Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân qua thực tiễn xã Dương Xá huyện Gia Lâm-thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 116 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



PHẠM THỊ THÚY



BẦU CỬ ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
QUA THỰC TIỄN XÃ DƢƠNG XÁ
HUYỆN GIA LÂM - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. BÙI XUÂN ĐỨC



HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƯỜI CAM ĐOAN



Phạm Thị Thúy

MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẦU CỬ ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN 10
1.1. Khái niệm bầu cử và bầu cử Đại biểu Hội đồng nhân dân 10

1.1.1. Bầu cử 10
1.1.2. Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân 13
1.2. Mục đích, ý nghĩa của Bầu cử Đại biểu Hội đồng nhân dân 16
1.3. Sự hình thành và phát triển các qui phạm về bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân 20
1.3.1. Thời kỳ từ 1945 đến năm 1954 22
1.3.2. Thời kỳ từ năm 1954 đến năm 1975 24
1.3.3. Thời kỳ từ năm 1975 đến trước năm 1992 25
1.3.4. Thời kỳ từ năm 1992 đến nay 29
1.4. Các nguyên tắc bầu cử Đại biểu Hội đồng nhân dân 32
1.4.1. Nguyên tắc phổ thông đầu phiếu 34
1.4.2. Nguyên tắc bình đẳng 36
1.4.3. Nguyên tắc bầu cử trực tiếp 37
1.4.4. Nguyên tắc bỏ phiếu kín 38
1.5. Quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân 39
1.5.1. Quyền bầu cử 39
1.5.2. Quyền ứng cử 41
Kết luận Chƣơng 1 43
Chƣơng 2: THỰC TIỄN CÔNG TÁC BẦU CỬ ĐẠI BIỂU HỘI
ĐỒNG NHÂN DÂN TẠI XÃ DƢƠNG XÁ, HUYỆN GIA
LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI 44
2.1. Công bố ngày bầu cử 44
2.2. Các tổ chức phụ trách bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân 46
2.2.1. Hội đồng bầu cử ở Trung Ương 47
2.2.2. Ủy ban bầu cử 47
2.2.3. Ban bầu cử 48
2.2.4. Tổ bầu cử 50
2.3. Lập Danh sách cử tri 54
2.3.1. Đối tượng được lập danh sách cử tri 54
2.3.2. Điều chỉnh và bổ sung danh sách cử tri 55

2.3.3. Công bố và chốt danh sách cử tri 57
2.4. Ứng cử và hiệp thƣơng giới thiệu ngƣời ứng cử. 58
2.4.1. Số lượng, thành phần, cơ cấu, tiêu chuẩn của người ứng cử 58
2.4.2. Hình thức ứng cử 60
2.4.3. Hiệp thương, giới thiệu người ứng cử 62
2.4.4. Công bố danh sách những người ứng cử 67
2.5. Tuyên truyền, vận động bầu cử 68
2.5.1. Vai trò tuyên tuyền, vận động bầu cử 68
2.5.2. Quyền vận động bầu cử của người ứng cử 69
2.6. Bỏ phiếu bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân 70
2.6.1. Qui định về việc bỏ phiếu 70
2.6.2. Bỏ phiếu và bỏ phiếu hộ 71
2.7. Kết quả bầu cử 73
2.7.1. Tổ chức kiểm phiếu 73
2.7.2. Tổng hợp kết quả bầu cử tại đơn vị bầu cử 75
2.7.3. Bầu cử thêm, bầu cử lại và bầu cử bổ sung 75
2.7.4. Tổng kết bầu cử 76
2.8. Những tồn tại, hạn chế trong quá trình tổ chức bầu cử 79
2.8.1. Nội dung những tồn tại hạn chế 79
2.8.2. Nguyên nhân của những tồn tại hạn chế 80
Kết luận Chƣơng 2 81
Chƣơng 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG, HIỆU
QUẢ CÔNG TÁC BẦU CỬ ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN 83
3.1. Nhu cầu nâng cao chất lƣợng, hiệu quả công tác bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân 83
3.2. Giải pháp nâng cao chất lƣợng, hiệu quả công tác bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân 84
3.2.1. Qui định chặt chẽ tiêu chuẩn đại biểu Hội đồng nhân dân 85
3.2.2. Đổi mới việc lập danh sách cử tri tham gia bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp xã phù hợp với điều kiện thực tiễn của các xã

đang trong tiến trình đô thị hóa 87
3.2.3. Xây dựng, hoàn thiện các qui định của pháp luật về tổ chức,
nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của các tổ chức phụ trách bầu cử 87
3.2.4. Bố trí các đơn vị bầu cử đảm bảo tính công bằng và tính đại diện 89
3.2.5. Đảm bảo dân chủ trong qui trình hiệp thương và mở rộng qui
định tự ứng cử của công dân 93
3.2.6. Đổi mới các qui định về vận động bầu cử phù hợp với tình hình
hiện nay 96
3.2.7. Đổi mới phương pháp xác định kết quả bầu cử 98
3.2.8. Khẳng định bầu cử là quyền và trách nhiệm của công dân, khôi
phục nguyên tắc bầu cử tự do 99
Kết luận Chƣơng 3 100
KẾT LUẬN 102
TÀI LIỆU THAM KHẢO 104






DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ĐB HĐND: Đại biểu Hội đồng nhân dân
HĐND: Hội đồng nhân dân
MTTQ: Mặt trận tổ quốc
NXB: Nhà xuất bản
UBND: Uỷ ban nhân dân
XHCN: Xã hội chủ nghĩa

















