Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam trong tiến trình thực hiện các cam kết gia nhập WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 120 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT







Trịnh Thế Phương







PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH BẢO HIỂM CỦA VIỆT NAM TRONG
TIẾN TRÌNH THỰC HIỆN CÁC CAM KẾT GIA NHẬP WTO






LUẬN VĂN THẠC SĨ: LUẬT HỌC







Hà Nội - 2008

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





Trịnh Thế Phương






PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH BẢO HIỂM CỦA VIỆT NAM TRONG
TIẾN TRÌNH THỰC HIỆN CÁC CAM KẾT GIA NHẬP WTO



Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 60 38 60
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS.GVC: Nguyễn Lan Nguyên




Hà Nội - 2008
1
MỤC LỤC


NỘI DUNG TRANG
LỜI CAM ĐOAN
CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
LỜI NÓI ĐẦU 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH BẢO HIỂM 6
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển ngành KDBH trên thế giới 6
1.1.1. Lịch sử hình thành 6
1.1.2. Sự phát triển của ngành KDBH thế giới 10
1.1.3. Sự hình thành và phát triển ngành KDBH tại Việt Nam 17
1.2. Khái niệm và những nguyên tắc cơ bản trong KDBH 19
1.2.1. Khái niệm 19
1.2.2. Một số thuật ngữ chuyên ngành bảo hiểm 21
1.2.3. Các nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm 22
1.2.4. Các loại hình bảo hiểm 26
1.2.5. Các hình thức kinh doanh bảo hiểm 27
1.3. Vai trò của bảo hiểm đối với sự phát triển kinh tế – xã hội 30
1.3.1. Nhanh chóng bù đắp thiệt hại, khắc phục tổn thất gây ra cho đối tượng

thụ hưởng bảo hiểm khi gặp rủi ro được bảo hiểm 30
1.3.2. Tăng cường công tác đề phòng và hạn chế tổn thất xảy ra trong sinh
hoạt, sản xuất kinh doanh 31
1.3.3. Là kênh huy động vốn lớn để đầu tư trở lại nền kinh tế quốc dân 32
1.3.4. Ngành bảo hiểm góp phần hỗ trợ các khoản chi ngân sách nhà nước
cho nền kinh tế 32
1.3.5. Tạo tâm lý an tâm của tổ chức, cá nhân khi tham gia vào hoạt động
sản xuất kinh doanh, đặc biệt là những ngành nghề có hệ số rủi ro cao khi đã
thực hiện việc mua bảo hiểm 33
1.3.6. Góp phần đảm bảo an toàn vốn cho các ngành kinh tế khác, có khả
năng phục hồi nhanh sau khi xảy ra các thiệt hại 33
Kết luận chương 1: 34
Chương 2: NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH BẢO HIỂM Ở VIỆT NAM 35
2.1 Quy định pháp luật hiện hành về tổ chức và hoạt động kinh doanh bảo
hiểm 35
2.1.1. Hệ thống các văn bản pháp luật 35
2.1.2. Nguyên tắc áp dụng luật 37
2.1.3. Chủ thể tham gia thị trường bảo hiểm 37
2.1.4. Hoạt động của DNBH 42
2.1.5. Cơ cấu tổ chức DNBH 47
2.1.6. Đầu tư vốn của DNBH 48
2.1.7. Kiểm soát đối với DNBH mất khả năng thanh toán 50
2
2.1.8. Hợp đồng bảo hiểm 51
2.1.9. Giải thể, phá sản, thu hồi giấy phép hoạt động 52
2.2. Tác động của việc gia nhập WTO đến tổ chức và hoạt động kinh
doanh bảo hiểm tại Việt Nam 53
2.2.1. Nguyên tắc pháp lý nền tảng của WTO 53
2.2.2. Cam kết gia nhập WTO của Việt Nam lĩnh vực bảo hiểm 55

2.2.3. Tác động của cam kết gia nhập WTO vào ngành kinh doanh bảo hiểm
Việt Nam 59
2.2.4. Phát triển của ngành kinh doanh bảo hiểm Việt Nam sau 2 năm gia
nhập WTO 61
2.3. Những tồn tại, hạn chế của hệ thống pháp luật về tổ chức, hoạt động
kinh doanh bảo hiểm hiện nay 66
2.3.1. Cam kết gia nhập WTO ngành kinh doanh bảo hiểm phát sinh sự kiện
pháp lý mới chưa được pháp luật điều chỉnh 66
2.3.2. Một số quy định của pháp luật chưa có văn bản hướng dẫn triển khai
thực hiện 67
2.3.3. Điều kiện để DNBH nước ngoài đầu tư thành lập DNBH tại Việt Nam
thấp hơn so với tiêu chuẩn một số nước thành viên WTO 68
2.3.4. Quy định ràng buộc trách nhiệm của DNBH tham gia hoạt động đầu
tư chưa chặt chẽ 70
2.3.5. Bảo hiểm tương hỗ là một định chế phục vụ nhu cầu bảo hiểm của
người có thu nhập thấp chưa được chú trọng triển khai thực hiện một cách có
hiệu quả 70
2.3.6. Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong KDBH mức phạt còn nhẹ,
chưa đủ sức răn đe các hành vi vi phạm 71
2.3.7. Một số quy định, thuật ngữ pháp lý chưa được giải thích, hướng dẫn
cụ thể dẫn đến việc áp dụng không thống nhất giữa các DNBH 71
2.3.8. LKDBH còn chứa đựng những nội dung không còn hiệu lực thi hành
trên thực tế 72
Kết luận chương 2 73
Chương 3: TIẾP TỤC VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TỔ
CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH BẢO HIỂM 74
3.1. Kinh nghiệm phát triển ngành bảo hiểm của EU và Trung Quốc 74
3.1.1. Kinh nghiệm phát triển ngành KDBH các nước thuộc khối liên minh
Châu Âu (EU) 74
3.1.2. Kinh nghiệm phát triển bảo hiểm ở Trung Quốc 80

3.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về tổ chức và hoạt
động kinh doanh bảo hiểm 85
3.2.1. Cơ sở xây dựng và hoàn thiện pháp luật 85
3.2.2. Một số điểm cơ bản nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức và
hoạt động kinh doanh bảo hiểm 88
3.3. Giải pháp thực hiện 92
3.3.1. Về phía Nhà nước 92
3.3.2. Về phía Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam 97
3.3.3. Về phía các DNBH 98
3
Kết luận chương 3 100
KẾT LUẬN 101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 103


CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Từ viết tắt
Tiếng Anh
Tiếng Việt
BH

Bảo hiểm
DN

Doanh nghiệp
DNBH

Doanh nghiệp bảo hiểm
LKDBH


Luật kinh doanh bảo hiểm
ASEAN
Association of Southeast
Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á
EU
The European Union
Liên minh Châu Âu
IAIS
International Association
of Insurance Supervisors
Hiệp hội các cơ quan quản lý
bảo hiểm quốc tế
WTO
Word Trade Organazation
Tổ chức thương mại thế giới



DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ

I. DANH MỤC CÁC BẢNG

Tên bảng,
biểu
Nội dung
Trang
Bảng 1.1
Doanh thu bảo hiểm của các nước thuộc EU năm 2007

11
Bảng 1.2
Một số chỉ tiêu ngành bảo hiểm Châu Á 2004-2007 (USD)
15
Bảng 2.1
DNBH giai đoạn 2001 - 2008
62
Bảng 3.1
Tiêu chí xem xét đánh giá công ty bảo hiểm
76

II. DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Tên bảng,
biểu
Nội dung
Trang
Biểu đồ 2.1
Doanh thu phí bảo hiểm giai đoạn 2001-2007 (tỷ đồng)
63
Biểu đồ 2.2
Thị phần bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam 2007
64
Biểu đồ 2.3
Thị phần bảo hiểm nhân thọ Việt Nam 2007
65
Biểu đồ 2.4
Số lượng Công ty bảo hiểm một số nước Châu Á năm 2006
69
Biểu đồ 3.1

Sự phát triển các công ty bảo hiểm Trung quốc 2001-2006
80


1
MỞ ĐẦU

1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
a. Về lý luận
Ngày 11.01.2007, Việt Nam chính thức được Tổ chức Thương mại thế
giới (Word Trade Organization - WTO) kết nạp làm thành viên thứ 150 của tổ
chức này. Đây là kết quả đánh dấu sự thành công của Việt Nam trong hội
nhập kinh tế quốc tế, sự cố gắng nỗ lực của Việt Nam trong quá trình đàm
phán với tổ chức WTO và với các nước thành viên; đồng thời cũng chứng tỏ
thành quả của chúng ta trong phát triển kinh tế, sự ổn định về chính trị, tăng
trưởng kinh tế sau hơn 20 năm đổi mới, chuyển từ nền kinh tế tập trung, bao
cấp sang nền kinh tế thị trường.
Gia nhập WTO mở ra cho Việt Nam một cơ hội lớn trong giao thương,
hợp tác phát triển kinh tế, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Các
quy định ưu đãi dành cho các thành viên đang phát triển như Việt Nam, cơ chế
giải quyết tranh chấp giữa các thành viên, hệ thống các nguyên tắc như nguyên
tắc ưu đãi tối huệ quốc, đãi ngộ quốc gia, công khai minh bạch… là những thuận
lợi cơ bản cho Việt Nam trong quá trình hội nhập. Bên cạnh đó, chúng ta cũng sẽ
gặp nhiều khó khăn thách thức trên hầu hết các ngành, lĩnh vực sản xuất kinh
doanh. Đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục nghiên cứu, đề ra các giải pháp hoàn thiện
hệ thống chính sách, pháp luật vừa phù hợp với quy định của WTO, vừa thúc
đẩy ngành sản xuất, dịch vụ trong nước phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh
với nước ngoài, thu hút các nhà đầu tư chính đáng vào hoạt động tại Việt Nam.
Hội nhập kinh tế trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm là một phần không
tách rời trong lĩnh vực dịch vụ tài chính nói riêng và nền kinh tế nói chung. Tuy

nhiên, nó cũng có những điểm khác biệt so với các ngành khác do những nét đặc
thù riêng của ngành bảo hiểm. Theo phân loại của WTO thì bảo hiểm là một
trong ba phân ngành lớn của dịch vụ tài chính và thuộc ngành nhậy cảm của nền
kinh tế. Chính vì vậy, trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, lĩnh vực dịch vụ
2
bảo hiểm là một trong những lĩnh vực được các nước thành viên quan tâm và
yêu cầu cao về mức độ mở cửa thị trường này cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Nguyên nhân chính vì đây là ngành có thế mạnh của các nước phát triển, tiềm
năng khai thác thị trường bảo hiểm tại Việt Nam còn rất lớn, nhất là trong điều
kiện nền kinh tế tiếp tục có bước tăng trưởng tốt như hiện nay.
Kết quả đàm phán của Việt Nam đã đưa ra các cam kết được coi là ưu
đãi hơn nhiều so với các thành viên khác (ngay cả Campuchia là nước kém
phát triển hơn Việt Nam cũng chấp nhận cam kết mở cửa tự do hơn). Từ kết
quả đàm phán đó chúng ta có những thuận lợi cơ bản đó là:
- Lộ trình thực thi các cam kết cũng như những gì chúng ta đã chuẩn bị
trước đó giúp các công ty bảo hiểm trong nước chủ động tổ chức, sắp xếp lại
hoạt động, nâng cao năng lực cạnh tranh với các đối tác nước ngoài.
- Việc đa dạng hoá các loại hình kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam sẽ
làm cho thị trường sôi động hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của
người tham gia bảo hiểm.
- Công ty bảo hiểm trong nước có cơ hội học hỏi, nâng cao năng lực
quản lý và điều hành của các công ty bảo hiểm lớn trên thế giới khi tham gia
cùng hợp tác đầu tư.
Bên cạnh đó cũng có những khó khăn hạn chế cho các doanh nghiệp
bảo hiểm trong nước đó là:
- Thế mạnh về kinh doanh bảo hiểm của các nước phát triển là áp lực
cạnh tranh đối với các doanh nghiệp trong nước.
- Biến động về nhân sự giữa các công ty bảo hiểm, vì sự thâm nhập thị
trường Việt Nam kèm theo đó là việc các công ty nước ngoài thu hút nhân lực
có kinh nghiệm đang làm việc tại Việt Nam.

- Thị trường với sự có mặt của các công ty bảo hiểm có vốn đầu tư
nước ngoài là sức ép đối với các cơ quan quản lý nhà nước lĩnh vực này, bao
gồm yêu cầu phải đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng, khả năng giải quyết
3
tranh chấp, thị trường bị chia cắt là vấn đề khó khăn trong việc ngăn ngừa rủi
ro mang tính hệ thống.
b. Về thực tiễn
Hệ thống pháp luật về kinh doanh bảo hiểm Việt Nam được quy định
chủ yếu trong LKDBH và một số Luật khác như Bộ Luật dân sự, Luật hàng
hải, Luật hàng không dân dụng, Luật giao thông đường thuỷ nội địa và các
văn bản hướng dẫn thi hành thời gian qua đã góp phần ổn định và phát triển
thị trường bảo hiểm trong nước. Tốc độ tăng trưởng ngành dịch vụ bảo hiểm
đạt 23%/năm. Tính đến tháng 6/2008, toàn thị trường đã có 41 DN hoạt động
trong lĩnh vực bảo hiểm, gồm 23 DN bảo hiểm phi nhân thọ, 9 DN bảo hiểm
nhân thọ, 8 DN môi giới bảo hiểm và 1 DN tái bảo hiểm. Nhiều DNBH nước
ngoài được thành lập và hoạt động như AIG (Mỹ), Prevoir (Pháp), ACE life
(Mỹ), NewJork life (Mỹ), Daiichi (Nhật Bản). Phạm vi hoạt động của các DN
chủ yếu trên thị trường nội địa, doanh thu xuất khẩu các dịch vụ không cao,
đạt khoảng 0,5 triệu USD, chủ yếu là dịch vụ bảo hiểm hàng hoá xuất khẩu và
tái bảo hiểm [45].
Như vậy, pháp luật Việt Nam đã cho phép thành lập các doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài hoạt động từ trước khi chúng ta thực hiện cam kết gia
nhập WTO. Nhưng theo cam kết gia nhập WTO, phương thức kinh doanh bảo
hiểm không chỉ đơn thuần là thành lập các DNBH tại thị trường nội địa mà còn
có những phương thức kinh doanh khác như hoạt động của các chi nhánh, cung
cấp dịch vụ bảo hiểm qua biên giới mà không có sự hiện diện của các DN tại
Việt Nam. Những phương thức mới đó hiện nay chưa phát triển mạnh và chúng
ta cũng chưa có cơ chế để điều chỉnh, giám sát. Bên cạnh đó, tác động của hội
nhập làm cho các DN đẩy nhanh cạnh tranh nhằm chiếm lĩnh thị trường. Chất
lượng đang bị xếp thứ hai sau số lượng. Đằng sau sự cạnh tranh là sự vi phạm

các cam kết của các DNBH với nhau, vi phạm các quy định về cạnh tranh của
pháp luật.
4
Nhận thức tầm quan trọng của việc xây dựng cơ chế điều chỉnh của
pháp luật đối với lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, Chính phủ đã ban hành Nghị
quyết 16/2007/NQ-CP ngày 27/02/2007 đề ra chương trình hành động trong
thời gian tới, trong đó nêu: “Ngành tài chính cần phải điều chỉnh bổ sung các
quy định về điều kiện kinh doanh trong các lĩnh vực chứng khoán, ngân hàng,
bảo hiểm, quỹ đầu tư và các dịch vụ tài chính khác, phù hợp với chuẩn mực
và thông lệ quốc tế, góp phần nâng cao khả năng dự báo, phòng ngừa, giảm
thiểu các rủi ro và bất ổn có thể xảy ra, bảo đảm sự phát triển lành mạnh,
hiệu quả của thị trường tài chính tiền tệ”.
Tháng 3/2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định 45, 46 sửa đổi Nghị
định 42, 43 năm 2001 hướng dẫn LKDBH. Đồng thời Bộ Tài chính cũng đã
có các Thông tư, Quyết định triển khai các sản phẩm bảo hiểm mới, phù hợp
với cam kết gia nhập WTO. Tuy nhiên, trước sức ép phát triển của thị trường
tài chính hiện nay cũng như so sánh với các chuẩn mực quốc tế chúng ta vẫn
còn nhiều hạn chế, tồn tại. Để tạo đà cho sự phát triển, phát huy thế mạnh
hiện có của các doanh nghiệp trong nước yêu cầu đặt ra hiện nay là phải có hệ
thống pháp luật hoàn thiện, đủ mạnh để kiểm soát được hoạt động đa dạng
của các DNBH, tạo điều kiện để các DN cạnh tranh lành mạnh. Đảm bảo
quyền lợi của người tiêu dùng các sản phẩm bảo hiểm. Việc nghiên cứu và
tiếp tục sửa đổi, bổ sung hoàn thiện luật kinh doanh bảo hiểm là yêu cầu hết
sức cấp thiết.
Để góp phần trong việc nghiên cứu, đưa ra các định hướng và giải pháp
hoàn thiện pháp luật về kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam trong thời gian tới,
tác giả chọn đề tài luận văn tốt nghiệp là: “Pháp luật về tổ chức và hoạt
động kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam trong tiến trình thực hiện các
cam kết gia nhập WTO”. Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung đề tài
được chia thành 3 chương gồm:

5
Chƣơng 1. Những vấn đề chung về tổ chức và hoạt động kinh doanh
bảo hiểm.
Chƣơng 2. Nội dung chủ yếu của pháp luật về tổ chức và hoạt động
kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam.
Chƣơng 3. Tiếp tục việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về tổ chức và
hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
2. Mục đích của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm tìm hiểu, cung cấp cho người đọc
những kiến thức pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bảo hiểm của
Việt Nam hiện hành và định hướng hoàn thiện do tác động của cơ chế hội
nhập cũng như đáp ứng sự phát triển của kinh tế-xã hội Việt Nam hiện nay.
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ đặt ra là:
- Nghiên cứu các quy định của WTO liên quan đến ngành KDBH.
- Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về tổ chức và hoạt động
kinh doanh bảo hiểm.
- Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển ngành bảo hiểm trên thế
giới, tình hình phát triển của ngành kinh doanh bảo hiểm Việt Nam hiện nay,
thực trạng pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này. Từ đó đề ra các giải pháp hoàn
thiện trong thời gian tới. Đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thị trường này cũng
như các cam kết gia nhập WTO.
3. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của các loại hình
kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam; không bao gồm các tổ chức bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tiền gửi và các loại bảo hiểm do Nhà nước thực
hiện không nhằm mục đích kinh doanh.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn thị trường bảo hiểm các khu vực trên
thế giới, kinh nghiệm pháp luật của các nước EU và Trung Quốc, so sánh đối
6

chiếu với các quy định của pháp luật hiện hành của Việt Nam. Tìm ra những
điểm tương đồng và khác biệt, đánh giá vị trí ngành bảo hiểm Việt Nam so
với thế giới và khu vực. Sử dụng kết hợp các phương pháp tổng hợp, thống kê,
so sánh, phân tích để nghiên cứu và giải quyết các vấn đề. Dùng phương pháp
suy luận và tư duy biện chứng để đưa ra các đề xuất mang tính định hướng về
pháp luật kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam.
7
Chƣơng 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỔ CHỨC
VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH BẢO HIỂM
*******************
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển ngành kinh doanh bảo hiểm trên
thế giới:
1.1.1. Lịch sử hình thành:
Ngay nay, bảo hiểm là một ngành kinh doanh chiếm vị trí quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân, các Công ty bảo hiểm có quy mô và phạm vi hoạt
động rất rộng với bề dầy lịch sử tồn tại và phát triển. Đặc biệt đối với các
nước phát triển, có những Công ty bảo hiểm đã tồn tại và phát triển hàng trăm
năm, đảm nhận trách nhiệm bảo hiểm, tái bảo hiểm cho nhiều Công ty lớn
khác ở nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa ai có thể xác
định chính xác nguồn gốc của bảo hiểm bắt đầu từ bao giờ. Nhưng một điều
không thể phủ nhận đó là các hoạt động sơ khai, mang tính bảo hiểm đã có từ
rất lâu. Các hoạt động đó nhằm đáp ứng nhu cầu bảo vệ cuộc sống con người
ở mọi nơi, mọi lúc trước những rủi ro trong cuộc sống. Cùng với sự phát triển
của xã hội, các nhu cầu trở nên đa dạng và phức tạp hơn, cả về quy mô, mức
độ và thời hạn. Theo đó, các hoạt động để đáp ứng nhu cầu bảo hiểm cũng
phát triển một cách tương ứng. Các hoạt động này dần dần được tổ chức ngày
càng có quy chuẩn và chuyên nghiệp hơn, có sự ràng buộc chặt chẽ giữa các
đối tượng tham gia hoạt động này và có tên gọi chung là bảo hiểm.
Đúc rút từ quá trình hình thành và phát triển của hoạt động của con

người mang bản chất của hoạt động bảo hiểm, các nhà nghiên cứu chia hình
thái bảo hiểm trong lịch sử phát triển thành 3 giai đoạn cơ bản đó là: Dự trữ
thuần túy, cho vay nặng lãi và thỏa thuận ràng buộc trách nhiệm các bên.
8
1.1.1.1. Dự trữ thuần túy:
Xuất hiện từ thời Cổ đại, khi người nông dân nhận thấy rằng đôi khi xảy
ra mất mùa hoặc quân xâm lược ngăn cản người dân thu hoạch mùa màng.
Mặc dù mỗi hộ dân có thể tự dự phòng cho gia đình họ, nhưng họ sớm nhận
ra rằng việc dự trữ chung hoặc theo cộng đồng có hiệu quả hơn. Mỗi người có
khả năng sẽ đóng vào một khoản nhỏ những năm được mùa, khi giá lương
thực xuống thấp. Và khi xảy ra các rủi ro làm giá lương thực lên cao, kho dự
trữ sẽ thực hiện việc cấp lương thực cho các hộ dân, góp phần ổn định được
đời sống trong cộng đồng dân cư. Hoặc điển hình như vào những năm 2.500
trước công nguyên (TCN), ở Ai Cập những người thợ đẽo đá đã biết thiết lập
quỹ để giúp đỡ những người trong hội bị tai nạn.
Trong hình thái này, giữa các chủ thể tham gia không nhằm mục đích
lợi nhuận mà nhằm hỗ trợ giữa các thành viên trong cộng đồng. Một phần do
việc tạo lập các quỹ là hoàn toàn tự nguyện giữa các thành viên. Ngoài ra, do
quy mô hoạt động của quỹ nhỏ, chủ yếu là những người có quan hệ gắn bó
mật thiết về mặt huyết thống, trong phạm vi nhỏ hẹp nên yếu tố lợi nhuận
chưa được đề ra [39,tr.37]
1.1.1.2. Bảo hiểm dưới hình thức cho vay nặng lãi:
Song song với việc phát triển của hoạt động ngân hàng để phục vụ mục
đích tiêu dùng và sản xuất kinh doanh, mở rộng thương mại và buôn bán giữa
các quốc gia, các vùng, các Châu lục. Ở Babylon (khoảng l.700 năm TCN) và
AThen (khoảng 500 năm TCN), các hoạt động buôn bán, vận chuyển hàng
hoá trên biển, qua sa mạc, giữa các thương nhân đã hình thành nên một điều
kiện vay vốn đặc thù, và có thể coi đó là một hình thái của bảo hiểm. Theo đó,
khi hàng hóa bị mất trong quá trình vận chuyển thì người đi vay sẽ không
phải trả khoản tiền đã vay. Chình bởi đặc điểm: khi gặp rủi ro người vay

