Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Thực hiện pháp luật bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân cấp xã (qua thực tiễn tại huyện điện biên, tỉnh điện biên)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.62 KB, 98 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi đã hoàn thành luận văn thạc sĩ, tên đề tài: “Thực hiện pháp luật
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã (Qua thực tiễn tại huyện Điện
Biên, tỉnh Điện Biên)”
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của tôi. Trong quá
trình viết đề tài này, tôi đã sử dụng một số kết quả nghiên cứu của các nhà khoa
học và những thông tin trong văn bản của Nhà nước nhưng đã được chú dẫn.
Công trình này chưa được tác giả công bố.
MỤC LỤC
MỤC LỤC 2
MỞ ĐẦU 2
CHƯƠNG 1 11
TỔNG QUAN VỀ PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN 11
PHÁP LUẬT BẦU CỬ ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ 11
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẦU CỬ 37
ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ TẠI 37
HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN 37
CHƯƠNG 3 72
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ 72
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẦU CỬ ĐẠI BIỂU 72
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ 72
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiến pháp năm 1992 đã xác định bản chất của Nhà nước ta và phương
thức chủ yếu sử dụng quyền lực nhà nước của nhân dân. Điều 2 Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm
2001) đã khẳng định: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Tiếp đó, Điều 6
Hiến pháp 1992 ghi nhận: “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua


Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và
nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước
nhân dân”. Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, Điều 4 Luật tổ chức Hội đồng
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 đã ghi rõ:“Hội đồng nhân dân là
cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của nhân dân do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm
trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước và địa phương”
Với bản chất là một nhà nước có chế độ chính trị dân chủ, Nhà nước ta
được sử dụng một hệ thống các phương pháp và biện pháp dân chủ rộng rãi để
tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước. Gần sáu mươi lăm năm qua, Nhà
nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn về nhiều mặt. Góp phần vào những
thành tựu to lớn đó không thể không kể đến vai trò của pháp luật bầu cử.
Để bảo đảm sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước trong bối toàn cầu hóa, cần xây dựng chính quyền nhân dân thực sự
vững mạnh, dân chủ, hiệu quả. Nhận thức được điều đó, Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI của Đảng đã xác định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực chất
của việc đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị”. Thể hiện sự quyết tâm trong
việc kiện toàn hệ thống chính trị và phát huy dân chủ, nội Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX Đảng tiếp tục chỉ ra nhiệm vụ: “Nâng cao chất lượng đại biểu
Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, hoàn thiện những quy định về bầu cử,
ứng cử, về tiêu chuẩn và cơ cấu các đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân
trên cơ sở thật sự phát huy dân chủ” [8.tr122 – tr12]. Như vậy về mặt nhận
thức lý luận, việc đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị và phát huy dân chủ
trong chế độ bầu cử đại biểu các cơ quan đại diện đã và đang được Đảng ta
ngày càng quan tâm.
Tuy nhiên, việc phát huy dân chủ trong pháp luật bầu cử đại biểu các cơ
quan đại diện không chỉ là việc hoàn thiện các quy định của pháp luật, mà còn
cần phải được thể hiện trong cả trong hoạt động thực thi pháp luật bầu cử
trong thực tiễn cuộc sống. Vì thế, cùng với việc xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật bầu cử nói chung và pháp luật về bầu cử đại biểu hội đồng

nhân dân cấp xã nói riêng cần phải tổ chức thực hiện tốt pháp bầu cử.
Thực tế cho thấy việc thực hiện pháp luật nói chung, pháp luật bầu cử
đại biểu các cơ quan đại diện nói riêng trong thời gian qua có lúc, có nơi còn
chưa được nghiêm chỉnh. Chính vì thế, trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ
chín của Ban chấp hành trung ương Đảng khóa IX đã chỉ rõ:“cần tiếp tục đổi
mới và hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật, ban hành và thực thi pháp
luật, trong đó chú trọng trong việc tuyên truyền và tổ chức thi hành pháp luật
một cách nghiêm minh”. [9, tr. 204 -205]
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng hoạt động tổ chức thực hiện chính
sách, pháp luật. Người cho rằng:“Chính sách đúng là nguồn gốc của thắng
lợi. Nhưng khi chính sách đúng thì sự thành công hay thất bại của chính sách
đó là do cách thức tổ chức công việc, lựa chọn cán bộ và kiểm tra. Nếu một
trong ba điều ấy sơ sài thì chính sách đúng mấy cũng trở nên vô nghĩa”.[ 14,
tr 150 – 151] Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, sự thành công hay thất bại
của chính sách pháp luật còn do nơi thực hiện.
GS.TSKH Đào Trí Úc, trong bài: “Xã hội học thực hiện pháp luật
những khía cạnh nhận thức cơ bản” của đăng trên tạp chí Nhà nước và Pháp
luật số 2/2005 có viết:“Nỗ lực xây dựng pháp luật sẽ không đạt được kết quả,
nếu nối liền theo đó thiếu nỗ lực cho việc thực hiện pháp luật”. [10, 2/2002]
Chính sách đúng, phương pháp tổ chức phù hợp là cơ sở cho sự thành
công của một chính sách pháp luật. Và như vậy, chính sách pháp luật bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã sẽ đạt kết quả, góp phần vào công cuộc đổi
mới, kiện toàn hệ thống chính trị khi và chỉ khi nó được đảm bảo thực hiện trên
thực tế. Tuy nhiên, qua thực tiễn thực hiện pháp luật bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp xã tại huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên nhiệm kỳ 2004 – 2009
cho thấy: việc thực hiện pháp luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã có
lúc, có nơi còn chưa được bảo đảm, còn có biểu hiện của vi phạm pháp luật bầu
cử một cách nghiêm trọng. Nguyên nhân của thực trạng đó, một phần do sự bất
cập giữa lý luận với thực tiễn, một phần do ý thức của các chủ thể trong quá
trình thực thi pháp luật, dẫn đến hệ quả là tính dân chủ trong pháp luật bầu cử