1
MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Điều 2, Hiến pháp 2013 khẳng định:
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Điều 6, Hiến
pháp 2013 tiếp tục khẳng định: Nhân dân sử dụng quyền lực nhà
nước bằng dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện thông qua Quốc hội và
Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của nhà nước [46].
Bầu cử được sử dụng là một phương thức phổ biến và dân chủ để nhân
dân lựa chọn và ủy thác quyền lực cho các thiết chế đại diện, thể hiện rõ nét
nhất Nhà nước của nhân dân; có ý nghĩa quan trọng quyết định phương thức
hoạt động của nhà nước do nhân dân để hướng tới mục đích vì nhân dân, góp

phần xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Gắn liền bầu cử đại biểu Quốc Hội, bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
( HĐND) các cấp trở thành đợt vận động và sinh hoạt dân chủ sâu rộng cho
mọi tầng lớp nhân dân cả nước để bầu ra những đại biểu ưu tú, đại diện cho
nhân dân tại Quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, bầu ra các đại
biểu đại diện cho nhân dân địa phương tại HĐND cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã
– cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.
Trải qua một thời gian dài đấu tranh giành độc lập, bảo vệ và xây dựng
đất nước Đảng, nhà nước và nhân dân Việt Nam chung sức một lòng phấn
đấu phát triển đi lên theo con đường XHCN. Để thực hiện thành công mục
tiêu dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhiệm vụ trọng tâm công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước chúng ta không quên vai trò của sức mạnh đại đoàn kết và

2
càng thấm nhuần tư tưởng của Bác “Lấy dân làm gốc”. “Nhân dân là chủ thể
tối cao của quyền lực nhà nước” nên không ai khác ngoài nhân dân là người
bầu ra các cơ quan quyền lực nhà nước. Từ năm 2001, Đảng ta đã chỉ rõ cần
phải “Nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND, hoàn thiện
những qui định về bầu cử, ứng cử và tiêu chuẩn đại biểu Quốc Hội và HĐND
trên cơ sở thật sự phát huy dân chủ” [3, tr.134]. Mặt khác, trong xu hướng
Đảng và nhà nước ta tập trung đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho chính
quyền địa phương - một trong những giải pháp để phát huy quyền chủ động,
sáng tạo của mỗi chính quyền địa phương trong hoạt động quản lý nhà nước,
nên việc tổ chức bầu cử đại biểu HĐND trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Mặc dù, công tác bầu cử đại biểu HĐND đã được quan tâm, chỉ đạo
của các cấp, các ngành một cách sâu rộng, từ việc hoàn thiện lại hệ thống văn
bản qui phạm pháp luật, các văn bản hướng dẫn thực hiện đến việc triển khai,
tổ chức cuộc bầu cử. Nhưng kết quả thu được từ cuộc bầu cử đại biểu HĐND
ở các địa phương nói chung, ở xã Dương Xá nói riêng vẫn chưa đáp ứng được
yêu cầu, làm thoả mãn nguyện vọng của cử tri, cần có những thay đổi mới mẻ

hơn nữa để nâng cao chất lượng thực chất của cuộc bầu cử. Để thấy rõ được
nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế nêu trên, chúng ta cần có cách tiếp
cận thấu đáo, một cái nhìn toàn diện từ đường lối, chủ trương của Đảng, nhà
nước, lý luận của nhà làm luật, việc tổ chức triển khai, thực hiện của các cấp
chính quyền, sự phối hợp của tổ chức kinh tế, các đoàn thể nhân dân đến sự
quan tâm, hưởng ứng – thái độ chính trị của người dân đối với cuộc bầu cử.
Như vậy, xét về cơ sở lý luận cũng như thực tiễn, định hướng chính trị
của Đảng và nhiệm vụ của khoa học pháp lý, khoa học chính trị việc đổi mới
nhận thức về pháp luật bầu cử, bầu cử đại biểu HĐND là hoàn toàn phù hợp
với mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN trong giai đoạn hiện nay.
Nghiên cứu vấn đề “Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, qua thực tiễn xã
Dương Xá, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội” sẽ đưa ra những góc nhìn

3
khách quan về cuộc bầu cử mới diễn ra, đối chiếu với các qui định của pháp
luật để đưa ra những quan điểm, góp phần hoàn thiện hơn nữa chế định bầu
cử trong Hiến pháp và các qui định về bầu cử đại biểu HĐND ở Việt Nam.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Xuất phát từ ý nghĩa bầu cử gắn liền với chế độ dân chủ đại diện, nên
vai trò của nó được đề cao trong các nền dân chủ đương đại. Trong cơ chế
chính trị cạnh tranh nó được ví như “trái tim của dân chủ”. Vì vậy, bầu cử
chính trị bao gồm bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu HĐND các
cấp được các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu và các học giả giành nhiều
thời gian và tâm sức để nghiên cứu với những công trình, bài viết rất đa
dạng và phong phú như: PGS.TS. Vũ Hồng Anh (1997), Chế độ bầu cử một
số nước trên thế giới, NXB chính trị Quốc gia, Hà Nội; GS.TS. Nguyễn
Đăng Dung (2005), Sự hạn chế quyền lực nhà nước, NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội. PGS. TS. Nguyễn Minh Đoan (2011), Hoàn thiện hơn nữa chế độ
bầu cử đại biểu dân cử, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số ngày 09/6/2011;
PGS.TS. Bùi Xuân Đức (2001), “Pháp luật bầu cử: một số vấn đề cần hoàn

thiện”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 06, 07/2001; TS. Vũ Công Giao
(2013), Cơ quan bầu cử quốc gia trên thế giới và việc hiến định cơ quan này
trong hiến pháp 1992, sửa đổi năm 2013 của Việt Nam, Sách chuyên khảo
các thiết chế độc lập, kinh nghiệm quốc tế và triển vọng ở Việt Nam; TS.
Phạm Văn Hùng (2011), Ý nghĩa của Bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và
HĐND các cấp với công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền, Cổng thông
tin điện tử Trung tâm Bồi dưỡng đại biểu dân cử- Ủy ban thường vụ Quốc
Hội; ThS. Trần Thanh Hương (2006), Ý chí của nhân dân trong bầu cử và
một vài ý kiến góp phần bảo đảm ý chí của nhân dân trong bảo đảm bầu cử
ở nước ta, Tạp chí Khoa học pháp luật, số 3(34)/2006; PGS. TS. Trương
Đắc Linh (2007), “Cuộc tổng tuyển của bầu cử Quốc hội đầu tiên năm 1946:

