1
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
Tr¸ch nhiÖm båi th−êng thiÖt h¹i do
hµnh vi vi ph¹m ph¸p luËt m«i tr−êng g©y
nªn
T¹i viÖt nam
(ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG)
Bộ môn Luật Môi trường
HÀ NỘI - 2007
2
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO HÀNH VI VI PHẠM PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG
GÂY NÊN TẠI VIỆT NAM
(ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG)
NHỮNG NGƯỜI THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
Stt Họ và tên
Học hàm –
học vị
Cơ quan công tác
1. Vũ Thu Hạnh Tiến sĩ Khoa Pháp luật Kinh tế
Trường Đại học Luật Hà Nội
2. Nguyễn Văn Phương Thạc sĩ Khoa Pháp luật Kinh tế
Trường Đại học Luật Hà Nội
3. Vũ Duyên Thuỷ Thạc sĩ Khoa Pháp luật Kinh tế
Trường Đại học Luật Hà Nội
4. Lưu Ngọc Tố Tâm Thạc sĩ Khoa Pháp luật Kinh tế
Trường Đại học Luật Hà Nội
5. Đặng Hoàng Sơn Thạc sĩ Khoa Pháp luật Kinh tế
Trường Đại học Luật Hà Nội
6. Nguyễn Văn Tài Tiến sĩ Vụ Môi trường
Bộ Tài nguyên và Môi trường
7. Dương Thanh An Thạc sĩ Cục Bảo vệ môi trường
Bộ Tài nguyên và Môi trường
3
MỤC LỤC
Trang
1. Phần thứ nhất Báo cáo tổng quan
02
2. Phần thứ hai Báo cáo chuyên đề
62
2.1 Chuyên đề 1 Những vấn đề lý luận về thiệt hại trong lĩnh vực
bảo vệ môi trường.
63
2.2 Chuyên đề 2 Những căn cứ và nguyên tắc xác định thiệt hại về
môi trường.
75
2.3 Chuyên đề 3
Bước đầu nghiên cứu về giám định thiệt hại môi
trường.
87
2.4 Chuyên đề 4 Những vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại về môi trường.
100
2.5 Chuyên đề 5 Phân biệt trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
hành vi vi phạm pháp luật môi trường gây nên
với trách nhiệm bồi thường thiệt hại từ sự cố môi
trường.
110
2.6 Chuyên đề 6 Mối quan hệ giữa trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do vi phạm pháp luật môi trường với trách
nhiệm hành chính trong lĩnh vực môi trường.
126
2.7 Chuyên đề 7 Mối quan hệ giữa trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do vi phạm pháp luật môi trường với trách
nhiệm hình sự trong lĩnh vực môi trường.
138
2.8 Chuyên đề 8 Thực tiễn áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do hành vi vi phạm pháp luật môi trường tại
Việt Nam trong thời gian qua.
151
2.9 Chuyên đề 9 Kinh nghiệm của nước ngoài về áp dụng trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm
pháp luật môi trường gây nên.
160
2.10 Chuyên đề 10 Bước đầu nghiên cứu về bảo hiểm trách nhiệm
bồi thường thiệt hại về môi trường.
183
3. Tài liệu tham
khảo
191
4
Phần thứ nhất
BÁO CÁO TỔNG QUAN
5
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trên phạm vi toàn cầu cũng như tại Việt Nam, chất lượng môi trường
đang có những biến đổi theo chiều hướng bất lợi cho cuộc sống của con
người. Nguyên nhân chính của tình trạng này là sự tác động theo chiều hướng
tiêu cực của con người tới môi trường ngày càng gia tăng. Có nhiều cách
thức, biện pháp khác nhau được đưa ra nhằm ngăn chặn, hạn chế tình trạng
này, trong đó các biện pháp pháp lý với nội dung chính là quy định trách
nhiệm phải bồi thường thiệt hại gây nên do làm ô nhiễm, suy thoái môi trường
đang được Nhà nước đặc biệt quan tâm. Luật Bảo vệ môi trường 2005
1
quy
định 5 điều về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường (Mục 2
Chương XIV, từ Điều 130 đến Điều 134)
2
. Đây là một bước tiến mới về mặt
lập pháp. Người làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại phải bồi thường là sự cụ
thể hóa nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả giá” (PPP) đã được cộng đồng
quốc tế thừa nhận. Thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc này không chỉ có tác
dụng trừng phạt người đã gây ô nhiễm môi trường mà còn có tác dụng răn đe
các chủ thể khác trong quá trình khai thác, sử dụng các thành tố của môi trường
không được gây tổn hại cho môi trường. Nói khác đi, bồi thường thiệt hại môi
trường ngày càng được xem là một nội dung quan trọng của quản lý và bảo vệ
môi trường. Tuy nhiên, các quy định về bồi thường thiệt hại gây nên do làm ô
nhiễm, suy thoái môi trường hiện vẫn dừng ở mức chung chung, mang tính
nguyên tắc, chưa thể áp dụng trên thực tế. Thực tiễn giải quyết các vụ kiện
đòi bồi thường thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường gây nên trong
thời gian qua tại Việt Nam gặp không ít khó khăn do chưa có sự thống nhất về
1
Được Quốc hội Khoá XI, kỳ họp thứ tám thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005 và sẽ có hiệu lực thi hành
kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2006.
2
Sau đây gọi tắt là bồi thường thiệt hại về môi trường
6
cách hiểu và áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề này. Do
vậy, cần phải có thêm những nguyên cứu có tính chuyên sâu về loại trách
nhiệm này, góp phần cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong nước: Trong một số lĩnh vực khoa học có liên quan như xã hội
học môi trường, kinh tế học môi trường, khoa học quản lí về môi trường...
cũng đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến trách nhiệm bồi thường
thiệt hại về môi trường, như: “Xây dựng phương pháp xác định mức đền bù
thiệt hại bởi ô nhiễm môi trường do hoạt động sản xuất, dịch vụ gây ra” do
Trung tâm kĩ thuật môi trường đô thị và khu công nghiệp, trường Đại học xây
dựng Hà Nội thực hiện năm 1999; “Bước đầu tiếp cận công tác thanh tra giải
quyết đền bù thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây bởi các hoạt động của Nhà
máy Nhiệt điện Phả lại” do Nguyễn Thị Thanh Minh, sinh viên Khoa Môi
trường, trường Đại học Khoa học tự nhiên - Đại học quốc gia Hà Nội thực
hiện năm 2000, "Chính sách quản lý môi trường đối với việc giải quyết xung
đột môi trường", luận văn cao học chuyên ngành chính sách khoa học và công
nghệ của Lê Thanh Bình. Gần đây nhất là kết quả nghiên cứu về giá trị kinh tế
của Khu bảo tồn biển Hòn Mun (Economic valuation of the Hon Mun Marine
Protected Area). Song nhìn chung các công trình nêu trên mới chỉ đề cập đến
các giải pháp kỹ thuật, giải pháp kinh tế mà chưa đề cập đến việc giải quyết
bồi thường thiệt hại về môi trường.