chưa được bảo đảm. Đây là một trong nhưng nguyên nhân làm cho bộ máy
chính quyền cấp xã ở một số địa phương chưa thực sự vững mạnh.
Chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu việc thực pháp luật bầu cử đại biểu cơ
quan đại diện từ chính quyền cấp xã xuất phát tính chất quan trọng của hệ
thống chính quyền cấp cơ sở (cấp xã) bởi: với cách thức tổ chức hệ thống
chính quyền 4 cấp như bộ máy nhà nước Việt Nam hiện nay (cấp trung ương,
tỉnh, huyện, xã) thì chính quyền cấp xã là cấp chính quyền quan trọng nhất,
cấp chính quyền gần dân và sát dân nhất. Mọi chủ trương đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đều được triển khai tổ chức thực
hiện đến từng người dân thông qua bộ máy chính quyền cấp cơ sở - cấp xã
(theo quy định của pháp luật chính quyền cấp cơ sở bao gồm chính quyền cấp
xã, phường, thị trấn đều được gọi chung là cấp xã). Cấp xã là cấp có ý nghĩa,
qua trọng trong việc đổi mới kiện toàn hệ thống chính trị của nhà nước ta hiện
nay.
Đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị và phát huy dân chủ, xuất phát từ hoạt
động nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp
xã với mục tiêu thiết lập nên hệ thống các cơ quan đại diện hoạt động có hiệu quả,
thay mặt nhân dân địa phương quản lý nhà nước, quản lý xã hội, duy trì, ổn định đời
sống chính trị tại địa phương. Bởi Hội đồng nhân dân với vị trí là cơ quan đại diện –
cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương có vai trò rất lớn cho việc thực hiện mục
tiêu này. TS.Văn Tất Thu đã nhận định: “Hội đồng nhân dân cấp xã được hình
thành trên đơn vị hành chính lãnh thổ xã – xã là đơn vi hành chính cuối cùng,
nhỏ nhất trong các đơn vị hành chính lãnh thổ. Đơn vị hành chính lãnh thổ tự
nhiên, gắn chặt chẽ với dân cư cơ sở. Hội đồng nhân dân là cơ quan đại diện
trực tiếp cho ý chí của nhân dân, là cầu nối giữa Nhà nước và nhân dân, mọi
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đều do xã tổ chức
triển khai thực hiện đến từng người dân”. [30, 3/2009]
Việc nghiên cứu về thực hiện pháp luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp xã tại một đơn vị hành chính cụ thể là huyện Điện Biên, tỉnh Điện
Biên. Tỉnh Điện Biên là một trong những “phên giậu” của Tổ quốc, có đường

biên giới chung với nước bạn Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa. Tại tỉnh Điện Biên trình độ dân trí còn thấp, dân cư
phân bổ không đồng đều, kinh tế - xã hội chậm phát triển, nguồn nhân lực còn
đang rất hạn chế. Đây có thể là những rào cản dẫn đến việc thực hiện pháp
luật bầu cử nói chung và việc thực hiện pháp luật bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp xã nói riêng chưa được tốt.
Những phân tích trên, là cơ sở cho việc tác giả lựa chọn, nghiên cứu đề
tài: “Thực hiện pháp luật bầu cử Hội đồng nhân dân cấp xã: Qua thực tiễn
tại huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên” trong khuôn khổ của một luận văn thạc
sĩ luật học.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Bầu cử với bản chất là một trong những phương thức thể hiện dân chủ,
là “thước đo” dân chủ của một quốc gia gắn liền với chế độ dân chủ đại diện,
Nó được đề cao trong các nền dân chủ đương đại.
Ở Việt Nam, liên quan đến bầu cử, có những công trình nghiên cứu
như: Luận án “Chế độ bầu cử ở nước ta - những vấn đề lý luận và thực tiễn”
(2009) của Vũ Văn Nhiêm có nội dung chủ yếu là lập luận về sự cần thiết
phải đổi mới chế độ bầu cử và nêu các giải pháp đổi mới chế độ bầu cử cơ
quan đại diện cao nhất (Quốc hội) trên phương diện lý luận và thực tiễn. Cuốn
sách “Nhân dân giám sát các cơ quan dân cử ở Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới” (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội -2006), do TS. Đặng Đình
Tân (Chủ biên) đã khẳng định: bầu cử là phương thức rất quan trọng và hữu
hiệu thông qua đó, nhân dân giám sát Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp.
Dưới góc độ chính trị học, nội dung cuốn sách đưa ra một số kết luận bổ ích
về thực trạng của chế độ bầu cử nước ta. Sách chuyên khảo của tập thể tác giả
do GS.TSKH. Đào Trí Úc (Chủ biên) với tiêu đề: “Xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội -
2005) có đánh giá vai trò quan trọng của chế độ bầu cử trong việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhóm
nghiên cứu đã chỉ rõ rằng chế độ bầu cử ở Việt Nam hiện nay chưa được quan

tâm đúng mức. Do vậy, một trong các biện pháp nền tảng để xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân ở nước ta trong
thời gian tới là cần nghiên cứu, đổi mới để khắc phục sự bất cập của chế độ
bầu cử hiện hành. Chuyên đề được đăng trên Thông tin khoa học pháp lý do
TS. Trương Đắc Linh biên soạn với tiêu đề “Chính quyền địa phương với việc
đảm bảo thi hành hiến pháp và pháp luật” (2002) có nội dung đề cập vai trò
của chính quyền địa phương trong việc đảm bảo thi hành hiến pháp và pháp
luật và đưa ra những hạn chế vướng mắc về mặt lý luận cũng như thực tiễn
dẫn đến việc thực hiện pháp luật không được bảo đảm tại chính quyền địa
phương. Tác giả cho rằng, đây là một trong những nguyên nhân đe dọa sự
sống còn của cả một hệ thống chính trị. Đánh giá được tầm quan trọng của
chính quyền địa phương trong việc thực hiện pháp luật, từ đó tác giả đã đưa ra
những phương hướng tăng cường vai trò của chính quyền địa phương trong
việc thực hiện pháp luật trên mọi lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực bầu cử.
Ngoài ra, còn có các bài viết được đăng trên các tạp chí chuyên ngành.
PGS.TS. Thái Vĩnh Thắng có bài viết “Một số ý kiến về đổi mới tổ chức và hoạt
động của các cơ quan quyền lực nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay” (Tạp chí
Nhà nước và pháp luật, số 5 (157)/2001). Trong bài viết này, tác giả đã chỉ rõ
cần mở rộng dân chủ, nâng cao vai trò của cử tri trong bầu cử. TS.Bùi Ngọc
Thanh có bài viết “Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII- Những vấn đề từ
thực tiễn” (Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 7(103), tháng 7/2007). Với tư cách
là Tổng thư ký Hội đồng bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII, TS. Bùi Ngọc
Thanh đã chỉ ra những tồn tại, nhất là dưới góc độ thực tiễn trong việc tổ chức
thực hiện pháp luật bầu cử nước ta và đề xuất một số biện pháp khắc phục.
GS.TSKH Đào Trí Úc có bài viết “Xã hội học thực hiện pháp luật những khía
cạnh nhận thức cơ bản” đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật số 2/2005.
Trong bài này, GS.TSKH Đào Trí Úc cho rằng, thực hiện pháp luật là đời sống
thứ hai của pháp luật: “Đời sống thứ hai của pháp luật có mức độ phức tạp hơn
nhiều so với lần sinh thứ nhất của nó. Chính vì chưa nhận nhận rõ hết tính phức
tạp của lĩnh vực thực hiện pháp luật mà chúng ta thấy có một thực tế là: Tuy

Đảng và Nhà nước ta trong nhiều năm qua đã có nhiều nỗ lực để ban hành
pháp luật, tạo nên một khuôn khổ pháp lý tương đối đầy đủ để thúc đẩy phát
triển các quan hệ xã hội trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội nhưng yếu
nhất vẫn là khâu thực hiện pháp luật, đưa pháp luật vào đời sống”. [10, 2/2002]
“Chế độ bầu cử” và cách thức thực hiện pháp luật còn được đề cập trong
các giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam hoặc Luật Hiến pháp nước ngoài thuộc
Chương trình đào tạo Cử nhân luật. Trong các giáo trình này, thường có
chương (mục) riêng viết về chế độ bầu cử, với mục đích chủ yếu là cung cấp
những kiến thức cơ bản về bầu cử, pháp luật về bầu cử cho sinh viên luật.
Như vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết đề cập chế độ bầu
cử và thực hiện pháp luật ở chính quyền cơ sở. Trong nội dung các bài viết ít,
nhiều đều đề cập thực trạng pháp luật bầu cử dưới góc độ thực tiễn, nhưng
chưa quan tâm nhiều đến pháp luật bầu cử dưới góc độ “ đời sống thứ hai của
pháp luật”, hay nói cách khác là chưa thật sự quan tâm đến việc nghiên cứu
thực tiễn thực hiện pháp bầu cử ở các địa phương, nhất là nghiên cứu việc
thực hiện pháp luật bầu cử ở những xã vùng núi, vùng sâu, vùng xa như ở
huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích nghiên cứu của Luận văn là đánh giá đúng thực trạng và đưa ra
những giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, vướng mắc còn tồn tại trong
quá trình trình thực thi pháp luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp xã, trong đó có các xã ở vùng núi, vùng cao như huyện Điện Biện,
tỉnh Điện Biên nói riêng.
Để đạt được mục đích nói trên, Luận văn có nhiệm vụ:
- Phân tích cơ sở lý luận về pháp luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
cấp xã: khái niệm, vai trò và các hình thức thực hiện pháp luật bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân cấp xã.
- Xây dựng các tiêu chí đáng giá hiệu quả của việc thực hiện pháp luật
bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân cấp xã.

- Phân tích và đánh tình hình thực hiện pháp luật bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp xã (qua thực tiễn tại huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên).
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bầu
cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã.
4. Phạm vi, giới hạn nghiên cứu của luận văn
Về mặt không gian, thực hiện pháp luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp xã là một vấn đề nghiên cứu có phạm vi rộng lớn, liên quan đến tất cả
các đơn vị hành chính lãnh thổ cấp cơ sở trong phạm vi cả nước, ở mỗi vùng,
miền lại có những đặc điểm đặc thù riêng về điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn
hóa – xã hội. (Toàn quốc hiện nay có 11.066 xã bao gồm: 1352 phường; 9101
xã và 613 thị trấn được gọi chung là cấp xã) [1]. Trong phạm vi nghiên cứu
của Luận văn thạc sĩ, chúng tôi giới hạn việc nghiên cứu trong phạm vi một
huyện của tỉnh Điện Biên (huyện Điện Biên), nơi đây có vị trí địa lý, kinh tế,
văn hóa - xã hội mang tính đặc thù của các tỉnh miền núi. Đây là là những
yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả việc thực hiện pháp luật bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân cấp xã nơi đây.
Về mặt thời gian, Luận văn đặt vấn đề nghiên cứu việc thực hiện pháp
luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã nhiệm kỳ 2004 – 2009, bởi đây
là quá trình bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã đầu tiên được áp dụng
theo Luật bầu cử mới (Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003)
được xây dựng trên những quan điểm, đường lối, chính sách mới của Đảng
trong công cuộc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa nhằm phát huy dân chủ và củng cố, xây dựng bộ máy chính quyền cơ
sở thực sự vững mạnh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đổi mới đất nước,
phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân về xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì nhân dân là cơ
sở để phân tích, đánh giá các vấn đề trong luận văn. Tư tưởng Hồ Chí Minh
về giành, giữ chính quyền và phát huy dân chủ, tư tưởng về quyền lực nhà

nước thuộc về nhân dân là cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên cứu thực
hiện pháp luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã trong Luận văn.
Trên nền tảng phương pháp luận duy vật biện chứng của triết học Mác-
Lênin, Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: phương pháp phân
tích, tổng hợp, phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, phương pháp lịch
sử; phương pháp so sánh, để giải quyết các vấn đề đặt ra trong Luận văn.
6. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn
Là công trình nhỏ nhưng Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên về
việc thực hiện pháp luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã qua thực
tiễn thực thi pháp luật bầu cử tại một địa phương cụ thể. Kết quả nghiên cứu
đề tài có đóng góp như sau:
- Góp phần đổi mới nhận thức về vai trò của việc thực hiện pháp luật
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã trong giai đoạn hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp xuất phát từ thực tế nhằm hoàn thiện cơ sở
pháp lý về pháp luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã.
- Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo, nghiên cứu cho sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh và
các cơ quan, tổ chức hữu quan.
7. Kết cấu của luận văn
Bố cục luận văn gồm có: Mở đầu, 3 chương, Kết luận và Danh mục tài
liệu tham khảo.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT BẦU CỬ ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ
1.1. Khái niệm, nội dung của pháp luật bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp xã
1.1.1. Khái niệm pháp luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã
Bầu cử đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử loài người. Trong chế độ công
xã nguyên thủy, do nhu cầu cần có người đứng đầu quản lý công việc chung của
thị tộc nên mỗi thị tộc bầu ra người đứng đầu, thường bầu ra Tù trưởng và Thủ

lĩnh quân sự. Thời kỳ chiếm hữu nô lệ cũng đã tồn tại chính thể cộng hòa với
Viện nguyên lão bao gồm đại diện của những chủ nô quý tộc và đại diện của
những người cầm vũ khí. Dưới chế độ phong kiến chuyên chế nói chung bầu cử
không được áp dụng, trong cuộc đấu tranh chống giai cấp phong kiến, giai cấp tư
sản đã sử dụng bầu cử như một vũ khí hữu hiệu để hạn chế quyền lực của giai
cấp phong kiến. Cách mạng dân chủ tư sản xác lập chế độ dân chủ tư sản với
tuyên bố chủ quyền nhân dân, cũng đồng thời khẳng định bầu cử là phương thức
căn bản để ủy quyền, qua đó thành lập ra các thiết chế đại diện.
Ở Việt Nam, tầm quan trọng của thiết chế bầu cử ngay lập tức được khẳng
định bởi cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên năm 1946 với mục đích lựa chọn được
những đại biểu xứng đáng tham gia lãnh đạo, quản lý một nhà nước kiểu mới ở
Đông Nam châu Á. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố: Tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân. Việt Nam trở thành biểu tượng của độc lập tự do,
với sự hiện diện của một bản hiến pháp ghi nhận quyền dân chủ của nhân dân.
Ngày nay trong các nhà nước đương đại nào “chế độ bầu cử” đều đóng vai trò
quan trọng trong hệ thống các chế độ chính trị của một quốc gia. Nó là một chế định
quan trọng hàng đầu được ghi nhận trong Hiến pháp của các nước.
Trên phương diện lý luận, chế độ bầu cử nhìn chung đều được hiểu là hệ thống
các nguyên tắc, các quy định của pháp luật quy định trình tự bầu cử đại biểu các cơ
quan đại diện trong bộ máy nhà nước. Tương tự như vậy, chế độ bầu cử ở Việt Nam
cũng được hiểu bao gồm các nguyên tắc, các quy định của pháp luật quy định trình tự
tiến hành hoạt động bầu cử đại biểu các cơ quan đại diện của bộ máy nhà nước (ở
trung ương có pháp luật bầu cử đại biểu Quốc hội, địa phương có pháp luật bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân)
Các quy định pháp luật về bầu cử đại biểu các cơ quan đại diện tạo thành pháp
luật bầu cử. Pháp luật bầu cử được hiểu là tổng thể các quy định pháp luật do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh
vực bầu cử đại biểu các cơ quan đại diện nhằm thiết lập nên các cơ quan đại diện
trong bộ máy nhà nước.
Pháp luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã được hiểu là: tổng

thể những quy định của pháp luật chứa đựng các quy tắc xử sự chung, do các
chủ thể có thẩm quyền ban hành, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
lĩnh vực bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã nhằm thiết lập nên các cơ
quan đại diện tại chính quyền cấp xã theo quy định của pháp luật.
Nhưng nếu pháp luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã chỉ được
nhìn nhận trên phương diện lập pháp bao gồm các hoạt động như: xây dựng và
ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội về bầu cử đại biểu
các cơ quan đại diện tại chính quyền cấp xã là chưa đủ, vì pháp luật là một phạm
trù tương đối trừu tượng có tính khái quát cao, nó luôn là sự tổng kết, mô hình
hóa các quan hệ xã hội. Chúng ta cần nhìn nhận pháp luật ở góc độ thứ hai, góc
độ thực tiễn, đó là việc thực thi pháp luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp
xã trong đời sống xã hội. Từ góc độ thứ hai ta thấy, muốn đưa pháp luật bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã vào cuộc sống phải có các điều kiện, cơ chế
bảo đảm thực thi.
Từ những phân tích trên, khái niệm pháp luật bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp xã còn có thể được hiểu là: tổng thể các quy định của pháp luật
chứa đựng các quy tắc xử sự chung, do các chủ thể có thẩm quyền ban hành,
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp xã và các cơ chế đảm bảo thực thi pháp luật bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân cấp xã trên thực tiễn nhằm thiết lập nên các cơ quan đại diện
tại chính quyền cấp xã.
1.1.2. Nội dung pháp luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã
Nội dung pháp luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã được quy
định trong Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), Luật bầu cử Hội đồng
nhân dân 2003 và các văn bản liên quan khác, bao gồm:
1.1.2.1 Các nguyên tắc của pháp luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
cấp xã
Nguyên tắc bầu cử là những tư tưởng chủ đạo, xuyên suốt hoạt động xây
dựng pháp luật và thực thi pháp luật bầu cử. Nguyên tắc bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp xã gồm các nguyên tắc hiến định: phổ thông, bình đẳng, trực

tiếp và bỏ phiếu kín, ngoài ra tinh thần pháp luật bầu cử còn thể hiện nguyên tắc
bỏ phiếu tự do. Đây sẽ là “bộ” tiêu chí để đánh giá tính chất, mức độ dân chủ và
tính công bằng trong chế độ bầu cử đại biểu dân cử nói chung và đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp xã nói riêng.
Nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, nội dung của nguyên tắc này là đảm bảo
cho mọi công dân thường trú hay tạm trú trên địa bàn xã không phân biệt dân
tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề
nghiệp, thời hạn cư trú, chính kiến, nguồn gốc xã hội… Đủ 18 tuổi trở lên có
quyền tham gia bầu cử và từ đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp xã theo quy định của pháp luật. Đây là nguyên tắc bảo đảm
tính công khai dân chủ và sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp nhân dân địa
trong hoạt động bầu cử đại biểu cơ quan đại diện cấp xã.
Nguyên tắc bình đẳng được hiểu là việc các cử tri tham gia bầu cử (ứng
cử và đi bầu) ở địa bàn xã đều phải bình đẳng với nhau. Sự bình đẳng giữa các
cử tri được thể hiện: trong việc bỏ phiếu không có sự phân biệt như dân tộc,
giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, nguồn gốc xã hội, tài sản, nơi sinh, chính kiến….;
Mỗi cử tri một phiếu bầu, sức nặng (giá trị) của mỗi lá phiếu là tương đương
nhau. Ngoài ra, nguyên tắc bình đẳng còn thể hiện là sự bình đẳng giữa các
ứng cử viên được giới thiệu ứng cử và các ứng cử viên tự ứng cử. Không ai có
thể bị hạn chế quyền bầu cử,ứng cử, trừ những trường hợp bị hạn chế do pháp
luật quy định. Các ứng cử viên bình đẳng trong việc tiếp cận thông tin và sử
dụng các phương tiện truyền thông trong công tác vận động bầu cử.
Nguyên tắc bầu cử trực tiếp được hiểu là việc các cử tri địa phương có
đủ điều kiện luật định có quyền trực tiếp tham gia bỏ phiếu bầu đại biểu các
cơ quan đại diện mà không cần thông qua tầng, nấc trung gian nào. Cử tri địa
phương thể hiện ý chí của mình bằng cách trực tiếp viết phiếu bầu đại biểu
đại diện cho mình tham gia vào cơ quan đại diện cấp xã, tự tay bỏ phiếu vào
hòm phiếu, không nhờ người bầu cử hộ, bầu cử thay hoặc không bầu cử qua
đường gửi thư. Trường hợp cử tri không thể tự viết phiếu bầu, có thể nhờ
người khác viết hộ, nhưng phải tự tay bỏ phiếu vào hòm. Nếu cử tri trong xã

bị khuyết tật không tự bỏ phiếu bầu vào hòm phiếu thì có thể nhờ người khác
hoặc nếu vì ốm, đau cử tri không đến phòng bỏ phiếu được thì Tổ bầu cử phải
đưa hòm phiếu phụ và phiếu bầu cử đến tận nơi để cử tri bỏ phiếu. Nguyên
tắc này bảo đảm người đại biểu Hội đồng nhân xã trực tiếp tiếp nhận ủy
quyền từ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân địa phương và chịu trách
nhiệm trước cử tri địa phương.
Nguyên tắc bỏ phiếu kín. Nguyên tắc được quy định nhằm đảm bảo cho
sự lựa chọn của mỗi cá nhân, họ được tự do thể hiện ý chí của mình khi lựa
chọn người đại diện mà không bị ảnh hưởng của bất kỳ sự tác động nào. Khu
vực bỏ phiếu có phòng viết phiếu kín, hòm phiếu kín; không ai được đến xem
lúc cử tri viết phiếu bầu; phiếu không có dấu hiệu đặc biệt, in sẵn tên để
không phát hiện ra phiếu của người nào, cử tri phải trực tiếp viết phiếu và bỏ
phiếu, nếu không biết viết (gạch tên) thì có thể nhờ người viết hộ nhưng phải
tự mình bỏ phiếu vào hòm phiếu.
Nguyên tắc tự do bỏ phiếu. Pháp luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp xã hiện nay chưa trực tiếp quy định nguyên tắc này trong các văn bản
pháp luật bầu cử. Tuy nhiên, việc pháp luật bầu cử quy định đi bầu cử là
“quyền” của công dân (Điều 54 Hiến pháp 1992; Điều 2 Luật bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân) mà không quy định việc cử tri đi bỏ phiếu là “nghĩa vụ”,
thì trong tinh thần của pháp luật bầu cử đã thể hiện nguyên tắc này bỏ phiếu
tự do. Tuy nhiên, việc bỏ phiếu tự do phải được hiểu là cử tri có quyền thực
hiện quyền bầu cử của mình hoặc không thực hiện quyền bầu cử (cử tri có
quyền đi bỏ phiếu hoặc không đi bỏ phiếu bầu cử) hoặc có quyền lựa chọn bỏ
phiếu cho bất cứ ứng cử viên nào trong đơn vị bầu cử của mình.
Ngoài ra, pháp luật còn quy định tính công khai trong hoạt động bầu cử,
mọi công đoạn của quá trình bầu cử đều phải diễn ra công khai như: việc giới
thiệu và lập danh sách ứng cử viên, các thông tin liên quan đến các ứng cử
viên, danh sách cử tri, việc kiểm phiếu … Trừ thời điểm bỏ phiếu phải đảm
bảo không có sự tham gia của bất cứ nhân vật nào, kể cả nhân viên phụ trách
công việc bầu cử tại phòng bỏ phiếu. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo sự thống

nhất giữa hành vi lựa chọn trong phiếu bầu và nhận thức của cử tri.
1.1.2.2. Nội dung cơ bản của pháp luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp xã
. Quyền bầu cử, ứng cử và cách tính tuổi thực hiện quyền bầu cử và
ứng cử.
Quyền bầu cử, ứng cử được pháp luật bầu cử quy định mọi công dân
Việt Nam không phân biệt dân tộc, nam, nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng,
tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ 18 tuổi trở lên đều
có quyền bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân; trừ những trường hợp quy định
tại điều 25 của Luật. Công dân Việt Nam đủ 21 tuổi trở lên, có đủ điều kiện
và tiêu chuẩn quy định đều có quyền ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân trừ
nhưng trường hợp quy định tại Điều 31 của Luật. Ngoài ra, Điều 30 còn quy
định: “Người tự ứng cử, người được giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân
dân địa phương nào phải là người cư trú hoặc làm việc thường xuyên tại địa
phương đó; Người tự ứng cử người được giới thiệu ứng cử chỉ được ghi tên
ứng cử ở một đơn vị bầu cử và không được tham gia vào Ban bầu cử hoặc Hội
đồng bầu cử, thuộc đơn vị mình ra ứng cử”. [18]
Cách tính tuổi thực hiện quyền bầu cử, ứng cử. Điều 2 của Luật được
quy định như sau: tuổi bầu cử và ứng cử của công dân được tính theo ngày,
tháng, năm sinh ghi trong giấy khai sinh đến ngày bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân. Trường hợp không có giấy khai sinh căn cứ vào sổ hộ khẩu hoặc
giấy chứng minh tính tuổi thực hiện quyền bầu cử, ứng cử.
. Nguyên tắc lập danh sách cử tri
Danh sách cử tri là cơ sở pháp lý để cử tri nhận thẻ cử tri, thực hiện
quyền bầu cử của mình, việc lập danh sách cử tri được pháp luật bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân cấp xã quy định như sau:
Ủy ban nhân dân cấp xã lập danh sách cử tri theo khu vực bỏ phiếu trên
cơ sở bảo đảm nguyên tắc sau: khi lập danh sách cử tri không được bỏ sót
quyền bầu cử của bất cử cử tri nào, trừ trường hợp bị hạn chế quyền bầu cử
được quy định tại Điều 25, Điều 31 của Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân

dân 2003). Mỗi cử tri chỉ được ghi tên vào danh sách cử tri ở một nơi mình
thường trú hoặc cư trú.
Cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã phải là người cư trú
thường xuyên có quyền lợi gắn bó với địa phương, nếu mới chuyển đến thì
phải hoàn tất thủ tục hoặc có giấy giới thiệu chuyển đến cư trú làm ăn sinh
sống tại địa phương mới có quyền bầu cử đối với cử tri là những người chưa
có hộ khẩu thường trú, nhưng có giấy chứng nhận chuyển đi của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ở nơi cư trú mới thì được ghi vào danh sách cử tri tại địa
phương nơi cư trú mới để tham gia bầu cử; Trường hợp tạm vắng khỏi nơi cư
trú để đi lao động, làm ăn xa hoặc vì lý do khác, nếu đã đăng ký tạm trú từ 6
tháng trở lên ở nơi cư trú mới thì được ghi tên vào danh sách cử tri tại địa
phương nơi cư trú mới để thực hiện quyền bầu cử; Trường hợp tạm vắng khỏi
nơi cư trú để đi lao động để đi thăm người thân, đi du lịch hoặc vì lý do khác
thì ghi tên vào danh sách hộ khẩu thường trú để thực hiện quyền bầu cử (Điều
14 Nghị định số 19/NĐ–CP)
Kế hoạch số 38/KH–UB của Ủy ban nhân dân Lâm thời, tỉnh Điện Biên
hướng dẫn: Đối với dân di cư tự do ở khu vực tái định cư mới, nếu ổn định
đời sống và có công ăn việc làm, có quyền lợi gắn bó với địa phương thì vẫn
có quyền đi bầu cử.
Chậm nhất là 35 ngày trước ngày bầu cử, Ủy ban nhân dân cấp xã phải
niêm yết danh sách cử tri tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã và những nơi công
cộng trong khu vực bỏ phiếu; đồng thời thông báo rộng rãi địa điểm để người
dân biết. Luật quy định như vậy, nhằm bảo đảm để tất cả các cử tri đều được
thực hiện quyền bầu cử. Mặt khác, nhằm bảo đảm sự bình đẳng trong bầu cử,
không ai có thể đi bỏ phiếu ở nhiều nơi.
. Công tác tuyên truyền, vận động bầu cử
- Công tác tuyên truyền pháp luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
cấp xã, Ủy ban nhân dân cấp xã đảm bảo công tác thông tin, tuyên truyền, cổ
động cho cuộc bầu cử tại điạ phương theo chỉ đạo của Hội đồng bầu cử. [21]
Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội,

đơn vị vũ trang nhân dân và các cơ quan thông tin báo chí trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tuyên truyền về cuộc bầu cử.
Tổ chức cho cử tri học tập những nội dung cơ bản của Luật bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân, một số điều về Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân năm 2003 như: các điều quy định về quyền và nghĩa vụ của
công dân trong việc tham gia ứng cử và bầu cử, tiêu chuẩn đại biểu Hội đồng
nhân dân các quy định về lập danh sách cử tri, quyền khiếu nại, tố cáo, chức
năng, nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân; các nơi có đồng bào dân tộc có thể
dùng tiếng địa phương để phân tích cho đồng bào tiếp thu. [17]
- Quyền vận động bầu cử, người có tên trong danh sách ứng cử đại biểu
Hội đồng nhân dân ở địa phương nào thực hiện quyền bầu cử ở địa phương đó
nơi mình ứng cử thông qua việc gặp gỡ, tiếp xúc cử tri hoặc thông qua
phương tiện thông tin đại chúng theo quy định của pháp luật để người ứng cử
báo cáo với cử tri về dự kiến chương trình hành động của mình nhằm thực
hiện trách nhiệm đại biểu trong trường hợp họ trúng cử đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp xã và trao đổi những vấn đề mà cử tri quan tâm. Việc gặp gỡ
tiếp xức cử tri do Ủy ban thường trực của mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức,
vận động bầu cử phải được tiến hành công khai, dân chủ, bình đẳng; Không
được lợi dụng vận động bầu cử để tuyên truyền nội dung trái với Hiến pháp
và pháp luật hoặc làm tổn hại đến danh dự, uy tín và quyền, lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân khác; Không biến vận động bầu cử thành nơi để khiếu
nại, tố cáo hoặc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Phải bảo đảm an ninh, trật tự
trong quá trình vận động bầu cử.
. Cách tính số đại biểu, đơn vị bầu cử và khu vực bỏ phiếu
- Số đại biểu được bầu ở mỗi đơn vị bầu cử: Mỗi đơn vị bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân được bầu không quá 5 đại biểu. Ủy ban nhân dân cấp bầu
cử, căn cứ vào tình hình địa phương ấn định số đại biểu ở mỗi đơn vị bầu cử,
hạn chế số đơn vị được bầu dưới 3 đại biểu.
- Đơn vị bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân cấp xã được xác định là
thôn, làng, ấp, bản (gọi chung là thôn). Ủy ban nhân dân cấp xã ấn định số

đơn vị bầu cử và số danh sách đơn vị bầu cử trình Ủy ban nhân dân cấp trên
trực tiếp phê chuẩn. Việc xác định đơn vị bầu cử được căn cứ vào số lượng
dân cư và số đại biểu được bầu của đơn vị hành chính.
- Khu vực bỏ phiếu bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã, được quy
định như sau: Mỗi đơn vị bầu cử được chia thành nhiều khu vực bỏ phiếu.Số
lượng cử tri ở mỗi khu vực bỏ phiếu được quy định từ 300 đến 4.000 cử tri. Ở
miền núi, hải đảo những nơi không tập trung thì dù chưa có tới 300 cử tri
cũng có thể thành lập khu vực bỏ phiếu. Việc chia khu vực bỏ phiếu do Ủy
ban nhân dân cấp xã ấn định và phải được Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp
phê chuẩn.
. Các tổ phụ trách bầu cử
- Hội đồng bầu cử cấp xã, Hội đồng bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
cấp xã có từ 9 đến 11 người (Điều 16); Ban bầu cử, đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp xã có từ 7 đến 9 người (Điều 17) do đặc thù của chính quyền cấp xã
nên trong thành phần ban bầu cử có: Bí thư, Phó bí thư chi bộ, trưởng thôn,
bản, khu phố, trưởng ban công tác mặt trận, cán bộ phụ trách các đoàn thể ở
thôn, bản (những người này phải không trong danh sách ứng cử viên tại đơn
vị bầu cử này) và đại diện tập thể cử tri địa phương. Nhiệm vụ chủ yếu của
Ban bầu cử là kiểm tra, đôn đốc công tác bầu cử tại địa phương; Tổ bầu cử,
Ban thường trực Ủy ban thường trực mặt trận tổ quốc Việt Nam cùng cấp,
quyết định thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu một tổ bầu cử từ có 5 đến 9 tổ
viên để tổ chức thực hiện việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp
trong phạm vi khu vực bỏ phiếu (Điều 18), đối với đơn vị bầu cử cấp xã thành
viên Ban bầu cử, kiêm luôn nhiệm vụ của Tổ bầu cử. [21]
Thành phần ban bầu cử cấp xã, cần phải lựa chọn những có nhiệt tình
công tác, có kiến thức nhất định và có khả năng thực hiện nhiệm vụ bầu cử,
chấp hành tốt chủ trương của Đảng và Nhà nước. Đối với chức danh thư ký tổ
bầu cử, chọn người có khả năng tổng hợp ghi biên bản bầu cử để tránh sai sót
nhầm lẫn.[21]
Nguyên tắc đối với các thành viên Tổ phụ trách bầu cử: Các thành viên

trong tổ chức này không được vận động cho các ứng cử viên
Nghị định số 19/2004/NĐ–CP quy định về trách nhiệm của các thành
viên tổ chức phụ trách bầu cử: Thành viên các tổ chức phụ trách bầu cử phải
nắm vững các quy định của pháp luật về bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân;
các văn bản hướng dẫn các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở Trung ương và
ở địa phương. Trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, thành
viên của tổ bầu cử phải luôn công tâm, khách quan, trung thực đối với nhiệm
vụ, quyền hạn được giao.[21]
. Quy trình tổ chức Hội nghị hiệp thương
Quy trình hiệp thương lựa chọn, giới thiệu người ứng cử đại biểu được tổ
chức qua ba vòng hội nghị hiệp thương: Bước một: Tổ chức hội nghị hiệp
thương lần thứ nhất ở cấp xã do Ban thường trực Ủy ban mặt trận tổ quốc chủ
trì hội nghị để thỏa thuận về cơ cấu, thành phần, số lượng người ứng cử của
cơ quan, thôn, bản, tổ dân phố trên địa bàn; Bước hai: Các cơ quan, tổ chức,
đơn vị và thôn, tổ dân phố được phân bổ số lượng đại biểu tiến hành giới
thiệu người ra ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã; Bước ba: Tổ chức
hội nghị hiệp thương lần thứ hai để thỏa thuận lập danh sách sơ bộ những
người ứng cử vào cơ quan đại diện cấp xã; Bước bốn: Tổ chức hội nghị lấy ý
kiến nhận xét và tín nhiệm của cử tri nơi cư trú và nơi công tác (nếu có) về
những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã; Bước năm: Tổ chức
Hội nghị hiệp thương lần thứ ba để lập danh sách chính thức những người
ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã.
. Trình tự bầu cử và kết quả bầu cử ở mỗi đơn vị bầu cử
- Trình tự bầu cử
Thời gian bỏ phiếu được quy định từ 7 giờ và kết thúc vào 19 giờ cùng
ngày. Nếu sớm hơn không được quá 5 giờ và kết thúc muộn được quá 20 giờ
cùng ngày.
Mỗi cử tri có quyền bỏ một phiếu bầu cho mỗi cấp Hội đồng nhân dân,
cử tri phải tự mình đi bầu, không được nhờ người khác bầu thay, trừ trường
hợp không tự viết được phiếu bầu có thể nhờ người khác viết hộ nhưng phải

tự mình bỏ phiếu. Người viết hộ phải đảm bảo bí mật phiếu bầu của cử tri.
Nếu vì tàn tật không thể tự tay bỏ vào hòm phiếu thì có thể nhờ người khác tự
tay bỏ phiếu vào hòm. Cử tri viết phiếu không ai được xem kể cả thành viên
của tổ bầu cử. Mọi người đều phải tuân thủ nội quy phòng bỏ phiêú; Không
được tuyên truyền vận động bầu cử tại nơi bỏ phiếu.
Địa điểm bỏ phiếu và phòng bỏ phiếu: địa điểm bỏ phiếu phải trang
nghiêm, có đủ phương tiện vật chất để phục vụ bầu cử và thuận lợi cho cử tri
đến bầu. [18]
- Kết quả bầu cử ở mỗi đơn vị bầu cử
Ban bầu cử kiểm tra các biên bản kiểm phiếu của các tổ bầu cử và lập
biên bản xác định kết quả bầu cử ở đơn vị bầu cử của mình, biên bản xác định
kết quả bầu cử phải phản ánh một số nội dung biên bản như: Số cử tri tham
gia bỏ phiếu, tỉ lệ phiếu đạt được so với tổng số cử tri đã được lập danh sách;
số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử. Những người ứng cử được quá nửa số
phiếu hợp lệ và được nhiều phiếu hơn thì trúng cử. Trường hợp có nhiều
người có số phiếu bằng nhau thì người nhiều tuổi hơn là người trúng cử.
. Công tác kiểm tra, giám sát hoạt động bầu cử
Ban thường trực Ủy ban mặt trận tổ quốc cấp xã cần phối hợp chặt chẽ với các
tổ chức thành viên và thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp, giám sát và vận
động nhân dân giám sát quá trình tổ chức, thực hiện cuộc bầu cử. Quá trình bầu cử
đảm bảo các thủ tục, trình tự tiến hành bầu cử thực sự dân chủ, đúng luật.
. Bầu cử thêm, bầu cử lại
Các tổ phụ trách bầu cử trong lần bầu cử đầu tiên tiếp tục làm nhiệm vụ
trong cuộc bầu cử thêm, bầu cử lại trong những trường hợp cụ thể theo quy
định của pháp luật.
1.2. Khái niệm, vai trò và các hình thức thực hiện pháp luật bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã
Bên cạnh việc tìm hiểu pháp luật bầu cử Hội đồng nhân dân cấp xã từ
góc độ pháp luật thực định, cần xem cách thức tổ chức và thực hiện pháp luật
bầu cử Hội đồng nhân dân cấp xã của các chủ thể. Đây là nội dung quan trọng

làm nên thành công cho các cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân cấp xã.
1.2.1 Khái niệm thực hiện pháp luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
cấp xã
Về mặt lý luận, hoạt động xây dựng và ban hành pháp luật được coi là
quá trình lao động quyền lực của các chủ thể, trong đó chủ thể chính là các cơ
quan có thẩm quyền (Quốc hội, các cơ quan của quốc hội, Chính phủ, các Bộ)
cùng với sự tham gia của các tổ chức, cá nhân (trong quá trình tham gia ý
kiến, quan điểm điều chỉnh). Và như vậy thì pháp luật dù ở dạng nào (quy
phạm hay chế định) cũng là những phạm trù trừu tượng, có mức khái quát rất
cao. Khi pháp luật được đưa vào đời sống thực tiễn, số lượng các chủ thể
tham gia các quan hệ pháp luật rộng hơn rất nhiều cho nên hoạt động thực
hiện pháp luật có tính phức tạp, sinh động hơn so với hoạt động xây dựng
pháp luật.
Tính lôgic của cơ sở lý luận về pháp luật và thực hiện pháp luật trong
thực tiễn được GS.TSKH Đào Trí Úc mô tả theo phác đồ sau:
Phác đồ về quá trình hình thành “đời sống thứ hai” của pháp luật

Theo phác đồ trên đây, GS.TSKH Đào Trí Úc lý giải: “Thực hiện pháp
luật với tính cách là một nhu cầu, một phạm vi hết sức phức tạp của các quan
hệ xã hội,, có mối liên hệ với thực tiễn xã hôi, phản ánh tính chất phức tạp
của các quan hệ do pháp luật sinh ra. Có thể nói: Thực hiện pháp luật là đời
sống thứ hai của pháp luật có mức độ phức tạp nhiều hơn so với lần sinh thứ
nhất của nó”. [10]
Với góc nhìn xã hội học về thực hiện pháp luật, GS.TS Võ Khánh Vinh
nhận định “Đời sống pháp luật không phải ở các văn bản của các bộ luật và
các quy định, mà là các quan hệ thực hiện của mọi người tuân thủ (hoặc vi
phạm) các quan hệ pháp luật. Từ quan điểm xã hội học, nghiên cứu vấn đề về
Các quan
hệ xã hội
(Thực tiễn

xã hội)
Quá trình
xây dựng
pháp luật
PHÁP LUẬT
Thực tiễn pháp lý
Thực hiện Hành vi
pháp luật pháp luật
Các quan
hệ pháp
luật
thực hiện pháp luật là nghiên cứu về con đường tác động ngược trở lại của
hình thức pháp lý đối với nội dung xã hội”. [27, tr108]
Trong giáo trình Lý luận chung Nhà nước và pháp luật của trường Đại
học luật Hà Nội xuất bản năn 2008. GS.TS Lê Minh Tâm đưa ra khái niệm:
“Thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm hiện thực hóa các quy
định của pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi
thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật”. [11, tr 468]
Từ những phân tích như trên, tôi nhận thức được rằng: Thực hiện pháp
luật là một khái niệm cơ bản của khoa học pháp lý. Bản chất của thực hiện
pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích của các chủ thể (Nhà nước, cá
nhân, tổ chức) thuộc đối tượng điều chỉnh của các quy phạm pháp luật. Dựa
trên các quy định của pháp luật (quy phạm pháp luật), trong phạm vi quyền
và nghĩa vụ của mình thông qua hành vi thực tế, hợp pháp, các chủ thể cụ thể
hóa các quy định pháp luật vào đời sống thực tiễn.
Vận dụng các tri thức lý luận đã dẫn ở trên tôi đưa ra khái niệm thực
hiện pháp luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã là quá trình thực
hiện có mục đích của các chủ thể (cá nhân, tổ chức có năng lực chủ thể trong
quan hệ pháp luật bầu cử) thông qua hành vi thực tế, hợp pháp của mình,
hiện thực hóa các quy phạm pháp luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân

cấp xã, được quy định trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp xã.
1.2.2. Vai trò của của việc thực hiện pháp luật bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp xã
Thứ nhất, thực hiện pháp luật về bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
cấp xã có vai trò hợp pháp hóa, chính đáng hóa chính quyền cơ sở.
Tại Hội nghị An ninh và Hợp tác châu Âu (CSCE) đã khẳng định: Ý chí
của nhân dân thông qua bầu cử định kỳ và chân thực là nền tảng cho thẩm
quyền và tính hợp pháp của quyền lực nhà nước. Trong thế giới ngày nay,
không kể chính quyền của một quốc gia hay một khu vực hành chính được
thành lập không qua bầu cử thường không được các quốc gia hay cộng đồng
quốc tế thừa nhận hoặc nếu có được thừa nhận thì cũng chỉ được thừa nhận
một cách dè dặt bởi một số quốc gia thân cận. Ngược lại, một chính quyền
xuất hiện do dân thành lập theo định kỳ thông qua bầu cử công khai, theo
những nguyên tắc tiến bộ như: tự do, công bằng, trung thực và khách quan thì
đó là chính quyền hợp pháp được do nhân dân thành lập.Về nguyên tắc, một
chính quyền đó sẽ được sự thừa nhận, ủng hộ của cộng đồng dân cư nơi chính
quyền đó được thành lập và của cộng đồng thế giới. Và cũng như vậy, khi
pháp luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã được đảm bảo thực hiện,
phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương điều đó đồng
nghĩa với việc bộ máy chính quyền xã được thành lập trên cở sở sự ủy nhiệm
quyền lực hợp pháp từ nhân dân. Bộ máy chính quyền địa phương được xây
dựng phù hợp với lòng dân, được nhân dân ủng hộ. Ngược lại, nếu pháp luật
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã không được đảm bảo thực hiện, kết
quả bầu cử không phản ánh không chân thực, không phù hợp với ý chí của
nhân dân địa phương, bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác, khi đó kết quả của
cuộc bầu cử đó chỉ là “vỏ bọc” được mượn để hợp thức hóa chính quyền địa
phương, là cách thức thành lập chính quyền phản khoa học nhất trong các nhà
nước dân chủ đương đại hiện nay và đương nhiên hệ quả kéo theo là chính

quyền đó sẽ không được sự thừa nhận của nhân dân, không được nhân dân
ủng hộ. Đây là một trong những nguyên nhân làm chính quyền địa phương
hoạt động không hiệu quả và là mầm mống làm phát sinh những mâu thuẫn
xã hội, gây mất ổn định chính tri tại địa phương.
Thứ hai, thực hiện pháp luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã

×