4
một cuộc bầu cử thật sự dân chủ ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,
03/2007; TS. Vũ Văn Nhiêm (2009), Chế độ bầu cử ở nước ta những vấn đề
lý luận và thực tiễn, Luận án Tiến Sỹ ngành lịch sử nhà nước và pháp luật;
Tác giả: Hồng Ngọc (2010), Cần xây dựng một luật qui định chung về bầu
cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND, Báo điện tử Đảng cộng sản Việt
Nam ngày 08/09/2010; PGS.TS. Phan Xuân Sơn (2007), Thực trạng và giải
pháp đổi mới công tác bầu cử ở nước ta, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 4,
tháng 4/2007; Tác giả: Nguyễn Văn Quang (2014), Thi hành Hiến pháp và
yêu cầu hoàn thiện pháp luật về bầu cử đại biểu HĐND, Báo điện tử Đại
biểu nhân dân, ngày 06/5/2014; Tác giả: Trần Văn Tám (2011), Tổng tuyển
cử đầu tiên và sự hoàn thiện, phát triển chế định bầu cử ở nước ta, Báo Đại
biểu nhân dân điện tử, ngày 5/01/2011; GS.TS. Thái Vĩnh Thắng (2013),
Những bất cập trong chế độ bầu cử - Kỷ yếu hội thảo sửa đổ, bổ sung Hiến
pháp 1992 những đề xuất và lập luận, Đại học Quốc gia Hà Nội; GS.TS.
Đào Trí Úc (2005), Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Sách
chuyên khảo, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội.
Ngoài ra, các giáo trình Luật Hiến pháp trong chương trình đào tạo cử

nhân Luật ở nước ta đều có chương (mục) “Chế độ bầu cử” để đề cập về pháp
luật bầu cử để giới thiệu pháp luật thực định về bầu cử cho sinh viên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn
3.1. Mục đích
Mục đích của Luận văn là nghiên cứu góp phần làm sáng rõ cơ sở lý
luận và cơ sở thực tiễn của chế độ bầu cử đại biểu HĐND ở Việt Nam. Trên
cơ sở đó, nêu bật những thành tựu, hạn chế và đề xuất những giải pháp hoàn
thiện chế định về bầu cử, bầu cử đại biểu HĐND trong pháp luật Việt Nam để
phát huy vai trò của nhân dân trong xây dựng chính quyền địa phương và xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN do dân và vì dân.

5
3.2. Nhiệm vụ
Phân tích trong khuôn khổ pháp lý về cơ sở lý luận liên quan đến chế
độ bầu cử, bầu cử đại biểu HĐND trong xã hội dân chủ nói chung, bầu cử nói
riêng ở Việt Nam. Bao gồm: Những nguyên tắc bầu cử, quyền bầu cử, ứng cử,
hiệp thương giới thiệu ứng cử, vận động bầu cử, đơn vị bầu cử, các tổ chức
phụ trách bầu cử, phương pháp xác định kết quả bầu cử.
Phân tích sự phát triển của chế độ bầu cử, bầu cử đại biểu HĐND ở
nước ta từ khi thành lập nước 2/9/1945 đến nay để làm rõ những thành tựu
trong tiến trình xây dựng pháp luật về bầu cử cũng như trong việc xây dựng
và củng cố chính quyền địa phương qua các thời kỳ. Tuy nhiên, vì chế độ bầu
cử có phạm vi rộng, trong khi dung lượng của luận văn có giới hạn nên luận
văn chỉ tập trung phân tích những thành tựu và những vấn đề còn bất cập của
chế độ bầu cử đại biểu HĐND cấp xã ở nước ta hiện nay.
Phân tích thực tiễn tổ chức bầu cử HĐND ở xã Dương Xá qua một số
nhiệm kỳ gần đây, tập trung tại nhiệm kỳ 2011 – 2016. Từ đó đưa ra những
nhận xét, đánh giá và đề xuất, những giải pháp cụ thể để hoàn hiện chế định
bầu cử đại biểu HĐND ở nước ta trong thời gian tới cho phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh của đất nước và địa phương.

4. Tính mới của Luận văn
So với các đề tài trước đây học viên đã nghiên cứu và các đề tài khác
có cùng chủ đề thì việc nghiên cứu chế định bầu cử ở Việt Nam thường là
xem xét các qui định của pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc Hội và HĐND
các cấp nói chung, nên chưa nhìn nhận hết được thực trạng và bản chất vấn
để bầu cử tại các địa phương, nơi thực tế diễn ra các cuộc bầu cử. Những
vấn đề được đưa ra nghiên cứu trong luận văn lần này tập trung vào nội
dung bầu cử đại biểu HĐND cấp xã (cơ quan quyền lực nhà nước của nhân
dân tại địa phương cấp xã) nên có rất nhiều vấn đề được bàn đến tạo thành

6
sức hút trong đời sống chính trị của người dân, đó là vấn đề về quyền bầu
bầu cử, quyền ứng cử; vấn đề ấn định, phân bổ số lượng đại biểu được bầu,
đơn vị bầu cử; vấn đề tổ chức hiệp thương bầu cử; vấn đề xác định kết quả
bầu cử…Các vấn đề khác: Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cuộc bầu cử,
sự phối kết hợp của các tổ chức kinh tế, chính trị - xã hội, nhân dân đối với
cuộc bầu cử; thậm chí cả vấn đề còn mang tính làng xã cục bộ, địa phương,
dòng họ cũng sẽ được đề cập đến.
Mặt khác, nghiên cứu chế độ bầu cử Đại biểu HĐND trong Luận văn
được thực hiện thông qua việc liên hệ thực tiễn tại một địa phương cụ thể để
nên sẽ đưa ra được những góc nhìn, những bình luận và quan điểm thấu đáo
hơn về “bức tranh” bầu cử sống động và nhiều mầu sắc tại các địa phương
nông thôn trên cả nước và đặc biệt qua thực tiễn tại xã Dương Xá.
Vấn đề được nghiên cứu hy vọng sẽ tạo ra những tín hiệu đáng mừng
trong việc đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác bầu cử đại biểu HĐND tại
xã Dương Xá trong những cuộc bầu cử tiếp theo.
5. Giới hạn của Luận văn
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong khuôn khổ chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp
luật, Luận văn chỉ tập trung phân tích những vấn đề cơ bản của chế độ bầu cử

đại biểu HĐND cấp xã. Luận văn không đề cập đến bầu cử Tổng thống hoặc
các chức danh khác và không đề cập đến bầu cử Đại biểu Quốc Hội, HĐND
cấp tỉnh, cấp huyện. Nếu có, thì mục đích của việc đề cập là làm rõ hơn vấn
đề nghiên cứu. Luận văn đi sâu hơn vào việc phân tích những vấn đề còn tồn
tại, bất cập để tìm ra nguyên nhân, trên cơ sở đó đề xuất những quan điểm và
giải pháp nhằm hoàn thiện chế độ bầu cử đại biểu Hội đồng nhân cấp xã ở
nước ta hiện nay. Luận văn “Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, qua thực
tiễn xã Dương Xá, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội”. Tập trung tại các nội

7
dung: Khái niệm về bầu cử, bầu cử đại biểu HĐND; Sự phát triển của các qui
phạm về bầu cử đại biểu HĐND cấp xã qua các thời kỳ; Các nguyên tắc bầu
cử hiện nay; Những qui định và việc áp dụng các qui định về nội dung, trình
tự và thủ tục bầu cử đại biểu HĐND cấp xã; Thực tiễn công tác tổ chức bầu
cử đại biểu HĐND diễn ra tại xã Dương Xá. Các giải pháp hoàn thiện các qui
định về bầu cử đại biểu HĐND.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Việc ban hành văn bản về bầu cử đại biểu HĐND của các cơ quan nhà
nước; Việc tổ chức thực hiện các qui định về bầu cử tại xã Dương Xá qua đợt
bầu cử đại biểu HĐND, nhiệm kỳ 2011- 2016, những điểm tiến bộ so với các
cuộc bầu cử trước đó và những khó khăn, vướng mắc, những tồn tại, hạn chế
cần khắc phục, điều chỉnh trong thời gian tới. Đề xuất những giải pháp để
hoàn thiện hơn các qui định về bầu cử đại biểu HĐND
5.3. Góc độ tiếp cận Luận văn
Chế độ bầu cử đại biểu HĐND bao gồm những vấn đề mang tính chính
trị, pháp lý, xã hội… Do đó, nó là vấn đề nghiên cứu của nhiều ngành khoa
học pháp lý, chính trị, xã hội…Nhưng Luận văn này, chỉ xem xét chế độ bầu
cử đại biểu HĐND dưới góc độ pháp lý. Tuy nhiên để làm rõ những vấn đề
cần nghiên cứu sẽ có một số vấn đề được tiếp cận dưới góc độ khoa học chính
trị, xã hội, tâm lý…

6. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Với vị trí là một chế định quan trọng của Hiến pháp thuộc chuyên
ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật nên quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lê nin về nhà nước và pháp luật nói chung, nhà nước và pháp luật chủ
nghĩa xã hội nói riêng đóng vai trò là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
nghiên cứu tất cả các vấn đề trong Luận văn. Các quan điểm của Đảng cộng
sản Việt Nam về nhà nước, cách mạng Việt Nam, về đổi mới đất nước, phát

8
huy dân chủ, đề cao sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và hoàn
thiện nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân là cơ sở lý luận cho việc
phân tích và đánh giá các vấn đề trong Luận văn này.
Bên cạnh đó, trong điều kiện toàn cầu hóa và tăng cường hội nhập sâu
rộng của Việt Nam trên diễn đàn quốc tế về mọi lĩnh vực, những văn kiện
quốc tế liên quan đến quyền con người, quyền chính trị, về dân chủ, tự do
trong bầu cử… cũng sẽ được đề cập để xem xét, đối chiếu nhằm giải quyết
một số vấn đề được đề cập trong Luận văn này.
Phương pháp luận được sử dụng để giải quyết những vấn đề đặt ra
trong Luận văn là: phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp phân tích
theo hệ thống, phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp
thống kê và phương pháp mô hình hóa. Việc lựa chọn, sử dụng phương pháp
nghiên cứu cụ thể nào phụ thuộc vào từng vấn đề được nghiên cứu. Tuy nhiên
phương pháp phân tích, tổng hợp được áp dụng mang tính xuyên suốt toàn bộ
Luận văn để làm rõ từng mục, từng chương của Luận văn sau đó để đưa ra
được kết luận chuẩn xác nhất.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những nội dung cơ bản của bầu cử đại
biểu HĐND. Phản ánh hoạt động, công tác bầu cử đại biểu HĐND tại các địa
phương trên cả nước nói chung và tại xã Dương Xá riêng. So sánh với qui
định và thực tiễn bầu cử với một số quốc gia trên thế giới. Chỉ ra được những

điểm tiến bộ và cả những điểm chưa hợp lý trong các quy định của pháp luật
về bầu cử đại biểu HĐND, thực trạng của hoạt động bầu cử đại biểu HĐND
trong hoạt động quản lý, điều hành nhà nước; Nêu bật những vướng mắc, hạn
chế và đề xuất một số hướng hoàn thiện, khắc phục, góp phần cho hoạt động
này diễn ra một cách khoa học, hiệu quả, nâng cao chất lượng bầu cử đại biểu
HĐND được thực chất hơn; Đề cao vai trò, trách nhiệm của người dân trong

9
công tác xây dựng chính quyền, tạo tiền đề nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước trong nhiệm kỳ tiếp theo. Đồng thời, hạn chế các khoản chi phí gây lãng
phí, khó thực thi, vấp phải sự phản ứng của xã hội trong công tác bầu cử đại
biếu HĐND.
Các kết quả của Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ việc
nghiên cứu, giảng dạy và học tập trong các cơ sở đào tạo về luật học và phần
nào có ý nghĩa đối với cán bộ làm công tác thực tiễn trong lĩnh vực bầu cử để
tìm hiểu, vận dụng trong hoạt động, công tác.
8. Kết cấu của Luận văn
Luận văn này gồm phần mở đầu, ba chương và phần kết luận.
Chương 1: Cơ sở lý luận về bầu cử đại biểu HĐND.
Chương 2: Thực tiễn công tác bầu cử đại biểu HĐND tại xã Dương Xá,
huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác bầu
cử đại biểu HĐND.













10
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẦU CỬ ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN

1.1. Khái niệm bầu cử và bầu cử Đại biểu Hội đồng nhân dân
1.1.1. Bầu cử
“Bầu cử” là một cách thức được sử dụng và áp dụng rất nhiều trong các
trường hợp đề xây dựng mới, củng cố, kiện toàn thậm chí là cả bãi nhiệm, bãi
miễn đối với các chức danh, các vị trí quan trọng nằm trong cơ cấu tổ chức
nhân sự của các tổ chức chính trị, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế. Tùy từng
bối cảnh sử dụng khác nhau mà “bầu cử có tính chính trị” hay “tính xã hội”
[24, tr.6]. Với vai trò thể hiện tính chính trị, “bầu cử do các cơ quan nhà
nước thực hiện theo một trình tự, thủ tục nhất định mang tính bắt buộc được
qui định trong Hiến pháp và Luật, chọn ra các cá nhân nắm giữ các chức vụ
trong Quốc hội, các cơ quan đại diện chính quyền” [24, tr.6]. Thủ tục này
được thực hiện bởi sự biểu quyết của cử tri (đại cử tri, đại diện cử tri) với điều
kiện để bầu một đại biểu (chức danh) phải có từ hai ứng cử viên trở lên.
Ngược lại, với vai trò thể hiện tính xã hội, bầu cử do các tổ chức xã hội hay
kinh tế thực hiện, áp dụng bầu cử theo quy chế, quy ước của tổ chức đó, chọn
ra các cá nhân nắm giữ những cương vị lãnh đạo trong tổ chức (ví dụ: bầu cử
ban chấp hành công đoàn, giám đốc, chủ tịch hội đồng quản trị công ty; ban
chấp hành, ban chủ nhiệm các hội, hiệp hội, các câu lạc bộ ). Cũng bởi tính
chất bầu cử trong mỗi hoàn cảnh sử dụng khác nhau nên phạm vi, giá trị kết
quả của mỗi lần bầu cử không giống nhau và tạo nên sự khác biệt rõ rệt giữa
các khái niệm “bầu cử” với các hình thức tuyển chọn khác như: “cử”, “bổ

nhiệm” và “tuyển dụng”. Kết quả bầu cử mang tính chất xã hội sẽ chỉ có ảnh
hưởng, tác động trong phạm vi hoạt động nhỏ, đơn lẻ trong nội bộ cơ quan, tổ
chức. Trong khi đó, kết quả từ bầu cử mang tính chính trị là “biểu hiện cụ thể

11
của dân chủ” [27, tr.114] là khẳng định trao quyền cho một cơ quan, một cá
nhân nhất định đại diện cho nhân dân nhằm thực hiện quyền lực nhà nước. Tuy
nhiên việc xác định tính xã hội hay tính chính trị của bầu cử chỉ mang tính
tương đối bởi chính những cuộc bầu cử mang tính chính trị đã diễn ra trên thực
tế trong đời sống chính trị - xã hội lại coi “bầu cử là hoạt động xã hội của con
người” [17, tr.331] được thực hiện dựa trên những nguyên tắc mang tính chất
của mọi hoạt động xã hội và những nguyên tắc đặc thù của hoạt động bầu cử.
Các nguyên tắc đó thống nhất với nhau, đảm bảo cho bầu cử khách quan, dân
chủ, thể hiện đúng nguyện vọng của cử tri khi lựa chọn đại biểu.
Theo Montesquieu chỉ ra trong Quyển II, Chương 2 của cuốn De
l'esprit des lois (Tinh thần Pháp luật) ông rằng trong việc bầu cử ở thể chế
cộng hòa hay dân chủ, cử tri có khi là những người cầm quyền của quốc gia
có khi lại là người dân của nhà nước đó bằng việc bỏ phiếu. Nó cho phép
người dân có quyền rất lớn để hành động như những "chủ nhân" chọn những
"công bộc" chính quyền cho chính họ. Đặc điểm đặc biệt của các nền dân chủ
và cộng hòa là sự nhận thức rằng chỉ có quyền hợp pháp cho nhà nước "của
dân, do dân và vì dân" là phải có sự đồng thuận của người dân hay những
người bị trị (consent of the governed).
Giống như nhiều quốc gia trên thế giới, mô hình tổ chức nhà nước được
Đảng và nhân dân ta lựa chọn hiện nay đó là mô hình của nhà nước đơn nhất về
hình thức cấu trúc lãnh thổ. Quyền lực nhà nước tập trung vào các cơ quan
trung ương, sau đó phân dần cho các cơ quan chính quyền nhà nước ở địa
phương được tổ chức tương ứng với các đơn vị hành chính. Về mặt chính thể
của nhà nước Việt Nam hiện nay được tổ chức theo mô hình của một nhà nước
dân chủ, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước được tổ chức

không theo nguyên tắc phân quyền mà tập trung trong tay Quốc hội, cơ quan
duy nhất thực hiện quyền lực nhà nước thuộc về mình do nhân dân toàn quốc

12
trực tiếp bầu ra, nhưng có sự phân định rạch ròi giữa ba quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Thông qua bầu cử, bộ máy nhà nước được thành lập ra cho
phép chúng ta xác định nguồn gốc, bản chất dân chủ của nhà nước và khẳng
định tính hợp pháp, chính đáng của chính quyền. Trong chính thể dân chủ:
Pháp luật bầu cử cũng giống như nhiều chế định pháp luật
khác của ngành luật Hiến pháp không những chỉ qui định bầu cử
chứa đựng các qui phạm nói chung về quyền hạn và trách nhiệm
của các chủ thể tham gia các mối quan hệ bầu cử mà còn chứa đựng
cả những qui phạm có tính thủ tục, qui định trình tự đối với một
cuộc bầu cử và xác định kết quả cho cuộc bầu cử [17, tr.330].
Vì thế, khái niệm bầu cử chính trị có thể được hiểu ở nhiều góc độ khía
cạnh khác nhau:
Xét về ý nghĩa: Bầu cử là một hình thức sinh hoạt chính trị thể hiện
quyền lực, ý nguyện của nhân dân.
Xét về thuật ngữ trong Luật Hiến pháp: Bầu cử được hiểu là thủ tục
thành lập cơ quan nhà nước hay chức danh nhà nước
Xét về trình tự: Bầu cử là một quá trình đưa ra quyết định của người
dân để chọn ra một cá nhân nắm giữ các chức vụ thuộc chính quyền.
Xét về chức năng: Bầu cử là cơ chế thông thường mà các nền dân chủ
hiện dùng để phân bổ chức vụ trong bộ máy lập pháp, thỉnh thoảng ở bộ máy
hành pháp, tư pháp, và ở chính quyền địa phương.
Xét về vị trí pháp lý: Bầu cử là một trong những chế định quan trọng
trong ngành Luật Hiến pháp, là cơ sở pháp lý cho việc hình thành ra các cơ
quan đại diện cho quyền lực Nhà nước.
Ngoài ra bầu cử còn được coi là một chế định trọng tâm của các
chính phủ dân chủ kiểu đại diện; một biện pháp hạn chế hữu hiệu quyền

lực nhà nước.
Với nhiệm vụ nghiên cứu Hiến pháp – một đạo luật cơ bản do cơ quan

13
quyền lực nhà nước ban hành. Nó qui định việc tổ chức nhà nước, cơ cấu
thẩm quyền các cơ quan nhà nước trung ương và quyền cơ bản của con người.
Mọi cơ quan và tổ chức phải có nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp. Trong Hiến
pháp, chế độ bầu cử là một trong số chế định quan trọng vì nó vừa thể hiện
những quan hệ có liên quan đến việc thành lập các cơ quan nhà nước lại vừa
thể hiện quyền chính trị của công dân. Do vậy, khái niệm bầu cử cần được
hiểu là: “Bầu cử là một trong những chế định quan trọng trong ngành Luật
Hiến pháp, là cơ sở pháp lý cho việc hình thành ra các cơ quan đại diện cho
quyền lực Nhà nước” [17, tr.329].
1.1.2. Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
Để hiểu được khái niệm bầu cử đại biểu HĐND trước tiên cần trả lời
được câu hỏi HĐND là gì? Đại biểu HĐND là ai?
Theo pháp luật hiện hành, cơ quan chính quyền địa phương ở nước ta
được phân chia thành ba cấp gồm: cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
(gọi chung là cấp tỉnh); cấp quận, huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã (gọi
chung là cấp huyện); cấp xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã). “HĐND là
cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách
nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên” [Điều 113],
Hiến pháp 2013) [46, Điều 113]. HĐND có nhiệm kỳ hoạt động là năm năm;
hoạt động của HĐND thông qua kỳ họp HĐND, hoạt động của thường trực
HĐND, các ban thuộc HĐND và thông qua hoạt động của các đại biểu HĐND.
HĐND thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo qui định của pháp luật,
bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của trung ương, đồng thời phát huy quyền chủ
động, sáng tạo của địa phương. Tính quyền lực của HĐND biểu hiện ở việc nó
thể hiện quyền làm chủ của nhân dân trên địa bàn lãnh thổ đồng thời thực hiện

các nhiệm vụ, quyền hạn do cấp trên giao. HĐND thực hiện chức năng quyết

14
định những vấn đề của định phương trong phạm vi phân cấp thông qua việc
ban hành nghị quyết – văn bản qui phạm pháp luật có tính bắt buộc chung đối
với mọi cá nhân, tổ chức và công dân ở địa phương. HĐND bầu ra cơ quan
chấp hành của cấp mình là UBND – cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương, đồng thời thực hiện chức năng giám sát các hoạt động chấp hành và
điều hành của UBND trong việc thực hiện nghị quyết của HĐND và các quyết
định khác của các cơ quan nhà nước cấp trên, thực hiện Hiến pháp và Luật.
Để thành lập ra được HĐND đảm bảo cơ cấu, tổ chức thì nhiệm vụ
đầu tiên phải bầu được các Đại biểu HĐND. Việc tổ chức bầu cử đại biểu
HĐND được thực hiện thông qua hoạt động của các tổ chức phụ trách bầu
cử. Theo qui định tại Điều 36, Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003
nêu rõ “Đại biểu HĐND là người đại diện cho ý chí và nguyện vọng của
nhân dân địa phương, gương mẫu chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà
nước; tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật và
tham gia vào việc quản lý nhà nước” [40, Điều 36].
Trước khi được đưa vào danh sách ứng cử viên bầu cử đại biểu HĐND,
các ứng cử viên phải đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn theo luật định và phải trải
qua các bước hiệp thương bắt buộc. Người trúng cử đại biểu HĐND là người
được cử tri tín nhiệm với số phiếu bầu tán thành đạt tỷ lệ trên 50% so với tổng
số cử tri tại khu vực bỏ phiếu và được xếp theo thứ tự từ cao xuống thấp,
trong phạm vi số đại biểu được bầu tại mỗi khu vực bỏ phiếu.
Như vậy, “Bầu cử đại biểu HĐND là việc cử tri thông qua lá phiếu của
mình để cân nhắc, lựa chọn ra những những ứng cử viên được cử tri tín
nhiệm nhất để ủy nhiệm quyền và đại diện cho họ tham gia vào các cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương” [27]. Đại biểu HĐND sau khi trúng cử
được bố trí theo các ban, các tổ đại biểu HĐND của HĐND để thực hiện
nhiệm vụ của mình. HĐND hoạt động tập thể có hình thức hoạt động chủ yếu


15
là kỳ họp mà ở đó tất cả các đại biểu đều tham dự họp bàn, thảo luận, quyết
định những vấn đề thuộc nhiệm vụ quyền hạn của HĐND địa phương mình.
Một số đại biểu HĐND còn được các đại biểu HĐND trong tập thể mình bầu
tham gia vào các ban của HĐND, thường trực HĐND, UBND cấp mình. Nên
đại biểu HĐND không những chỉ là cầu nối, là đại diện cho ý chí và nguyện
vọng của cử tri với các cơ quan nhà nước mà bản thân một số đại biểu HĐND
cũng chính là cán bộ, công chức, lãnh đạo các cơ quan chính quyền tại địa
phương. Mặc dù điều này sẽ phần nào làm hạn chế tính dân chủ, khách quan
của đại biểu HĐND trong hoạt động của mình.
Nhưng với quan điểm trao quyền cho người đại diện đồng
nghĩa với việc gắn trách nhiệm của đại biểu HĐND với cử tri nên
việc đại biểu HĐND là lãnh đạo các cơ quan chính quyền, quyền lực
nhà nước sẽ phát huy đầy đủ hơn vai trò của một người đại biểu dân
cử đó là: Người đại biểu là người hoạch định chính sách; là người
đưa ra quyết định; là người giao tiếp (tiếp xúc cử tri); người tác
động, thúc đẩy giúp cử tri giải quyết vấn đề; người tạo ra cơ hội cho
người khác; người thương thuyết; người tài chính; người giám sát;
người xây dựng thể chế; người lãnh đạo thực hiện tất cả các vai trò
để thúc đẩy xã hội phát triển; là nhà lãnh đạo thực hiện tất cả các vai
trò trong phạm vi quyền lực của mình đề tạo ra những thay đổi tích
cực, quan trọng trong cuộc sống của cử tri và của cộng đồng [70].
Người đại biểu muốn khẳng định được năng lực hoạt động hiệu quả và
giữ được tín nhiệm trong lòng cử tri ngoài phẩm chất, đạo đức, năng lực,… đã
sẵn có đòi phải tự trau dồi, học hỏi và trang bị cho mình những kỹ năng hoạt
động cần thiết như kỹ năng xây dựng chương trình công tác, kỹ năng tiếp xúc
cử tri, kỹ năng giám sát, xử lý tình huống… có như vậy mới đáp ứng được
nhu cầu, nguyện vọng của cử tri trong một xã hội ngày càng dân chủ, văn
minh, hiện đại.


16
1.2. Mục đích, ý nghĩa của Bầu cử Đại biểu Hội đồng nhân dân
Kể từ cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của Quốc hội Khóa I ngày 6/1/1946
đến nay, Quốc hội nước ta đã trải qua 65 năm hoạt động với mười ba lần tổ
chức bầu cử. Quốc hội đã có những đóng góp to lớn vào công cuộc củng cố
nền độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội, cùng với cả hệ thống chính trị
đưa nước ta ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài nhiều
năm, để lại trong lòng nhân dân nhiều dấu ấn sâu sắc và bài học kinh nghiệm
về tổ chức bộ máy nhà nước. Thực hiện Chỉ thị 50-CT/TW ngày 5/1/2011 của
Bộ Chính trị về lãnh đạo cuộc bầu cử ĐBQH khóa XIII và bầu cử đại biểu
HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011-2016, ngày 21/1/2011 UBTVQH đã ban hành
Nghị quyết số 1018/NQ – QH về công bố ngày bầu cử và thành lập Hội đồng
bầu cử Quốc hội Khóa XIII và bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ
2011-2016 vào ngày Chủ nhật 22/5/2011. Đây là cuộc bầu cử được diễn ra
gần đây nhất trong phạm vi cả nước và với kết quả thành công của cuộc bầu
cử này đã tiếp tục khẳng định thêm giá trị của các cuộc bầu cử, trong đó bao
gồm cả bầu cử đại biểu HĐND ở nước ta trong suốt mấy chục năm qua.
Trở lại những ngày đầu tiên đất của đất nước mới giành được độc lập,
trong một cuộc phỏng vấn trả lời các nhà báo Chủ tịch Hồ Chí Minh - người
đại biểu mẫu mực, Người đã từng nói:
Tôi tuyệt nhiên không ham công danh phú quý chút nào. Bây
giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng
sức làm, cũng như người lính vâng lệnh quốc dân ra mặt trận. Bao
giờ đồng bào cho tôi lui thì tôi vui lòng lui. Tôi chỉ có một ham
muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn tự do [35, tr.58].
Nên Người rất coi trọng việc cầu người hiền tài ra gánh vác công việc
giúp dân, giúp nước. Người cho rằng, làm đại biểu dân cử là dấn thân vào con


17
đường “công bộc”, không phải là “làm quan, phát tài”. Vì thế, trong điều kiện
nhất định tổ chức thành công các cuộc bầu cử, bầu cử đại biểu HĐND sẽ là
điều kiện để cán bộ, nhân dân và cử tri cả nước có điều kiện kế thừa, phát huy
những giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh, sáng suốt lựa chọn người đủ tài đức ra
làm đại biểu dân cử, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Mỗi cuộc
bầu cử Quốc hội hay HĐND các cấp đều gắn một hoàn cảnh, một điều kiện
lịch sử và những nhiệm vụ của đất nước, địa phương nhất định. Với cuộc tổng
tuyển cử lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam được diễn ra ngay sau khi
Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt nhân dân Việt Nam đọc lời tuyên ngôn độc lập
khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Trong điều kiện nhà nước non
trẻ gặp vô vàn khó khăn, thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử là dấu mốc phát
triển nhảy vọt đầu tiên về thể chế dân chủ của nước Việt Nam, mở ra triển vọng
của một thời kỳ mới, thời kỳ đất nước Việt Nam có một Quốc hội, một Chính
phủ thống nhất và một hệ thống chính quyền hoàn toàn đầy đủ danh nghĩa về
mặt pháp lý để đại diện cho nhân dân Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 6-1-1946 thực sự "là một ngày đầu tiên trong lịch
sử Việt Nam mà nhân dân ta bắt đầu hưởng dụng quyền dân chủ của mình”
[73]. Giờ đây bầu cử đại biểu HĐND các cấp luôn được coi là một sự kiện
chính trị trọng đại của đất nước, của từng địa phương có ý nghĩa về nhiều mặt:
Một là, cuộc bầu cử sẽ bầu ra những vị đại biểu HĐND các
cấp, thành viên của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Đây
là tiền đề để HĐND bầu ra UBND thuộc cấp mình. Cuộc bầu cử
được diễn ra là cơ hội, đánh dấu mốc son quan trọng trong việc
hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước từ chính quyền địa phương cấp
tỉnh đến cấp xã, góp phần củng cố hệ thống chính trị, góp phần đưa
đất nước nói chung và địa phương nói riêng tiến nhanh trên con
đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

18

Hai là, hầu hết các cuộc bầu cử được tổ chức ngay sau khi kết
thúc Đại hội Đảng toàn quốc nên có rất nhiều văn kiện liên quan
đến chiến lược phát triển kinh tế của đất nước đã thông qua. Cùng
với Quốc hội, HĐND các cấp thức hiện chức năng lập qui quyết
định các vấn đề quan trọng và thực hiện quyền giám sát của mình sẽ
góp phần rất quan trọng thể chế nghị quyết của Đại hội Đảng để
đưa nghị quyết vào cuộc sống. Bầu cử đại biểu HĐND là điều kiện
thuận lợi để Đảng ta giới thiệu những đảng viên ưu tú của Đảng
tham gia chính quyền một cách hợp hiến, hợp pháp. Tổ chức thành
công cuộc bầu cử sẽ là biểu hiện sinh động của việc thể chế nghị
quyết của Đại hội Đảng, tăng cường sự đồng thuận của nhân dân
đối với công tác cán bộ của Đảng, củng cố vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội.
Ba là, công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của
dân, do dân, vì dân đang đặt ra vấn đề cần hoàn thiện cơ cấu tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, trong đó có HĐND các
cấp. Nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà
nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân, do Đảng lãnh đạo, cần được kế thừa và phát huy trong điều
kiện mới. Nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phối
hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp phải được đề cao. Nhân dân thực hiện
quyền lực của mình một cách gián tiếp thông qua HĐND là một
kênh quan trọng trong thể chế chính trị của nước ta, nhưng dân chủ
trực tiếp vẫn là nguyện vọng chính đáng của nhân dân cần được
hiến định rõ hơn để làm cho thể chế chính trị nước ta ngày càng
vững mạnh. Tổ chức thành công cuộc bầu cử cũng là biểu hiện sinh

19
động của việc thực hiện nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước trong

điều kiện đổi mới. Cuộc bầu cử cũng là tiền đề cho sự đổi mới nâng
cao chất lượng hình thức dân chủ, kiểm soát quyền lực nhà nước,
phát huy tinh thần yêu nước và vai trò chủ động của các tầng lớp
nhân dân, của cử tri cả nước.
Bốn là, HĐND các cấp là những cơ quan có nhiều cơ cấu đại
diện đan xen như công nhân, nông dân, trí thức, thanh niên, phụ nữ,
người dân tộc thiểu số, doanh nhân, đảng viên, người ngoài đảng,
người tự ứng cử… Tất cả các đại biểu dù xuất phát từ cơ cấu nào
cũng phải là người có đủ tiêu chuẩn đại biểu theo quy định của
pháp luật và trên hết phải là người công tâm, đức độ một lòng vì
nước, vì dân. Tổ chức thành công cuộc bầu cử sẽ góp phần tăng
cường đại đoàn kết dân tộc, tăng sự đồng thuận trong xã hội. Thông
qua cuộc bầu cử HĐND các cấp sẽ nhận được ủy quyền hợp hiến,
hợp pháp của nhân dân, thực thi quyền lực công khai, minh bạch và
luôn nhận được sự ủng hộ của địa phương.
Năm là, trong điều kiện hội nhập quốc tế đang tạo ra thời cơ
mới cho nước ta phát triển về kinh tế thì cũng phải đối mặt với
thách thức mới về chính trị - các thế lực thù địch vẫn tiếp tục lợi
dụng hoàn cảnh quốc tế, yêu sách đa nguyên, đa đảng, sử dụng
chiêu bài dân chủ, nhân quyền như điều kiện của hợp tác hòng làm
suy yếu hệ thống chính trị của ta - tổ chức cuộc bầu cử công khai,
minh bạch thắng lợi sẽ là sự biểu dương sức mạnh của nhân dân,
của đất nước, phát huy dân chủ XHCN, củng cố nền độc lập tự chủ
và bảo vệ chủ quyền quốc gia [73].
Bầu cử là một hành vi chính trị, thực hiện quyền lực chính trị nên có
những yêu cầu chặt chẽ về mặt pháp lý và kỹ năng tổ chức thực tiễn. Để cuộc
bầu cử HĐND các đạt hiệu quả, đạt được mục đích ý nghĩa của cuộc bầu cử

×