Từ góc độ nghiên cứu khoa học pháp lí, chủ đề trách nhiệm bồi thường
thiệt hại về môi trường cũng đã bước đầu nhận được sự quan tâm nghiên cứu
của các luật gia, cũng như những người làm công tác thực tiễn trong lĩnh vực
quản lý môi trường. Ở các mức độ và phạm vi khác nhau, đã có một số công
7
trình và tài liệu đề cập đến vấn đề này, như: Giáo trình Luật Môi trường của
Trường Đại học Luật Hà Nội (1999); đề tài "Bước đầu nghiên cứu cơ chế giải
quyết tranh chấp môi trường tại Việt Nam" do Cục Môi trường, Bộ Khoa học,
Công nghệ và Môi trường (nay là Bộ Tài nguyên và Môi trường) phối hợp với
Vụ pháp luật Dân sự - Kinh tế, Bộ Tư pháp thực hiện năm 2000; đề tài "Trách
nhiệm pháp lý dân sự trong lĩnh vực môi trường" do Viện nghiên cứu Khoa
học pháp lý - Bộ Tư pháp thực hiện năm 2002; các Báo cáo tổng kết công tác
thực tiễn giải quyết đòi bồi thường thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi
trường gây nên của Phòng quản lý môi trường các tỉnh, thanh tra môi trường
các địa phương, Cục bảo vệ môi trường; "Ô nhiễm môi trường biển Việt Nam
- Luật pháp và thực tiễn" của Tiến sĩ Nguyễn Hồng Thao; luận án tiến sĩ luật
học của Vũ Thu Hạnh về “Xây dựng và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh
chấp trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại Việt Nam”; “Bồi thường thiệt hại về
môi trường” thuộc Chương trình hợp tác Việt Nam- Thụy Điển về tăng cường
năng lực quản lí nhà nước về đất đai và môi trường...
Nước ngoài: Có một số công trình nghiên cứu về cách thức đền bù và
đánh giá thiệt hại môi trường. Các công trình này trở thành căn cứ quan trọng
để đưa ra các quy định về giải quyết các khiếu kiện liên quan đến việc đòi bồi
thường thiệt hại về môi trường. Trong số này trước tiên cần kể đến công trình
“Đền bù và đánh giá thiệt hại môi trường: Một số vấn đề về chính sách và
pháp lí đối với khu vực ASEAN” do Tiến sĩ Brady Coleman - Trung tâm Luật
Môi trường châu á- Thái Bình Dương, Đại học tổng hợp Singapore thực hiện;
“Khuôn khổ thể chế hiện hành về đền bù và đánh giá thiệt hại môi trường tại
Malayxia” của Amirul arpin - Chuyên gia kiểm soát môi trường, Cục Môi
trường Malayxia; “Mô tả khuôn khổ hiện hành về đền bù và đánh giá thiệt hại
môi trường ở các nước thành viên ASEAN: Kinh nghiệm của Thái Lan” do
Charit Tingabadh- Trung tâm kinh tế, sinh thái- Khoa kinh tế- Đại học Tổng
8
hợp Chulalongkorn, Bangkok, Thai Lan thực hiện. Đặc biệt là ấn phẩm
"Compendium of summaries of judicial decisions in environment related
cases"
3
do Chương trình Môi trường Hợp tác Nam á (SACEP) và Chương
trình Môi trường của Liên Hợp quốc (UNEP) xuất bản năm 2001. Báo cáo
tổng hợp các kết quả nghiên cứu về trách nhiệm dân sự đối với bồi thường
thiệt hại về môi trường (Study of Civil Liability Systems for remedying
Environmental Damage)...
3. Mục đích, nội dung và pham vi nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật môi trường
gây nên, làm cơ sở cho việc hoàn thiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
lĩnh vực bảo vệ môi trường. Kết quả nghiên cứu sẽ trực tiếp phục vụ việc
giảng dạy một số chuyên đề sau đại học thuộc môn học Luật môi trường.
Phạm vi nghiên cứu:
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường gồm 2 nội dung chính:
Bồi thường thiệt hại về môi trường do hành vi vi phạm pháp luật gây nên và
bồi thường thiệt hại về môi trường do sự cố môi trường gây nên. Trong phạm
vi nghiên cứu của đề tài này, nhóm tác giả chỉ tập trung nghiên cứu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật môi trường gây nên.
Nghĩa là chỉ nghiên cứu trách nhiệm thiệt hại về môi trường đối với những
các chủ thể có năng lực chủ thể thực hiện các hành vi trái pháp luật, xâm hại
các quan hệ xã hội được pháp luật môi trường bảo vệ mà không nghiên cứu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường do tai biến hoặc rủi ro xảy ra
trong quá trình hoạt động của con người.
3
Tạm dịch là "Trích yếu tóm tắt các quyết định của toà án trong các vụ có liên quan đến môi trường".
9
Nội dung nghiên cứu:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do hành vi vi phạm pháp luật môi trường gây nên tại Việt Nam.
- Đánh giá một số kết quả thực tiễn của việc áp dụng trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật môi trường ở Việt Nam trong
thời gian qua.
- Học hỏi kinh nghiệm của một số nước về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại về môi trường.
- Đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do hành vi vi phạm pháp luật môi trường gây nên.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài:
Phương pháp nghiên cứu gồm phương pháp phân tích và khái quát hoá,
phương pháp lịch sử, phương pháp chuyên gia; phương pháp điều tra, nghiên
cứu, thu thập và kế thừa các kết quả đã có. Ngoài ra, phương pháp mô hình
hoá... cũng được sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài.
B. TÓM TẮT NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI DO HÀNH VI VI PHẠM PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG GÂY
NÊN (GỌI CHUNG LÀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
TRONG LĨNH VỰC MÔI TRƯỜNG)
1.1. Thiệt hại và xác định thiệt hại trong lĩnh vực môi trường
1.1.1. Thiệt hại trong lĩnh vực môi trường
Trong lĩnh vực dân sự, thiệt hại có thể được hiểu là những tổn thất thực
tế được tính thành tiền, do việc bị xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh
dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức, bao gồm:
- Thiệt hại về tài sản: Biểu hiện cụ thể của loại thiệt hại này là người bị
thiệt hại bị mất tài sản, giảm sút tài sản, trả những chi phí để ngăn chăn, hạn
10
chế, sửa chữa, thay thế tài sản và cả những lợi ích gắn liền với việc sử dụng,
khai thác công dụng của tài sản.
- Thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ: Đây là những thiệt hại làm phát sinh
thiệt hại về vật chất bao gồm chi phí cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc, phục hồi
chức năng bị mất, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do thiệt hại về tính
mạng, sức khỏe gây ra.
- Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm uy tín bị tín bị xâm hại: Loại thiệt hại
này bao gồm chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực
tế bị mất bị giảm sút do danh dự, nhân phẩm uy tín bị xâm hại.
- Tổn thất về tinh thần. Đây là những tổn thất mà về nguyên tắc là không
thể giá trị được bằng tiền và không thể phục hồi được.
Khác với thiệt hại trong dân sự, trong lĩnh vực môi trường, thiệt hại lại
được hiểu là những tổn thất do ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường gây
ra. Theo qui định tại Điều 130 Luật bảo vệ môi trường 2005, thiệt hại do ô
nhiễm, suy thoái môi trường bao gồm:
Một là: Sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường.
Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh
con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con
người và sinh vật. Xem xét dưới giác độ xác định thiệt hại và bồi thường thiệt
hại thì các yếu tố nhân tạo thường được nhìn nhận là các loại tài sản hiện hữu,
thuộc quyền sở hữu của một chủ thể xác định. Nếu chúng có bị suy giảm chức
năng, tính hữu ích thì cần được hiểu là suy giảm chức năng, tính hữu ích của
chính tài sản đó. Nói cách khác, đó là các thiệt hại về tài sản của người bị
thiệt hại và người bị thiệt hại trong trường hợp này có thể là Nhà nước cũng
có thể là một tổ chức, cá nhân cụ thể. Trong khi đó, các yếu tố tự nhiên lại
được xem là những yếu tố cần thiết cho sự tồn tại, phát triển chung của cả
cộng đồng, không do một tổ chức, cá nhân nào tạo ra và đương nhiên thuộc
quyền sở hữu chung của cả cộng đồng mà đại diện là Nhà nước. Do đó, nếu
11
có sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của các yếu tố này thì đó là sự suy
giảm các giá trị môi trường sống nói chung. Chính vì vậy, nói đến thiệt hại
trong lĩnh vực môi trường dưới góc độ chức năng, tính hữu ích của môi
trường bị suy giảm là nói đến sự suy giảm chức năng, tính hữu ích vốn có của
môi trường tự nhiên.
Xét một cách khái quát, nói đến chức năng, tính hữu ích của môi trường,
có thể kể đến ba chức năng chính sau đây: i) Môi trường là không gian sinh
tồn của con người; ii) Môi trường là nơi cung cấp nguồn tài nguyên, kể cả vật
liệu, năng lượng, thông tin cần thiết cho cuộc sống và hoạt động của con
người; iii) Môi trường là nơi chứa đựng và xử lý chất thải do con người tạo ra
trong cuộc sống và hoạt động sản xuất của mình.
Như vậy, có thể thấy, sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi
trường xảy ra khi: i) Chất lượng của các yếu tố môi trường sau sử dụng nhỏ
hơn quy chuẩn kĩ thuật về môi trường qui định; ii) Lượng tài nguyên thiên
nhiên có thể tái tạo được sử dụng lớn hơn lượng được khôi phục, tái tạo và
lượng tài nguyên thiên nhiên không thể tái tạo được khai thác, sử dụng lớn
hơn lượng thay thế; iii) Lượng chất thải thải vào môi trường lớn hơn khả năng
tái sử dụng, tái chế hoặc phân huỷ tự nhiên.
Hai là: Thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ của con người, tài sản và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân do hậu quả của việc suy giảm chức năng, tính
hữu ích của môi trường gây ra. Cụ thể là:
- Thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ do hậu quả của việc suy giảm chức
năng, tính hữu ích của môi trường. Tương tự với loại thiệt hại này trong lĩnh
vực dân sự nói chung, người bị thiệt hại phải chi trả các chi phí cứu chữa, bồi
dưỡng, chăm sóc, phục hồi chức năng bị mất và các khoản thu nhập thực tế bị
mất, bị giảm sút do bị thiệt hại về tính mạng, sức khỏe gây ra từ tình trạng
môi trường bị ô nhiễm hoặc bị suy thoái.
12
- Thiệt hại về tài sản do hậu quả của việc suy giảm chức năng, tính hữu
ích của môi trường. Đây là những thiệt hại về vật chất của người bị thiệt hại
như mất tài sản, bị giảm sút tài sản... mà nguyên nhân của nó là do chức năng,
tính hữu ích của môi trường bị suy giảm. Chính những biểu hiện xấu này của
môi trường đã làm cho họ bị mất, bị giảm sút tài sản, phải chi trả những chi
phí cho việc sửa chữa, thay thế, ngăn chặn và phục hồi tài sản.
- Thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân do hậu quả của việc
suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường. Đây là những thiệt hại mà
người bị thiệt hại phải gánh chịu do việc khai thác, sử dụng các thành phần
môi trường đã bị suy giảm chức năng, tính hữu ích. Họ là những chủ thể
được phép khai thác, sử dụng một cách hợp pháp các thành phần môi trường
đó để phục vụ cho các hoạt động của mình. Tuy nhiên, do các thành phần môi
trường này đã bị ô nhiễm hoặc suy thoái nên họ không thể tiếp tục khai thác,
sử dụng hoặc phải khai thác, sử dụng một cách hạn chế, dẫn đến lợi ích vật
chất của họ bị tổn hại.
Như vậy, nói đến thiệt hại trong lĩnh vực môi trường là nói đến hai loại
thiệt hại. Thứ nhất là sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường. Loại
thiệt hại này thường gắn với chủ thể bị thiệt hại là Nhà nước, người đại diện
cho lợi ích chung của cả cộng đồng. Loại thiệt hại thứ hai lại thường gắn với
chủ thể bị thiệt hại là các tổ chức, cá nhân cụ thể. Đó là những thiệt hại về tính
mạng, sức khoẻ của con người, tài sản và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
do hậu quả của việc suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường gây ra.
Trong mối quan hệ với loại thiệt hại thứ nhất, loại thiệt hại thứ luôn được xem
là thiệt hại gián tiếp (còn gọi là thiệt hại phái sinh hay thiệt hại thứ sinh).
