Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Thực thi các cam kết của Việt Nam với tổ chức thương mại thế giới trong lĩnh vực ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 89 trang )


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
Chương 1 4
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG VÀ
KHÁI QUÁT QUY ĐỊNH CỦA WTO VỀ DỊCH VỤ NGÂN HÀNG 4
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGÂN HÀNG VÀ DỊCH VỤ NGÂN
HÀNG 4
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng 4
1.1.2. Khái niệm dịch vụ ngân hàng và nội dung dịch vụ ngân hàng 5
1.1.3. Vai trò và xu hướng phát triển của ngành ngân hàng 11
1.2. KHÁI QUÁT QUY ĐỊNH CỦA WTO VỀ DỊCH VỤ NGÂN HÀNG14
1.2.1. Vị trí dịch vụ ngân hàng trong GATS 15
1.2.2. Nội dung dịch vụ ngân hàng theo quy định của GATS 15
1.2.3. Phương thức cung ứng dịch vụ ngân hàng theo quy định của GATS .17
1.2.4. Các nguyên tắc chung của GATS áp dụng đối với thương mại - dịch vụ
(bao gồm cả dịch vụ ngân hàng) 18
Chương 2 24
CAM KẾT GIA NHẬP WTO CỦA VIỆT NAM VỀ DỊCH VỤ NGÂN
HÀNG VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN CAM KẾT 24
2.1. CÁC CAM KẾT GIA NHẬP WTO CỦA VIỆT NAM VỀ MỞ CỬA
THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ NGÂN HÀNG 24
2.1.1. Các cam kết chung của Việt Nam về mở cửa thị trường dịch vụ (bao
gồm cả dịch vụ ngân hàng) 24
2.1.2. Cam kết cụ thể đối với các phân ngành dịch vụ ngân hàng 25
2.2. SO SÁNH CAM KẾT WTO CỦA VIỆT NAM VỀ MỞ CỬA THỊ
TRƯỜNG DỊCH VỤ NGÂN HÀNG VỚI CAM KẾT CỦA VIỆT
NAM TẠI BTA VÀ CAM KẾT WTO CỦA TRUNG QUỐC 29
2.2.1. So sánh với cam kết của Việt Nam tại BTA 29
2.2.2. So sánh với cam kết WTO của Trung Quốc 30


2.3. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG NGÂN
HÀNG TRONG TƯƠNG QUAN VỚI CÁC CAM KẾT WTO 33
2.3.1. Đánh giá việc tuân thủ các nghĩa vụ chung của GATS 33
2.3.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam liên quan đến các cam kết chung
của Việt Nam trong Biểu cam kết cụ thể về dịch vụ 38
2.3.3. Thực trạng pháp luật Việt Nam liên quan đến các cam kết WTO
của Việt Nam về dịch vụ ngân hàng 39

1.1.1 Các văn bản điều chỉnh việc cấp phép thành lập, tổ chức hoạt động
của tổ chức tín dụng nước ngoài 40
2.3.3.2. Các văn bản điều chỉnh việc góp vốn, mua cổ phần tại ngân hàng Việt
Nam 48
2.3.3.3. Các văn bản điều chỉnh việc cung cấp dịch vụ ngân hàng 50
2.4. ĐÁNH GIÁ THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ NGÂN HÀNG CỦA VIỆT
NAM 63
Chương 3 68
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VỀ DỊCH VỤ NGÂN HÀNG 68
3.1.2. Pháp luật về dịch vụ ngân hàng phải đảm bảo tương thích với các quy
tắc và thông lệ quốc tế 69
3.1.3. Việc hoàn thiện pháp luật về dịch vụ ngân hàng cần được đặt trong giải
pháp tổng thể hoàn thiện pháp luật thương mại dịch vụ, kinh tế, tài
chính 69
3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ NGÂN HÀNG ĐÁP
ỨNG YÊU CẦU CỦA WTO VÀ TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ 69
3.2.1. Giải pháp về lập pháp, chính sách 69
3.2.2. Giải pháp tăng năng lực điều hành hoạt động cho ngành ngân hàng 73
KẾT LUẬN 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 81











DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BTA: Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ
GATS: Hiệp định chung về thương mại dịch vụ của WTO
IMF: Quỹ Tiền tệ quốc tế
Luật Các TCTD: Luật Các tổ chức tín dụng
MFN: Chế độ đối xử tối huệ quốc
NT: Chế độ đối xử quốc gia
NHNN: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
NHTM: Ngân hàng thương mại
NHTMCP: Ngân hàng thương mại cổ phần
TCTD: Tổ chức tín dụng
TMDV: Thương mại dịch vụ
WTO: Tổ chức thương mại thế giới


DANH MỤC CÁC BẢNG


Số hiệu

bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Tỷ lệ nhận tiền gửi từ thể nhân Việt Nam không có quan
hệ tín dụng so với vốn được cấp của Chi nhánh ngân hàng
nước ngoài
28
2.2
Quy định về tổng tài sản đối với TCTD nước ngoài thiết
lập hiện diện thương mại tại Việt Nam
29

1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Ngày 7/11/2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) sau tiến trình chuẩn bị và đàm phán hơn
mười một năm. Việc gia nhập WTO đồng nghĩa với việc chúng ta phải thực
hiện các cam kết mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ ở một mức độ nhất
định. Trong ngành dịch vụ tài chính, dịch vụ ngân hàng là một trong lĩnh vực
gay go khi đàm phán vào WTO do đây luôn là ngành "huyết mạch" của nền
kinh tế của bất kỳ quốc gia nào, đòi hỏi các bước đi thận trọng khi mở cửa thị
trường. Việc thực thi các cam kết trong ngành ngân hàng tạo ra nhiều sức ép
đối với hệ thống pháp luật Việt Nam sao cho vừa tạo điều kiện cho các ngân
hàng trong nước tăng sức cạnh tranh, không bị "thôn tính" bởi các ngân hàng
nước ngoài trong khuôn khổ các cam kết với WTO.
Tác giả chọn đề tài "Thực thi các cam kết của Việt Nam với Tổ chức
Thương mại Thế giới về dịch vụ ngân hàng" để nghiên cứu vì những lý do

sau đây:
- Mong muốn được nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ những
quy định của WTO về tự do hoá dịch vụ ngân hàng; nghiên cứu các cam kết
của Việt nam với WTO về dịch vụ ngân hàng.
- Hiện nay, chúng ta đang trong giai đoạn rà soát, xây dựng mới các
văn bản quy phạm pháp luật có liên quan nhằm thực hiện các cam kết trong
các lĩnh vực thương mại dịch vụ nói chung và ngân hàng nói riêng. Trong lĩnh
vực ngân hàng hàng loạt các văn bản pháp luật cũng đang được nghiên cứu
sửa đổi, xây dựng mới để phù hợp với các cam kết của Việt Nam tại WTO.
- Đưa ra những nhận xét và đề xuất phương hướng hoàn thiện pháp
luật Việt Nam trong lĩnh vực ngân hàng nhằm thực thi tốt các cam kết của

