ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐỖ NGỌC TÚ
ĐỒI MỚI HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN
VÀ TRẢ LỜI CHẤT VẤN CỦA QUỐC HỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐỖ NGỌC TÚ
ĐỒI MỚI HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN
VÀ TRẢ LỜI CHẤT VẤN CỦA QUỐC HỘI
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Nguyễn Đăng Dung
Hà nội - 2011
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU
1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN VÀ
TRẢ LỜI CHẤT VẤN
3
1.1.
Khái quát về chức năng giám sát của Quốc hội
3
1.2.
Khái niệm, đặc điểm, hệ quả của hoạt động chất vấn và trả
lời chất vấn
7
1.2.1
Khái niệm hoạt động chất vấn
7
1.2.2.
Đặc điểm hoạt động chất vấn
7
1.2.3.
Hệ quả chính trị - pháp lý của hoạt động chất vấn
10
1.3.
Hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn ở một số nước
14
1.4.
Chất vấn - Hình thức giám sát trực tiếp, có hiệu quả của
Quốc hội
28
1.4.1.
Vai trò của chất vấn và trả lời chất vấn đối với hoạt động
giám sát tối cao
28
1.4.2.
Những yếu tố tác động đến hiệu lực và hiệu quả của hoạt
động chất vấn
32
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN VÀ TRẢ
LỜI CHẤT VẤN CỦA QUỐC HỘI
37
2.1.
Quá trình phát triển các quy định của pháp luật về chất vấn
và trả lời chất vấn
37
2.1.1.
Giai đoạn 1946 - 1959
37
2.1.2.
Giai đoạn 1959 - 1980
38
2.1.3.
Giai đoạn 1980 - 1992
39
2.1.4.
Giai đoạn 1992 đến nay
42
2.2.
Thực trạng hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn của Quốc
hội từ Hiến pháp 1992 đến nay
50
2.2.1.
Nhận thức về hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn
50
2.2.2.
Về quy trình, thủ tục tiến hành hoạt động chất vấn và trả lời
chất vấn
52
2.2.2.1.
Vai trò, ý nghĩa của quy trình chất vấn và trả lời chất vấn
52
2.2.2.2.
Thực trạng của quy trình chất vấn và trả lời chất vấn của
Quốc hội
54
2.2.3.
Chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp Quốc hội trong thời
gian qua
60
2.2.3.1.
Chất vấn và trả lời chất vấn tại Quốc hội khóa IX
61
2.2.3.2.
Chất vấn và trả lời chất vấn ở Quốc hội khóa X, XI và khóa
XII
62
2.2.4.
Chất vấn và trả lời chất vấn ngoài kỳ họp Quốc hội
65
2.2.5.
Những hạn chế trong hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn
của Quốc hội trong thời gian qua
66
2.2.5.1.
Hạn chế trong các quy định hiện hành về chất vấn và trả lời
chất vấn
66
2.2.5.2.
H¹n chÕ trong c¸ch nªu c©u hái chÊt vÊn
69
2.2.5.3.
Hạn chế trong cách trả lời chất vấn
69
2.2.6.
Đánh giá chung
69
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG ĐỔI MỚI, NÂNG CAO HIỆU
LỰC, HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN VÀ TRẢ
LỜI CHẤT VẤN CỦA QUỐC HỘI
72
3.1.
Yêu cầu khách quan của việc đổi mới, nâng cao hiệu lực,
72
hiệu quả hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn
3.2.
Quan điểm chỉ đạo đổi mới hoạt động chất vấn và trả lời
chất vấn
75
3.3.
Trọng tâm yêu cầu đổi mới
76
3.3.1.
Tăng cường hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội
76
3.3.2.
Nghiên cứu, hoàn thiện cơ sở pháp lý về hoạt động chất
vấn và trả lời chất vấn
80
3.4.
Các giải pháp đổi mới nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
của hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn
85
3.4.1.
Các giải pháp chung
85
3.4.2.
Các giải pháp tại kỳ họp
90
KẾT LUẬN
97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
99
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Thống kê số lượng chất vấn trong nhiệm kỳ Quốc hội
khoá IX, X, XI và khóa XII
63
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chất vấn và trả lời chất vấn tại hầu hết Nghị viện (Quốc hội) các nước
trên thế giới là việc làm đã được thực hiện từ lâu, hiệu lực và hiệu quả của
hoạt động này có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng hoạt động của Nghị viện
và Quốc hội. Ở Việt Nam, về mặt pháp lý thì lần đầu tiên hoạt động chất vấn
được quy định tại Hiến pháp năm 1946. Tuy nhiên, khái niệm về chất vấn và
quy trình, thủ tục, cách thức tiến hành hoạt động này như thế nào thì lại chưa
được quy định. Đến các Hiến pháp 1959, 1980, 1992 và các văn bản pháp luật
có liên quan được ban hành theo từng thời kỳ thì hoạt động chất vấn, trả lời chất
vấn mới dần được quy định rõ hơn. Đến nay, các văn bản pháp luật quy định về
hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn cơ bản đã tương đối đầy đủ, thời gian qua
Quốc hội đã triển khai hoạt động này tương đối hiệu quả. Tuy nhiên, qua thực
tiễn triển khai hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn cho thấy các quy định
hiện hành về hoạt động này đã bộc lộ không ít hạn chế, bất cập; một số quy
định còn thiếu cụ thể, rõ ràng, khó áp dụng trong thực tiễn, làm ảnh hưởng
không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn.