So với các thiệt hại trong các lĩnh vực khác, thiệt hại trong lĩnh vực môi
trường có những dấu hiệu đặc trưng riêng của nó. Đó là:
- Thiệt hại thường có giá trị lớn. Môi trường có vai trò hết sức quan
trọng đối với sự tồn tại, phát triển của con người nên khi bị tổn hại, nó thường
13
để lại hậu quả rất lớn. Mặt khác, thiệt hại trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
không dễ nhận biết. Vì thế, trong rất nhiều trường hợp, thiệt hại về môi
trường chỉ được xác định khi đã ở vào giai đoạn cuối của quá trình ô nhiễm và
suy thoái nên hậu quả đã trở nên khá nặng nề.
- Thiệt hại thường khó xác định một cách chính xác. Có cả những thiệt
hại gián tiếp, thiệt hại lâu dài... nên không thể dễ dàng trị giá thiệt hại ngay
trong một thời điểm cụ thể. Có những thiệt hại có thể xác định được mức độ bị
hại, như số lượng cá chết trong ao, hồ; số hoa màu bị hư hỏng do nguồn nước
bị ô nhiễm... nhưng cũng có những thiệt phải dựa trên sự suy đoán hợp lý và
khoa học thì mới xác định được mức độ bị hại. Ví dụ, thiệt hại đối với tổ chức,
cá nhân về thu nhập bị mất hoặc lợi nhuận bị giảm sút do phải đình trệ các
hoạt động bình thường từ sự cố môi trường gây ra, như hoạt động du lịch, khai
thác thuỷ sản...
- Trong nhiều trường hợp, thiệt hại không phải là do con người gây ra.
Những tổn hại gây ra có thể do chính những biến đổi của thất thường của tự
nhiên (chẳng hạn tình trạng ô nhiễm và suy thoái môi trường xảy ra do hậu quả
của một sự cố môi trường).
- Thiệt hại thường rất khó khắc phục, thậm chí có những trường hợp
không thể khắc phục được. Điều này xuất phát từ chính những đặc trưng của
môi trường. Đó là khi bị ô nhiễm, suy thoái thì hoặc là phải mất rất nhiều thời
gian để khắc phục nhưng vẫn không thể khôi phục lại được trạng thái ban đầu,
hoặc là không thể khôi phục lại được.
- Thiệt hại thường xảy ra trên một phạm vi rộng. Do môi trường là tổng
thể các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo, có quan hệ mật thiết với
nhau nên khi một thành phần môi trường này bị tổn hại có thể gây tổn hại cho
nhiều thành phần môi trường khác (có tính “lan truyền” hay hiệu ứng Đô mi
nô). Ví dụ, gây ô nhiễm nước sẽ dẫn đến thiệt hại đối với đất có mặt nước,
thiệt hại đối với các nguồn lợi thủy sinh... Bên cạnh đó, chính đặc tính không
14
biên giới của môi trường cũng có thể làm cho tình trạng biến đổi xấu của nó
lây lan rất nhanh, trên một phạm vi rộng lớn, có thể mang tính liên quốc gia.
1.1.2. Những căn cứ xác định thiệt hại về môi trường
Từ phương diện pháp lý, thiệt hại về môi trường có thể được xác định
dựa trên các căn cứ sau:
Thứ nhất, đối với thiệt hại về sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của
môi trường, căn cứ để xác định thiệt hại bao gồm:
- Căn cứ vào mức độ chức năng, tính hữu ích của môi trường bị suy giảm.
Theo qui định tại Điều 131, khoản 1 Luật bảo vệ môi trường 2005, sự suy
giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường gồm các mức độ: i) Có suy
giảm; ii) Suy giảm nghiêm trọng; iii) Suy giảm đặc biệt nghiêm trọng. Mức
độ suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường thường được xác định
dựa vào mức độ suy giảm về chất lượng, số lượng của các yếu tố môi trường
và khả năng tiếp nhận, hấp thụ tự nhiên các loại chất thải của môi trường. Vì
thế, có thể xác định mức độ suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường
thông qua mức độ ô nhiễm hay suy thoái của một hoặc nhiều thành phần môi
trường. Cụ thể:
+ Về mức độ ô nhiễm môi trường: Tương ứng với ba mức suy giảm chức
năng, tính hữu ích của môi trường là ba mức độ ô nhiễm môi trường. Đó là ô
nhiễm môi trường, ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và ô nhiễm môi trường
đặc biệt nghiêm trọng. Theo qui định tại Điều 92, Luật bảo vệ môi trường
(2005) thì một thành phần môi trường bị coi là ô nhiễm khi hàm lượng một
hoặc nhiều chất gây ô nhiễm vượt quá tiêu chuẩn về chất lượng của thành
phần môi trường đó. Môi trường bị coi là ô nhiễm nghiêm trọng khi hàm
lượng của một hoặc nhiều hoá chất, kim loại nặng vượt quá tiêu chuẩn về chất
lượng môi trường từ 3 lần trở lên hay hàm lượng của một hoặc nhiều chất gây
ô nhiễm khác vượt quá tiêu chuẩn về chất lượng môi trường từ 5 lần trở lên.
Khi hàm lượng của một hoặc nhiều hoá chất, kim loại nặng vượt quá tiêu
15
chuẩn về chất lượng môi trường từ 5 lần trở lên hoặc hàm lượng của một hoặc
nhiều chất gây ô nhiễm khác vượt quá tiêu chuẩn về chất lượng môi trường từ
10 lần trở lên thì đó là tình trạng môi trường bị ô nhiễm đặc biệt nghiêm trọng.
+ Về mức độ suy thoái môi trường: Có ba mức độ suy thoái môi trường
tương ứng với ba mức suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường. Đó là
suy thoái môi trường, suy thoái môi trường nghiêm trọng và suy thoái môi
trường đặc biệt nghiêm trọng. Mức độ suy thoái môi trường đối với từng thành
phần môi trường cụ thể thường được xác định dựa trên cơ sở số lượng của
thành môi trường bị khai thác, sử dụng so với trữ lượng tự nhiên của nó hoặc
dựa trên mức độ khan hiếm của chính thành phần môi trường ấy trên thực tế.
Như vậy, có thể xác định rõ ba mức độ suy giảm chức năng, tính hữu ích
của môi trường như sau:
Mức 1- Suy giảm: Đây là mức gây thiệt hại thấp nhất có thể được áp
dụng trong trường hợp một thành phần môi trường cụ thể bị ô nhiễm hoặc bị
suy thoái;
Mức 2- Suy giảm nghiêm trọng: Mức thiệt hại này được xác định trong
trường hợp một thành phần môi trường cụ thể bị ô nhiễm nghiêm trọng hoặc bị
suy thoái nghiêm trọng;
Mức 3- Suy giảm đặc biệt nghiêm trọng. Đây là trường hợp thiệt hại gây
ra thường được xác định tương đối lớn mà biểu hiện của nó là môi trường bị ô
nhiễm đặc biệt nghiêm trọng hoặc bị suy thoái đặc biệt nghiêm trọng.
