TRỤ
TIẾP CẬN TỪ GÓC ĐỘ LUẬT HỌC SO SÁNH



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC










Hà Nội – 2009



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





HOÀNG TRUNG KIÊN




PHÁP LUẬT VỀ KHOẢNG KHÔNG VŨ TRỤ
TIẾP CẬN TỪ GÓC ĐỘ LUẬT HỌC SO SÁNH




Chuyên ngành : Luật Quốc tế
Mã số : 60 38 60


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Bá Diến

Hà nội – 2009
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ KHOẢNG KHÔNG VŨ TRỤ 3
1.1. Hiệp ước quốc tế về những nguyên tắc điều chỉnh hoạt động của
các quốc gia trong lĩnh vực thăm dò và sử dụng khoảng không vũ trụ
bao gồm Mặt trăng và các thiên thể khác ( Hiệp ước về khoảng không
vũ trụ 1967) 4
1.2. Hiệp ước về cứu hộ nhà du hành vũ trụ, trao trả nhà du hành vũ
trụ và các vật thể được phóng vào vũ trụ (Hiệp ước về cứu hộ 1968) 9
1.3. Công ước về trách nhiệm quốc tế về bồi thường thiệt hại do các
vật thể vũ trụ gây ra ( Công ước về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
1972) 16
1.4. Công ước về Đăng ký các vật thể được phóng vào khoảng không
vũ trụ (Công ước về đăng ký 1975) 22
1.5. Hiệp ước điều chỉnh các hoạt động của các quốc gia trên Mặt trăng
và các thiên thể khác ( Hiệp ước Mặt trăng 1979) 28
CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT QUỐC GIA VỀ KHOẢNG KHÔNG VŨ TRỤ 33
2.1. Achentina: 35
2.2. Anh 38
2.3. Australia 41
2.4. Hoa Kỳ 46
2.5. Indonesia 52
2.6. Nam Phi 56
2.7. Nga 59

2.8. Nhật Bản 63
2.9. Thụy Điển 64
2.10. Ucraina 66
CHƯƠNG 3: XÂY DỰNG, HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CỦA VIỆT NAM VỀ
KHOẢNG KHÔNG VŨ TRỤ, BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ PHÁP LUẬT
CÁC NƯỚC 71
3.1. Tình hình ký kết, thực hiện các Điều ước quốc tế và các chính
sách, pháp luật liên quan đến hoạt động sử dụng khoảng không vũ trụ
vì mục đích hòa bình của Việt Nam. 71
3.2. Tình hình và xu hướng hoạt động liên quan đến sử dụng khoảng
không vũ trụ của Việt Nam. 74
3.3. Mô hình lý luận về xây dựng và hoàn thiện pháp luật về khoảng
không vũ trụ của Việt Nam, bài học kinh nghiêm từ các nước. 77
3.3.1. Tên gọi và hình thức pháp lý của văn bản. 78
3.3.2. Phạm vi điều chỉnh của pháp luật đối với các hoạt động vũ trụ 79
3.3.3. Thiết chế quản lý Nhà nước về hoạt động vũ trụ của 81
3.3.4. Vấn đề liên quan đến cấp phép và giám sát các hoạt động vũ trụ
85
3.3.5. Vấn đề đăng ký vật thể vũ trụ 88
3.3.6. Các quy định liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại 89
3.3.7. Các vấn đề khác có liên quan 90
KẾT LUẬN 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO










iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


BNSC
Trung tâm vũ trụ quốc gia Anh
CNVT
Công nghệ vũ trụ
CONAE
Ủy ban vũ trụ quốc gia Áchentina
COPUOS
Uỷ ban về sử dụng khoảng không vũ trụ vì mục
đích hoà bình của Liên hợp quốc
DEPANRI
Ủy ban vũ trụ quốc gia Indonesia
ESA
Cơ quan Vũ trụ châu Âu
EU
Liên minh châu Âu
EUMETSAT
Tổ chức vệ tinh khí tượng châu Âu
EUTELSAT
Tổ chức vệ tinh viên thông châu Âu
IMMARSAT
Tổ chức vệ tinh di động quốc tế
INTELSAT
Tổ chức vệ tinh viễn thông quốc tế
INTERCOSMOS

Hiện định hợp tác trong thăm dò và sử dụng
khoảng không vũ trụ vì mục đích hòa bình
INTERSPUTNIK
Tổ chức và hệ thống Liên lạc không gian
ITU
Liên minh Viễn thông thế giới
JAXA
Cơ quan nghiên cứu và phát triển hàng không
vũ trụ Nhật Bản
NASA
Cơ quan hàng không vũ trụ Hoa Kỳ
RSA
Cơ quan vũ trụ LB Nga
UNCLOS 1982
Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982
VINASAT
Vệ tinh Viễn thông Việt Nam



1
MỞ ĐẦU

Sự kiện Liên Xô phóng vệ tinh nhân tạo của Trái đất mang tên Sputnik
vào khoảng không vũ trụ ngày 04 tháng 10 năm 1957 đã tạo nên một điểm mốc
quan trọng đánh dấu một bước tiến trong tiến trình chinh phục khoảng không vũ
trụ, mở ra một kỷ nguyên đối với các hoạt động của loài người đối với việc sử
dụng khoảng không vũ trụ với nhiều ứng dụng khoa học hết sức to lớn phục vụ
cuộc sống của con người. Tuy nhiên, cùng với nhiều lợi ích về kinh tế, khoa học
và xã hội mang lại cho các quốc gia tham gia và khai thác, sử dụng khoảng

không vũ trụ, các hoạt động của con người tiến hành trong khoảng không vũ trụ
cũng có thể gây ra mối nguy hiểm tiềm tàng cho cộng đồng cũng như các chủ thể
khác (đặc biệt là giữa các quốc gia khác nhau) do đặc tính vật lý và pháp lý của
khoảng không vũ trụ và vật thể vũ trụ. Chính vì vậy, nhu cầu điều chỉnh các hoạt
động của con người trong môi trường hoàn toàn mới là nhu cầu tự nhiên và được
đặt ra từ rất sớm kể cả ở phạm vi quốc gia và quốc tế.
Với việc Việt Nam đã ký kết tham gia một số các điều ước quốc tế về hoạt
động liên quan đến sử dụng khoảng không vũ trụ [1] đồng thời tham gia vào
nhiều hoạt động vũ trụ và đặc biệt là việc phóng và khai thác vệ tinh VINASAT-
1 thì việc nghiên cứu pháp luật về sử dụng khoảng không vũ trụ vì mục đích hòa
bình là một việc làm thiết thực, đáp ứng được mục tiêu xây dựng khung pháp lý
về các hoạt động vũ trụ trước năm 2010 [2].
Mục tiêu của luận văn này nhằm tìm hiểu và nghiên cứu pháp luật quốc tế,
pháp luật nước ngoài và pháp luật của Việt Nam trong vấn đề thăm dò và sử
dụng khoảng không vũ trụ vì mục đích hòa bình dưới góc độ của luật học so
sánh nhằm hiểu rõ hơn về nội dung thực chất của các quy định pháp luật này khi
tìm ra các điểm tương đồng và khác biệt, lý giải ở mức độ nhất định nguyên
nhân của hiện tượng này đồng thời đưa ra các nhận xét, kiến nghị nhằm từng
bước hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam nhằm thuân thủ các điều ước


2
quốc tế đã ký kết và giải quyết nhu cầu về quản lý, điều chỉnh các quan hệ phát
sinh trong hoạt động sử dụng khoảng không vũ trụ của Việt Nam.
Để đạt các yêu cầu trên, tác giả tiếp cận hướng giải quyết vấn đề theo các
nội dung và trình tự tương ứng với các Chương I, II và III của luận văn như sau:
Thứ nhất, tìm hiểu những nội dung cơ bản của pháp luật quốc tế về vấn đề
sử dụng khoảng không vũ trụ vì mục đích hòa bình, tình hình ký kết, thực hiện
các điều ước quốc tế về lĩnh vực này của các quốc gia trên thế giới để thấy được
nguyên tắc chung, cơ bản thể hiện qua các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia

trong hoạt động liên quan đến khoảng không vũ trụ.
Thứ hai, để thực hiện so sánh những điểm tương đồng và khác biệt trong
các nội dung cơ bản trong pháp luật quốc tế về khoảng không vũ trụ, tác giả tập
trung nghiên cứu pháp luật về khoảng không vũ trụ của các quốc gia đại diện cho
các cường quốc vũ trụ, đại diện cho các châu lục và đặc biệt là một số nước châu
Á và đặc biệt là thuộc khối ASEAN với nhiều điểm tương đồng với Việt Nam về
trình độ phát triển điều kiện kinh tế, khoa học - kỹ thuật, xã hội và hoạt động
nghiên cứu, ứng dụng công nghệ vũ trụ.
Cuối cùng, nhằm mục đích tìm hiểu sâu hơn để hoàn thiện hệ thống các
quy định của pháp luật Việt Nam về khoảng không vũ trụ, tác giả sẽ tập trung
nghiên cứu tình hình ký kết, thực hiện các điều ước quốc tế có liên quan đến sử
dụng khoảng không vũ trụ vì mục đích hòa bình; thực trạng các hoạt động vũ trụ
ở Việt Nam và tình hình xây dựng và ban hành các quy định pháp luật của Việt
Nam nhằm thực hiện các nghĩa vụ quốc tế và nhu cầu quản lý nhà nước đối với
các hoạt động liên quan đến sử dụng khoảng không vũ trụ. Trong Chương III
này, các nội dung cơ bản mang tính chất phổ quát, phương thức thực hiện theo
quy định của pháp luật quốc tế cũng như của các quốc gia khác cũng được xem
xét như những bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng pháp luật vũ trụ của
Việt Nam.


3
CHƯƠNG 1
PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ KHOẢNG KHÔNG VŨ TRỤ

Pháp luật quốc tế về khoảng không vũ trụ được hình thành từ nhu cầu cần
có một số các nguyên tắc được thống nhất giữa các quốc gia áp dụng cho các
hoạt động trong một vùng hoàn toàn mới, vì thế nó mang nhiều đặc điểm xa lạ
với các tiêu chí truyền thống trong quá trình xây dựng pháp luật quốc tế như vấn
đề chủ quyền quốc gia, nghĩa vụ hợp tác nhằm bảo đảm lợi ích riêng của từng

quốc gia cũng như lợi ích chung toàn nhân loại trong hoạt động thăm dò và khai
thác khoảng không vũ trụ.
Nguồn của pháp luật quốc tế về lĩnh vực liên quan đến khoảng không vũ
trụ phong phú và đa dạng, bao gồm các điều ước quốc tế đa phương trong khuôn
khổ của Liên hợp quốc; các điều ước quốc tế giữa các quốc gia trong việc thành
lập các tổ chức quốc tế ở phạm vi toàn cầu cũng như khu vực hoạt động trong
lĩnh vực liên quan đến khoảng không vũ trụ như: EU, ESA, EUTELSAT,
EUMETSAT, IMSO (IMMARSAT), ITSO (INTELSAT), INTERSPUTNIK,
INTERCOSMOS và ITU và các điều ước quốc tế song phương giữa các tổ chức
quốc tế với các quốc gia [3].
Tuy nhiên, do tính chất quan trọng của vấn đề sử dụng khoảng không vũ
trụ vì mục đích hòa bình cũng như nội dung pháp lý của các điều ước quốc tế
của Liên hợp quốc, Nghị quyết số 53/45 ngày 3 tháng 2 năm 1999 của Đại hội
đồng yêu cầu COPUOS tại các kỳ họp trong Chương trình nghị sự của mình (từ
năm 1999) phải có nội dung rà soát hiện trạng của việc ký kết và tham gia năm
điều ước quốc tế của Liên hợp quốc về sử dụng khoảng không vũ trụ vì mục đích
hoà bình và thông tin về việc xây dựng pháp luật quốc gia về khoảng không vũ
trụ của các quốc gia thành viên Liên hợp quốc. Như vậy có thể thấy rằng
COPUOS quan tâm đến tình trạng phê chuẩn và ký kết năm điều ước quốc tế của
Liên hợp quốc cũng như thực tiễn của quá trình thực hiện các nghĩa vụ của quốc


4
gia thành viên này việc ban hành pháp luật quốc gia thường được đề cập với tên
gọi pháp luật vũ trụ (space law) điều chỉnh các hoạt động liên quan đến sử dụng
khoảng không vũ trụ như là phương thức hiệu quả được sử dụng một cách phổ
quát trong hoạt động quản lý nhà nước của quốc gia trên thế giới.
Như vậy, phạm vi nghiên cứu của Chương này này sẽ tập trung vào nội
dung của năm điều ước quốc tế của Liên hợp quốc về sử dụng khoảng không vũ
trụ vì mục đích hoà bình.

1.1. Hiệp ước quốc tế về những nguyên tắc điều chỉnh hoạt động của
các quốc gia trong lĩnh vực thăm dò và sử dụng khoảng không vũ trụ bao
gồm Mặt trăng và các thiên thể khác (Hiệp ước về khoảng không vũ trụ
1967)
Hiệp ước về khoảng không vũ trụ 1967 được thông qua bằng Nghị quyết
2222 (XXI) của Đại Hội đồng Liên hợp quốc năm 1966. Nội dung của Hiệp ước
này hầu hết dựa trên Tuyên bố về những nguyên tắc pháp luật điều chỉnh hoạt
động của các quốc gia trong lĩnh vực thăm dò và sử dụng khoảng không vũ trụ
được Đại hội đồng thông qua bằng Nghị quyết số 1962 (XVIII) năm 1963 nhưng
có bổ sung một số quy định mới. Tính đến ngày 01/01/2009 đã có 100 quốc gia
phê chuẩn và 26 quốc gia đã ký Hiệp ước [4].
Đây là điều ước quốc tế đã thiết lập nền tảng pháp luật cho các hoạt động
của con người đối với các thành phần của thiên hà xung quanh hành tinh của
chúng ta mà tác động đáng kể và đến mức có thể nhận biết được đến cuộc sống
của con người trên Trái đất. Ngoài ra, các nguyên tắc được quy định trong Hiệp
ước cũng đã được dự liệu để áp dụng cho các hoạt động của loài người không
chỉ trong hệ Mặt trời mà còn cho các hoạt động ở ngoài hệ Mặt trời trong Ngân
hà và các thiên hà khác. Hiệp ước này được đông đảo cộng đồng quốc tế xem
như là một nền tảng vững chắc cho tiến trình hình thành và phát triển của pháp
luật về khoảng không vũ trụ và là một Điều ước quốc tế quan trọng đối với việc


5
xây dựng hệ thống pháp luật quốc tế đương đại thể hiện qua số lượng đông đảo
các quốc gia thành viên của nó.
Xuyên suốt nội dung của Hiệp ước là những nỗ lực trong việc đi tìm trạng
thái cân bằng giữa các yếu tố: lợi ích chung của toàn thể các quốc gia; lợi ích cho
toàn bộ loài người; lợi ích riêng của từng quốc gia đồng thời lại là thành viên
trong cộng đồng quốc tế và các mục tiêu truyền thống của pháp luật quốc tế. Sự
thoả hiệp đã được xác lập được thể hiện đặc biệt rõ nét qua các nguyên tắc được

đưa vào trong 3 điều đầu tiên của Hiệp ước.
Tuy nhiên, trong khi xác định phạm vi áp dụng của Hiệp ước quốc tế về
"khoảng không vũ trụ" thì các nhà thiết kế Hiệp ước dường như đã không đưa ra
được một định nghĩa rõ ràng và hoàn hảo về tình trạng pháp lý cũng như xác
định về mặt khoa học của một vùng hoàn toàn mới mẻ đối với môi trường hoạt
động của con người mà được gọi là khoảng không vũ trụ (outer space) [5]. Thay
vì đi tìm một định nghĩa cho vấn đề này, họ đồng ý tiếp cận theo chức năng đó là
về tính mục đích và định hướng của hoạt động liên quan đến khoảng không vũ
trụ bằng cụm từ "việc thăm dò và sử dụng khoảng không vũ trụ bao gồm cả mặt
trăng và các thiên thể khác phải được thực hiện vì mục đích hoà bình và vì lợi
ích của tất cả các quốc gia, không phân biệt trình độ kinh tế, khoa học và là
công việc chung của toàn nhân loại". Cụm từ "là công việc chung của nhân
loại" đã thể hiện được toàn bộ nguyên tắc hàng đầu của Hiệp ước mà không cần
nói đến bản thân của vấn đề khoảng không vũ trụ kể cả Mặt trăng và các thiên
thể khác, và bản chất mục tiêu của "việc thăm dò và sử dụng khoảng không vũ
trụ” lại chỉ được thực hiện vì mục đích hoà bình và vì lợi ích của tất cả các quốc
gia.
Điều I của Hiệp ước tuyên bố hai quyền tự do quan trọng mà chính các
quyền này đã tạo lập đặc trưng cho khung pháp lý về khoảng không vũ trụ, đó là:
Thứ nhất, quyền tự do khai thác và sử dụng khoảng không vũ trụ kể cả


6
Mặt trăng và các thiên thể khác không phân biệt đối xử ở bất kỳ hình thức nào,
trên cơ sở bình đẳng và theo pháp luật quốc tế.
Thứ hai, quyền nghiên cứu khoa học được tiến hành tự do trong khoảng
không vũ trụ kể cả Mặt trăng và các thiên thể khác và phải được các quốc gia tạo
điều kiện thuận lợi và khuyến khích thông qua việc hợp tác quốc tế trong các
hoạt động nghiên cứu khoa học này.
Như vậy, có thể nói rằng trong việc tạo dựng khung pháp lý cho khoảng

không vũ trụ, Hiệp ước có sự giống nhau với mô hình khung pháp lý đối với
vùng biển quốc tế nơi mà chế độ pháp lý được kết tinh bằng đặc trưng của một
loạt các quyền tự do biển cả sau nhiều thế kỷ tranh cãi. Tương tự như vùng biển
quốc tế, Điều II tuyên bố nguyên tắc khoảng không vũ trụ kể cả Mặt trăng và các
thiên thể khác "không thể bị chiếm làm của riêng của một quốc gia bằng hành vi
tuyên bố chủ quyền, hành vi chiếm giữ, sử dụng hay bất kỳ hành vi nào khác”.
Nguyên tắc này đủ rộng để không chỉ bao trùm toàn bộ khoảng không vũ trụ mà
còn đề cập đến cả các thành phần bộ phận của nó – các thiên thể tồn tại trong
khoảng không vũ trụ. Điểm hạn chế của các nội dung tại Điều II cũng như trong
toàn bộ nội dung của Hiệp ước là sự im lặng về vấn đề xác định ranh giới của
khoảng không vũ trụ với vùng trời thuộc chủ quyền quốc gia và trong mối liên
hệ của nguyên tắc pháp lý chống lại việc chiếm giữ bằng bất kỳ hình thức nào,
hay như các hình thức vi phạm trật tự pháp luật quốc tế trong vùng này.
Điều III của Hiệp ước mang ý nghĩa nền tảng cho khung khổ pháp lý về
khoảng không vũ trụ và các hoạt động trong khu vực này. Trong nội dung của
Điều này, tính chất bắt buộc của tính hợp pháp quốc tế của các hoạt động thăm
dò, khai thác khoảng không vũ trụ được quy định trực tiếp, là các hoạt động này
rõ ràng phải được thực hiện "theo quy định của pháp luật quốc tế, kể cả Hiến
Chương Liên hợp quốc". Hơn nữa, sự cần thiết giữ gìn yếu tố hoà bình trong các
hoạt động này được nhấn mạnh "nhằm duy trì hoà bình và anh ninh quốc tế,
tăng cường sự hợp tác và hiểu biết quốc tế". Nội dung của Điều này cần được


7
hiểu trong mối liên hệ chặt chẽ với phần mở đầu của Hiệp ước khi ghi nhận
nguyện vọng của các quốc gia thành viên bằng việc bày tỏ mong muốn " đóng
góp vào sự mở rộng hợp tác quốc tế về khía cạnh khoa học cũng như pháp luật
trong việc thăm dò và khai thác khoảng không vũ trụ vì mục đích hoà bình". Một
nguyên tắc chung nữa được biết đến được ghi nhận tại Điều III là "duy trì
khoảng không vũ trụ vì mục đích hoà bình", và nguyên tắc này được củng cố

thêm khi kết hợp với việc đặt ra một số các biện pháp cụ thể về phi quân sự hoá
khoảng không vũ trụ được quy định trong Điều IV.
Ngoài ra, các nguyên tắc khác của Hiệp ước mang ý nghĩa quan trọng cho
đặc trưng của khung khổ pháp luật về khoảng không vũ trụ, bao gồm: nguyên tắc
trợ giúp nhà du hành vũ trụ - được coi như là "sứ giả của loài người trong
khoảng không vũ trụ" đối với trường hợp tai nạn, khẩn nguy hoặc hạ cánh khẩn
cấp (Điều V); nguyên tắc bảo đảm nghĩa vụ quốc tế đối với hoạt động của quốc
gia trong khoảng không vũ trụ không kể là các hoạt động đó được các cơ quan
nhà nước hoặc các thực thể phi chính phủ thực hiện bảo đảm việc tuân thủ với
Hiệp ước (Điều VI khoản 1); nguyên tắc trách nhiệm quốc tế về bồi thường thiệt
hại các thiệt hại do các hoạt động của quốc gia thành viên của Hiệp ước gây ra
cho thể nhân, pháp nhân của của các quốc gia khác hoặc của chính mình (Điều
VI khoản 2); nguyên tắc về đăng ký vật thể vũ trụ và quyền tài phán, kiểm soát
đối với các vật thể đó dựa trên đăng ký (Điều VII, Điều VIII); nguyên tắc hợp
tác và trợ giúp đa phương trong thăm dò, khai thác khoảng không vũ trụ với vai
trò đặc biệt của Liên hợp quốc, Tổng thư ký Liên hợp quốc đối với việc phát
triển hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này (Điều IX, Điều XX).
Cuối cùng, một đặc điểm rất quan trọng nói lên đặc trưng của khung khổ
pháp lý về khoảng không vũ trụ do chính Hiệp ước này và các văn bản khác của
Liên hợp quốc về khoảng không vũ trụ thiết lập chính là vấn đề về Tổ chức quốc
tế chuyên môn để quản lý và điều phối mà được hình thành một cách phổ biến
trong các lĩnh vực khác (hàng không, hàng hải, …). Trong khi Liên hợp quốc


8
hoàn toàn có thể thiết lập một tổ chức chuyên môn để quản lý và hợp tác quốc tế
trong các lĩnh vực khác như Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế (ICAO), Tổ
chức Hàng hải quốc tế (IMO) và Cơ quan quản lý đáy biển quốc tế (International
Seabed Authority), Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA), hay như một
thiết chế ít phổ biến hơn là Chương trình Môi trường của Liên hợp quốc (UNEP)

thì trong lĩnh vực về các hoạt động liên quan đến khoảng không vũ trụ không có
một cơ quan chuyên môn nào trong hệ thống các cơ quan của Liên hợp quốc
xuất hiện mà thay vào đó là các chức năng được phân tán giữa một số các thiết
chế và tổ chức với vai trò trung tâm của COPUOS [6].
Có thể nói rằng cơ chế hiện tại về hợp tác quốc tế trong các hoạt động liên
quan đến khoảng không vũ trụ vẫn còn phù hợp với Hiệp ước mà không cần thiết
phải thiết lập một cơ quan chuyên môn trong hệ thống cơ quan của Liên hợp
quốc để giải quyết các vấn đề hợp tác quốc tế trong các vấn đề liên quan đến
khoảng không vũ trụ. Mặc dù các dấu hiệu hiện tại cho thấy ít có khả năng một
thiết chế có cơ cấu mở rộng dưới dạng cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc
sẽ được thiết lập trong tương lai gần, tuy nhiên, xuất phát từ một số vấn đề toàn
cầu mang tính cấp thiết xứng đáng hơn với sự quan tâm của cộng đồng quốc tế
như: kiểm soát và cải thiện môi trường của Trái đất sử dụng công nghệ vũ trụ,
bảo vệ môi trường khoảng không ngoài vũ trụ, thăm dò, khai thác nguồn tài
nguyên thiên nhiên từ Mặt trăng và các thiên thể khác, năng lượng từ khoảng
không vũ trụ, tìm kiếm sự sống ngoài Trái đất, liên lạc với nền văn minh ngoài
Trái đất mà Liên hợp quốc cần phải quan tâm vì lợi ích của toàn nhân loại.
Các nhà thiết kế, xây dựng Hiệp ước này chắc chắn không có ý định và
cũng không thể tạo ra một văn bản pháp luật toàn diện có dự liệu và điều chỉnh
mọi khía cạnh của các hoạt động liên quan đến khoảng không vũ trụ khi đó và
trong tương lai và điều này có thể được minh chứng bởi ngay tên gọi của Hiệp
ước khi chỉ nói đến vấn đề thoả thuận về các nguyên tắc điều chỉnh các hoạt
động thăm dò và sử dụng khoảng không vũ trụ vì mục đích hoà bình. Đặc trưng


9
này của Hiệp ước còn được thấy rõ qua việc Hiệp ước để tạo cánh cửa ngỏ cho
việc phát triển sau này của pháp luật về khoảng không vũ trụ bởi các Điều ước
quốc tế bổ sung và các nguyên tắc được soạn thảo chi tiết sau khi Hiệp ước về
khoảng không vũ trụ 1967 có hiệu lực. Tất cả các văn bản đó đó đều căn cứ vào

Hiệp ước này như văn bản pháp lý nền tảng và phản ánh mong muốn và duy trì
sự phù hợp của các khái niệm với Hiệp ước về khoảng không vũ trụ và các văn
bản theo sau của Liên hợp quốc liên quan đến khoảng không vũ trụ.
Tóm lại, Hiệp ước về khoảng không vũ trụ 1967 có vai trò đặc biệt quan
trọng với tư cách là nền móng cho toàn bộ công việc xây dựng pháp luật quốc tế
về khoảng không vũ trụ. Ngoài các đặc điểm phổ biến chung, các nguyên tắc
chính của nó vẫn còn giá trị và hữu ích đặc biệt là các quy định đã thiết lập
khung khổ pháp lý về khoảng không vũ trụ, kể cả Mặt trăng và các thiên thể
khác như là vấn đề vấn đề chung toàn cầu do đó Hiệp ước về khoảng không vũ
trụ 1967 chưa cần đến bất kỳ sửa đổi nào. Tuy nhiên, cùng với việc đó một số
quy định của Hiệp ước về khoảng không vũ trụ 1967 cũng như các quy định
trong các điều ước quốc tế khác của Liên hợp quốc cần sự phê chuẩn và việc áp
dụng chúng phải phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới. Chính vì vậy một số
nguyên tắc cơ bản của Hiệp ước về khoảng không vũ trụ 1967 cần được bổ sung
điều chỉnh để đáp ứng được sự thay đổi về hoàn cảnh so với điều kiện khi Hiệp
ước này ra đời.
1.2. Hiệp ước về cứu hộ nhà du hành vũ trụ, trao trả nhà du hành vũ
trụ và các vật thể được phóng vào vũ trụ (Hiệp ước về cứu hộ 1968)
Văn bản pháp lý tiếp theo của Liên hợp quốc về hoạt động trong lĩnh vực
vũ trụ được thông qua sau Hiệp ước về khoảng không vũ trụ là Hiệp ước cứu hộ
1968. Ngày 18/12/1967, Đại Hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua với sự nhất
trí cao về Nghị quyết 2345 (XXII) tạo sự ra đời cho Hiệp ước về Cứu hộ nhà du
hành vũ trụ, trao trả nhà du hành vũ trụ và các vật thể được phóng vào khoảng
không vũ trụ. Tính đến ngày 01/01/2009 đã có 90 quốc gia thành viên và 24


10
quốc gia khác ký Hiệp ước, ngoài ra 01 tổ chức quốc tế tuyên bố chấp nhận các
quyền và nghĩa vụ theo Hiệp ước này


[7].
Những ai đã chứng kiến quá trình đàm phán lâu dài và tiến độ rất chậm
trong việc dự thảo Hiệp ước đều ngạc nhiên bởi sự kiện Hiệp ước được thông
qua chỉ một năm sau khi ký kết Hiệp ước về khoảng không vũ trụ năm 1967. Có
thể có nhiều lý do với mức độ quan trọng khác nhau được nêu ra để lý giải cho
sự thay đổi đột ngột này về tiến trình xây dựng văn bản. Nhưng rõ ràng là những
vấn đề chính thức và cốt lõi của quá trình đàm phán đã được xúc tiến và giải
quyết một cách nhanh chóng bởi việc ký kết và phê chuẩn Hiệp ước về khoảng
không vũ trụ 1967 với nội dung quy định tại Điều V " dành mọi sự hỗ trợ cần
thiết cho các nhà du hành vũ trụ trong trường hợp tai nạn, khẩn nguy, hạ cánh
khẩn cấp xuống lãnh thổ của quốc gia thành viên khác hay trên vùng biển quốc
tế". Trong trường hợp hạ cánh, nhà du hành vũ trụ "cần phải được trao trả cho
quốc gia mà phương tiện được đăng ký một cách nhanh chóng và an toàn". Hơn
nữa, Hiệp ước về khoảng không vũ trụ 1967 đã bao gồm trong Điều VIII các
nguyên tắc liên quan đến việc trao trả các vật thể được phóng vào khoảng không
vũ trụ và các thiết bị thành phần của chúng được tìm thấy ngoài giới hạn lãnh thổ
của quốc gia thành viên nơi đăng ký vật thể. Vì thế, sau khi Hiệp ước về khoảng
không vũ trụ 1967 được ký kết thì các nhà soạn thảo Hiệp ước cứu hộ chỉ còn
làm công việc quy định chi tiết nguyên tắc đã được chấp thuận trước đó trong
một văn bản riêng.
Ngoài ra, có thể công việc soạn thảo và thông qua đối với Hiệp ước Cứu
hộ 1968 có thể sẽ không được thúc đẩy nhanh chóng nếu không có một sự kích
thích đặc biệt, đó là 2 sự kiện bi thảm có ảnh hưởng mạnh mẽ đến vấn đề được
thảo luận chính thức trong Hiệp ước đối với tất cả các quốc gia và thúc đẩy các
cường quốc về vũ trụ kết thúc quá trình thảo luận kéo dài. Sự kiện đầu tiên xảy
ra ngày 27/01/1967 vào đúng ngày Hiệp ước về khoảng không vũ trụ 1967 được
ký tắt, một vụ cháy tại trung tâm vũ trụ Kennedy xảy ra ở khoang mũi phi thuyền


11

Apollo và chỉ trong vài giây đã làm thiệt mạng 3 nhà du hành vũ trụ người Mỹ -
những người theo kế hoạch được chọn để làm phi hành đoàn của Mỹ đầu tiên hạ
cánh xuống Mặt trăng, sự kiện thứ hai đến vào 3 tháng sau, ngày 24/04/1967 tàu
vũ trụ thế hệ mới của Soviet mang tên Soyuz I đã gặp tai nạn và chỉ huy tàu cũng
bị thiệt mạng [8]. Trong trường hợp đầu xảy ra trong khi tiến hành thử nghiệm
tại mặt đất, tại trung tâm vũ trụ và giả thiết rằng không có khả năng cho vấn đề
hợp tác quốc tế trong hoạt động cứu trợ và không thể có khả năng cứu hộ các
nhà du hành vũ trụ, nhưng trong trường hợp thứ hai xảy ra tại giai đoạn cuối của
nhiệm vụ của chuyến du hành và ở tình huống có thể phải cần đến sự hợp tác
như vậy trong lĩnh vực này.
Cấu trúc của Hiệp ước này có mối quan hệ đơn giản và được thiết kế có
thể chia làm hai nhóm vấn đề.
Nhóm các quy định đầu tiên được đưa vào bốn điều giải quyết các vấn đề
liên quan đến việc hỗ trợ và trao trả các nhà du hành vũ trụ. Cũng giống như các
ngành luật khác như hàng không hay hàng hải quốc tế, các quy định về mục đích
của hoạt động tìm kiếm, cứu hộ đều xuất phát từ các quan điểm về nhân đạo thể
hiện qua nội dung Điều I quy định về việc thông báo về vụ tai nạn, sau đó Hiệp
ước đi thẳng vào vấn đề cứu hộ và trợ giúp các nhân viên của tàu vũ trụ hạ cánh
trên lãnh thổ của quốc gia thành viên quy định tại Điều II cũng như hạ xuống
vùng biển quốc tế nêu tại Điều III; việc trao trả một cách an toàn, nhanh chóng
các nhân viên phi hành đoàn vô điều kiện được quy định trong Điều IV.
Nhóm các quy định thứ hai, tập trung vào năm khoản của Điều V, liên quan
đến việc tìm kiếm và trao trả các vật thể vũ trụ. Vấn đề này dựa trên một số cách tiếp
cận khác với các quy định trước đó, do xuất phát từ quyền sở hữu của vật thể được
phóng vào khoảng không vũ trụ và đòi hỏi đền bù đối với dịch vụ tìm kiếm và trao trả
vật thể. Điều VI có ý nghĩa đặc biệt trong việc giải thích thuật ngữ "cơ quan phóng
hành" và cũng giải quyết vấn đề xác định địa vị pháp lý của các tổ chức quốc tế liên
chính phủ theo phạm vi điều chỉnh của Hiệp ước này.



12
Điều VII đến Điều X mang những đặc điểm thông thường của một điều ước
quốc tế.
Quay trở các điều từ Điều I đến Điều IV với nội dung của chúng giải
quyết các vấn đề về nhân viên phi hành đoàn, tình huống có thể xảy ra trong vấn
đề cứu hộ và trợ giúp đối với nhân viên phi hành đoàn là không tách rời với hoạt
động tìm kiếm và thu hồi tàu vũ trụ. Trong trường hợp như vậy, lý do nhân đạo
sẽ chiếm ưu thế và việc hoàn thành các hoạt động này cần phải được điều chỉnh
bởi các quy định liên quan đến việc trợ giúp và cứu hộ các nhà du hành vũ trụ,
bất chấp một thực tế một số quốc gia cho rằng nghĩa vụ trợ giúp và trao trả
không điều kiện chỉ liên quan đến nhà du hành vũ trụ. Nếu có thể chia tách hoạt
động trợ giúp nhà du hành vũ trụ khỏi việc cứu hộ tàu vũ trụ, điểm phân chia rất
có thể xảy ra trong quá trình thu hồi tàu vũ trụ và chắc chắn việc trao trả nhân
viên có thể thu xếp riêng biệt và được điều chỉnh bởi các quy định khác với các
quy định về việc trao trả tàu vũ trụ.
Giống như việc trợ giúp các nhân viên phi hành đoàn của tàu vũ trụ hạ
cánh thuộc lãnh thổ thuộc quyền tài phán của quốc gia thành viên, theo quy định
tại Điều II, cơ quan phóng hành phải có nghĩa vụ với quốc gia có lãnh thổ mà tàu
vũ trụ hạ cánh. Đây là vấn đề chưa rõ ràng: có hay không nghĩa vụ như vậy phát
sinh khi có đề nghị của quốc gia có lãnh thổ mà tàu vũ trụ hạ cánh; cơ quan
phóng hành không chỉ có nghĩa vụ đề nghị mà còn có quyền yêu cầu mình được
tham gia cho đến khi hoàn thành vào hoạt động tìm kiếm cứu nạn hay phải có
thoả thuận giữa các chủ thể đó. Nguyên tắc chung về sự tôn trọng yếu tố chủ
quyền quốc gia được thể hiện qua cấu trúc của các quy định này như sau: thứ
nhất, nghĩa vụ của quốc gia có lãnh thổ tàu vũ trụ hạ cánh phải thực hiện mọi
công việc có thể nhằm mục đích cứu hộ; thứ hai, trách nhiệm về thông báo sự
việc của cơ quan phóng hành; thứ ba, nghĩa vụ của cơ quan phóng hành trong
việc hợp tác và đặc biệt nêu rõ trong đoạn cuối của Điều II "Các hoạt động phải
được đặt dưới sự kiểm soát và chỉ đạo của quốc gia có lãnh thổ nơi tàu vũ trụ hạ



13
cánh và hoạt động dưới sự tư vấn chặt chẽ và liên tục của cơ quan phóng hành"
cho thấy ưu thế của của quốc gia của lãnh thổ quốc gia nơi tàu vũ trụ hạ cánh.
Mặt khác, mục đích của tất cả các hoạt động cứu hộ " nhằm giúp việc thực
hiện cứu hộ nhanh chóng và hiệu quả" và " để đóng góp đáng kể cho sự hiệu quả
của hoạt động tìm kiếm và cứu hộ", cũng như nguyên tắc về hợp tác cho thấy
quốc gia có lãnh thổ tàu vũ trụ hạ cánh cũng không hoàn toàn tự do trong quyết
định của mình.
Cũng như việc trợ giúp các nhân viên phi hành đoàn tàu vũ trụ hạ cánh
ngoài lãnh thổ của quốc gia thành viên Hiệp ước, quy định tại Điều III dường
như gắn trách nhiệm hàng đầu về cứu hộ cho cơ quan phóng hành liên quan khi
trao quyền được sắp đặt về phương tiện và thiết bị cho mục đích này. Hơn nữa,
bất kỳ khi nào cơ quan phóng hành tự thấy không có khả năng thực hiện, hoặc
quá muộn để hành động, các quốc gia thành viên khác "trong tình huống có thể
thực hiện việc cứu hộ" phải trợ giúp các nhân viên liên quan ngay lập tức. Các
quốc gia này phải hành động theo phán quyết và tự mình quyết định mà không
cần phải đợi bất kỳ một sự yêu cầu nào. Nghĩa vụ của các quốc gia này là thông
báo cho cơ quan phóng hành và Tổng thư ký Liên hiệp quốc theo quy định của
quốc gia mình.
Một hệ quả phổ biến có thể thấy là trường hợp các hoạt động cứu hộ do cơ
quan phóng hành thực hiện không hiệu quả, các quốc gia thành viên khác có nghĩa vụ
trợ giúp theo cả Điều V của Hiệp ước về khoảng không vũ trụ 1967 và Điều III Hiệp
ước Cứu hộ 1968.
Điều IV bao gồm một quy định giản đơn liên quan đến việc trao trả nhân
viên phi hành đoàn của tàu vũ trụ hạ cánh "do tai nạn, khẩn nguy hoặc hạ cánh
khẩn cấp hoặc bất thường" trong lãnh thổ thuộc quyền tài phán của quốc gia
thành viên khác hoặc được tìm thấy trên vùng biển quốc tế hoặc bất kỳ nơi nào
khác mà không thuộc quyền tài phán của bất kỳ quốc gia nào. Trong tất cả các
tình huống như vậy " họ phải được trao trả một cách nhanh chóng và an toàn cho



14
đại diện của cơ quan phóng hành". Mặc dù câu chữ của quy định này không
hoàn toàn cân đối với tư cách của " sứ giả của loài người" nhưng nó nhấn mạnh
rằng nó không chứa đựng bất kỳ điều kiện nào (quasi-reservation) và nghĩa vụ
trao trả vô điều kiện bắt nguồn từ Điều V của Hiệp ước về khoảng không vũ trụ
1967 và được nhắc lại trong lời nói đầu của Hiệp ước cứu hộ 1968. Ngoài ra,
theo cách dùng từ trong Điều IV, Hiệp ước không cho phép bất kỳ một sự chậm
trễ nào trong việc trao trả các nhà du hành vũ trụ.
Về vấn đề thu hồi và trao trả các vật thể vũ trụ, được giải quyết theo các
quy định phức tạp và cũng chưa hoàn toàn sáng tỏ tại khoản 2 và 3 Điều V thể
hiện trong một số các thoả hiệp dựa trên cách thông qua Hiệp ước. Nghĩa vụ trao
trả các vật thể vũ trụ được thu hồi là hệ quả logic của nguyên tắc quy định tại
Điều V Hiệp ước về khoảng không vũ trụ 1967. Theo đó, quyền sở hữu của các
vật thể vũ trụ được phóng vào khoảng không vũ trụ và các thành phần của nó
không bị ảnh hưởng vào vị trí tồn tại của chúng (trong khoảng không vũ trụ, trên
các thiên thể hoặc đã quay trở lại Trái đất). Tuy nhiên, nguyên tắc này không
mang ý nghĩa cơ quan phóng hành không thể từ bỏ quyền sở hữu của mình và từ
bỏ một vật thể vũ trụ hoặc các bộ phận thành phần của nó trong việc trao trả mà
nó không còn giá trị và được quan tâm nữa.
Với việc thực hiện phóng một vật thể nhất định mà không công bố các dữ
liệu quan trọng về nhiệm vụ của chúng, cơ quan phóng hành có thể đối mặt với
tình huống khó xử để trao đổi các dữ liệu nhận dạng trước khi đề nghị cho việc
trao trả hoặc cũng như đòi hỏi việc trao trả. Mặt khác, quốc gia thành viên phát
hiện ra vật thể vũ trụ hoặc bộ phận thành phần của nó được nhận diện không có
nghĩa vụ để đòi hỏi việc việc báo cáo các dữ liệu về nhận dạng và sẵn lòng trao
trả chúng vô điều kiện.
Ý nghĩa đặc biệt khi xác định nghĩa vụ của cơ quan phóng hành theo Điều
V khoản 4 là nhằm thực hiện một cách hiệu quả để dần hạn chế mối nguy hiểm,

có hại từ tính chất nguy hiểm và có hại của vật thể vũ trụ. Quy định liên quan


15
đến kết quả có thể xảy ra như là việc sử dụng năng lượng hoặc chất liệu có thể
gây hại cho môi trường trong trường hợp xảy ra tai nạn.
Khoản cuối cùng của Điều V giải quyết vấn đề về chi phí phát sinh trong
việc đáp ứng nghĩa vụ thu hồi và trao trả vật thể vũ trụ hoặc các bộ phận thành
phần sẽ do cơ quan phóng hành trang trải. Không giống như việc cứu hộ nhà du
hành vũ trụ, việc thu hồi và trao trả các vật thể vũ trụ qua các hoạt động nhằm
mục đích dịch vụ được Hiệp ước về khoảng không vũ trụ 1967 công nhận và
được xem xét chủ yếu từ quyền lợi của cơ quan phóng hành, do đó chi phí cho
hoạt động này sẽ chỉ do cơ quan phóng hành chịu trách nhiệm. Nghĩa vụ như vậy
là cân đối và hợp lý bởi lợi ích của cơ quan phóng hành sẽ có được bằng việc
thực hiện thu hồi và trao trả và do đó cũng không có quy định cụ thể về quy trình
hay thoả thuận giữa các bên liên quan cho vấn đề xác định phương pháp tính
toán chi phí do cơ quan phóng hành phải thanh toán.
Đặc trưng của yếu tố quốc tế trong Hiệp ước này không loại trừ bất kỳ
việc tham gia của các cá nhân và phương tiện tham gia hoạt động tìm kiếm, cứu
hộ, miễn là chúng có ích (cứu hộ bởi tàu thuyền của tư nhân trên vùng biển quốc
tế, tìm kiếm và cứu hộ bằng tàu bay tư nhân ở vùng xa xôi, ). Tất nhiên, những
cá nhân này không hoạt động như là chủ thể trực tiếp với quyền và nghĩa vụ của
luật quốc tế, họ cũng không hành động như là đại diện của các quốc gia liên
quan trừ khi được sự cho phép rõ ràng bởi các quốc gia đó, quốc gia này vẫn
phải chịu trách nhiệm gián tiếp đối với các hành động sai hoặc thiếu sót có thể
xảy ra.
Ngoài các quốc gia, các Tổ chức quốc tế liên chính phủ chịu trách nhiệm
phóng hành vật thể vũ trụ có thể là người thụ hưởng các quyền và người nhận
các nghĩa vụ phát sinh từ Hiệp ước này nếu Tổ chức quốc tế tuyên bố chấp nhận
các quyền và nghĩa vụ quy định trong Hiệp ước và nếu đa số các quốc gia thành

viên của Tổ chức quốc tế là quốc gia thành viên của Hiệp ước này và Hiệp ước
về khoảng không vũ trụ 1967. Bằng việc tuyên bố chấp thuận của mình các tổ


16
chức liên chính phủ có quyền đối với các quyền và có nghĩa vụ đáp ứng các
nhiệm vụ phát sinh từ Hiệp ước ngoại trừ các vấn đề còn lại gắn liền với lãnh thổ
của quốc gia thành viên của Hiệp ước. Bởi vậy, vị trí của tổ chức quốc tế liên
chính phủ có những tuyên bố theo yêu cầu có thể được coi như đáp ứng được
vấn đề tham gia Hiệp ước.
Cũng như các nguyên lý chung về pháp luật chỉ phản ánh được hoàn cảnh
và nhu cầu điều tiết cho từng giai đoạn cụ thể, Hiệp ước Cứu hộ 1968 cũng phản
ánh trình độ công nghệ của các chuyến bay vào khoảng không vũ trụ và thực tiễn
trong giai đoạn đầu của các hoạt động vũ trụ. Sau này, những điều kiện và các
vấn đề mới xuất hiện trong các hoạt động về khoảng không vũ trụ mà chưa từng
được biết đến trong giai đoạn đầu đòi hỏi bổ sung các quy tắc pháp luật phù hợp
trên nền tảng hiệu lực của nguyên tắc trợ giúp và cứu hộ các nhà du hành vũ trụ,
việc trao trả họ và các vật thể vũ trụ. Những quy tắc này cần tập trung giải quyết
các vấn đề về trợ giúp và cứu hộ các nhà du hành vũ trụ trong các trường hợp
khẩn nguy hoặc khẩn cấp khi họ vẫn ở trên tàu vũ trụ hoặc bước ra ngoài khoảng
không vũ trụ và không thể trở về tàu an toàn nếu như không có sự hợp tác phù
hợp. Công việc hỗ trợ cứu hộ cần được điều chỉnh ở phạm vi quốc tế, chú trọng
đến nhân viên của trạm vũ trụ trên quỹ đạo và trên các thiên thể trong tương lai.
Trong điều kiện hiện tại về gia tăng thương mại hoá các hoạt động liên quan đến
khoảng không vũ trụ, việc tham gia của các cá nhân bao gồm khách du lịch vũ
trụ trên các chuyến bay vào vũ trụ , các quy tắc tương ứng cho một loạt hoạt
động liên quan đến khoảng không vũ trụ mới cần phải được xây dựng và đó cũng
chính vấn đề chung trong tiến trình phát triển của pháp luật về khoảng không vũ
trụ.
1.3. Công ước về trách nhiệm quốc tế và bồi thường thiệt hại do các

vật thể vũ trụ gây ra ( Công ước về trách nhiệm bồi thường thiệt hại 1972)
Công ước về trách nhiệm bồi thường thiệt hại 1972 được sự nhất trí thông
qua bằng Nghị quyết 2777 (XXVI) của Đại Hội đồng Liên hợp quốc năm 1971,


17
có hiệu lực tháng 9 năm 1972. Công ước đã cụ thể hoá nội dung Điều VII Hiệp
ước về khoảng không vũ trụ 1967 với nội dung chính là ràng buộc cho quốc gia
phóng hành trách nhiệm bồi thường thiệt hại một cách tuyệt đối hay hạn chế đối
với thiệt hại do các vật thể vũ trụ gây ra cho nạn nhân trên bề mặt Trái đất hoặc
đối với tàu bay đang bay. Tính đến ngày 01/01/2009 đã có 87 quốc gia phê
chuẩn và 23 quốc gia đã ký công ước này, ngoài ra 3 tổ chức quốc tế là ESA,
EUMETSAT, EUTELSAT đã tuyên bố chấp nhận các quyền và nghĩa vụ theo
quy định của công ước này [9].
Công ước được Đại Hội đồng Liên hợp quốc thông qua sau một thập kỷ
đàm phán, nó chứa đựng các yếu tố mang tính chất nền tảng được thể hiện trong
các đề xuất của các quốc gia thành viên và một số các đề xuất ít quan trọng hơn
được loại bỏ trong quá trình bàn bạc để đạt đến nội dung thoả hiệp. Văn bản này
đưa ra sự bảo đảm tối đa khi xác định trách nhiệm của Quốc gia phóng hành là
thành viên Công ước trong việc chi trả các yêu cầu đòi bồi thường và khuyến
khích các cường quốc vũ trụ giải quyết một cách công bằng với các yêu cầu đòi
bồi thường hại mà chứng minh được cho các quốc gia đòi bồi thường.
Trong chừng mực nào đó, trách nhiệm và nghĩa vụ về khoảng không vũ
trụ của quốc gia là song song với quyền tự do thăm dò và khai thác khoảng
không vũ trụ. Tuy nhiên các hoạt động trong khoảng không vũ trụ trên thực tế là
nguồn nguy hiểm cao độ bởi vì chúng được thực hiện trong môi trường rất đặc
biệt từ góc độ công nghệ và các nguyên lý về vật lý. Thực chất, Công ước này
chủ yếu nhằm điều chỉnh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho nạn nhân "vô tội"
không tham gia đến các hoạt động về khoảng không vũ trụ.
Trước hết, Công ước chỉ áp dụng đối với các thiệt hại do vật thể vũ trụ

gây ra như định nghĩa tại Điều I bao gồm: "chết, bị thương hoặc thương tật vĩnh
viễn; tài sản của Nhà nước hoặc của cá nhân, pháp nhân hoặc của các tổ chức
quốc tế bị phá huỷ hoặc bị hư hại", như vậy định nghĩa này sẽ không áp dụng
đối với các thiệt hại về môi trường vũ trụ hay môi trường của Trái đất. Công ước


18
này áp dụng đối với các vật thể vũ trụ bao gồm cả các thành phần cấu thành vật
thể vũ trụ cũng như các thiết bị phóng và các phần của nó và cách giải thích theo
xu hướng này thì các mảnh vỡ trong vũ trụ cũng được coi là vật thể vũ trụ.
Mục đích và cơ sở lý luận của định nghĩa này khi đưa ra 4 khả năng để
xác định có thể là quốc gia phóng hành chính là nhằm bảo vệ lợi ích của nạn
nhân trong việc tìm một quốc gia có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
trường hợp có thiệt hại. Công ước bồi thường thiệt hại đưa ra khái niệm về quốc
gia phóng hành như được định nghĩa tại Điều I như sau:
i) quốc gia phóng hoặc được quốc gia khác thực hiện cho việc phóng một
vật thể vũ trụ; hoặc
ii) quốc gia có lãnh thổ hoặc thiết bị phóng vật thể vũ trụ.
Từ khi công ước được thông qua, quan điểm về quốc gia phóng hành đã
thu hút sự chú ý của giới luật học về khoảng không vũ trụ, trong đó quan tâm
chủ yếu đến thực tiễn liên quan đến việc phóng hành vật thể vũ trụ và sự tham
gia của thành phần tư nhân trong đó. Hơn nữa, định nghĩa này hoàn toàn rõ ràng
đối với khả năng có thể có nhiều hơn một quốc gia phóng hành đối với mỗi vật
thể vũ trụ hay bộ phận cấu thành của nó. Đó chính là lý do tại sao Công ước luôn
gắn việc đồng trách nhiệm cho hơn một quốc gia phóng hành và mỗi quốc gia
phóng hành có thể đưa ra yêu cầu bồi hoàn từ quốc gia phóng hành khác hoặc
theo một thoả thuận về trách nhiệm một cách phù hợp.
Năm 2004, một dự thảo nghị quyết về việc áp dụng khái niệm "quốc gia
phóng hành" được thông qua bởi Tiểu ban pháp luật và được phê chuẩn bằng
Nghị quyết 59/155 của Đại Hội đồng Liên hợp quốc ngày 10/12/2004 với tựa đề

"Áp dụng khái niệm quốc gia phóng hành". Nghị quyết này không mang ý nghĩa
giải thích chính thức nào và cũng không cấu thành việc sửa đổi đối với Công ước
bồi thường thiệt hại và Công ước đăng ký mà chỉ giúp hiểu rõ hơn về những vấn
đề chính phát sinh trong việc thực hiện Công ước. Nó chủ yếu khuyến nghị các
quốc gia quan tâm đến việc ban hành nội luật để cấp phép và giám sát các hoạt


19
động về khoảng không vũ trụ do các chủ thể tư nhân thực hiện và việc ký kết các
thoả thuận về vấn đề phóng hành chung.
Công ước phân chia hai loại trách nhiệm: trách nhiệm tuyệt đối và trách
nhiệm do lỗi. Theo Điều II, quốc gia phóng hành có trách nhiệm tuyệt đối trong
việc bồi thường đối với các thiệt hại do các vật thể vũ trụ gây ra trên mặt đất hay
với tàu bay đang bay. Vì vậy, trách nhiệm bồi thường đối với nạn nhân trên mặt
đất là khách quan, không cần phải chứng minh yếu tố lỗi. Trách nhiệm này
không có giới hạn về số tiền cũng như thời hiệu và trách nhiệm này là tuyệt đối.
Chỉ có những "vi phạm trắng trợn" hoặc "hành động hoặc không hành động
được thực hiện nhằm mục đích phá hoại" có thể là đối tượng mà trách nhiệm bồi
thường không phải gánh chịu, tuy nhiên không có bất kỳ việc miễn trách nhiệm
nào trong trường hợp thiệt hại là kết quả của hành vi bất hợp pháp do quốc gia
phóng hành thực hiện theo luật quốc tế đặc biệt là Hiến Chương Liên hợp quốc
và Hiệp ước về khoảng không vũ trụ 1967.
Trách nhiệm của quốc gia phóng hành áp dụng cho toàn bộ hoạt động từ
khi phóng tên lửa đẩy, trong khi tiến vào quỹ đạo, tới khi vật thể vũ trụ hoạt
động trên quỹ đạo, quay quanh quỹ đạo và đến khi ra khỏi quỹ đạo.
Nếu như cơ chế trách nhiệm rất có hiệu quả đối với người bị thiệt hại trên
mặt đất hoặc trong tàu bay đang bay thì Công ước lại quy định rất khác biệt về
trách nhiệm do lỗi khi thiệt hại gây ra cho các vật thể vũ trụ khác trong khoảng
không vũ trụ. Trong trường hợp này, quốc gia phóng hành vẫn phải chịu trách
nhiệm nhưng chỉ đối với lỗi có thể chứng minh được. Trong trường hợp thiệt hại

đối với người hoặc tài sản trên các vật thể vũ trụ khác thì nguyên tắc trách nhiệm
sẽ được xem xét đối với quốc gia phóng hành. Nếu lỗi không do quốc gia phóng
hành thực hiện mà do quốc gia khác thì Công ước không được áp dụng trong
trường hợp này.
Như trên đã đề cập, khi có hơn một quốc gia phóng hành (Điều V) hoặc
khi có hai vật thể vũ trụ liên quan (Điều IV) các quốc gia phóng hành đều đồng


20
trách nhiệm và riêng biệt. Theo cách hiểu này nghĩa là quốc gia có người bị thiệt
hại có thể yêu cầu toàn bộ khoản bồi thường từ bất kỳ quốc gia phóng hành nào.
Sau đó, các quốc gia phóng hành sẽ chia sẻ chi phí bồi thường theo Điều IV hoặc
Điều V.
Trong trường hợp khi hai hoặc nhiều hơn hai quốc gia cùng tham gia
phóng vật thể vũ trụ, các quốc gia đó đồng trách nhiệm và riêng biệt đối với bất
kỳ thiệt hại nào bị vật thể vũ trụ gây ra. Cùng lúc đó, quốc gia phóng hành đã trả
khoản bồi thường cho thiệt hại có quyền đưa ra yêu cầu bồi hoàn lại đối với các
quốc gia thành viên vào việc cùng phóng vật thể vũ trụ. Các bên tham gia vào
hoạt động chung cùng phóng vật thể vũ trụ có thể ký kết thoả thuận liên quan
đến tỷ lệ về nghĩa vụ tài chính giữa các thành viên trong vấn đề đồng trách
nhiệm và riêng biệt. Các thoả thuận như vậy không được làm tổn hại được quyền
của quốc gia chịu thiệt hại để đòi toàn bộ khoản bồi thường từ một hay tất cả các
quốc gia phóng hành có trách nhiệm chung và riêng biệt theo Công ước này và
quốc gia có lãnh thổ đặt các phương tiện để phóng vật thể vũ trụ được coi là
quốc gia phóng hành.
Trong trường hợp nếu thiệt hại được gây ra bởi vật thể vũ trụ của một
quốc gia phóng hành đối với một vật thể vũ trụ hoặc đối với người, tài sản trên
vật thể vũ trụ của một quốc gia khác ở bất kỳ đâu không phải trên mặt đất hay
đối với cá nhân hoặc pháp nhân của quốc gia thứ ba thì hai quốc gia đầu phải
cùng chịu trách nhiệm và riêng biệt đối với quốc gia thứ ba. Nếu thiệt hại gây ra

cho quốc gia thứ ba trên mặt đất hoặc đối với tàu bay đang bay thì trách nhiệm
này là tuyệt đối. Nếu thiệt hại gây ra cho vật thể vũ trụ của quốc gia thứ ba hoặc
đối với người hoặc tài sản trên vật thể vũ trụ đó ở bất kỳ đâu không ở trên mặt
đất thì trách nhiệm bồi thường đối với quốc gia thứ ba sẽ dựa vào lỗi của hai
quốc gia đầu tiên hay lỗi của người mà người đó cũng có trách nhiệm.
Cuối cùng, tất cả các trường hợp đồng trách nhiệm và riêng biệt về bản
chất là chi phí bồi thường thiệt hại phải chia sẻ giữa các quốc gia liên quan theo

×