2. Tình hình nghiên cứu
Thời gian qua đã có nhiều tác giả nghiên cứu tương đối tổng thể về
chức năng giám sát của Quốc hội. Tuy nhiên, việc đi vào nghiên cứu chuyên sâu
về từng hình thức giám sát cụ thể của Quốc hội, trong đó có hoạt động chất vấn
và trả lời chất vấn thì còn ít tác giả thực hiện. Đối với hoạt động chất vấn và trả
lời chất vấn, thời gian qua đã có một số chuyên gia, một số nhà khoa học và
người làm công tác thực tiễn viết về vấn đề này. Tuy nhiên, những bài viết đó
nhìn chung mới chỉ dừng lại ở mức độ nêu một số vấn đề ở một khía cạnh nhất
định, chưa thực sự là công trình nghiên cứu chuyên sâu, tương đối toàn diện về
hoạt động này. Với mong muốn đóng góp tiếng nói, nhằm kiến nghị với cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền trong việc nghiên cứu, đề xuất tiếp tục hoàn thiện
2
cơ sở pháp lý, làm tiền đề cho việc đổi mới hoạt động chất vấn và trả lời chất
vấn trong thời gian tới tác giả đã lựa chọn đề tài "Đổi mới hoạt động chất vấn
và trả lời chất vấn của Quốc hội" để nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc
nghiên cứu đường lối, quan điểm của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt động
của Quốc hội thể hiện trong các nghị quyết của Đảng, trong Hiến pháp và
pháp luật của Nhà nước; cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của việc đổi mới hoạt
động chất vấn và trả lời chất vấn của Quốc hội. Các phương pháp nghiên cứu
cụ thể bao gồm: dẫn giải, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống các quy định của pháp
luật về hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn, thực tiễn quá trình triển khai
hoạt động này của Quốc hội trong thời gian qua, tam khảo kinh nghiệm chất
vấn của Nghị viện một số nước trên thế giới. Với đối tượng nghiên cứu như
vậy, đề tài tập trung làm rõ về cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của việc đổi mới
hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn của Quốc hội nước ta. Từ đó đưa ra các
giải pháp, kiến nghị cụ thể có tính khoa học và sát với thực tiễn, hướng tới
mục tiêu đổi mới hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn của Quốc hội, tăng
cường hiệu lực và hiệu quả của hoạt động này trong thực tế.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
: Cơ sở lý luận của hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn.
: Thực trạng hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn của Quốc hội.
: Hướng đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động chất
vấn và trả lời chất vấn của Quốc hội.
3
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN
VÀ TRẢ LỜI CHẤT VẤN
1.1. Khái quát về chức năng giám sát của Quốc hội
Trong lịch sử các học thuyết về nhà nước thì vấn đề giám sát quyền
lực luôn được nghiên cứu gắn bó hữu cơ với việc xây dựng cơ chể tổ chức
quyền lực nhà nước. Đây cũng là một trong những vấn đề được khoa học
pháp lý qua nhiều thời đại quan tâm để xây dựng lên những thiết chế để đảm
bảo quyền lực được sử dụng có hiệu lực, hiệu quả đúng với mục đích, yêu cầu
của người sở hữu quyền lực và phòng ngừa việc lạm dụng quyền lực.
Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực
tiễn của nước ta, đồng thời thể chế quan điểm của Đảng trong trong Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội (gọi tắt là
Cương lĩnh năm 1991), Hiến pháp năm 1992 đã quy định: "
" (Điều 83).
Đây là cơ sở pháp lý cao nhất về chức năng giám sát của Quốc hội cùng với
các chức năng khác đã thể hiện được quan điểm tập trung quyền lực vào cơ
quan đại biểu cao nhất của nhân dân. Quy định này của Hiến pháp không có
nghĩa là do Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến nên Quốc hội tự
trao cho mình thẩm quyền này. Vấn đề giám sát quyền lực nhà nước có cội
nguồn sâu xa là quyền lực nhà nước không phải là quyền lực có tính tự thân
mà là quyền lực do nhân dân ủy quyền nên nhân dân có quyền giám sát quyền
lực nhà nước được thực thi như thế nào. Nói cách cách khác là quyền lực nhà
nước là quyền lực ủy quyền nên việc giám sát quyền lực nhà nước là cần thiết
và chính đáng. Nhân dân có thể trực tiếp thực thi quyền giám sát của mình
hoặc gián tiếp thực thi quyền giám sát thông qua cơ quan đại diện. Liên quan
tới vấn đề này, Điều 6 Hiến pháp quy định: "
4
". Vì Quốc hội được Hiến
pháp quy định là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nên đồng
thời Quốc hội cũng được Hiến pháp trao cho chức năng thực hiện quyền giám
sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước. Quy định về quyền giám
sát tối cao của Quốc hội thể hiện tính logic trong cơ chế tổ chức quyền lực
nhà nước và hệ thống chính trị ở nước ta, đồng thời cũng phản ánh được
truyền thống văn hóa lập hiến của Việt Nam luôn coi trọng địa vị của Quốc
hội với tư cách là cơ quan đại diện cho chủ quyền của nhân dân để giám sát
việc thực thi quyền lực do nhân dân uỷ quyền. Việc xác định địa vị pháp lý
của Quốc hội nói chung và quy định cho Quốc hội có thẩm quyền giám sát tối
cao nói riêng có liên quan đến các học thuyết tổ chức nhà nước. Ở Việt Nam,
cùng với việc vận dụng học thuyết Mác - Lênin về vấn đề nhà nước vào điều
kiện cụ thể để xây dựng cơ chế tổ chức quyền lực, Đảng và Nhà nước cũng đã
có nhiều đổi mới, nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về vấn đề này qua việc
sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992, theo đó "
". Đã có
nhiều cách lý giải khác nhau vể cơ chế tổ chức quyền lực hiện nay của nhà
nước ta nhưng quyền lực nhà nước của Quốc hội vẫn được coi là có tính nổi
trội hơn và không thể đặt vị thế của Quốc hội ngang bằng hay kiềm chế, đối
trọng với các quyền hành pháp, quyền tư pháp như các nước có tổ chức bộ
máy theo học thuyết phân quyền.
Chức năng giám sát của Quốc hội - quyền giám sát tối cao của Quốc
hội là quyền năng của Quốc hội, thể hiện trong quá trình theo dõi, kiểm tra,
đánh giá đối với mọi hoạt động của nhà nước trong việc tuân thủ Hiến pháp,
luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội đồng thời đưa ra biện pháp xác định trách nhiệm chính trị, trách
nhiệm pháp lý của các đối tượng chịu sự giám sát nhằm mục đích cảnh báo,
5
phát hiện, phòng ngừa ngăn chặn và xử lý những vi phạm có thể xảy ra. Việc
thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội tại kỳ họp có mối quan hệ hữu
cơ với với hoạt động giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng
Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội.
Không có cơ sở để phân biệt tách rời hoạt động giám sát của Quốc hội tại kỳ
họp mới là hoạt động giám sát tối cao, còn hoạt động giám sát của các chủ thể
thuộc cơ cấu, tổ chức của Quốc hội không phải là hoạt động giám sát tối cao.
Như vậy, hoạt động giám sát của các chủ thể thuộc cơ cấu của Quốc hội một
mặt phải đặt trong mối liên hệ thống nhất về quyền lực của Quốc hội, mặt
khác phải luôn hướng về kỳ họp Quốc hội. Có như vậy, quyền giám sát tối
cao của Quốc hội mới phát huy được tính hiệu lực, hiệu quả.
Quyền giám sát tối cao của Quốc hội cùng với các quyền kiểm tra,
thanh tra của Chính phủ, quyền kiểm toán của Kiểm toán nhà nước, quyền
kiểm sát của Viện kiểm sát, quyền giám đốc của tòa án đã tạo một hệ thống
kiểm tra, giám sát quyền lực trong bộ máy nhà nước ta. Hoạt động thực hiện
các quyền nói trên có tính độc lập tương đối về tác nghiệp nhưng không phải
biệt lập đối với nhau và trên hết các cơ quan Chính phủ, Tòa án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước phải định kỳ hoặc
đột xuất phải báo cáo kết quả hoạt động của mình với Quốc hội. Trên cơ sở
kết quả giám sát, Quốc hội có thể ra những quyết định thích hợp và quyết
định đó là quyết định cuối cùng mà không một cơ quan nào trong bộ máy nhà
nước được xem xét lại. Với lý luận và thực tiễn tổ chức mô hình thực hiện
quyền giám sát tối cao như trên, chủ quyền của nhân dân thông qua hoạt động
của cơ quan đại diện cao nhất đã được bảo đảm.
Để cụ thể hóa quy định Điều 83 của Hiến pháp về chức năng giám sát
của Quốc hội, Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết
số 51/2001/QH10, cũng đã có nhiều quy định khác thể hiện rõ hơn nội hàm,
bản chất của quyền này. Quốc hội cũng đã ban hành nhiều luật, nghị quyết
như Luật tổ chức của Quốc hội năm 2001 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2007),
6
Luật hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003, các nghị quyết ban hành
Nội quy kỳ họp Quốc hội năm 2002, Quy chế hoạt động của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội năm 2004, Quy chế hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Ủy
ban của Quốc hội năm 2004, Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội và
Đoàn đại biểu Quốc hội năm 2002. Trong số các văn bản đó quan trọng nhất
là Luật tổ chức Quốc hội tập trung quy định về tổ chức thẩm quyền giám sát
và Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội tập trung quy định về trình tự, thủ
tục giám sát. Đặc biệt việc ban hành Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội
đã đánh dấu bước đổi mới quan trọng của Quốc hội về việc đề cao chức năng
giám sát tối cao, đáp ứng yêu cầu chính đáng của cử tri về việc kiểm tra, giám
sát đối với hoạt động cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước, nhất là
đối với những người nắm giữ các vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước.
Trên cơ sở các văn bản nói trên, liên quan đến việc thực hiện quyền giám sát
tối cao có thể phân loại thành các nhóm quy định cơ bản sau:
Các quy định về thẩm quyền của chủ thể thực hiện quyền giám sát tối
cao cho thấy quyền giám sát tối cao của Quốc hội không chỉ được thực hiện
tại kỳ họp Quốc hội mà còn được thực hiện giữa hai kỳ họp thông qua hoạt
động của các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội.
Các quy định về đối tượng chịu sự giám sát thể hiện đối tượng chịu sự
giám sát được quy định tập trung vào các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền do
Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Ngoài ra, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội
có thể tiến hành giám sát hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác khi
xét thấy cần thiết.
Các quy định về phương thức thực hiện quyền giám sát tối cao đã thể
hiện được tính đa dạng trong giám sát như xem xét báo cáo, chất vấn, thành
lập ủy ban điều tra lâm thời, yêu cầu đối tượng chịu sự giám trình bày hoặc
cung cấp tài liệu. Các quy định về trình tự thủ tục giám sát đã cụ thể hóa cách
thức thực hiện các phương thức giám sát, tạo điều kiện cho hoạt động thực
hiện quyền giám sát tối cao được thuận lợi và dễ dàng hơn.
7
1.2. Khái niệm, đặc điểm, hệ quả của hoạt động chất vấn và trả lời
chất vấn
1.2.1. Khái niệm hoạt động chất vấn
Hiểu theo nghĩa kinh điển, chất vấn (interpellation) nghĩa là "
,
. Theo định nghĩa của từ điển Webster’s
1913 Dictionary là yêu cầu quan chức giải thích hoạt động, hành động của
mình; là những câu hỏi buộc phải trả lời. Còn từ điển mạng (WordNet
Dictionary) giải thích đó là quy trình trong nghị viện nhiều nước nhằm yêu
cầu Chính phủ giải thích một động thái hoặc chính sách của mình.
Ở nước ta, theo quy định của Điều 2, Luật Hoạt động giám sát của
Quốc hội năm 2003, chất vấn là:
… Hoạt động giám sát, trong đó đại biểu Quốc hội nêu
những vấn đề thuộc trách nhiệm của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc
hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của
Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao và yêu cầu những người này trả lời [36].