- Căn cứ vào phạm vi, giới hạn và vùng môi trường bị suy giảm chức
năng, tính hữu ích: Theo qui định tại Khoản 2 Điều 131 Luật bảo vệ môi
trường (2005), việc xác định phạm vi, giới hạn môi trường bị suy giảm chức
năng, tính hữu ích gồm có: i) Xác định giới hạn, diện tích của khu vực, vùng
lõi bị suy giảm nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng; ii) Xác định giới hạn,
diện tích vùng đệm trực tiếp bị suy giảm; iii) Xác định giới hạn, diện tích các
vùng khác bị ảnh hưởng từ vùng lõi và vùng đệm.
16
Việc xác định thiệt hại về môi trường bằng một con số thiệt hại cụ thể sẽ
tuỳ thuộc vào giới hạn, diện tích thành phần môi trường bị suy giảm chức
năng, tính hữu ích là lớn hay nhỏ, tuỳ thuộc vào vùng bị suy giảm của chính
thành phần môi trường đó là vùng lõi, vùng đệm hay các vùng khác.
- Căn cứ vào các thành phần môi trường bị suy giảm: Theo căn cứ này,
tuỳ thuộc vào số lượng thành phần môi trường bị suy giảm nhiều hay ít, loại
hệ sinh thái và giống loài bị thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra có mức độ quí
hiếm đến đâu thì mức độ thiệt hại sẽ được xác định là lớn hay nhỏ. Điều 131,
khoản 3 Luật bảo vệ môi trường 2005 có quy định rõ việc xác định các thành
phần môi trường bị suy giảm gồm có: i) Xác định số lượng thành phần môi
trường bị suy giảm, loại hình hệ sinh thái, giống loài bị thiệt hại; ii) Mức độ
thiệt hại của từng thành phần môi trường, hệ sinh thái, giống loài.
Thứ hai, đối với thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ của con người, tài sản và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân do hậu quả của việc suy giảm chức năng,
tính hữu ích của môi trường gây ra. Căn cứ để xác định loại thiệt hại này được
áp dụng giống như trong lĩnh vực dân sự nói chung. Theo đó, việc xác định
thiệt hại trong lĩnh vực này được thực hiện dựa trên các căn cứ cơ bản sau:
- Căn cứ vào thiệt hại thực tế: Theo căn cứ này, thiệt hại được xác định
dựa trên những tổn thất thực tế mà người bị thiệt hại phải gánh chịu do tình
trạng môi trường bị suy giảm chức năng, tính hữu ích gây ra. Đó là các thiệt
hại về tài sản và sức khoẻ của người bị thiệt hại, bao gồm: i) Thu nhập thực tế
bị mất hoặc bị giảm sút do tình trạng sức khoẻ bị suy giảm của người bị thiệt
hại về sức khoẻ; ii) Thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt
hại về sức khoẻ trong thời gian điều trị; iii) Thiệt hại do tài sản bị mất và
những lợi ích gắn liền với việc khai thác tài sản.
- Căn cứ vào các chi phí hợp lý phát sinh từ những tổn thất về tính mạng,
sức khoẻ, tài sản và các lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại, bao gồm: i)
Những chi phí hợp lý đã chi trả cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc nạn
17
nhân trước khi chết cùng với các khoản chi phí mai táng cho người đó; ii) Các
khoản tiền phát sinh từ nghĩa vụ cấp dưỡng của người bị thiệt hại về tính
mạng; iii) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và
các chức năng bị mất bị giảm sút của người bị thiệt hại về sức khoẻ; iv) Chi
phí hợp lý, cần thiết để phục hồi tài sản, bảo đảm tính năng sử dụng ban đầu
như trước khi bị thiệt hại của tài sản bị thiệt hại; v) Chi phí ngăn chặn, hạn
chế thiệt hại hoặc khắc phục thiệt hại
- Căn cứ vào những tổn thất về tinh thần mà người bị thiệt hại hoặc
những người thân của người bị thiệt hại phải gánh chịu, bao gồm: i) Tiền bù
đắp những tổn thất về tinh thần cho những người thân của người bị thiệt hại
(những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất) trong trường hợp thiệt hại về tính
mạng; ii) Tiền bù đắp những tổn thất về tinh thần mà người bị thiệt hại phải
gánh chịu trong trường hợp thiệt hại về sức khoẻ.
- Căn cứ vào các lợi ích bị xâm hại từ những tổn hại về tài sản như: i)
Lợi ích gắn liền với việc khai thác tài sản. Chẳng hạn như không thể khai thác
tài sản trong suốt thời gian sử chữa tài sản; ii) Những hoa lợi, lợi tức chắc
chắn thu được nếu không có thiệt hại xảy ra.
Như vậy, đối với những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản và các
lợi ích hợp pháp do sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường gây
ra, khi xác định thiệt hại cần phải dựa vào những tổn thất thực tế, những chi
phí liên quan đến thiệt hại và cả những tổn thất tinh thần cho người bị thiệt
hại cũng như nghiên cứu lợi ích khác mà họ bị mất do tài sản bị tổn thất.
Từ phương diện kinh tế - kĩ thuật, người ta thường sử dụng các cách thức
sau để xác định thiệt hại môi trường:
Một là, so sánh tài sản bị giảm sút, thiệt hại thông qua năng suất, sản
lượng, sức khoẻ trước và sau khi bị ô nhiễm và suy thoái môi trường. Ví dụ,
thiệt hại về tài sản được đánh giá thông qua sản lượng bị giảm sút so với trước
18
khi môi trường bị ô nhiễm bởi các các loại khí độc hại, sản lượng giống loài
bị suy giảm do ô nhiễm nguồn nước, số lượng khách du lịch vắng hơn….