2
Việt Nam khi gia nhập WTO. Trên cơ sở đó tác giả đưa ra giải pháp cụ thể
đối với việc xây dựng chính sách, pháp luật về ngân hàng trong bối cảnh thực
thi các cam kết của WTO.
2. Tình hình nghiên cứu và ý nghĩa lí luận của đề tài
Hiện nay ở nước ta, ngoài một số bài báo đề cập hoặc nghiên cứu một
số nội dung của cam kết WTO trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng, chưa có một
công trình nào nghiên cứu một cách sâu sắc, hệ thống và đầy đủ về thực hiện
các cam kết với WTO về dịch vụ ngân hàng với nội dung gồm các phần chính
là nghiên cứu pháp luật quốc tế, pháp luật các quốc gia và các quy định của
pháp luật Việt Nam.
Trong xu thế hội nhập hiện nay, việc nghiên cứu một cách có hệ thống
về vấn đề này mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Đề tài mang ý nghĩa
lý luận cho việc xây dựng những quy phạm pháp luật đầy đủ, phù hợp với
cam kết quốc tế và là cơ sở pháp lý cho việc phát triển dịch vụ ngân hàng ở
Việt Nam. Những kiến nghị của đề tài hy vọng sẽ đem lại những kết quả thiết
thực cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật của Việt Nam nhằm mục đích
vừa thực hiện đúng các cam kết quốc tế vừa phát triển ngành ngân hàng của

Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của Hiệp định chung
về thương mại dịch vụ (GATS) của WTO về dịch vụ ngân hàng và các chế
định, quy định pháp luật Việt Nam điều chỉnh lĩnh vực dịch vụ ngân hàng.
Trong khuôn khổ của luận văn thạc sĩ, tác giả luận văn tập trung
nghiên cứu các dịch vụ ngân hàng theo quy định của GATS tại Phụ lục về
dịch vụ tài chính, thực trạng pháp luật Việt Nam về dịch vụ ngân hàng theo
các tiêu chí của GATS và cam kết gia nhập WTO của Việt Nam. Từ đó, tác
giả luận văn đưa ra đề xuất về định hướng và một số giải pháp hoàn thiện

3
pháp luật về dịch vụ ngân hàng của Việt Nam đáp ứng yêu cầu thực hiện cam
kết WTO cũng như lộ trình hội nhập kinh tế của Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở kết hợp giữa phương pháp phân
tích, tổng hợp, phương pháp so sánh luật học.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát quy định của WTO về dịch vụ ngân hàng và cam
kết gia nhập WTO của Việt Nam về dịch vụ ngân hàng.
Chương 2: Thực tiễn thực thi cam kết gia nhập WTO của Việt Nam về
dịch vụ ngân hàng.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật ngân hàng
Việt Nam đáp ứng các cam kết gia nhập WTO và lộ trình hội nhập quốc tế
trong lĩnh vực ngân hàng.

4
Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN
VỀ HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG VÀ KHÁI QUÁT QUY ĐỊNH
CỦA WTO VỀ DỊCH VỤ NGÂN HÀNG

1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGÂN HÀNG VÀ DỊCH VỤ NGÂN HÀNG
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng
Sự hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng gắn liền với lịch
sử của xã hội loài người. Hình thức ngân hàng sơ khai được nhiều nhà sử học
cho rằng đã hình thành trước khi con người phát minh ra tiền là các đền thờ,
thánh đường. Ban đầu, tài sản gửi tại đền thờ là các loại ngũ cốc, sau đó là gia
cầm, nông sản, rồi đến kim loại quý như vàng. Đền thờ là nơi an toàn để cất
trữ tài sản bởi xét về tâm linh thì ngay những tên trộm táo tợn nhất cũng có ý
tránh chốn linh thiêng này.
Các nhà khảo cổ học tìm được những tàng tích cho thấy tới đầu thế
kỷ 18 trước công nguyên, tại Babylon, dưới thời trị vì của Hammurabi, thầy
tu trông giữ đền thờ bắt đầu cho các nhà buôn mượn tài sản cất trữ trong đền.
Việc này giống như hoạt động huy động vốn để cho vay của ngân hàng [59].
Đến thời kỳ Phục Hưng, các tổ chức kinh doanh tiền tệ phát triển
nhanh và mở rộng các nghiệp vụ mới như chi trả bằng thương phiếu Thời
kỳ này đã xuất hiện các ngân hàng gia tầm cỡ như Jacques ở Pháp, gia đình
Medicis ở Ý, gia đình Fugger ở Đức và các tổ chức kinh doanh tiền tệ như
Banco di Valencia năm 1409, Banco di Realto năm 1507. Đây là các tổ chức
kinh doanh tiền tệ đầu tiên có dáng dấp như một ngân hàng hiện đại.
Thời kỳ cận đại là giai đoạn xuất hiện các ngân hàng hiện đại như ngân
hàng Amsterdam ở Hà Lan năm 1609, ngân hàng Hamburg ở Đức năm 1617,
ngân hàng Anh Quốc năm 1694 [22, tr. 61-62].

5
Trong giai đoạn từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 17, hoạt động ngân hàng có
các đặc trưng sau:

- Các ngân hàng hoạt động độc lập, chưa tạo ra hệ thống tạo sự ràng
buộc lẫn nhau.
- Nhiều ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh tương tự nhau
như nhận ký thác, chiết khấu, cho vay và thực hiện các dịch vụ tiền tệ.
- Mỗi ngân hàng phát hành một đồng tiền riêng. Một số ngân hàng
phát hành tiền không dựa trên sự bảo đảm bằng vàng và bị phá sản nên giấy
bạc ngân hàng kém hoặc mất giá trị.
Trong giai đoạn từ thế kỷ 18 đến thế kỷ 20, nhà nước bắt đầu can
thiệp vào hoạt động ngân hàng thông qua việc ban hành các đạo luật nhằm
hạn chế số lượng các ngân hàng được phép phát hành tiền để đảm bảo sự an
toàn cho tiền gửi, khắc phục nhược điểm của hệ thống ngân hàng giai đoạn
trước đó. Trong giai đoạn này, ngân hàng đã hình thành hệ thống và được chia
thành hai loại:
- Các ngân hàng được phép phát hành tiền (gọi là ngân hàng phát hành).
- Các ngân hàng không được phép phát hành tiền (gọi là ngân hàng
trung gian).
Trong nền kinh tế chỉ còn một số ngân hàng được phép phát hành tiền.
Từ đầu thế kỷ 20 đến nay, tại đa số các quốc gia, nhà nước chỉ cho phép
một ngân hàng được quyền phát hành tiền và nắm quyền quản lý các ngân hàng
phát hành bằng một trong các hình thức: quốc hữu hóa 100%, nắm giữ trên
51% số cổ phần. Từ những năm 80 của thế kỷ 20, các ngân hàng thương mại
được tổ chức dưới hình thức tập đoàn và chuyển sang hướng kinh doanh đa năng.
1.1.2. Khái niệm dịch vụ ngân hàng và nội dung dịch vụ ngân hàng
1.1.2.1. Khái niệm dịch vụ ngân hàng
Theo trang web www.bitpipe.com, dịch vụ ngân hàng là bất kỳ hoạt
động nào liên quan đến việc nhận và bảo vệ an toàn tiền gửi của cá nhân và tổ

6
chức, sau đó cho vay số tiền đó nhằm kiếm lợi nhuận (Any activities involved
in accepting and safeguarding money owned by other individuals and entities,

and then lending out this money in order to earn a profit).
Pháp luật các nước không đưa ra định nghĩa tổng quát về dịch vụ ngân
hàng mà thường liệt kê các dịch vụ được coi là dịch vụ ngân hàng. Ví dụ như:
Theo Luật về Tài chính 1994 của Ấn Độ (Finance Act), dịch vụ ngân hàng và
tài chính có nghĩa là các dịch vụ được cung cấp bởi một ngân hàng hoặc tổ
chức tài chính, bao gồm cả tổ chức tài chính phi ngân hàng, các doanh nghiệp
khác, gồm các dịch vụ sau: (i) cho thuê tài chính bao gồm cho thuê thiết bị
và thuê mua, (ii) dịch vụ thẻ tín dụng, (iii) dịch vụ ngân hàng doanh nghiệp,
(iv) kinh doanh chứng khoán và ngoại hối, (v) quản lý tài sản bao gồm quản
lý danh mục đầu tư, mọi hình thức quản lý quỹ đầu tư, quỹ hưu trí và các dịch
vụ lưu ký và tín thác, nhưng không bao gồm quản lý tiền mặt, (vi) dịch vụ tư
vấn tài chính và các dịch vụ tài chính phụ trợ khác, nghiên cứu và tư vấn đầu
tư và danh mục đầu tư, tư vấn về mua bán và sáp nhập, tư vấn về tái cơ cấu và
chiến lược doanh nghiệp, (vii) cung cấp và chuyển thông tin và xử lý dữ liệu
(As per section 65(10) of the Finance Act, 1994, "banking and financial
services" means the following services provided by a banking company or a
financial institution including a non banking financial company, namely: (i)
financial leasing services including equipment leasing and hire-purchase by a
body corporate; (ii) credit card services; (iii) merchant banking services; (iv)
securities and foreign exchange (forex) broking; (v) asset management
including portfolio management, all forms of fund management, pension fund
management, custodial depository and trust services, but does not include
cash management; (vi) advisory and other auxiliary financial services
including investment and portfolio research and advice, advice on mergers
and acquisition and advice on corporate restructuring and strategy; and (vii)
provision and transfer of information and data processing).

7
Theo các tài liệu nêu trên, khái niệm dịch vụ ngân hàng được hiểu theo
nghĩa rộng, bao gồm tất cả các hoạt động ngân hàng của tổ chức cung ứng

dịch vụ ngân hàng trên thị trường vì mục tiêu lợi nhuận.
Quan điểm khác cho rằng các hoạt động sinh lời khác của ngân hàng
ngoài hoạt động cho vay thì được coi là hoạt động dịch vụ.
Luận văn tiếp cận quan điểm thứ nhất, đó là dịch vụ ngân hàng là tất cả
dịch vụ ngân hàng cung cấp cho khách hàng, bao gồm cả hoạt động tín dụng.
1.1.2.2. Nội dung dịch vụ ngân hàng
a) Các dịch vụ ngân hàng truyền thống
Dù phát triển đến trình độ nào, các dịch vụ ngân hàng truyền thống
vẫn là sản phẩm không thể thiếu của các ngân hàng.
Theo Peter Rose (2001), các dịch vụ truyền thống của ngân hàng gồm:
(i) Trao đổi tiền: đây là một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên.
Ban đầu, dịch vụ này đơn thuần chỉ là việc ngân hàng thực hiện đổi một loại
tiền này lấy một loại tiền khác cho khách hàng và hưởng phí dịch vụ.Về sau,
khi thị trường ngoại hối quốc tế hình thành, các ngân hàng lớn thực hiện kinh
doanh ngoại tệ trên thị trường với số lượng lớn.
(ii) Chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại: Ngay ở thời kỳ
đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với
các doanh nhân địa phương - những người bán các khoản nợ (khoản phải thu)
của khách hàng cho ngân hàng để lấy tiền mặt. Tiếp đó các ngân hàng thực
hiện cho vay trực tiếp để doanh nhân xây dựng cơ sở sản xuất, mua hàng hóa
để kinh doanh.
(iii) Nhận tiền gửi: Để thực hiện được hoạt động cho vay, các ngân hàng
phải thực hiện huy động nguồn vốn, trong đó nguồn huy động vốn quan trọng
nhất là các khoản tiền gửi tiết kiệm của khách hàng. Khách hàng gửi tiền tại ngân
hàng vừa nhận được tiền lãi vừa tránh được nguy cơ mất cắp do lưu giữ tiền mặt.

8
(iv) Bảo quản vật có giá trị: Ngay từ thời Trung cổ, các ngân hàng đã
bắt đầu thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho khách hàng
trong kho bảo quản. Các giấy chứng nhận do ngân hàng phát cho khách hàng

có thể lưu hành như tiền - đây là hình thức có tính chất như séc và thẻ tín
dụng ngày nay.
(v) Cung cấp các tài khoản giao dịch: một dịch vụ ngân hàng quan trọng
được phát triển trong thời kỳ cách mạng công nghiệp tại Châu Âu và Châu
Mỹ là tài khoản tiền gửi giao dịch (demand deposit) - loại tài khoản tiền gửi
cho phép người gửi tiền viết séc thanh toán cho việc mua hàng hóa và dịch
vụ. Dịch vụ này cải thiện đáng kể hiệu quả của quá trình thanh toán, đặc biệt
là hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt, làm cho các giao dịch kinh
doanh trở nên dễ dàng, nhanh chóng và an toàn hơn.
(vi) Cung cấp dịch vụ ủy thác: Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã thực
hiện việc quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính cho cá nhân và doanh
nghiệp. Ngân hàng sẽ thu phí trên cơ sở giá trị của tài sản hay quy mô họ quản
lý. Hầu hết các ngân hàng đều cung cấp cả hai loại: dịch vụ ủy thác thông
thường cho cá nhân, hộ gia đình và ủy thác thương mại cho các doanh nghiệp.
b) Các dịch vụ ngân hàng hiện đại
Xã hội ngày càng phát triển nên nhu cầu đối với dịch vụ ngân hàng
ngày càng cao. Bên cạnh các dịch vụ truyền thống, ngân hàng đang cung cấp
nhiều dịch vụ hơn, như:
(i) Cho vay tiêu dùng: Trong lịch sử, hầu hết các ngân hàng không tích
cực cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình do các khoản vay này có quy mô
nhỏ và rủi ro cao. Tuy nhiên, sự cạnh tranh khốc liệt trong việc giành giật tiền
gửi và cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng - đối
tượng khách hàng trung thành tiềm năng. Tại Việt Nam, dịch vụ cho vay tiêu
dùng phát triển mạnh trong những năm gần đây, tiêu biểu là các dịch vụ cho
vay mua nhà, mua xe, cho vay du học…

9
(ii) Tư vấn tài chính: Ngân hàng ngày nay cung cấp nhiều dịch vụ tư
vấn tài chính đa dạng, đặc biệt là về tiết kiệm và đầu tư. Tại Việt Nam, gần
đây một số ngân hàng đã bắt đầu cung cấp dịch vụ tư vấn tài chính cá nhân

như Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB), Ngân hàng thương mại
cổ phần Nhà Hà Nội (Habubank).
(iii) Quản lý tiền mặt: ngân hàng quản lý việc thu và chi cho một công
ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các
chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần.
(iv) Dịch vụ thuê mua thiết bị: Ngân hàng mua thiết bị theo yêu cầu
của khách hàng và cho khách hàng thuê lại.
(v) Cho vay tài trợ dự án: Các ngân hàng ngày càng trở nên năng
động trong việc tài trợ cho chi phí xây dựng nhà máy mới đặc biệt là trong
các ngành công nghệ cao. Do rủi ro trong loại hình tín dụng này cao nên các
ngân hàng thường thực hiện cho vay cùng với sự tham gia của các nhà thầu và
các nhà đầu tư khác để chia sẻ rủi ro. Ví dụ nổi bật về loại hình công ty đầu tư
này là Bankers Trust Venture Capital và Citicorp Venture, Inc.
(vi) Dịch vụ bảo hiểm: Các ngân hàng ngày nay còn tham gia kinh
doanh các loại hình bảo hiểm phi nhân thọ; tái bảo hiểm phi nhân thọ trong và
ngoài nước; hoạt động đầu tư tài chính, cụ thể:
- Kinh doanh các sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ bao gồm bảo hiểm
tài sản và bảo hiểm thiệt hại; bảo hiểm thân tàu; bảo hiểm hàng hóa vận
chuyển đường bộ, đường biển, đường sông, đường sắt và đường hàng không;
bảo hiểm trách nhiệm chung; bảo hiểm xe cơ giới; bảo hiểm cháy; bảo hiểm
tín dụng và rủi ro tài chính; bảo hiểm thiệt hại kinh doanh; bảo hiểm con
người và các loại hình bảo hiểm phi nhân thọ khác.
- Kinh doanh tái bảo hiểm phi nhân thọ: ngân hàng xây dựng được
mối quan hệ hợp tác kinh doanh với các công ty tái bảo hiểm có uy tín trên
thế giới như Swiss Re, Labuan Re, B.E.S.T Re, Malaysian Re Berhad, Caisse

10
Centrale De Reassurance. Tái bảo hiểm là một trong những công cụ quản lý
rủi ro, đảm bảo khả năng tài chính cho các hợp đồng có giá trị bảo hiểm lớn và
tăng doanh thu từ phí nhận tái bảo hiểm và hoa hồng từ nhượng tái bảo hiểm.

- Đầu tư tài chính: thực hiện hoạt động đầu tư tài chính theo hướng
chuyên nghiệp hóa nhằm nâng cao năng lực tài chính của công ty, hỗ trợ các
hoạt động khai thác. Ngoài ra, nghiệp vụ đầu tư tài chính là một kênh chính
tạo ra lợi nhuận cho công ty điều hòa nguồn vốn và sử dụng hợp lý tối đa
nguồn vốn nhàn rỗi. Với nghiệp vụ đầu tư tài chính chuyên nghiệp, công ty
bảo hiểm ngân hàng sẽ có điều kiện thực hiện chiến lược mở rộng đầu tư, đầu
tư chiến lược vào các doanh nghiệp trong lĩnh vực bảo hiểm cũng như lĩnh
vực có nhiều tiềm năng.
(vii) Cung cấp các kế hoạch hưu trí: Ngân hàng của các quốc gia phát
triển cung cấp dịch vụ quản lý kế hoạch hưu trí mà hầu hết các doanh nghiệp
lập cho người lao động, đầu tư vốn và phát lương hưu cho những người đã
nghỉ hưu hoặc tàn phế. Ngân hàng cũng bán các kế hoạch tiền gửi hưu trí cho
các cá nhân và giữ nguồn tiền gửi cho đến khi người sở hữu các kế hoạch này
cần đến.
(viii) Cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: Các ngân
hàng cung cấp các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng
cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ
đến người kinh doanh chứng khoán.
(ix) Cung cấp dịch vụ quỹ tương hỗ và trợ cấp: Do ngân hàng cung
cấp các tài khoản tiền gửi truyền thống với lãi suất quá thấp, nhiều khách
hàng đã hướng tới việc sử dụng sản phẩm đầu tư (investment products) đặc
biệt là các tài khoản của quỹ tương hỗ và hợp đồng trợ cấp. Loại hình này
cung cấp triển vọng thu nhập cao hơn tài khoản tiền gửi dài hạn, cam kết
thanh toán một khoản tiền mặt hàng năm cho khách hàng bắt đầu từ một ngày
nhất định trong tương lai (chẳng hạn ngày nghỉ hưu). Ngược lại, quỹ tương hỗ

11
bao gồm các chương trình đầu tư được quản lý một cách chuyên nghiệp nhằm
vào việc mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán phù hợp với mục tiêu
của quỹ (ví dụ: tối đa hóa thu nhập hay đạt được sự gia tăng giá trị vốn).

(x) Dịch vụ thẻ thanh toán: Ngày nay, thẻ thanh toán là một phương
tiện thanh toán thông dụng và văn minh. Các công ty và ngân hàng liên kết
với nhau để khai thác lĩnh vực thu nhiều lợi nhuận này. Các loại thẻ Master
Card, Visa, Dinners Club, JCB, American Express (Amex) được sử dụng rộng
rãi trên toàn cầu. Người sử dụng thẻ có thể thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ,
trả cước phí điện, điện thoại, tiền nước hay rút tiền mặt tại các máy rút tiền tự
động 24/24 rất tiện lợi. Ngoài ra, họ còn được cấp hạn mức thấu chi qua thẻ
mà không phải bảo quản cất giữ tiền mặt không an toàn.
Tóm lại, rõ ràng là không phải tất cả mọi ngân hàng đều cung cấp đầy
đủ dịch vụ tài chính như danh mục dịch vụ đã miêu tả ở trên, nhưng quả thật
danh mục dịch vụ ngân hàng đang tăng lên nhanh chóng. Nhiều loại hình tín
dụng và tài khoản tiền gửi mới đang được phát triển, các loại dịch vụ mới như
giao dịch qua internet và thẻ thông minh (smart) đang được mở rộng và các
dịch vụ mới (như bảo hiểm và kinh doanh chứng khoán) được tung ra hàng
năm. Nhìn chung, danh mục các dịch vụ đầy ấn tượng do ngân hàng cung cấp
tạo ra sự thuận lợi rất lớn cho khách hàng. Khách hàng có thể hoàn toàn thỏa
mãn tất cả các nhu cầu dịch vụ tài chính của mình thông qua một ngân hàng
và tại một địa điểm. Ở các nước có nền kinh tế phát triển, sản phẩm dịch vụ
ngân hàng có thể lên đến vài nghìn sản phẩm khác nhau còn ở các nước đang
phát triển, con số này chỉ ở hàng trăm.
1.1.3. Vai trò và xu hướng phát triển của ngành ngân hàng
1.1.3.1. Vai trò của ngân hàng đối với nền kinh tế
Thứ nhất, ngân hàng là trung gian tài chính trong nền kinh tế. Ngân
hàng đóng vai trò là cầu nối giữa người thừa vốn và người có nhu cầu về vốn.
Ngân hàng vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho

12
vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận tiền gửi và lãi
suất cho vay và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi
tiền và người đi vay. Đối với người gửi tiền, họ thu được lợi từ khoản vốn tạm

thời nhàn rỗi dưới hình thức lãi tiền gửi mà ngân hàng trả cho họ. Hơn nữa
ngân hàng còn đảm bảo cho họ sự an toàn về khoản tiền gửi và cung cấp các
dịch vụ thanh toán thuận tiện. Đối với người đi vay, họ sẽ thỏa mãn được nhu
cầu vốn kinh doanh tiện lợi, chắc chắn và hợp pháp, chi tiêu, thanh toán mà
không chi phí nhiều về sức lực, thời gian cho việc tìm kiếm những nơi cung
ứng vốn riêng lẻ. Đặc biệt là đối với nền kinh tế, ngân hàng huy động và tập
trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, đáp ứng được nhu cầu vốn
của nền kinh tế để sản xuất kinh doanh. Qua đó, ngân hàng thúc đẩy nền kinh
tế phát triển.
Thứ hai, ngân hàng là trung gian thanh toán. Ngân hàng đóng vai trò
là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện thanh toán theo yêu
cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán
tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền
thu từ việc bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Ngân hàng cung
cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm
chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng Tùy theo nhu cầu,
khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ đó
mà các chủ thể trong nền kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền
để gặp chủ nợ, gặp người phải thanh toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử
dụng một phương thức nào đó để thực hiện các khoản thanh toán, nhờ vậy mà
tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán an toàn.
Việc thanh toán qua ngân hàng đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc
độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế. Đồng
thời việc thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng đã giảm được lượng
tiền mặt trong lưu thông, nhờ vậy tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt như chi
phí in ấn, kiểm đếm, bảo quản.

13
Thứ ba, ngân hàng là công cụ thực hiện chính sách tiền tệ của ngân
hàng trung ương. Ngân hàng thương mại là một trong các chủ thể tham gia

vào quá trình cung ứng tiền, tạo ra một khối lượng phương tiện thanh toán rất
lớn trong nền kinh tế. Để thực hiện chính sách tiền tệ, ngân hàng trung ương
phải sử dụng các công cụ để điều tiết lượng trong lưu thông, nhằm đạt được
các mục tiêu của nền kinh tế vĩ mô, đặc biệt là mục tiêu ổn định tiền tệ. Phần
lớn các công cụ của chính sách tiền tệ chỉ được thực thi có hiệu quả với sự
hợp tác tích cực và có hiệu quả của các ngân hàng thương mại cũng như việc
chấp hành qui định dự trữ bắt buộc, quy chế thanh toán không dùng tiền mặt
và nâng cao hiệu quả cho vay và đầu tư.
1.1.3.2. Xu hướng phát triển của ngành ngân hàng
Mặc dù xảy ra cuộc khủng hoảng cho vay thế chấp dưới chuẩn tại Mỹ
và một số nền kinh tế phát triển khác trong thời gian gần đây, xét về dài hạn
ngành dịch vụ ngân hàng vẫn có tiềm năng phát triển rất lớn.
Xu hướng phát triển thứ nhất của ngành ngân hàng là hình thành các
tập đoàn tài chính - ngân hàng đa chức năng, có khả năng đáp ứng hầu hết các
nhu cầu về tài chính của khách hàng. Danh mục dịch vụ ngân hàng đang tăng
lên nhanh chóng. Nhiều loại hình tín dụng và tài khoản tiền gửi mới đang
được phát triển, các loại dịch vụ mới như tư vấn tài chính cá nhân, bảo hiểm,
thẻ thông minh được các ngân hàng nghiên cứu và cung cấp cho khách hàng.
Thực sự ngân hàng đã trở thành "bách hóa tài chính" ở kỷ nguyên hiện đại,
nơi hầu hết nhu cầu về tài chính của khách hàng được đáp ứng. Công việc hợp
nhất các dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm, môi giới chứng khoán… dưới một mái
nhà chính là xu hướng mà người ta thường gọi là Universal Banking ở Mỹ,
Canada và Anh, là Allginanz ở Đức, và Bancassurance ở Pháp [36].
Xu hướng thứ hai là áp dụng công nghệ thông tin hiện đại trong hoạt
động ngân hàng để đa dạng hóa dịch vụ ngân hàng và quản lý khách hàng, ví
dụ như hệ thống máy rút tiền tự động (ATM) cho phép khách hàng rút tiền,

14
chuyển khoản và thanh toán dịch vụ, các máy thanh toán tiền dịch vụ (POS)
lắp đặt tại các điểm bán hàng thay thế việc thanh toán bằng tiền mặt, dịch vụ

ngân hàng điện tử (e-banking) cho phép các giao dịch ngân hàng được thực
hiện qua internet mà khách hàng không cần phải trực tiếp đến giao dịch tại
ngân hàng hay hệ thống chấm điểm tín dụng khách hàng tự động. Do đó, ngân
hàng đang dần trở thành ngành kinh tế sử dụng ít lao động, sử dụng nhiều vốn
và chi phí cố định.
Như các ngành dịch vụ khác trong nền kinh tế, ngành ngân hàng cũng
chịu tác động của xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế. Toàn cầu hóa mang lại
cơ hội cho các ngân hàng phát triển vượt ra ngoài biên giới quốc gia và phát
triển trên quy mô toàn cầu. Vào những năm 80, các ngân hàng Nhật, dẫn đầu
là Dai-I Chi Kangyo Bank và Fuji Bank đã phát triển nhanh hơn hầu hết các
đối thủ cạnh tranh trên khắp thế giới. Các ngân hàng lớn đặt trụ sở tại Pháp
(dẫn đầu là Caisse Nationale de Credit Agricole), tại Đức (dẫn đầu là Deutsche
Bank) và tại Anh (dẫn đầu là Barclays PLC) cũng trở thành những đối thủ
nặng ký trên thị trường cho vay chính phủ và cho vay công ty. Ngày nay, các
ngân hàng lớn nhất thế giới cạnh tranh với nhau trên tất cả các lục địa. Công
nghệ hiện đại hỗ trợ hoạt động kinh doanh toàn cầu của các ngân hàng với chi
phí tối thiểu [36].
1.2. KHÁI QUÁT QUY ĐỊNH CỦA WTO VỀ DỊCH VỤ NGÂN HÀNG
Trong số các điều ước quốc tế đa phương điều chỉnh lĩnh vực thương
mại - dịch vụ, Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) của WTO là
điều ước quốc tế có phạm vi lớn nhất, có nhiều quốc gia thành viên tham gia
nhất. Mục tiêu của GATS là nhằm thiết lập các nguyên tắc và quy tắc của
thương mại - dịch vụ nhằm mở rộng thương mại - dịch vụ trong điều kiện
minh bạch và tự do hóa, ổn định các quan hệ thương mại thông qua các cam
kết về chính sách trên cơ sở nguyên tắc đối xử tối huệ quốc và đối xử
quốc gia.

15
1.2.1. Vị trí dịch vụ ngân hàng trong GATS
Kết cấu của GATS gồm: Lời nói đầu, Phần I - Phạm vi và định nghĩa,

Phần II - Các nghĩa vụ và nguyên tắc chung, Phần III - Những cam kết cụ
thể, Phần IV - Tự do hóa từng bước, Phần V - Những quy định về thể chế,
Phần VI - Điều khoản cuối cùng, Phần các Phụ lục, Phần Quyết định về cơ
chế của Hiệp định, Phần cuối cùng là thỏa thuận về các cam kết trong dịch vụ
tài chính.
Tại Điểm 5 Phụ lục về các dịch vụ tài chính của GATS đưa ra định
nghĩa về dịch vụ tài chính như sau: Dịch vụ tài chính là bất kỳ dịch vụ nào có
tính chất tài chính do một nhà cung cấp dịch vụ tài chính của một Thành viên
thực hiện. Dịch vụ tài chính bao gồm mọi dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên quan
tới bảo hiểm, mọi dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính khác (trừ bảo hiểm).
Qua định nghĩa trên ta thấy dịch vụ ngân hàng là một bộ phận của
dịch vụ tài chính. Do vậy, dịch vụ ngân hàng chịu sự điều chỉnh của các quy
định của GATS về dịch vụ tài chính, bên cạnh nhóm các quy định mang tính
chất nguyên tắc chung đối với thương mại - dịch vụ.
1.2.2. Nội dung dịch vụ ngân hàng theo quy định của GATS
Theo quy định tại Phụ lục của GATS về dịch vụ tài chính thì dịch vụ
ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác (trừ bảo hiểm) gồm:
i) Nhận tiền gửi hoặc đặt cọc và các khoản tiền có thể thanh toán khác
của công chúng;
ii) Cho vay dưới các hình thức, bao gồm tín dụng tiêu dùng, tín dụng
thế chấp, bao tiêu nợ và tài trợ các giao dịch thương mại;
iii) Thuê mua tài chính;
iv) Mọi dịch vụ thanh toán và chuyển tiền, bao gồm thẻ tín dụng, thẻ
thanh toán và báo nợ, séc du lịch và hối phiếu ngân hàng;
v) Bảo lãnh và cam kết;

16
vi) Kinh doanh tài khoản của mình hoặc của khách hàng, dù tại sở giao
dịch và trên thị trường không chính thức, hoặc các giao dịch khác về:
(A) công cụ thị trường tiền tệ (gồm séc, hối phiếu, chứng chỉ tiền gửi);

(B) ngoại hối;
(C) các sản phẩm tài chính phái sinh, bao gồm nhưng không hạn
chế các hợp đồng kỳ hạn (futures) hoặc hợp đồng quyền chọn (options);
(D) các sản phẩm dựa trên tỷ giá hối đoái và lãi suất, gồm các sản
phẩm như hoán vụ (swarps), hợp đồng tỷ giá kỳ hạn;
(E) chứng khoán có thể chuyển nhượng;
(F) các công cụ có thể chuyển nhượng khác và tài sản tài chính, kể cả
kim khí quý.
vii) Tham gia vào việc phát hành mọi loại chứng khoán, kể cả bảo
lãnh phát hành và chào bán như đại lý (dù công khai hoặc theo thỏa thuận
riêng) và cung cấp dịch vụ liên quan tới việc phát hành đó;
viii) Môi giới tiền tệ;
ix) Quản lý tài sản, như tiền mặt hoặc quản lý danh mục đầu tư, mọi
hình thức quản lý đầu tư tập thể, quản lý quỹ hưu trí, dịch vụ bảo quản, lưu
giữ và tín thác;
x) Các dịch vụ thanh toán và quyết toán tài sản tài chính, bao gồm chứng
khoán, các sản phẩm tài chính phái sinh và các công cụ thanh toán khác;
xi) Cung cấp và chuyển thông tin về tài chính, xử lý dữ liệu tài chính
và phần mềm liên quan của các nhà cung cấp dịch vụ tài chính khác;
xii) Các dịch vụ về tư vấn, trung gian môi giới và các dịch vụ tài chính
phụ trợ khác liên quan đến các hoạt động nêu từ điểm (iv) đến (xi), kể
cả tham khảo và phân tích tín dụng, nghiên cứu, tư vấn đầu tư và danh mục
đầu tư, tư vấn mua sắm và về cơ cấu lại hoặc chiến lược doanh nghiệp.

17
Đồng thời, Phụ lục của GATS còn khẳng định rõ: "Nhà cung cấp dịch
vụ tài chính" là pháp nhân hoặc thể nhân của một Thành viên muốn cung cấp
hoặc đang cung cấp những dịch vụ tài chính nhưng thuật ngữ "nhà cung cấp
dịch vụ tài chính" không bao gồm tổ chức công (Điểm 5.b).
Các dịch vụ ngân hàng được đề cập tại Phụ lục của GATS nêu trên là

các dịch vụ ngân hàng hiện đại. Đối với các quốc gia đang phát triển, việc gia
nhập GATS sẽ tạo điều kiện phát triển các dịch vụ ngân hàng mới, đa dạng
hóa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng bên cạnh các sản phẩm dịch vụ ngân
hàng truyền thống.
1.2.3. Phương thức cung ứng dịch vụ ngân hàng theo quy định
của GATS
Điều 1 của GATS nêu các phương thức cung cấp dịch vụ ngân hàng
như sau:
i) Phương thức cung cấp qua biên giới (Phương thức 1): là việc dịch
vụ ngân hàng được cung cấp từ lãnh thổ của một nước Thành viên đến lãnh
thổ của nước Thành viên nào khác. Theo phương thức này cả người cung
cấp dịch vụ và người sử dụng dịch vụ đều không di chuyển ra khỏi lãnh thổ
nước mình.
ii) Phương thức tiêu dùng ngoài lãnh thổ (Phương thức 2): là phương
thức mà người tiêu dùng của một thành viên di chuyển sang lãnh thổ của một
thành viên khác để sử dụng dịch vụ ngân hàng, còn người cung cấp dịch vụ
không ra khỏi lãnh thổ nước mình.
iii) Phương thức hiện diện thương mại (Phương thức 3): là phương
thức mà theo đó, nhà cung cấp dịch vụ của một thành viên thiết lập các hình
thức hiện diện như công ty 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh, chi
nhánh v.v trên lãnh thổ của một thành viên khác để cung cấp dịch vụ
ngân hàng.

18
iv) Phương thức hiện diện thể nhân (Phương thức 4): là phương thức
theo đó thể nhân cung cấp dịch vụ của một thành viên di chuyển sang lãnh thổ
của một thành viên khác để cung cấp dịch vụ ngân hàng (di chuyển thể nhân).
Đồng thời WTO cũng đưa ra các đối tượng thuộc diện "di chuyển thể
nhân", bao gồm ba đối tượng chính là: những người lưu chuyển trong nội bộ
công ty (intracorporate transferee), khách kinh doanh (business visitor) và

người chào bán dịch vụ (service salesperson), nhà cung ứng dịch vụ theo hợp
đồng (contractual services supplier).
1.2.4. Các nguyên tắc chung của GATS áp dụng đối với thương
mại - dịch vụ (bao gồm cả dịch vụ ngân hàng)
1.2.4.1. Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN)
Nguyên tắc này là nền tảng của hệ thống thương mại đa biên, được
quy định tại Điều II.1 của GATS như sau:
1. Đối với bất kỳ biện pháp nào thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp
định này, mỗi Thành viên phải ngay lập tức và không điều kiện dành cho dịch
vụ và các nhà cung cấp dịch vụ của bất kỳ Thành viên nào khác, sự đối xử
không kém thuận lợi hơn sự đối xử mà Thành viên đó dành cho dịch vụ và các
nhà cung cấp dịch vụ tương tự của bất kỳ nước nào khác.
2. Các Thành viên có thể duy trì biện pháp không phù hợp với quy
định tại khoản 1 của Điều này, với điều kiện là biện pháp đó phải được liệt kê
và đáp ứng các điều kiện của Phụ lục về các ngoại lệ đối với Điều II.
3. Các quy định của Hiệp định này không được hiểu là để ngăn cản
bất kỳ một Thành viên nào dành cho các nước lân cận những lợi thế nhằm tạo
thuận lợi cho việc trao đổi dịch vụ được tạo ra và tiêu thụ trong phạm vi giới
hạn của vùng biên giới.
Nội dung của nguyên tắc này là thành viên của WTO phải dành cho
tất cả các nước thành viên khác các điều kiện và ưu đãi như nhau, không được

19
phép phân biệt đối xử giữa các đối tác thương mại khác nhau. Nghĩa vụ MFN
trong GATS áp dụng cho bất kỳ "biện pháp" nào ảnh hưởng đến thương mại
dịch vụ trong bất kỳ ngành nào được quy định trong Hiệp định, cho dù ngành
đó có được đưa vào cam kết hay không. Do đó, nguyên tắc MFN áp dụng cho
tất cả các ngành dịch vụ và cho tất cả các thành viên WTO. Tuy nhiên, theo
Phụ lục của GATS về các ngoại lệ đối với Điều II, vào thời điểm Hiệp định
GATS có hiệu lực hoặc vào thời điểm gia nhập WTO, các Thành viên có thể

bảo lưu ngoại lệ của nguyên tắc MFN. Về nguyên tắc, ngoại lệ này không
được duy trì quá 10 năm, tuy nhiên trong thực tế, hầu hết các nước WTO đã
liệt kê các ngoại lệ MFN trong một khoảng thời gian không xác định.
Theo quy định của GATS, nguyên tắc MFN có một số ngoại lệ như sau:
Thứ nhất, Điều II.2 GATS cho phép các thành viên duy trì biện pháp
không phù hợp với nguyên tắc MFN với điều kiện là biện pháp đó được liệt kê
và đáp ứng các điều kiện nghiêm ngặt nêu tại Phụ lục về các ngoại lệ đối với
Điều II (phải đệ trình lên Hội đồng TMDV rà soát và xem xét các điều kiện cần
thiết để áp dụng biện pháp đó, thời gian áp dụng biện pháp đó không quá 10 năm).
Thứ hai, cơ chế thương mại giữa các nước thành viên WTO có đường
biên giới giáp nhau cho phép một nước thành viên được dành ưu đãi cho riêng
các nước láng giềng với mục đích là tạo điều kiện thúc đẩy trao đổi dịch vụ và
tiêu dùng tại khu vực biên giới.
Thứ ba, Điều V của GATS quy định thành viên WTO có quyền dành ưu
đãi cho các nước tham gia Hiệp định tự do hóa thương mại dịch vụ. Điều V (b)
cũng cho phép dành ưu đãi cho các nước tham gia Hiệp định về thiết lập thị
trường lao động hội nhập.
Theo thống kê của các nhà nghiên cứu, một số dạng ngoại lệ (miễn trừ)
MFN thường được các nước áp dụng trong thực tiễn là: (i) theo tiêu chí cơ sở
áp dụng: các miễn trừ dựa trên nguyên tắc có đi có lại và các miễn trừ theo
các điều ước quốc tế, (ii) theo tiêu chí loại biện pháp áp dụng: các miễn trừ

20
MFN liên quan đến di chuyển thể nhân, miễn trừ MFN về thuế và các miễn
trừ MFN liên quan tới hiện diện thương mại, các miễn trừ MFN về tiêu chuẩn
kĩ thuật, (iii) theo tiêu chí mục tiêu áp dụng: mục đích văn hóa và bảo tồn bản
sắc khu vực, hợp tác khu vực và hội nhập quốc tế, thực hiện chính sách công
nghiệp, môi trường và bảo tồn…
Đối với dịch vụ ngân hàng, nguyên tắc MFN được hiểu là nếu một
Thành viên cho phép và tạo điều kiện cho các ngân hàng nước ngoài nào đó

(kể cả nước không phải thành viên) hoạt động trên thị trường ngân hàng của
quốc gia mình, thì thành viên đó cũng phải cho phép và tạo điều kiện bình
đẳng như vậy cho ngân hàng của các thành viên khác hoạt động trên thị
trường, trừ khi Thành viên đó có những ngoại lệ MFN nêu trên.
1.2.4.2. Nguyên tắc đối xử quốc gia (NT)
Tại Khoản 1 Điều XVII của GATS quy định nguyên tắc đối xử quốc
gia như sau: Trong những lĩnh vực được nêu trong Danh mục cam kết, và tùy
thuộc vào các điều kiện và tiêu chuẩn được quy định trong Danh mục đó, liên
quan tới tất cả các biện pháp có tác động đến việc cung cấp dịch vụ, mỗi
Thành viên phải dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ của bất kỳ
Thành viên nào khác sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử mà Thành
viên đó dành cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của mình.
Theo quy định nêu trên, trong những lĩnh vực được ghi trong danh mục
cam kết và tùy thuộc vào các điều kiện được quy định tại danh mục đó, các
thành viên phải dành cho các dịch vụ và các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài
sự đối xử giống như họ dành cho dịch vụ và các nhà cung cấp dịch vụ tương
tự trong nước.
Giống như nguyên tắc tiếp cận thị trường, nguyên tắc này chỉ áp dụng
trong lĩnh vực mà Thành viên đã đưa ra cam kết cụ thể. Các Thành viên WTO
cũng có thể đưa ra các điều kiện trong quá trình đàm phán gia nhập WTO và
quy định trong cam kết của mình.

21
Đối với dịch vụ ngân hàng, nguyên tắc này đòi hỏi các quốc gia thành
viên đối xử như nhau giữa các ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng
trong nước.
1.2.4.3. Nguyên tắc minh bạch hóa
Minh bạch hóa là nguyên tắc quan trọng của tự do hoá đa phương,
được quy định tại các điều: Điều III, III.bis và IV.2 của GATS. Theo các quy
định này, các thành viên có nghĩa vụ công bố và thông báo nhanh chóng

những các sửa đổi văn bản pháp luật cũng như hướng dẫn hành chính có tác
động cơ bản đến thương mại dịch vụ thuộc phạm vi cam kết, thành lập các
điểm cung cấp thông tin (điểm hỏi đáp) để trả lời câu hỏi của các nước thành
viên liên quan đến cơ chế thương mại dịch vụ.
Nguyên tắc này cho phép phát hiện những hạn chế và những biện
pháp bảo hộ trái quy định của GATS, tạo điều kiện tốt hơn để các nhà cung
cấp dịch vụ tiếp cận thị trường các nước thành viên và cùng cạnh tranh.
Đối với dịch vụ ngân hàng, nguyên tắc này đòi hỏi các thành viên phải
công bố và thông báo nhanh chóng những thay đổi pháp luật liên quan đến
hoạt động ngân hàng, duy trì các điểm hỏi đáp và tiến hành rà soát các văn
bản pháp luật ngân hàng một cách công bằng.
1.2.4.4. Nguyên tắc tiếp cận thị trường
Đây là nguyên tắc thể hiện mức độ tự do hoá trên cơ sở các cam kết
của các nước thành viên, được quy định tại Điều XVI của GATS. Theo
nguyên tắc này, mỗi thành viên sẽ "dành cho các dịch vụ và các nhà cung cấp
dịch vụ của các thành viên khác sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử
theo những điều kiện, điều khoản và giới hạn đã được thoả thuận và quy định
tại Danh mục cam kết cụ thể". Cũng theo quy định của GATS, thì trừ khi
được quy định cụ thể trong Danh mục cam kết, các Thành viên sẽ không được
duy trì hoặc ban hành những biện pháp dưới đây dù là ở quy mô vùng hay
trên toàn lãnh thổ:

×