Chất vấn và trả lời chất vấn là một trong năm hình thức giám sát tối cao
của Quốc hội tại kỳ họp. Theo quy định tại Điều 7 Điều 40 Luật Hoạt động
giám sát năm 2003 và quy định tại Điều 98 Hiến pháp năm 1992, Điều 49
Luật tổ chức Quốc hội thì những người phải trả lời chất vấn trước Quốc hội
bao gồm: Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng
và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
1.2.2. Đặc điểm hoạt động chất vấn
Chất vấn là công cụ giám sát mạnh nhất của Quốc hội và đại biểu
Quốc hội, vì nó quy trách nhiệm chính trị. Đối với cá nhân đại biểu chất vấn
là cách thức quan trọng để giám sát hoạt động của các quan chức nhà nước,
8
trong đó có các quan chức chính phủ. Trong mối quan hệ giữa Quốc hội và
Chính phủ, Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành
chính Nhà nước cao nhất. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo
cáo công tác với Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Trách nhiệm thì có nhiều loại và được xác định thông qua những cách thức và
thủ tục khác nhau. Trách nhiệm kỷ luật được xác định thông qua hoạt động
kiểm tra, trách nhiệm hành chính thông qua hoạt động thanh tra, trách nhiệm
hình sự thông qua hoạt động điều tra. Chất vấn, như một hình thức giám sát
của Quốc hội, không nhằm xác định bất cứ trách nhiệm nào như đã nói ở trên,
mà để làm rõ trách nhiệm chính trị. Trách nhiệm chính trị và trách nhiệm
pháp lý là hai loại trách nhiệm khác nhau: Ví dụ, ta không thể áp dụng điều
luật về tội thiếu tinh thần trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng cho quyết
sách liên quan đến ngành mía đường. Vì hậu quả nghiêm trọng thì có, nhưng
sự thiếu tinh thần trách nhiệm thì không. Những quyết sách rất có tinh thần
trách nhiệm thì vẫn có thể thiếu một tầm nhìn. Mà thiếu tầm nhìn, người ta chỉ
có thể chịu trách nhiệm về chính trị. Như vậy, trách nhiệm chính trị là trách
nhiệm về chính sách, không phải trách nhiệm về hành vi. Hoạt động chất vấn
vì vậy sẽ lạc đề nếu tập trung vào các vụ việc cụ thể mà không làm rõ được
các vấn đề ở tầm chính sách. Nếu chất vấn vào các vụ việc cụ thể, Quốc hội
không bao giờ có đủ thời gian để xem xét những vấn đề to lớn của đất nước.
Chất vấn là một phương pháp kiểm tra năng lực của quan chức trong nắm
bắt và điều chỉnh lĩnh vực được phân công. Để thực hiện mục đích này, Quốc
hội nhiều nước, nhất là Quốc hội của các nước theo mô hình của Anh thường
không cho biết trước các câu hỏi chất vấn. Một vị Bộ trưởng nắm vững công việc
sẽ trả lời lưu loát các câu hỏi đặt ra, còn nếu ngược lại thì uy tín sẽ bị giảm sút.
Chất vấn, xét về một khía cạnh nào đó là sự cảnh báo của Quốc hội về
một vấn đề hay một tình trạng cần được lưu ý giải quyết (ví dụ, tình trạng các
doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ nhưng những người đứng đầu doanh
9
nghiệp này lại giàu lên nhanh chóng; việc tinh giảm biên chế và gánh nặng
đối với xã hội ). Sự cảnh báo này nhằm nâng cao tính dự đoán và trách
nhiệm phải nhìn nhận trước vấn đề của người quản lý.
Ngoài ra, chất vấn cũng có mục đích cung cấp thông tin và tạo cơ hội
cho Quốc hội đánh giá, phê bình các thành viên Chính phủ, các vị trưởng
ngành (như Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao…) vì làm hay không làm điều gì đó. Bằng cách này, các đại
biểu có thể buộc các vị Bộ trưởng, Trưởng các ngành chia sẻ thông tin.
Chất vấn là một hoạt động có sức thu hút sự chú ý rộng rãi của công
luận, do đó tạo sức ép lên Chính phủ để vấn đề đó được giải quyết nhanh hơn.
Hoạt động chất vấn của Quốc hội, nhất là trong kỳ họp của Quốc hội ở nước
ta được coi là đợt sinh hoạt chính trị rộng khắp thu hút được sự chú ý của
đông đảo quần chúng nhân dân, của công luận về các vấn đề đang đặt ra trong
đời sống xã hội cần được giải quyết. Trong điều kiện bùng nổ về thông tin
như hiện nay, các vấn đề được đưa ra chất vấn tại diễn đàn của Quốc hội đều
được đăng tải trên báo chí và được truyền hình trực tiếp nên chất vấn tạo điều
kiện cho nhân dân giám sát cơ quan dân cử, giám sát đại biểu Quốc hội và
giám sát các cán bộ cấp cao trong bộ máy nhà nước.
Chất vấn, với tư cách là một hình thức giám sát của Quốc hội, được
phân biệt với các hình thức khác chủ yếu ở bản chất, mục đích, thủ tục và hậu
quả của nó.
Về bản chất, chất vấn là một hình thức được Quốc hội áp dụng để
giám sát hoạt động của các cơ quan và cá nhân được giao quyền, là sự thể
hiện cụ thể, trực tiếp quyền giám sát tối cao của Quốc hội. Các đại biểu Quốc
hội khi thực hiện quyền chất vấn của mình là nhân danh cá nhân với tư cách
là người đại diện quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân yêu cầu cá nhân
bị chất vấn trả lời về trách nhiệm pháp lý của cá nhân đó về những việc làm
có đúng với chức năng, nhiệm vụ quyền hạn theo luật định hay không.
10
Theo quy định của pháp luật thì chất vấn là quyền của cá nhân đại
biểu Quốc hội. Khi thực hiện chất vấn đại biểu Quốc hội độc lập là người đại
diện cho nhân dân, thay mặt nhân dân, nhân danh quyền lực tối cao của nhân
dân chứ không phải nhân dân một cơ quan, tổ chức hay Đoàn đại biểu Quốc
hội mà mình là thành viên.
Đại biểu Quốc hội khi thực hiện hoạt động chất vấn không phải nhằm
mục đích thu thập thông tin hay số liệu mà nhằm làm rõ trách nhiệm của cá
nhân có trách nhiệm đối với một số vấn đề nào đó. Đây là chính là điểm cơ
bản để phân biệt chất vấn với câu hỏi thường. Trên thực tế chất vấn cũng có
thể được thể hiện dưới dạng câu hỏi nhưng mục đích của chất vấn và câu hỏi
thường khác nhau. Việc hỏi và yêu cầu trả lời những vấn đề mà đại biểu Quốc
hội quan tâm (hay còn gọi là câu hỏi thường) nhằm thu thập thông tin, số liệu
về các vấn đề nào cần biết trước khi đặt câu hỏi người hỏi hầu như chưa có
thông tin về vấn đề mà mình hỏi. Loại câu hỏi thường phụ thuộc vào nhu cầu
nắm bắt thông tin của đại biểu Quốc hội chứ không được quy định trong bất
kỳ văn bản pháp luật nào và cũng không bị hạn chế đối với bất kỳ đối tượng
nào. Còn đối với chất vấn, trước khi nêu vấn đề đại biểu Quốc hội phải tìm
hiểu rất kỹ và nắm thông tin về vấn đề mà mình cần chất vấn để làm rõ trách
nhiệm của cá nhân có thẩm quyền đối với một vấn đề nào đó. Chất vấn được
quy định rất rõ trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác, đối tượng chất
vấn cũng được chỉ ra cụ thể trong một phạm vi nhất định. Vấn đề chất ván khi
đã được nêu lên theo đúng thể thức của pháp luật, chuyển đến người bị chất
vấn thì không còn là mối quan hệ cá nhân giữa người bị chất vấn và người
chất vấn mà đã trở thành một hình thức giám sát của Quốc hội.
1.2.3. Hệ quả chính trị - pháp lý của hoạt động chất vấn
Chất vấn là hoạt động dẫn đến hệ quả chính trị to lớn. Chất vấn là
công cụ giám sát mạnh nhất của nghị viện các nước, vì nó quy trách nhiệm,
có khi buộc tội các thành viên Chính phủ. Chất vấn có thể dẫn đến việc đặt
11
vấn đề ủng hộ hay phản đối hoạt động của Chính phủ. Thậm chí có thể có
việc đưa ra nghị quyết bất tín nhiệm và dẫn đến sự từ chức của Chính phủ.
Chẳng hạn, theo khoản 2 Điều 111 Hiến pháp Tây Ban Nha, "
". Do những hậu quả nghiêm trọng như vậy, qui tắc
và qui chế của các viện có những qui định phức tạp về việc đưa ra và thảo
luận chất vấn. Ở một số nước, việc chất vấn có thể dẫn đến việc Quốc hội
biểu quyết thông qua kiến nghị (motion) đưa ra thảo luận tại Quốc hội về
trách nhiệm của một quan chức nào đó. Và cao hơn nữa, một số nước quy
định khi kiến nghị thu được một số lượng chữ ký nhất định thì vị quan chức
này phải điều trần trước Quốc hội và có thể bị cách chức, thậm chí Quốc hội
có thể bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với một chính sách của Chính phủ.
Hệ quả chính trị của chất vấn cũng thể hiện ở chỗ, chất vấn xét về
một khía cạnh nào đó là sự cảnh báo của Quốc hội về một vấn đề hay một
tình trạng cần được lưu ý giải quyết. Sự cảnh báo này nhằm nâng cao tính dự
đoán và trách nhiệm phải nhìn nhận trước vấn đề của các cơ quan quản lý.
Trên phương diện hệ quả chính trị, chất vấn cũng có mục đích cung cấp
thông tin và tạo cơ hội cho Quốc hội đánh giá, phê bình Chính phủ vì làm
hay không làm điều gì đó. Bằng cách này các đại biểu có thể buộc các bộ
trưởng chia sẻ thông tin. Ngay cả khi đơn thuần hỏi - đáp mà không biểu
quyết về thái độ của nghị viện đối với trả lời của chính phủ, họat động này
của nghị viện cũng đã buộc chính phủ phải giải trình đã được gì, chưa làm
được gì, tại sao, và định làm gì trong tương lai. Chất vấn cũng mang lại hệ
quả xã hội to lớn, thường là có tác động rộng rãi hơn hệ quả chính trị. Chất
vấn thu hút sự chú ý rộng rãi của công luận về vấn đề nào đó, do đó tạo sức
ép lên Chính phủ để nó được giải quyết nhanh hơn. Chẳng hạn, mỗi năm
Nghị viện Canada họp khoảng 150 ngày. Trong thời gian đó, hàng ngày
Nghị viện đều có lịch chất vấn. Phần lớn ý kiến của cử tri về Chính phủ
được hình thành trên cơ sở những gì họ thấy từ những buổi chất vấn này (và
12
từ các hoạt động khác của Nghị viện) được phản ánh qua truyền hình và báo
chí. Việc truyền hình hay truyền thanh trực tiếp và các bình luận của báo chí
về những buổi trả lời chất vấn của các quan chức Chính phủ đã tạo nên một
luồng công luận mạnh mẽ và gây áp lực xã hội to lớn. Vì vậy, ở một số nước
đa số bộ trưởng phải từ chức do áp lực của công luận chứ không nhất thiết là
áp lực từ phía nghị viện.
Ở nước ta, Điều 11 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội quy định:
… Sau khi nghe trả lời chất vấn, nếu đại biểu Quốc hội không
đồng ý với nội dung trả lời thì có quyền đề nghị Quốc hội tiếp tục
thảo luận tại phiên họp đó, đưa ra thảo luận tại phiên họp khác của
Quốc hội hoặc kiến nghị Quốc hội xem xét trách nhiệm đối với
người bị chất vấn. Quốc hội ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và
trách nhiệm của người bị chất vấn khi xét thấy cần thiết [36].
Điều 13, Luật này cũng quy định về việc Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm
như sau:
…Ủy ban Thường vụ Quốc hội tự mình hoặc khi có kiến
nghị của ít nhất hai mươi phần trăm (20%) tổng số đại biểu Quốc
hội hoặc kiến nghị của Hội đồng Dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội
trình Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do
Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn… Trong trường hợp người được đưa
ra bỏ phiếu tín nhiệm không được quá nửa tổng số đại biểu Quốc
hội tín nhiệm thì cơ quan hoặc người đã giới thiệu để bầu hoặc đề
nghị phê chuẩn người đó có trách nhiệm trình Quốc hội xem xét,
quyết định việc miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc phê chuẩn việc miễn
nhiệm, cách chức người đó [36].
Điều 25, Quy chế hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định:
"… Khi xét thấy cần thiết, ra nghị quyết hoặc đề nghị Quốc hội ra nghị quyết
về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn" [37].
13
Như vậy, tại các phiên chất vấn và trả lời chất vấn của Quốc hội, Ủy
ban Thường vụ Quốc hội hoặc ít nhất hai mươi phần trăm (20%) tổng số đại
biểu Quốc hội, hoặc Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội có quyền đề
nghị Quốc hội ra nghị quyết về chất vấn. Tại phiên chất vấn của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội có quyền tự mình ra
Nghị quyết về chất vấn hoặc đề nghị Quốc hội ra nghị quyết về chất vấn nếu
người có trách nhiệm trả lời chất vấn trả lời không bảo đảm chất lượng.
Hiện nay, việc truyền hình hay truyền thanh trực tiếp và bình luận của
báo chí về những buổi chất vấn, trả lời chất vấn đã tạo ra một luồng công luận
mạnh mẽ gây áp lực to lớn. Điều này tác động trực tiếp đến cả đại biểu chất
vấn và người trả lời chất vấn. Khi thực hiện chất vấn có nghĩa là đại biểu
Quốc hội đang thể hiện trách nhiệm, kiến thức của mình trước dân, để chất
vấn có hiệu quả đòi hỏi người chất vấn phải tìm hiểu kỹ và có đầy đủ thông
tin về vấn đề cần chất vấn. Thêm vào đó cần phải tìm hiểu kỹ và đầy đủ thông
tin về vấn đề nổi cộm, bức xúc. Chất vấn phải có nội dung cụ thể, rõ ràng để
có thể xác định được trách nhiệm của người trả lời chất vấn. Nếu đại biểu
Quốc hội không chuẩn bị tốt nội dung của người trả lời chất vấn có thể ảnh
hưởng đến sự tín nhiệm của nhân dân đối với đại biểu.
Đối với người trả lời chất vấn, Hiến pháp và pháp luật không quy định
cho đại biểu Quốc hội có quyền áp đặt trực tiếp và biện pháp xử lý như một
chế tài đối với các đối tượng chịu sự giám sát. Tuy vậy, kết quả trả lời chất
vấn sẽ dẫn đến việc có áp dụng hay không có biện pháp kỷ luật của Nhà nước
đối với người chất vấn. Thông qua việc xem xét trả lời chất vấn, Quốc hội có
thể đánh giá năng lực, trình độ và trách nhiệm của người trả lời chất vấn. Đó
cũng là một căn cứ quan trọng để các đại biểu Quốc hội thể hiện một số
quyền khác như bỏ phiếu tín nhiệm, bãi nhiệm, miễn nhiệm các chức danh do
Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Ngoài ra, những buổi trả lời chất vấn được
tường thuật trực tiếp đến toàn dân, vì vậy, những người trả lời chất vấn không
14
những chịu phải sức ép từ Quốc hội mà còn phải chịu sự sức ép từ công luận.
Những ý kiến trái ngược hoặc những phản ứng của đại biểu Quốc hội, cư tri
đối với việc trả lời chất vấn ít nhiều cũng khiến người trả lời phải xem xét và
và cân nhắc cách thức trả lời của mình.
1.3. Hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn ở một số nƣớc
Ở hầu hết các nước, hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn được coi là
hoạt động giám sát đặc thù của Nghị viện. Theo cách thức chung thì chất vấn
tại Nghị viện là những câu hỏi được thể hiện trực tiếp bằng cách hỏi hoặc hỏi
thông qua văn bản từ các nghị sĩ đối với Chính phủ và các thành viên của
Chính phủ với mục đích yêu cầu người bị chất vấn trả lời về trách nhiệm đối
với một số vấn đề thuộc lĩnh vực họ phụ trách. Nghị viện các nước phương
Tây thực hiện quyền chất vấn ít nhiều hướng đến hạn chế sự lợi dụng quyền
hạn của Chính phủ và nâng cao vị thế, vai trò giám sát của Nghị viện. Ở nhiều
nước trên thế giới chất vấn là một công cụ không thể thiếu để kiểm tra mức độ
tin cậy của Nghị viện đối với trách nhiệm chính trị của các Bộ trưởng. Mặt
khác, chất vấn còn có tác dụng khẳng định vai trò của các bộ trưởng, tạo sự
gắn kết giữa Chính phủ với Nghị viện, giữa Chính phủ với nhân dân, giúp duy
trì sự ổn định chính trị.
Về thủ tục chất vấn, nhìn chung ở Quốc hội các nước thủ tục chất vấn
được bắt đầu bằng yêu cầu chất vấn của các nghị sĩ, thường được gửi đến Chủ
tịch Nghị viện để chuyển tới Thủ tướng, hoặc thành viên của Chính phủ. Theo
Nội quy của nhiều nước, yêu cầu chất vấn phải ghi rõ các vấn đề chất vấn và
tên cụ thể của người bị chất vấn. Ngoài ra, nhằm tránh những yêu cầu chất
vấn không thỏa đáng, Nghị viện nhiều nước còn quy định yêu cầu chất vấn
phải thu nhận được một lượng nhất định các chữ ký đồng tình của các nghị
sĩ. Tiếp đó là xác định thời gian tiến hành phiên họp toàn thể để thực hiện thủ
tục chất vấn. Rất nhiều nước quy định Văn phòng Nghị viện và Chính phủ sẽ
thảo luận, thỏa thuận để Chính phủ có đủ thời gian chuẩn bị câu trả lời. Một
15
số nước quy định, nếu Chính phủ không trả lời chất vấn trong khoảng thời
gian đã định thì với yêu cầu của một lượng nghị sĩ nhất định, Nghị viện có
quyền đơn phương xác định thời gian chất vấn và thông báo lại cho Chính
phủ. Tại phiên chất vấn, các nghị sĩ đưa ra nội dung chất vấn của mình và Thủ
tướng hoặc thành viên Chính phủ bị chất vấn trả lời câu hỏi chất vấn trong
một khoảng thời gian hạn định (nhiều nhất là 15 phút). Sau đó, các nghị sĩ có
quyền đặt câu hỏi phụ đối với vấn đề chất vấn. Các câu hỏi phụ này được các
nghị sĩ gửi lên Chủ toạ của phiên chất vấn và người bị chất vấn phải trả lời
ngay câu hỏi. Thông thường, Nội quy Nghị viện các nước giới hạn cho thời
gian trả lời của mỗi câu hỏi phụ là 10 phút.
Cuối cùng, Nghị viện cũng phải đưa ra ý kiến của mình. Nếu Nghị
viện không đưa ra ý kiến thì thủ tục chất vấn không đạt được mục đích vốn có
của nó. Nghị viện các nước thường có ba hình thức biểu quyết về trả lời chất
vấn. , Nghị viện biểu quyết thỏa mãn, khi đó, vấn đề bỏ phiếu tín
nhiệm không phải đặt ra. , Nghị viện biểu quyết không thỏa mãn. Với
kết quả này, Nghị viện sẽ có thể đặt vấn đề bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với
Chính phủ theo chế độ trách nhiệm tập thể, hoặc có thể đưa ra các khuyến
nghị từ chức đối với các thành viên của Chính phủ (thông thường các thành
viên này sẽ buộc phải từ chức để tránh sự sụp đổ tập thể của Chính phủ).
ba, Nghị viện biểu quyết một cách trung dung, không bao hàm ý nghĩa tán
thành hay không tán thành với câu trả lời. Trong trường hợp này, Nghị viện
không thảo luận gì thêm và tiếp tục nghị trình.
Về hình thức chất vấn, nhìn chung ở nhiều nước, nhất là các nước
thuộc mô hình Anh đều có quy định về câu hỏi miệng và câu hỏi viết. Những
nước thuộc mô hình này không cho phép thảo luận những vấn đề chất vấn.
Trong khi đó nhiều nước khác lại quy định nhiều loại: câu hỏi chất vấn miệng
không thảo luận, câu hỏi chất vấn miệng thảo luận và câu hỏi viết. Một số
nước có sự phân biệt giữa câu hỏi chất vấn "lớn" và "nhỏ" (như ở Đức).
16
Chất vấn ở Nghị viện Anh
Nghị viện Vương quốc Anh có truyền thống lâu đời với bề dầy trên
500 năm lịch sử. Hình thành từ khoảng thế kỷ XV-XVI, nhưng việc chất vấn
thành viên Chính phủ tại Nghị viện Anh mới bắt đầu từ cuối thế kỷ XVII, đầu
thế kỷ XVIII và phát triển khá chậm chạp, mãi tới thế kỷ XIX mới trở thành
một hoạt động quan trọng trong sinh hoạt nghị viện. Theo thống kê lịch sử,
trong những năm đầu thực hiện hình thức chất vấn, trung bình mỗi ngày
Chính phủ nhận được chưa tới một câu hỏi chất vấn từ Nghị viện. Hiện nay,
mỗi năm, tổng số các câu hỏi chất vấn đã lên tới khoảng 40.000 câu.
Có ba loại câu hỏi chất vấn đó là: Câu hỏi yêu cầu trả lời ngay tại
phiên chất vấn (còn gọi là chất vấn miệng); các câu hỏi kín, và các câu hỏi
được trả lời bằng văn bản. Câu hỏi kín chỉ được hỏi và trả lời nếu Chủ tịch Hạ
viện cho là quan trọng và cấp thiết, và loại câu hỏi này được dành vào cuối
buổi chất vấn. Nội dung trả lời bằng văn bản đối với câu hỏi chất vấn phải in
trong Kỷ yếu Hạ viện (Hansard). Chất vấn miệng là hình thức hỏi - trả lời
theo cách tương tác trực tiếp, vì vậy phiên chất vấn miệng còn gọi là phiên
Hỏi - Trả lời.
Thủ tục đối với câu hỏi chất vấn miệng tại chỗ theo trình tự như sau:
Nghị viện Anh hoạt động chuyên trách, vì vậy lịch bố trí dành cho
phiên chất vấn miệng thường từ ba đến bốn buổi một tuần, mỗi buổi khoảng
một giờ. Tại phiên chất vấn, Chủ tịch Hạ viện nêu danh sách người chất vấn
(hợp thức), nhưng không đọc các câu hỏi, vì câu hỏi đã được in sẵn và gửi tới
từng nghị sĩ kèm chương trình nghị sự. Việc in câu hỏi chất vấn nhằm công
khai và rõ ràng những câu hỏi yêu cầu trả lời miệng và để thành viên Chính
phủ không thể né tránh trả lời nếu không có lý do xác đáng và hợp thức.
Danh sách người trả lời chất vấn sẽ căn cứ vào bảng phân công do
Chính phủ và đảng đối lập cùng thống nhất. Căn cứ vào danh sách các câu
hỏi và theo sự phân công nói trên, thành viên Chính phủ bị chất vấn sẽ đứng
17
lên trả lời tại bục dành cho thành viên nội các. Nội dung trả lời có thể liên
quan tới một hoặc một nhóm câu hỏi theo lĩnh vực trách nhiệm. Để nhận sự
hỗ trợ của nội các đối với những nội dung cộng đồng trách nhiệm và thể
hiện trách nhiệm tập thể của nội các, những thành viên nội các phụ trách
những lĩnh vực quan trọng và liên quan như môi trường, giao thông, thương
mại, công nghiệp, Ngoại trưởng và một số bộ trưởng không là thành viên nội
các, theo sự phân công của Chính phủ, cũng có mặt để giúp trả lời chất vấn.
Do thời gian phiên Hỏi - Đáp chỉ trong một giờ, nên thành viên chính phủ
phải trả lời thẳng vào câu hỏi và dành thời gian nghe nghị sĩ đối chất theo
thủ tục đối với câu hỏi phụ theo nguyên tắc cuốn chiếu từng vấn đề để bảo
đảm sự tập trung.
Khi Chủ tịch điều hành phiên chất vấn cho rằng các chất vấn và câu
hỏi phụ đủ để giải đáp vấn đề, ông ta sẽ chuyển sang câu hỏi tiếp theo trong
danh mục các câu chất vấn cho đến hết thời gian chất vấn. Nếu hết thời gian
chất vấn miệng mà vẫn còn câu hỏi chưa được trả lời, thì người bị chất vấn
phải trả lời bằng văn bản. Những chất vấn trả lời bằng văn bản được in trong
Kỷ yếu các phiên họp của nghị viện.
Thủ tục chất vấn miệng tại Nghị viện Anh cho phép nghị sĩ có quyền
đưa ra các câu thêm về vấn đề nêu ra tại câu hỏi chính, sau khi người bị chất
vấn đã trả lời. Đây là thủ tục đối với câu hỏi phụ. Chủ tịch Hạ viện thường
hỏi: "có ai hỏi thêm không" để mời các nghị sĩ đặt câu hỏi phụ ngay sau khi
người bị chất vấn đã trả lời. Chủ tịch có quyền quyết định về thủ tục nếu câu
hỏi phụ không liên quan hoặc là nội dung của một câu hỏi chất vấn khác.
Xung quanh quyền đặt câu hỏi phụ có nhiều điều, kỹ xảo đáng nghiên
cứu đối với cả hai phía: người chất vấn và người bị chất vấn. Thành viên
Chính phủ đã có nhiều kinh nghiệm trong trả lời chất vấn miệng, do đó họ
thường trông đợi vào các câu hỏi phụ để giết thời giờ hoặc làm loãng trọng
18
tâm. Vì thế, vai trò điều hành của Chủ tịch Hạ viện rất quan trọng. Trong số
các nghị sĩ giơ tay đăng ký câu hỏi phụ, Chủ tịch Hạ viện thường ưu tiên nghị
sĩ đã đưa ra câu hỏi chất vấn chính để tránh việc hỏi lan man, trùng lặp dẫn
đến hết thời gian chất vấn. Nhìn chung, Chủ tịch Hạ viện không cho phép quá
nhiều câu hỏi phụ; riêng lãnh tụ đảng đối lập trong Hạ viện có thể được hỏi
tới 4-5 câu chất vấn phụ. Cá nhân nghị sĩ thường chủ trương cốt yếu đưa ra
câu hỏi chất vấn hợp thức để được ghi vào danh sách câu hỏi trong phiên Hỏi -
Đáp, nhưng điều họ mong đợi hoặc điểm then chốt mà họ muốn gài vào lại
chính là cơ hội thể hiện qua câu hỏi phụ. Quy định nghị sự của nghị viện cũng
cho phép các nghị sĩ có thời gian ít nhất hai tuần sau khi đã gửi câu hỏi chất
vấn chính để cân nhắc về những câu hỏi phụ hóc hiểm và giữ kín những câu
hỏi này tới phút chót. Nghị sĩ thuộc phe chính phủ lại sử dụng quy định về thủ
tục để ngăn cản những câu hỏi phụ không hợp thức hoặc chủ động đặt câu hỏi
phụ mở lối cho người bị chất vấn.
Hình thức chất vấn do đó dần dần trở thành một công cụ chính trị của
chính khách Anh quốc. Thông qua đó, họ bày tỏ quan điểm chính trị của mình
đối với một vấn đề, lấy lòng cử tri, chỉ trích phe đối lập. Câu hỏi chất vấn đối
với cá nhân Thủ tướng lại có những thủ tục riêng. , nghị sĩ được hỏi
Thủ tướng bất cứ vấn đề gì mà không bị hạn chế bởi lĩnh vực trách nhiệm cụ
thể; nhất là các câu chất vấn phụ thường mở rộng ra rất nhiều vấn đề. ,
Thủ tướng Anh có quyền chuyển các câu hỏi đó cho các bộ trả lời hoặc Thủ
tướng trả lời bằng một tuyên bố chung về chính sách của Chính phủ. Có một
vài lĩnh vực Thủ tướng Anh phải trực tiếp trả lời (ví dụ, vấn đề an ninh quốc
gia). Trong thời gian vướng vào cuộc chiến tranh I-rắc, Thủ tướng Anh Tony
Blair thường phải trả lời các chất vấn tại Nghị viện về tình hình Irắc và các
vấn đề liên quan. Đây là một điểm rất khác biệt so với Mỹ, khi Tổng thống
Bush không phải trả lời các chất vấn thường kỳ, mà chỉ xuất hiện tại Quốc hội
Mỹ vào các dịp đặc biệt nào đó để trình bày chính sách của mình.
19
Vai trò điều hành của Chủ tịch trong phiên chất vấn rất quan trọng.
Thường có khoảng 15 đến 20 câu hỏi chất vấn cho mỗi phiên chất vấn trong
một giờ. Nếu Chủ tịch cho phép có quá nhiều câu hỏi phụ thì chỉ có ít câu
hỏi chính được trả lời, và ngược lại, nếu quá ít câu hỏi phụ thì Bộ trưởng có
thể vượt qua sự chất vấn rất dễ dàng. Vì thế, đối với câu hỏi phụ không có
thủ tục thành văn mà thuộc quyền cân nhắc và quyết định của cá nhân Chủ
tịch Hạ viện.
Công cụ hỗ trợ Chủ tịch trong điều hành chính là quy định về thời
gian phát biểu và các quy định thủ tục khác. Căn cứ vào các quy định này và
quyền hạn điều hành tại chỗ, Chủ tịch không phát biểu về nội dung nhưng có
quyền yêu cầu nghị sĩ và thành viên Chính phủ tuân thủ thời gian hoặc nếu
thành viên Chính phủ muốn trả lời dài hơn và chi tiết hơn, thì Chủ tịch có thể
hỏi nghị viện cho phép ông ta trình bày ngoài giờ hoặc trả lời bằng văn bản.
Để chủ động thời gian cho Nghị viện và Chính phủ, lịch chất vấn được
thiết kế và phân bổ cụ thể theo cách thức:
Bộ trưởng 60 phút một tháng:
3-lại đến đến lượt trả lời chất vấn, tức là mỗi tháng một bộ trưởng phải
thu xếp thời gian một giờ trả lời chất vấn.
Thủ tướng tối đa 120 phút/tháng: Thủ tướng Anh trả lời chất vấn vào
các ngày thứ 4, tối đa khoảng hai giờ chất vấn một tháng. Thống kê trong giai
đoạn 1961-1997 cho thấy Thủ tướng Anh đã trả lời hai buổi một tuần, mỗi
buổi 15 phút.
Các Bộ trưởng không nắm giữ những lĩnh vực trọng yếu hoặc Chức
vụ Tổng chưởng lý tư pháp (Attorney General), Chưởng ấn (Lord Privy Seal)
thường chỉ trả lời khoảng 15-20 phút/1 buổi chất vấn trong một tháng.