Để tính được các thiệt hại trên cần dựa vào một số căn cứ: i) Xác định tổ
chức, cá nhân gây ra ô nhiễm, suy thoái môi trường và chịu trách nhiệm bằng
cách xem xét công nghệ của các cơ sở trên địa bàn có khả năng gây ô nhiễm
môi trường, kiểm tra các chỉ tiêu môi trường tại từng cơ sở xem có vượt chỉ
tiêu cho phép không? Kiểm tra các chỉ tiêu tại nơi bị ô nhiễm xem có vượt
mức cho phép không và những chỉ tiêu nào vượt? Thống kê số cơ sở có chỉ
tiêu tại cơ sở và tại nơi bị ô nhiễm, gây thiệt hại vượt mức cho phép; ii) Xác
định phạm vi, đối tượng bị hại- khu vực bị thiệt hại nặng, khu vực bị thiệt hại
trung bình và khu vực bị thiệt hại nhẹ. Thống kê lĩnh vực bị thiệt hại như:
nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi, trồng trọt, ngư nghiệp, du lịch, đa dạng
sinh học…; iii) Xác định thiệt hại đối với từng lĩnh vực bằng cách khảo sát,
thống kê, đánh giá và so sánh sản lượng thu hoạch trung bình của vụ, mùa,
năm bị ô nhiễm với năm không bị ô nhiễm có cùng điều kiện canh tác. Từ đó
đánh giá bằng tiền mức độ giảm sút của trước và sau khi ô nhiễm môi trường
cho từng khu vực ô nhiễm nặng, trung bình hay nhẹ; iv) Tổng số tiền thiệt hại
do giảm năng suất thu hoạch, cây trồng, vật nuôi giảm năng suất lao động và
sức khoẻ được sử dụng làm cơ sở thương lượng và đòi bồi thường thiệt hại.
Hai là, đánh giá thiệt hại thông qua chi phí giảm thiểu ô nhiễm tại nguồn.
Cụ thể là thiệt hại gây ra cho môi trường được tính bằng tổng chi phí các nguồn
gây ô nhiễm đạt tới mức được thải ra môi trường mà không gây ô nhiễm. Khi
cơ sở đầu tư để xử lý chất thải thì sẽ không gây ô nhiễm môi trường, và tất
nhiên sẽ không có thiệt hại cho cộng đồng. Như vậy, nếu môi trường bị ô
nhiễm, số thiệt hại ít nhất sẽ bằng tổng số chi phí để khắc phục, xử lý để giữ
cho môi trường nguyên trạng như trước kia. Tuy nhiên, cần lưu ý là chi phí bỏ
ra để xử lý, khắc phục có lớn đến đâu cũng không thể khắc phục được những
hậu quả môi trường lâu dài, trở lại hiện trạng ban đầu. Có thể nói rằng, chi phí
bỏ ra để bồi thường sẽ thấp hơn tổng số thiệt hại xảy ra.
19
Ba là, đánh giá thiệt hại thông qua hiệu quả sử dụng. Cách thức này dựa
trên cơ sở bên gây ô nhiễm môi trường phải đền bù cho bên bị ô nhiễm bằng
chi phí mà người bị ô nhiễm phải bỏ ra để xử lý ô nhiễm, để loại bỏ các yếu tố
độc hại như: chi phí lắp đặt hệ thống xử lý khí thải, xử lý nước thải sinh hoạt
và nước sản xuất, nuôi trồng thuỷ sản… chi phí xử lý đất bị ô nhiễm, phục hồi
độ phì nhiêu của đất, chi phí do giá trị sử dụng cơ sở hạ tầng bị giảm sút….
Tổng chi phí này nhằm triệt tiêu nguồn gốc ô nhiễm và bồi thường thiệt hại
do môi trường bị ô nhiễm nên chi phí bỏ ra để khắc phục cao hơn thiệt hại do
ô nhiễm môi trường gây ra.
Bốn là, đánh giá thiệt hại về sức khoẻ do bị ô nhiễm môi trường bao gồm
toàn bộ chi phí y tế như chăm sóc sức khoẻ thường xuyên, khám bệnh định
kỳ, thuốc men… Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, xác định thiệt hại trên chỉ mới
tính đến các thiệt hại trực tiếp và trước mắt cho tổ chức, cá nhân bị ảnh hưởng
và thông thường được bồi thường trực tiếp cho người bị hại. Trong khi đó,
tổng số chi phí bồi thường do người gây thiệt hại môi trường phải trả bao
gồm: chi phí bồi thường cho người thiệt hại trực tiếp, xử lý, khôi phục lại hiện
trạng môi trường.
Hiện nay, phương pháp được áp dụng phổ biến để xác định bồi thường
thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường gây nên là phương pháp so sánh
năng suất, sản lượng bị giảm sút do bị ô nhiễm (phương pháp thứ nhất), kết
hợp với đánh giá thiệt hại sức khoẻ (phương pháp thứ tư). Tuy nhiên, các
phương pháp nên trên chủ yếu là xác định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ
cũng như về tài sản, chứ chưa đề cập đến việc xác định thiệt hại đối với môi
trường tự nhiên.
1.1.3. Những nguyên tắc xác định thiệt hại về môi trường
Việc xác định thiệt hại về môi trường được thực hiện trên cơ sở các
nguyên tắc sau:
20
Một là: Nguyên tắc phối hợp, hợp tác. Để có thể xác định được những
biến đổi của môi trường và những tổn hại gây ra từ chính sự biến đổi đó cần
phải có sự can thiệp của các biện pháp kỹ thuật môi trường. Vì thế, để xác
định thiệt hại trong lĩnh vực môi trường, cần phải đảm bảo sự phối hợp chặt
chẽ giữa các cơ quan giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại với các cơ quan
quản lý môi trường. Ngoài ra, sự phối hợp, hợp tác ở đây còn cần được hiểu là
sự phối hợp giữa các bên bị thiệt hại và bên gây thiệt hại. Điều đó góp phần
đảm bảo cho việc xác định thiệt hại được thuận lợi và nhanh chóng hơn trên
tinh thần thiện chí của các bên tham gia tranh chấp.
Hai là: Nguyên tắc xác định một cách có căn cứ khoa học các thiệt hại
xảy ra. Nguyên tắc này được hiểu là mọi loại thiệt hại trong lĩnh vực môi
trường đều phải được xác định dựa trên các căn cứ khoa học cụ thể. Đây là
một nguyên tắc cơ bản đồng thời cũng là một yêu cầu đặt ra cho việc xác định
thiệt hại về môi trường. Cơ sở của việc xây dựng nguyên tắc này bắt nguồn từ
những đặc trưng của thiệt hại trong lĩnh vực môi trường. Đây thường là những
thiệt hại có giá trị lớn, không dễ khắc phục, không dễ định lượng và xảy ra
trên một phạm vi rộng lớn nên việc xác định các thiệt hại này không đơn giản.
Nó luôn đòi hỏi phải dựa trên những căn cứ khoa học rõ ràng, chính xác.