9
không phải hoàn trả khoản tiền đã vay, làm bản chất của hoạt động này không
phải là hoạt động vay vốn tín dụng mà là một loại hình bảo hiểm lúc sơ khai.
Khiếm khuyết của hệ thống này là lãi suất hà khắc, có khi lên đến 50% và
phải trả trước một lần.
Hoạt động cho vay mạo hiểm lớn này tồn tại khá lâu và phổ biến ở nhiều
khu vực trên thế giới, tại Rôme nó kéo dài đến tận thời kỳ Trung cổ – thời kỳ
thống trị của nhà thời Thiên chúa giáo [39, 44].
1.1.1.3. Thỏa thuận ràng buộc trách nhiệm và quyền lợi của các bên:
Bảo hiểm dưới dạng cho vay nặng lãi đã bị lạm dụng và vào năm 1434,
Giáo hoàng Grégoire IX đã ra sắc lệnh cấm hình thức này. Đồng thời, vào
cuối thế kỷ XV, khi các thương gia Châu Âu thực hiện những chuyến đi khai
phá tới Châu Á và Châu Mĩ, mở đường cho “cuộc cách mạng thương mại”. Ý
tưởng về rủi ro và thành lập một quỹ chung đã xuất hiện cùng một lúc. Khi
những đội tàu tìm cách đi từ Châu Âu tới Inđônêxia để mua bán hàng hoá. Có
những tàu trở về với nhiều loại hàng hoá hấp dẫn, song lại có những chuyến
tàu không hoàn thành chuyến đi của mình do gặp bão biển, cướp biển, hư
hỏng tàu, hàng hoá trong quá trình vận chuyển. Những người tham gia các
chuyến đi thấy sự cần thiết phải cùng nhau chia sẻ rủi ro để tránh tình trạng bị
mất trắng. Dẫn đến nhu cầu có một sự thoả thuận ràng buộc trách nhiệm và
quyền lợi giữa các bên có liên quan. Từ những thoả thuận đó, có 2 phương
pháp đã được đưa ra để thực hiện đó là:
* Hình thức cổ phần.
Chuyến hàng được tạo lập bằng sự đóng góp của nhiều người. Mỗi
người góp một phần nào đó (bằng tiền hoặc hàng hóa) và cùng chịu trách
nhiệm theo phần đóng góp đó. Khi chuyến hàng về đến đích, lợi nhuận sẽ
được chia cho mọi người theo tỷ lệ đóng góp cổ phần. Nếu chuyến hàng
10
chẳng may gặp rui ro thì hậu quả thiệt hại cũng được chia sẻ cho nhiều người.
Hình thức này giảm được gánh nặng tổn thất cho nhiều người cùng gánh chịu.

Nhưng nó vẫn bộc lộ nhiều hạn chế như: kêu gọi cho đủ người tham gia góp
cổ phần sẽ mất nhiều thời gian, phải dàn xếp thỏa thuận chia sẻ trách nhiệm
và quyền lợi
* Hình thức thông qua tổ chức bảo hiểm chuyên nghiệp.
Hình thức này có sự tham gia của bên trung gian, ngoài các thành viên có
nhu cầu trực tiếp, còn có các Công ty, thương nhân làm dịch vụ (Người bảo hiểm).
Theo hình thức này, các nhà buôn, chủ tàu chấp nhận trả một khoản
tiền nhất định, nếu hàng hóa, tàu thuyền không đến được nơi giao hàng do
một số nguyên nhân nhất định thì bên người bảo hiểm sẽ trả một khoản tiền
nhằm bù đắp cho những thiệt hại đã xảy ra. Bút tích bản hợp đồng bảo hiểm cổ
nhất còn lưu lại được phát hành tại thành phố cảng Gênes - Italia, vào năm 1347.
Năm 1424, cũng tại cảng Gênes, công ty bảo hiểm đầu tiên của ngành vận tải
đường biển và đường bộ được thành lập. Sau bảo hiểm hàng hải, tiếp đến là sự ra
đời của các loại bảo hiểm khác:
- Bảo hiểm hỏa hoạn: Vụ cháy lớn ở London - Anh vào năm 1666 đã thiêu
hủy trên 13.000 tòa nhà, trong đó có 87 nhà thời là thảm họa lớn nhất từ trước cho
đến thời điểm đó. Nhu cầu về cơ chế bảo hiểm cho tài sản trước rủi ro cháy dẫn
tới sự ra đời của các công ty bản hiểm trong lĩnh vực hỏa hoạn. Năm 1684, Công
ty bảo hiểm hỏa hoạn đầu tiên đã ra đời ở nước Anh, lấy tên là Friendly Society
Fire Office, hoạt động trên nguyên tắc hỗ trợ, với hệ thống phí cố định, người
được bảo hiểm phải chịu một phần thiệt hại xảy ra. Tiếp sau đó, nhiều công ty bảo
hiểm cháy khác tiếp tục ra đời ở Anh như Amicable (1696), Sun (1710, Union
(1714). Tại Pris, Pháp, văn phòng đại diện bảo hiểm mang tên “La Royal
Incendie” được thành lập năm 1786 [47,tr.39].
11
- Bảo hiểm nhân thọ: Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cổ xưa nhất được
lưu giữ đến ngày nay được ký năm 1583 tại London. Công ty bảo hiểm nhân
thọ đầu tiên là Equitable được thành lập ở Anh vào năm 1762. Sản phẩm bảo
hiểm đầu tiên công ty này cung cấp là hợp đồng bảo hiểm trọn đời.
- Các loại bảo hiểm khác: Cuối thế kỷ 19, cùng với sự phát triển của

nền sản xuất đại công nghiệp cơ khí, hàng loạt các nghiệp vụ bảo hiểm đã
xuất hiện và phát rất nhanh như bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm ô tô, máy bay, bảo
hiểm trách nhiệm dân sự [39, 47].
1.1.2. Sự phát triển ngành KDBH thế giới:
1.1.2.1. Thị trường bảo hiểm Châu Âu:
Châu Âu được mệnh danh là cái nôi của bảo hiểm hiện đại, với bề dày
kinh nghiệm và quy mô tổ chức lớn nhất thế giới, tốc độ phát triển nhanh, ổn
định với nhiều tập đoàn bảo hiểm hàng đầu thế giới như AXA, UAP (Pháp),
Allianz (Đức), Prudential (Anh).
Nổi bật trong khu vực là hoạt động kinh doanh bảo hiểm thuộc các
nước EU cũ
1
, tính riêng năm 2007, tổng phí bảo hiểm các nước này đạt 1,4 tỷ
Euro, bằng 8,64% GDP, phí bảo hiểm bình quân đầu người đạt 2.447 Euro.
Trong đó, tỷ trọng nguồn thu phí từ bảo hiểm nhân thọ cao hơn so với bảo
hiểm phi nhân thọ, với tỷ lệ đạt 61% [xem bảng 1.1].
Đối với bảo hiểm phi nhân thọ, hai sản phẩm đóng vai trò chủ chốt là
bảo hiểm xe cơ giới và bảo hiểm tài sản với tỷ trọng trung bình 55-60% (ví dụ
như ở Bun ga ry năm 2007 là 60,3%, Ba Lan 62,4%, Hung ga ry 58,3%; bình
quân phí bảo hiểm tài sản chiếm tỷ lệ từ 18-25% (Bungary năm 2007 là 25%,
Ba Lan 18%, Hung ga ry 29,5%). Đối với các nước EU cũ, phí bảo hiểm được
12
dàn đều hơn cho các sản phẩm, trong đó, phí bảo hiểm xe cơ giới bình quân
hàng năm là 30% và bảo hiểm tài sản là 20%.
Bảng 1.1. Doanh thu bảo hiểm của các nƣớc thuộc EU năm 2007
Nƣớc
GDP/ngƣời
(Euro)
Dân số
(Triệu

ngƣời)
Phí
BH/GDP
(%)
Phí
BH/dân
số (Euro)
Tổng phí
BH (Triệu
Euro)
Tỷ lệ phí
BHNT/tổng
phí BH (%)
Bun ga ri
7,769
7.7
2.55
74.7
577
13
CH Séc
16,626
10.2
3.98
406.1
4,139
38
Estonia
12,461
1.3

2.4
200.6
268
32
Hung ga ry
14,263
10.1
3.08
284.0
2,859
44
Lát vi a
11,466
2.3
1.79
107.1
247
7
Lát vi
12,019
3.4
1.47
93.2
319
28
Ba Lan
11,364
38.5
3.16
208.3

8,027
42
Ru ma ni
7,633
21.7
1.53
59.1
1,284
21
S lô va ki a
12,920
5.4
3.66
267.5
1,445
37
S lô ven ni a
18,819
2.0
5.65
831.4
1,636
30
Bình quân

102.6
3.26
200.6
20,801
38

Bình quân 15
nước EU cũ

372.2
8.64
2.447
1,384,401
61
(Nguồn: Word Insurance report 2007 – www.capgemini.com)
Thị trường bảo hiểm ở Châu âu có đặc điểm chung là:
- Kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm nhân thọ thông qua hình thức
phối hợp giữa công ty bảo hiểm và ngân hàng (Bancassurance) chiếm ưu thế
hơn so với kênh phân phối truyền thống. Tỷ lệ thu phí bảo hiểm nhân thọ qua
kênh phân phối này năm 2007 ở Tây Ban Nha chiếm 72%, Pháp 62%, Italia
59%, Bỉ 58%, Đức 25%, Hà Lan 22%[76]


Các nước thuộc EU cũ (gia nhập trước 1995) có 15 nước gồm: Áo, Bỉ, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Đức,
Hy Lạp, Ai Len, Italia, Hà Lan, Lúc xăm bua, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thuỵ Điển, Anh.
13
- Nhiều thị trường bảo hiểm trưởng thành trở nên bão hoà, và về cơ
bản, hầu hết các nhu cầu bảo hiểm hiện nay của khách hàng đã được đáp ứng.
Do đó, số lượng hợp đồng bảo hiểm không tăng mạnh trong những năm gần
đây. Trung bình, khách hàng ở thị trường này sở hữu 5,2 hợp đồng bảo hiểm,
trong đó 1,5 hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, 3,7 hợp đồng bảo hiểm phi nhân
thọ và họ nắm giữ cùng một mức tham gia bảo hiểm trong 9,2 năm [63] .
- Thị trường bảo hiểm Châu Âu đang chuyển dần từ trạng thái tĩnh sang
trạng thái động, thể hiện qua việc thay đổi các hợp đồng bảo hiểm của khách
hàng tăng lên ở một số quốc gia. Ví dụ như ở Anh, tỷ lệ thay đổi bình quân
trong 5 năm 2003-2007 đối với các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là 10%, hợp

đồng bảo hiểm phi nhân thọ là 63%. Mỗi khách hàng thay đổi bình quân 3
năm cho một hợp đồng bảo hiểm ôtô và 5 năm cho hợp đồng bảo hiểm nhà,
tài sản. Nguyên nhân chủ yếu do sự cạnh tranh phí bảo hiểm, khách hàng
muốn lựa chọn công ty có độ an toàn cao hơn, lựa chọn loại sản phẩm bảo
hiểm mới phù hợp hơn [64].
- Theo nghiên cứu của các chuyên gia bảo hiểm thời gian qua, khách
hàng của ngành bảo hiểm được chia thành 4 nhóm gồm: Khách hàng truyền
thống, khách hàng cơ hội, khách hàng trung lập và khách hàng trung bình.
Tâm lý khách hàng đang có sự ưu tiên nhiều cho Internet và có nhiều khả
năng kênh phân phối truyền thống sẽ sớm bị thay thế bởi các kênh phân phối
trực tuyến.
- Dân số các nước Châu Âu đang ngày càng già đi, số dân ở độ tuổi 65
và trung bình dân số trong độ tuổi từ 15-65 hiện nay có tỷ lệ từ 25-30% và
ước tính đến năm 2050 sẽ ở con số 50%, điển hình như nước Italia, Thổ Nhĩ
Kì con số này là xấp xỉ 70% [64]. Do đó, trong tương lai ngành bảo hiểm sẽ
14
đẩy mạnh hướng kinh doanh phù hợp với độ tuổi của dân số trong tương lai
như đẩy mạnh các hoạt động đầu tư vào dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, giải trí…
- Các Công ty bảo hiểm ở thị trường bão hoà đang tập trung mở rộng
thị trường thông qua việc đầu tư góp vốn liên doanh hoặc thành lập các Công
ty bảo hiểm ở thị trường tiềm năng (đặc biệt là khu vực Châu Á) hoặc thực
hiện các vụ mua bán, sáp nhập doanh nghiệp nhằm tạo lập các doanh nghiệp
lớn, có uy tín để thu hút khách hàng ở thị trường bão hoà chuyển các hợp
đồng bảo hiểm sang các công ty lớn. Những vụ mua bán lớn đã được chuẩn bị
và thực hiện phổ biến từ năm 2006, ví dụ như vụ Công ty bảo hiểm
Assicurazioni Generali SpA mua Công ty bảo hiểm Toro Assicurazioni SpA
tại Italia với trị giá 3.850 triệu Euro và mới đây (9/2008) là việc Tập đoàn bảo
hiểm AXA của Pháp, là Công ty bảo hiểm lớn thứ ba thế giới (sau AIG của
Mỹ và ING của Anh) đã công bố mua lại đối tác Winter thur, một công ty bảo
hiểm lớn thứ hai của Thuỵ sỹ và có thị trường ở 17 quốc gia khác [68]. Mục

tiêu của AXA là để củng cố hoạt động kinh doanh tại Châu Á và tăng cường
xâp nhập vào các thị trường đang phát triển mà hiện nay Winter thur đang
chiếm lĩnh.
1.1.2.2. Thị trường bảo hiểm Châu Mỹ:
Thị trường bảo hiểm Châu Mỹ được chia thành Bắc Mỹ và Mỹ La Tinh,
trong đó phát triển mạnh mẽ nhất phải kể đến là ngành bảo hiểm Mỹ và
Canada.
- Thị trƣờng bảo hiểm Mỹ: Là thị trường bảo hiểm có quy mô lớn nhất
thế giới với gần 6.000 công ty bảo hiểm tham gia, trong đó có hơn 150 công
ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp, điển hình là các tập đoàn hàng đầu thế giới
như AIG, Metropolitan Life, Newyork Life…[20,tr.183]. Năm 2007, doanh
15
thu phí bảo hiểm của Mỹ đạt 1.668 tỷ USD, bằng 9% GPD nước Mỹ và chiếm
41% tổng doanh thu phí bảo hiểm toàn thế giới [63].
- Thị trƣờng bảo hiểm Canada: Thị trường bảo hiểm Canada là một
trong 10 nước phát triển của thế giới, doanh thu phí bảo hiểm năm 2007 đạt
100.398 triệu USD, bằng 7% GDP, chiếm 2,47% tổng phí bảo hiểm thế giới.
Thị trường bảo hiểm ở đây có sự pha trộn, đan xen giữa đặc tính của Mỹ và
Anh. Số lượng công ty bảo hiểm nước ngoài chiếm tỷ trọng lớn, xấp xỉ 60%,
chủ yếu từ Anh, Mỹ, Hà Lan, Pháp, Thuỵ sỹ [47,63].
- Thị trƣờng bảo hiểm Châu Mỹ La Tinh: Do ảnh hưởng của cơ chế
ngặt nghèo về việc thành lập công ty bảo hiểm và sự áp đặt, điều kiện, biểu
phí bảo hiểm, tỷ lệ hoa hồng trả cho các trung gian bảo hiểm đối với các công
ty bảo hiểm trong một thời gian dài, nên thị trường bảo hiểm ở đây còn kém
phát triển, tỷ lệ phí bảo hiểm trên GDP bình quân hàng năm chỉ đạt 1%. Phát
triển mạnh nhất ở khu vực là Baraxin với tổng thu phí bảo hiểm năm 2007 đạt
38.786 triệu USD, tăng 27,7% so với năm 2006, chiếm 3%GDP; sau đó là thị
trường bảo hiểm Mexico, Chilê [47,63].
1.1.2.3. Thị trường bảo hiểm Châu Á - Thái Bình Dương:
Do trình độ phát triển kinh tế, kết cấu hạ tầng hoạt động kinh doanh và

môi trường pháp lý có nhiều hạn chế hơn so với Châu Âu, ngành bảo hiểm
khu vực Châu Á - Thái Bình Dương có lịch sử phát triển chậm hơn khu Châu
Âu. Tuy nhiên, với tốc độ tự do hoá, mở cửa thị trường trong khu vực ngày
càng tăng, thị trường bảo hiểm thời gian qua phát triển khá mạnh mẽ và có tác
động sâu sắc đến thị trường truyền thống của các nước. Sự phát triển thị
trường bảo hiểm khu vực này có thể đánh giá ở một số điểm sau:
- Tốc độ phát triển ngành bảo hiểm những năm gần đây đạt khá cao, bình
quân hàng năm từ 10-15% với thị trường phát triển mạnh mẽ nhất là Nhật
16
Bản, Hàn Quốc, Hồngkông, Đài Loan, Singapore, Trung Quốc. Riêng tổng
phí bảo hiểm của Nhật bản năm 2007 đạt 424,83 tỷ USD, chiếm 10,46% tổng
phí bảo hiểm thế giới, đứng thứ 3 sau Mỹ và Anh. Tuy nhiên, sự chênh lệch
giữa các nước phát triển trong khu vực so với các nước đang phát triển như
Việt Nam, Philippin, Inđônêxia đang còn một khoảng cách khá xa (Chi tiết
xem bảng 1.2) [77].
Bảng 1.2. Một số chỉ tiêu ngành bảo hiểm Châu Á 2004-2007 (USD)
T
T
Quốc gia
2004
2005
2006
2007

USD/
người
Tổng
phí
(triệu
USD)


USD/
Người
Tổng
phí
(triệu
USD)

USD/
Người
Tổng
phí
(triệu
USD)

USD/
Người
Tổng
phí
(triệu
USD)
1
Nhật Bản
3874
492425
3746,7
47648
3589,6
460261
3320

424832
2
Hàn Quốc
1419,3
68623
1706,1
82933
2071,3
101179
2384
116990
3
Trung Quốc
40,2
52171
46,3
60131
53,5
70805
69,6
92487
4
Đài Loan
1909
43236
2145,5
49005
2250,2
51562
2628

60446
5
Hồngkông
2217,2
15260
2544,9
17639
2787,6
19842
3373
24307
6
Singapore
1849
9696
1983,4
10234
1957,7
10776
2776
14179
7
Malaysia
256,5
6453
283,3
7227
292,2
7537
332

8824
8
Thái Lan
92
5747
99
6376
110
7128
129,7
8285
9
Inđônêxia
15,5
3381
19,4
4271
21,5
4849
30
6938
10
Philippin
15,6
1292
17,2
1443
20,7
1751
23,9

2105
11
Việt Nam
11
788
10,1
854
11
937
11,8
1027
(Nguồn: World Insurance report 2004-2007- website: www.Swissre.com)
- Các sản phẩm bảo hiểm ngày càng đa dạng và được cải tiện phù hợp
với chuẩn hoá của quốc tế. Đặc biệt là sản phẩm liên kết đầu tư (Unit-link)
được sự chấp nhận và ưa chuộng của khách hàng. Hiện nay, sản phẩm này
đang được coi là sản phẩm chính của thị trường Châu Á, với giá trị tài sản đầu
17
tư của các quỹ hình thành từ sản phẩm này năm 2007 đạt 166 tỷ USD, tăng
xấp xỉ 8 lần so với năm 2003 (19,5 tỷ USD), và dự kiến sẽ tăng gấp đôi lên
309 tỷ USD vào năm 2019 [80].
- Đối với bảo hiểm phi nhân thọ, nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới vẫn
chiếm vị trí chủ đạo trên thị trường do hầu hết các nước đều quy định chế độ
tham gia bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Doanh thu
phí bảo hiểm từ sản phẩm này hàng năm chiếm trung bình từ 50-70% tổng
doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ [79].
- Kênh phân phối phối hợp giữa ngân hàng-bảo hiểm (bancassurance),
đang dần chiếm ưu thế. Điển hình là tại Malaysia với tỷ lệ thu phí qua kênh
này năm 2005 đạt 45%, Đài Loan, Hồng Kông đạt 39%, Singapore 33%, các
nước khác như Ấn Độ, Hàn Quốc, Thái Lan, Inđônêxia đạt 22%
2

.
- Quá trình tự do hoá cạnh tranh ngày càng được các nước nới rộng, tạo
điều kiện cho sự liên doanh, liên kết giữa các Công ty bảo hiểm trên thế giới
và sự thâm nhập thị trường của các doanh nghiệp bảo hiểm lớn. Quá trình tự
do hoá đó được thực hiện thông qua các cam kết khu vực và đặc biệt là cam
kết gia nhập WTO.
- Mô hình quản lý các doanh nghiệp bảo hiểm ngày càng chuyên
nghịêp hơn thông qua sự chuyển đổi cơ chế quản lý vốn dựa trên khả năng
thanh toán sang cơ chế quản lý dựa trên phân tích rủi ro (risk-based capital
regulatory regime). Theo đó, các doanh nghiệp bảo hiểm phải đạt yêu cầu tối
thiểu về vốn sao cho phù hợp với loại hình kinh doanh hoạt động và cơ cấu
rủi ro của doanh nghiệp. Các nước như Nhật Bản, Singapore, Đài Loan đã áp
dụng cơ chế này và ở Việt Nam, năm 2007, Bộ Tài chính cũng đã ban hành


2
Xem tạp chí Insurancedigest 2007 trên website: www.pwc.com
18
thông tư 156 quy định về chế độ tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm theo
hướng áp dụng cơ chế này
3
.
- Bên cạnh những thuận lợi, bảo hiểm khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương cũng có những hạn chế nhất định. Sự cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp bảo hiểm diễn ra gay gắt, kể cả hình thức cạnh tranh hợp pháp và bất
hợp pháp. Sự cạnh tranh đó bên cạnh những mặt tích cực, đem lại lợi ích cho
người tham gia bảo hiểm thì cũng chứa đựng những rủi ro cho chính các
doanh nghiệp bảo hiểm. Vì để cạnh tranh, nhiều doanh nghiệp sẵn sàng hạ
mức phí bảo hiểm xuống rất thấp, vượt quá ngưỡng an toàn, và điều này sẽ
gây tổn thất cho doanh nghiệp nếu rủi ro được bảo hiểm xảy ra vượt một cách

bất ngờ so với dự tính của DNBH.
1.1.3. Sự hình thành và phát triển ngành KDBH tại Việt Nam:
1.1.3.1. Trước năm 1986:
Ở Miền Nam, dưới chế độ cộng hoà, hoạt động bảo hiểm khá phát triển
nhằm phục vụ cho các thương nhân nước ngoài và tầng lớp tư sản, tiểu tư sản
trong nước. Toàn thị trường có 57 công ty trong và ngoài nước hoạt động,
triển khai các loại hình nghiệp vụ khá đa dạng như bảo hiểm hỏa hoạn, bảo
hiểm chuyên chở, bảo hiểm xe tự động, bảo hiểm sinh mạng, bảo hiểm tai nạn
lao động Các công ty bảo hiểm trong nước thường được thành lập dưới
dạng Hội vô danh và Hội tương hỗ, các công ty nước ngoài thành lập dưới
hình thức chi nhánh công ty. Các công ty bảo hiểm đã sớm thành lập hiệp hội
nghề nghiệp, có chức năng thông tin tư vấn, đào tạo, tạo ra một môi trường
hợp tác.
Ở miền Bắc, để đáp ứng nhu cầu về bảo hiểm trong hoạt động ngoại
thương, ngày 17/12/1964, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định thành lập


3
Xem Thị trường bảo hiểm Châu Á-Thái Bình Dương, đăng tải trên website: www.baoviet.com.vn

×