Ba là: Nguyên tắc đảm bảo tính toán chính xác chi phí thiệt hại về môi
trường. Theo nguyên tắc này, khi xác định thiệt hại cần phải tính đến các chi
phí thiệt hại trước mắt cũng như lâu dài, chi phí cải tạo, xử lý tình trạng ô
nhiễm môi trường... Theo qui định tại khoản 4 Điều 131 Luật bảo vệ môi
trường, việc tính toán chi phí thiệt hại về môi trường bao gồm: i) Tính toán chi
phí thiệt hại trước mắt và lâu dài do sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của
các thành phần môi trường; ii) Tính toán chi phí xử lý, cải tạo, phục hồi môi
trường; iii) Tính toán chi phí giảm thiểu hoặc triệt tiêu nguồn gây thiệt hại.
Bốn là: Nguyên tắc ước định thiệt hại. Theo nguyên tắc này, không nhất
thiết mọi thiệt hại trong lĩnh vực bảo vệ môi trường trong mọi trường hợp đều
phải được trị giá một cách cụ thể. Trong một số trường hợp nhất định, các thiệt
21
hại do hành vi vi phạm pháp luật môi trường gây ra không thể trị giá bằng
những con số thiệt hại nhất định mà có thể được xác định trên cơ sở “ước
lượng thiệt hại”. Tất nhiên sự ước lượng này cũng phải dựa trên những căn cứ
khoa học cụ thể chứ không phải mang tính chất suy đoán cảm tính. Cách xác
định thiệt hại này thường được áp dụng trong những trường hợp không thể định
lượng chính xác thiệt hại bằng một con số cụ thể.
Xác định thiệt hại nói chung là một vấn đề không dễ và lại càng không
đơn giản khi phải xác định các thiệt hại trong lĩnh vực môi trường. Trong quá
trình giải quyết các yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại, các cơ quan chức năng
của Việt nam đang gặp phải không ít khó khăn về vấn đề này. Đó là:
Thứ nhất, thiệt hại về môi trường nhiều khi là những thiệt hại tiềm ẩn.
Thứ hai, trong một số trường hợp, thiệt hại về môi trường là những thiệt
hại do tác động cộng hưởng.
Thứ ba, hầu hết các cán bộ tư pháp của Việt nam chỉ có trình độ chuyên
môn về khoa học pháp lý mà không có kiến thức về kỹ thuật môi trường,
trong khi xác định thiệt hại về môi trường lại là một công việc đặt ra những
đòi hỏi rất cao về kỹ thuật môi trường.
Thứ tư, quá trình xác định thiệt hại ít khi nhận được sự phối hợp mang
tính chất thiện chí của bên gây thiệt hại làm cho quá trình xác định thiệt hại
khó khăn hơn và mất rất nhiều thời gian.
Xác định thiệt hại về môi trường là một công việc phức tạp và khó khăn,
song lại là một đòi hỏi khá bức thiết, đặc biệt trong điều kiện các tranh chấp
môi trường ngày một gia tăng ở Việt Nam. Đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc
đặt ra cũng như các căn cứ khoa học chính xác là yêu cầu cơ bản của việc xác
định thiệt hại về môi trường nhằm giải quyết tốt các yêu cầu đặt ra khi giải
quyết tranh chấp môi trường, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp về môi
trường của các bên.
1.1.4. Giám định thiệt hại môi trường
22
Giám định thiệt hại môi trường có thể hiểu là việc áp dụng các biện pháp
chuyên môn nghiệp vụ để xác định các giá trị thiệt hại cụ thể từ việc suy giảm
chức năng, tính hữu ích của môi trường và những thiệt hại về sức khoẻ, thiệt
hại về tính mạng của con người hay thiệt hại về tài sản do sự suy giảm chức
năng, tính hữu ích của môi trường gây nên. Việc giám định thiệt hại môi
trường có thể được tiến hành một cách độc lập hoặc có sự phối hợp giữa bên
gây thiệt hại và bên bị thiệt hại. Nói cách khác, giám định thiệt hại về môi
trường là việc sử dụng những kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học
kỹ thuật nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vẫn đề có liên quan đến
vụ việc môi trường do nhà giám định thực hiện theo trưng cầu của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, của người gây thiệt hại hoặc người bị thiệt hại
nhằm phục vụ cho việc giải quyết các vụ việc có liên quan đến môi trường.
* Các nguyên tắc giám định thiệt hại môi trường. Việc giám định thiệt
hại môi trường được thực hiện với một số nguyên tắc cơ bản sau:
- Nguyên tắc coi trọng tính mạng, sức khoẻ của con người. Khác với việc
giám định giá trị thiệt hại về tính mạng và sức khoẻ của con người trong các
lĩnh vực hình sự, dân sự thuần tuý. Thông thường đó là những thiệt hại trực
tiếp và chỉ xảy ra đối với một hoặc một vài nạn nhân. Trong lĩnh vực môi
trường, thiệt hại về tính mạng và sức khoẻ con người thường xảy ra đối với
nhiều người, thậm chí trong nhiều trường hợp xảy ra đối với cả cộng đồng
người. Vì vậy, trong giám định thiệt hại về môi trường, giám định tính mạng
và sức khoẻ của con người phải luôn luôn được đề cao và coi trọng.
- Nguyên tắc xem xét, kết hợp hài hoà giá trị kinh tế của thiệt hại với giá
trị xã hội, giá trị nhân văn và giá trị môi trường. Thiệt hại về môi trường xảy
ra có thể xâm hại tới rất nhiều các lợi ích khác nhau như giá trị kinh tế, giá trị
xã hội, giá trị nhân văn và giá trị môi trường. Thông thường, những giá trị
kinh tế được ưu tiên giải quyết trước và thậm chí có khi còn được xem như
căn cứ để giải quyết các vụ việc có liên quan tới môi trường. Mặc dù trong
các vụ việc này, giá trị thiệt hại về môi trường có khi lại rất lớn, lâu dài và để
23
lại những ảnh hưởng nghiêm trọng khác. Đối với đa phần các vụ giám định
thiệt hại môi trường, việc bồi thường thiệt hại về kinh tế được ưu tiên giải
quyết trước, trong khi đó, các giá trị thiệt hại về môi trường có thể tiến hành
sau hoặc thậm chí bị bỏ qua. Do đó, một nguyên tắc đặt ra khi giải quyết các
vụ việc có liên quan tới môi trường là cần kết hợp hài hoà các giá trị thiệt hại
về kinh tế, xã hội và môi trường.
- Nguyên tắc trung thực, chính xác và khách quan. Tính trung thực, chính
xác và khách quan là một yêu cầu quan trọng khi giám định thiệt hại môi
trường. Việc giám định đòi hỏi phải được thực hiện bởi một cơ quan hoặc tổ
chức hợp pháp, có đủ năng lực, trình độ chuyên môn cũng như đáp ứng được
các yêu cầu khác về mặt kỹ thuật nghiệp vụ. Thực hiện công tác giám định
cũng đòi hỏi người giám định và các tổ chức giám định phải công tâm khi giải
quyết vấn đề, không thể vì các lý do riêng mà giải quyết vụ việc một cách
thiếu khách quan và không trung thực.
- Nguyên tắc tuân thủ pháp luật và các quy chuẩn chuyên môn. Mặc dù
hiện tại các quy định pháp luật về giám định thiệt hại trong lĩnh vực môi
trường chưa đầy đủ, song công tác giám định nói chung, giám định trong một
số lĩnh vực đặc thù nói riêng lại đang được điều chỉnh bằng những quy định
tương đối cụ thể và chi tiết. Do vậy, cá nhân và tổ chức tiến hành giám định
thiệt hại môi trường phải tuân theo các quy định chung về công tác giám định.
- Nguyên tắc chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết luận giám định.
Không phải cá nhân, tổ chức nào cũng có chức năng giám định thiệt hại môi
trường hoặc có khả năng giám định thiệt hại môi trường. Những tổ chức có
khả năng và chức năng giám định thiệt hại môi trường mới được phép tiến
hành giám định thiệt hại môi trường. Vì vậy, trong phạm vi công việc của
mình, cá nhân tổ chức tiến hành giám định thiệt hại môi trường sẽ hoàn toàn
chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, khách quan và trung thực
của kết quả giám định.
24
* Các căn cứ giám định thiệt hại môi trường. Việc tiến hành giám định
thiệt hại môi trường dựa trên các căn cứ cơ bản sau đây:
- Hồ sơ đòi bồi thường thiệt hại: Việc giám định thiệt hại môi trường có
thể được tiến hành trên cơ sở của hồ sơ đòi bồi thường thiệt hại. Thông
thường, chủ thể bị hại sẽ lập một bộ hồ sơ đòi bồi thường thiệt hại, trong đó
nêu cụ thể về hành vi vi phạm, giá trị thiệt hại thực tế, nguyên nhân gây ra
thiệt hại, chủ thể gây thiệt hại và mức đòi bồi thường… Tuy nhiên, trong
nhiều trường hợp, bộ hồ sơ đòi bồi thường thiệt hại cũng có thể được lập ra
bởi một chủ thể khác được uỷ quyền. Chủ thể này phải có uy tín, có kinh
nghiệm hoặc có thầm quyền.
- Các thông tin, số liệu, chứng cứ có liên quan: Để đòi bồi thường thiệt
hại, người bị hại cần phải đưa ra được các chứng cứ xác thực để chứng minh
thiệt hại là có thật, hành vi gây hại là có cơ sở, mối liên hệ nhân quả giữa
hành vi gây hại và hậu quả xảy ra… Các thông tin, số liệu, chứng cứ phải có
sức thuyết phục và có cơ sở thực tiễn, thể hiện ở những yếu tố rõ ràng, lôgic,
cụ thể về không gian và thời gian. Từ đó nêu ra các yêu cầu, đòi hỏi cũng như
kiến nghị hướng giải quyết vụ việc. Ngoài ra, còn có rất nhiều các căn cứ
khác liên quan đến bồi thường thiệt hại và đối tượng gây thiệt hại.
* Chủ thể tiến hành giám định thiệt hại môi trường. Giám định thiệt
hại môi trường được thực hiện bởi các cá nhân, tổ chức hoặc các cơ quan có
thầm quyền, có chức năng hoặc có chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ về vấn đề
liên quan tới việc giám định thiệt hại môi trường. Người trưng cầu giám định
thiệt hại môi trường có thể là các cá nhân người gây hại, người bị hại, người
có quyền và lợi ích liên quan hoặc có thể là các cơ quan giải quyết việc bồi
thường thiệt hại đó. Tuy nhiên, từ phương diện pháp lý thì hiện tại chưa có
văn bản pháp luật nào quy định toàn diện về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của các chủ thể tiến hành giám định thiệt hại môi trường
mới chỉ có các quy định nằm rải rác trong các văn bản dưới luật chuyên ngành
có liên quan tới các lĩnh vực khác nhau.
25
* Trách nhiệm của chủ thể tiến hành giám định thiệt hại môi trường
và các bên có liên quan
- Trách nhiệm của cá nhân, tổ chức, cơ quan tiến hành giám định: Cá
nhân, tổ chức, cơ quan tiến hành giám định có thể yêu cầu các chủ thể có liên
quan cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến đối tượng giám định. Những
chủ thể này có toàn quyền chủ động lựa chọn phương pháp cần thiết và phù
hợp để tiến hành giám định theo nội dung yêu cầu giám định. Họ có thể sử
dụng kết quả giám định bổ sung hoặc kết luận chuyên môn do tổ chức, cá
nhân khác thực hiện nhằm phục vụ cho việc cho việc giám định của mình. Có
thể từ chối giám định trong trường hợp không được cung cấp đầy đủ thông
tin, thời gian và tính chính xác của vấn đề có liên quan...
Ngoài trách nhiệm nêu trên, các cá nhân, tổ chức, cơ quan tiến hành giám
định còn phải thực hiện theo đúng nội dung yêu cầu giám định, thời gian giám
định, tuyệt đối giữ bí mật về kết quả giám định, thông tin cũng như tài liệu
giám định... Nếu trong quá trình tiến hành giám định, người giám định thực
hiện các hành vi vi phạm đến các quy định về công tác giám định, vi phạm
trình tự thủ tục giám định, cố ý đưa ra các kết luận sai sự thật thì phải hoàn
toàn chịu mọi trách nhiệm trước pháp luật...
- Trách nhiệm của người trưng cầu giám định: Người trưng cầu giám
định có quyền trưng cầu tổ chức hoặc cán nhân tiến hành việc giám định, có
quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân tiến hành giám định trả kết luận giám định
đúng nội dung yêu cầu và thời hạn, có quyền yêu cầu chủ thể giám định giải
thích cụ thể về kết luận giám định. Bên cạnh đó, việc trưng cầu phải được ghi
thành văn bản, cần cung cấp đầy đủ thông tin, tài liệu có liên quan đến đối
tượng giám định theo yêu cầu của chủ thể tiến hành giám định, có thể phải
chịu một số chi phí theo quy định của nhà nước về giám định thiệt hại môi
trường và một số nghĩa vụ khác.
1.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường