Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính phủ trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (974.44 KB, 88 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





CAO NHẬT QUANG







ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA CHÍNH PHỦ TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC












HÀ NỘI - 2010

1
MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Bắt đầu từ Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ Khóa VII – tháng
01 năm 1994, Đảng ta đã thấy rõ sự cần thiết phải xây dựng Nhà nước pháp
quyền như là điều kiện không thể thiếu để có nền dân chủ thực sự vì nhân
dân. Liên tiếp trong các kỳ Đại hội IX, Đại hội X, Đảng ta đã khẳng định
nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong sự nghiệp
đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta và đã được Hiến pháp ghi nhận.
Nhiệm vụ đó được Đảng đặt trong định hướng chung của việc đổi mới và
hoàn thiện phương thức lãnh đạo, bảo đảm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới tổ chức
hoạt động của Chính phủ.
Đồng thời Việt Nam đang hội nhập sâu rộng với thế giới, đổi mới tổ
chức và hoạt động của Chính phủ là vấn đề quan trọng để hoạt động của Nhà
nước Việt Nam đạt hiệu quả, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế trong bối
cảnh Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới. Đảng, Nhà nước và
nhân dân Việt Nam quyết tâm xây dựng một Nhà nước pháp quyền với những
đường lối, chủ trương, chính sách phù hợp hơn với tình hình phát triển hội
nhập mới của đất nước. Đổi mới hoạt động hành pháp của Chính phủ, đẩy
mạnh cải cách hành chính nhà nước là một bộ phận quan trọng trong đường
lối đổi mới toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam và là một trong những

yêu cầu đặt ra nhằm xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN.
Đồng thời hiệu lực và hiệu quả của quản lý nhà nước về mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội đều gắn liền với tổ chức thực thi quyền hành pháp.

2
Ở một số quốc gia, nói đến nhà nước là nói đến Chính phủ. Vì vậy, nói
đến Nhà nước pháp quyền không thể không nói đến tổ chức hoạt động của các
cơ quan hành pháp. Để xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền, chúng ta
phải đặt ra những tiêu chí riêng nhằm đổi mới Chính phủ. Chính những tiêu
chí này sẽ là định hướng cho việc hoàn thiện Chính phủ phù hợp với yêu cầu
của Nhà nước pháp quyền.
Trong thời gian qua, thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận từ việc tổ chức thực thi
quyền hành pháp, tổ chức thực hiện chính sách pháp luật đến việc cải cách
toàn diện bộ máy Nhà nước theo hướng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam của dân, do dân và vì dân. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn nhiều vấn đề
thực tiễn chưa được giải quyết liên quan tới việc xác định và thực hiện những
phương hướng đổi mới tổ chức hoạt động của Chính phủ trong điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục
đẩy mạnh nghiên cứu, tổng kết để làm rõ những tiêu chí riêng, cơ bản của
Chính phủ nhằm đổi mới tổ chức và hoạt động đáp ứng những yêu cầu mới
đặt ra trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN như bộ máy
hành chính gọn nhẹ, hiệu quả, cơ cấu Chính phủ tinh gọn, hoạt động quản lý,
điều hành mau lẹ, hiệu quả, giải quyết tốt, nhanh những vấn đề phát sinh
trong xã hội.
Xuất phát từ những yêu cầu về mặt lý luận cũng như thực tiễn nêu trên,
việc nghiên cứu đề tài vừa có giá trị lý luận vững chắc, vừa mang tính cấp
thiết, là cơ sở cho việc nghiên cứu toàn diện, đầy đủ về cả mặt lý luận cũng
như thực tiễn của đề tài.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Việc tìm hiểu và nghiên cứu những đặc điểm của Chính phủ trong điều
kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền rất cần thiết cả về mặt lý luận cũng như

3
thực tiễn. Vì vậy trên thực tế đến nay, vấn đề này đã có rất nhiều công trình
lớn với giá trị cao đã được nghiệm thu hoặc các bài viết đã được công bố trên
các phương tiện thông tin đại chúng, điển hình nhất là công trình khoa học
của khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội với tên gọi: “Chính phủ trongNhà
nước pháp quyền” do PGS.TS. Nguyễn Đăng Dung thực hiện, bên cạnh đó,
những vấn đề về Chính phủ và Nhà nước pháp quyền cũng đã được nghiên
cứu, đề cập trong các tác phẩm, bài viết về vấn đề Nhà nước và pháp luật của
các tác giả như GS.TS. Phạm Hồng Thái, PGS.TS. Hoàng Thị Kim Quế, GS.TS.
Đào Trí Úc …
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu tổng thể và chi tiết về Chính phủ trong Nhà nước
pháp quyền, gồm các đối tượng:
- Nhà nước pháp quyền;
- Những đặc điểm của Chính phủ trong Nhà nước pháp quyền;
- Thực tiễn Chính phủ Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Trong phạm vi nghiên cứu đề tài của mình, với nhiệm vụ của một học
viên Cao học, tôi xin học tập, kế thừa những giá trị đã có, trên cơ sở đó xin
được đề xuất thêm một số ý kiến với mong muốn đóng góp một phần vào việc
xây dựng và hoàn thiện Chính phủ mạnh và hiệu quả trong hoạt động.
4. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Bản thân đang công tác tại Văn phòng Chính phủ - là bộ máy giúp việc
của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, tôi mong muốn được đóng góp
những suy nghĩ, nghiên cứu của mình nhằm đề xuất những điểm mạnh và
chưa mạnh của hoạt động Chính phủ trong tình hình hiện nay, từ đó đưa ra


4
những phương hướng, giải pháp kiện toàn, đổi mới tổ chức, hoạt động của
Chính phủ phù hợp với điều kiện đổi mới, phát triển bền vững và hội nhập
quốc tế, đáp ứng xu thế phát triển của thế giới và của thời đại, bảo đảm tính
khả thi và đồng bộ trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở
nước ta.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Ngoài việc sử dụng phối kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu chung
của một Luận văn Thạc sỹ: biện chứng – lịch sử, phân tích – tổng hợp - hệ
thống hóa, thống kê - chứng minh, so sánh - đối chiếu … Luận văn cũng kết
hợp lý thuyết pháp lý với thực tiễn chính trị, xem xét tính phù hợp với điều
của Việt Nam, đồng thời nhìn nhận đánh giá hoạt động của Chính phủ từ
nhiều phương diện, lĩnh vực khác nhau với tôn chỉ tạo sự khách quan để
hướng tới việc hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Chính phủ trong điều kiện
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN:
Ngoài Phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Nội dung
của Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Nhà nước pháp quyền và những yêu cầu của Chính phủ trong
Nhà nước pháp quyền.
Chương 2. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của
Chính phủ trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.





5

Chương 1
NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VÀ NHỮNG YÊU CẦU CỦA
CHÍNH PHỦ TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN

1.1. Nhà nƣớc pháp quyền
1.1.1. Lịch sử tƣ tƣởng và học thuyết về Nhà nƣớc pháp quyền:
1.1.1.1. Tư tưởng Nhà nước pháp quyền thời cổ đại:
Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền đã xuất hiện rất sớm, các nhà tư
tưởng thời kỳ cổ đại đã nêu lên những khía cạnh khác nhau của Nhà nước
pháp quyền.
Trong tư tưởng chính trị - pháp lý ở phương Đông và phương Tây thời cổ
trung đại đã chứa đựng các nhân tố Nhà nước pháp quyền, được thể hiện dưới
dạng những quan điểm triết học, chính trị của các nhà tư tưởng. Các nhà tư
tưởng đã bắt đầu tìm kiếm những nguyên tắc, hình thức Nhà nước pháp quyền
như một sự đối lập với chuyên quyền độc đoán của cá nhân người cầm quyền.
Một vấn đề đặt ra là có hay không nhân tố Nhà nước pháp quyền trong
tiến trình lịch sử tư tưởng ở phương Đông? Trong tư tưởng phương Đông
cũng chứa đựng những nhân tố Nhà nước pháp quyền nhưng với những mức
độ thể hiện đặc thù như quan niệm về pháp luật, nhà nước, đạo đức trong
thuyết đức trị và pháp trị … Những nhân tố Nhà nước pháp quyền được thể
hiện trong các tác phẩm của các nhà tư tưởng vĩ đại như Khổng Tử, Mạnh Tử,
Hàn Phi Tử.
Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền ở phương Tây cổ đại chủ yếu gắn liền
với sự phát triển của nền dân chủ Hy Lạp và La Mã, trên cơ sở tư duy triết
học. Các nhà tư tưởng chú ý tới tính tối cao của đạo luật và cả tính hợp pháp,
tới sự tổ chức hợp lý của bộ máy nhà nước, hiểu pháp luật là pháp luật tự
nhiên, pháp luật thực định của nhà nước phải phù hợp. Tư tưởng về sự thống

6
nhất giữa sức mạnh và pháp luật trong việc xây dựng Nhà nước đã được Xô-

Lông, một trong những nhà thông thái Hy Lạp đề cập và vận dụng trong thực
tiễn. Các nhà tư tưởng và người dân La Mã, Hy Lạp lúc bấy giờ đã đấu tranh
chống sự chuyên quyền độc đoán, vì tư tưởng phục tùng pháp luật, sự tuân
thủ pháp luật. Pi-ta-gô đứng trên lập trường và bảo vệ quyền lợi của tầng lớp
quý tộc, chống lại những người bình dân và chế độ nhà nước dân chủ, pháp
luật cao hơn phong tục bất thành văn. Hê-ra-clit lại kêu gọi: “nhân dân phải
đấu tranh để bảo vệ pháp luật như bảo vệ chốn nương thân của mình”, theo
ông pháp luật là phương tiện quan trọng để chống lại cực quyền. Pla-tôn thì
đã viết “tôi nhìn thấy sự sụp đổ nhanh chóng của nhà nước ở nơi nào mà pháp
luật không có hiệu lực và nằm dưới quyền lực của một ai đó”. Xô-crat, một
trong những nhà tư tưởng nổi tiếng thời Hy Lạp cổ đại cũng đã khẳng định
rằng: “xã hội không thể tồn tại nếu thiếu pháp luật, nhà nước phải tôn trọng,
phục tùng pháp luật, tôn trọng pháp luật là tôn trọng lý trí, công bằng và trí
tuệ phổ biến, nếu không quyền lực sẽ lạc lối”.
Vào thời kỳ trung cổ, đây là thời kỳ tồn tại của các chế độ phong kiến
tàn bạo chuyên chế, độc tài và vô pháp luật, cho nên tư tưởng về Nhà nước
pháp quyền không có bước phát triển lớn.
1.1.1.2. Học thuyết tư sản về Nhà nước pháp quyền:
Các tư tưởng về Nhà nước pháp quyền thời cổ đại đã được các nhà tư
tưởng tư sản tiếp thu và phát triển trong những điều kiện mới. Thể hiện thế
giới quan pháp lý mới, có sự kế thừa và phát triển, chống lại chế độ chuyên
quyền độc đoán phong kiến, tình trạng vô pháp luật, pháp luật dã man để đề
cao chủ trương vì một nền pháp luật công bằng, nhân đạo, pháp luật giữ vai
trò thống trị trong các quan hệ xã hội.
Bối cảnh ra đời của học thuyết Nhà nước pháp quyền gắn với thời kỳ các
cuộc cách mạng tư sản. Mong muốn thiết lập một phương thức biểu thị quyền

7
lực chính trị và quyền lực nhà nước dân chủ hơn chế độ chính trị phong kiến.
Học thuyết Nhà nước pháp quyền đã được áp dụng vào việc tổ chức thực thi

quyền lực thực tế.
Học thuyết Nhà nước pháp quyền thời kỳ tư sản ra đời gắn liền với tên
tuổi của các nhà tư tưởng tư sản vĩ đại như Loc-kơ, Mon-tes-quieu, Can-tơ,
Hê-ghen…
1.1.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền:
Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể
hiện trong các tác phẩm của Người trước và sau sự ra đời của Nhà nước Việt
Nam kiểu mới và xuyên suốt quá trình lãnh đạo đất nước. Người đã đặt nền
móng tư tưởng pháp quyền, vận dụng vào điều kiện Việt Nam.
Tư tưởng của Người về quản lý xã hội bằng pháp luật đã hình thành từ
rất sớm, trong Bản yêu sách của nhân dân An Nam gửi Hội nghị Vec-xây năm
1919, trong đó thể hiện tư tưởng lập Hiến, tính tối cao của luật trong Nhà
nước pháp quyền. Tuyên ngôn độc lập ngày 02 tháng 9 năm 1945 và bản Hiến
pháp đầu tiên năm 1946 đã ghi nhận ý tưởng đặc sắc, phản ánh những nhân tố
Nhà nước pháp quyền trong cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, thực
hiện một chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt của nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu chọn lọc các tư tưởng chính trị - pháp
lý Đông, Tây. Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa tiếp thu tư tưởng “lấy dân làm gốc”
của Khổng Tử, Mạnh Tử, của Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, vừa tiếp thu
những tinh hoa của tư tưởng dân chủ phương Tây để xây dựng nên tư tưởng
dân chủ của mình. Hồ Chủ tịch đã viết: “nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu
quyền hạn đều của dân, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Người đã
thấy tất cả sức mạnh của chính quyền Nhà nước là ở nhân dân: “dễ trăm lần
không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong”.

8
Đối với một nhà nước “của dân”, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định
Chính phủ phải là người phục vụ nhân dân. Người đã viết: “Chính phủ, dân
chủ cộng hòa là gì? là đầy tớ trung thành của dân, từ Chủ tịch toàn quốc đến
Chủ tịch làng. Cán bộ phải tôn kính dân, phải làm cho dân tin, phải làm

gương cho dân, phải làm cho dân tin, dân phục, dân yêu”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã đề cập đến một loạt những nguyên tắc cơ
bản của Nhà nước pháp quyền như một nền tư pháp bảo đảm công lý, thẩm
phán xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật, một chế độ công vụ đề cao kỷ
luật, trách nhiệm của công chức, về ý thức pháp luật.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền là xây dựng nhà nước
kiểu mới - nhà nước của dân, do dân và vì dân, tư tưởng, quan niệm của
Người về pháp luật luôn gắn liền với lý tưởng công bằng, độc lập, tự do, bình
đẳng, dân quyền.
1.1.2. Khái niệm và những đặc điểm cơ bản của Nhà nƣớc pháp quyền:
1.1.2.1. Khái niệm Nhà nước pháp quyền:
Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước. Theo đó, thứ
nhất, tổ chức nhà nước được thiết kế, hoạt động trên cơ sở pháp luật, bản thân
nhà nước cũng phải đặt mình trong khuôn khổ pháp luật, tổ chức quyền lực
nhà nước khoa học trên cơ sở của sự phân công lao động hợp lý giữa quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp; thứ hai, một hình thức tổ chức nhà nước mà
pháp luật có vị trí, vai trò xã hội to lớn, pháp luật ở đây phải mang tính pháp
lý cao, tính khách quan, nhân đạo, thực sự là đại lượng của tự do và công
bằng, tất cả vì lợi ích của con người. Nhà nước pháp quyền là loại hình nhà
nước có nhiều khả năng nhất trong việc chống lại xu hướng độc quyền về
quyền lực và xu hướng quan liêu hóa bộ máy quyền lực.
Về phương diện xã hội, Nhà nước pháp quyền cũng là sự thể hiện một xã
hội được tổ chức thành nhà nước, có sự phát triển lành mạnh của một xã hội

9
dân sự, do vậy Nhà nước pháp quyền có sự khác và đối lập với Nhà nước
pháp trị, Nhà nước độc tài, cực quyền, Nhà nước thuần túy đức trị. Nhà nước
pháp quyền không loại trừ đạo đức, điều này được đặt ra cho mọi quốc gia,
dân tộc, nhất là trong xã hội hiện đại.
Trên phương diện lý luận, Nhà nước pháp quyền là một học thuyết về

cách tổ chức nhà nước và quản lý xã hội, đề cao tính hợp pháp, hợp hiến, tính
nhân văn của pháp luật, tất cả vì con người - giá trị cao quý nhất. Đảm bảo
tính tối cao của luật, pháp luật thống trị trong xã hội, có cơ chế phân công
quyền lực nhà nước, bảo đảm quyền con người, đồng thời tôn trọng và tuân
thủ pháp luật.
Giáo sư, tiến sỹ khoa học Đào Trí Úc đã giải thích: “Nhà nước pháp
quyền đòi hỏi phải có sự thống nhất giữa tính tối cao của pháp luật với hình
thức pháp lý của tổ chức quyền lực chính trị. Đó là hai yếu tố không thể thiếu
được khi nói đến Nhà nước pháp quyền”.
Nhà nước pháp quyền là hiện tượng chính trị - pháp lý phức tạp, do vậy
khó có thể đưa ra một định nghĩa bao quát hết nội hàm khái niệm. Tuy nhiên,
căn cứ vào những đặc trưng tiêu biểu nhất của Nhà nước pháp quyền có thể
định nghĩa về Nhà nước pháp quyền mà đã được giới luật học thừa nhận
chung như sau: “Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức Nhà nước với
sự phân công khoa học, hợp lý giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp,
có cơ chế kiểm soát quyền lực, Nhà nước tổ chức và hoạt động trên cơ sở pháp
luật, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, pháp luật có tính khách quan,
nhân đạo, công bằng, tất cả vì lợi ích chính đáng của con người” {3,4-6}.
1.1.2.2. Những đặc điểm cơ bản của Nhà nước pháp quyền:
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, Nhà nước pháp quyền mang những đặc
điểm rất cơ bản:

10
- Thứ nhất, trong Nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước được tổ
chức khoa học, các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp được phân định rõ
ràng, hợp lý cho ba hệ thống cơ quan nhà nước tương ứng trong mối quan hệ
cân bằng, kiểm soát lẫn nhau, tạo thành một cơ chế đồng bộ đảm bảo sự thống
nhất của quyền lực nhà nước, thực hiện quyền lực nhân dân;
- Thứ hai, Nhà nước pháp quyền là nhà nước có hệ thống pháp luật hoàn
thiện, có cơ chế hữu hiệu để đảm bảo vai trò tối thượng của các đạo luật. Pháp

luật trong Nhà nước pháp quyền phải mang tính pháp lý cao, khách quan,
công bằng, nhân đạo phù hợp đạo đức xã hội, tất cả vì lợi ích chính đáng của
con người;
- Thứ ba, Nhà nước pháp quyền là nhà nước trong đó mối quan hệ giữa
nhà nước và công dân bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, quan hệ đồng trách
nhiệm. Tuân thủ pháp luật là nghĩa vụ đối với mọi cá nhân, tổ chức kể cả nhà
nước, nhà nước phải chịu trách nhiệm vật chất, tinh thần về các quyết định và
hành vi của mình;
- Thứ tư, Nhà nước pháp quyền là nhà nước trong đó các quyền tự do,
dân chủ và lợi ích chính đáng của con người được nhà nước bảo đảm thực
hiện bằng hệ thống pháp luật. Mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải được
xử lý nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật;
- Thứ năm, Nhà nước pháp quyền là nhà nước sống hòa đồng với cộng
đồng thế giới, thực hiện các cam kết quốc tế, các điều ước quốc tế mà nhà
nước là thành viên ký kết hay công nhận.
Như vậy có thể thấy mô thức tổng quát nhất của Nhà nước pháp quyền
bao gồm trong đó những đòi hỏi nhất định về tổ chức thực hiện quyền lực
Nhà nước, đó là:
- Yêu cầu về tính pháp quyền của bản thân các thiết chế nhà nước;
- Yêu cầu về tính tối thượng của pháp luật;

11
- Yêu cầu về mối liên hệ dân chủ giữa các cơ quan nhà nước với cá nhân,
giữa nhà nước với các thiết chế tự quản và xã hội dân sự. Mối liên hệ đó phải
phản ánh quyền tự do trên nguyên tắc có thể làm tất cả những gì luật không
cấm;
- Yêu cầu về tổ chức quyền lực nhà nước khoa học và dân chủ trên cơ sở
Hiến pháp và pháp luật thể hiện ở nguyên tắc phân công quyền lực giữa các
phạm vi quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, giữa các cấp
Trung ương và địa phương;

- Yêu cầu về sự độc lập và bảo đảm công lý của tòa án và các cơ quan tư
pháp;
- Yêu cầu về tính dân chủ và minh bạch của pháp luật cũng như tính hệ
thống thứ bậc hiệu lực chặt chẽ của các văn bản pháp luật.
1.1.3. Nhà nƣớc pháp quyền XHCN Việt Nam:
Đối với chúng ta, nói xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là
nói tới một phương thức tổ chức nền chính trị xã hội chủ nghĩa và Nhà nước
xã hội chủ nghĩa mà mục đích là không ngừng duy trì bản chất giai cấp công
nhân và tính nhân dân của Nhà nước, phát huy cao độ dân chủ xã hội chủ
nghĩa, làm cho Nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý và điều hành.
Tính tất yếu lịch sử của Nhà nước pháp quyền bắt nguồn từ chính lịch sử
xây dựng và phát triển của Nhà nước ta. Ngay từ khi thành lập, Nhà nước
cộng hòa của chúng ta đã và luôn là một nhà nước hợp hiến, hợp pháp. Nhà
nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các quy định tại Hiến pháp và
pháp luật và luôn vận hành trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xuất
phát từ định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội mà mục tiêu cơ bản là xây
dựng một chế độ: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn

12
minh. Chúng ta ý thức sâu sắc rằng để đạt được một chế độ xã hội có tính
mục tiêu như vậy, công cụ, phương tiện cơ bản chỉ có thể là nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam trên cơ sở chủ nghĩa
Mác Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tính tất yếu khách quan ấy còn xuất
phát từ đặc điểm của thời đại với xu thế toàn cầu hóa. Nhu cầu hội nhập quốc
tế đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách Nhà nước, cải cách pháp
luật, đảm bảo cho Nhà nước không ngừng vững mạnh, có hiệu lực để giải
quyết có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, mở rộng dân chủ,

củng cố độc lập, tự chủ và hội nhập vững chắc vào đời sống quốc tế.
Ở Việt Nam, thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền” và sự cần thiết phải
nghiên cứu Nhà nước pháp quyền được nêu ra trong bài phát biểu của đồng
chí Đỗ Mười tại Hội nghị toàn quốc về ngành Tư pháp năm 1989: “Hiện nay
trên thế giới đang trở lại khái niệm Nhà nước pháp quyền mà nội dung quan
trọng của nó là thừa nhận sự thống trị của pháp luật đối với xã hội, ở nước ta,
có cùng khái niệm đó hay không thì tùy, các nhà khoa học nên nghiên cứu”.
Trong lịch sử lập hiến nước ta, Hiến pháp 1992 (được sửa đổi, bổ sung
năm 2001) đã long trọng ghi nhận: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng
là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức”.
Lý luận xã hội chủ nghĩa đã nghiên cứu, tiếp thu, phát triển những yếu
tố, hạt nhân hợp lý trong lý luận tư sản về Nhà nước pháp quyền và xác lập cơ
sở lý luận - thực tiễn cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân. Các yếu tố và hạt nhân hợp lý đó là pháp luật
giữ vị trí thống trị trong đời sống nhà nước và xã hội, pháp luật là công cụ tổ

13
chức bộ máy nhà nước và điều chỉnh hoạt động của bộ máy nhà nước, pháp
luật công bằng đối với mọi người và mọi người đều bình đẳng trước pháp
luật, pháp luật tôn trọng quyền con người và quy định nghĩa vụ của nhà nước
phải bảo đảm, bảo vệ quyền con người.
Tóm lại, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một Nhà
nước vừa phải thể hiện được các giá trị phổ biến của Nhà nước pháp quyền,
vừa khẳng định được bản sắc đặc thù của riêng mình qua những đặc trưng cụ
thể:
- Một là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về

nhân dân. Đây là đặc trưng cơ bản được ghi nhận trong Hiến pháp của nước ta
và được thể hiện trong các quy định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương của các cơ quan lập pháp,
hành pháp và tư pháp;
- Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Đây vừa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước ta, vừa là quan điểm chỉ đạo quá trình tiếp tục thực hiện việc cải cách bộ
máy nhà nước;
- Ba là, Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật,
bảo đảm vị trí tối thượng của pháp luật trong điều chỉnh các quan hệ thuộc tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hệ thống pháp luật thể hiện đầy đủ, đúng
đắn ý chí của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ
xã hội. Nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật là của tất cả công dân, không
loại trừ bất cứ ai;
- Bốn là, Nhà nước ta tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền
công dân, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực

14
hành dân chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật. Mục tiêu cao cả của
Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh về bảo đảm quyền con
người, quyền công dân được thể chế hóa thành luật và được Nhà nước ta tổ
chức thực hiện có kết quả;
- Năm là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn trọng và
thực hiện đầy đủ các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia;
- Sáu là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức
và hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là đặc
trưng cơ bản để phân biệt Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Nhà
nước pháp quyền tư sản chủ nghĩa.

Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, chúng ta đã tiếp thu được những tinh hoa, những giá trị toàn nhân loại.
Đó là các chế định pháp lý, như tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân,
sự tôn trọng, bảo vệ các quyền và tự do của con người như những giá trị xã
hội cao quý nhất, sự ngự trị của pháp luật trong các lĩnh vực sinh hoạt của xã
hội, tính tối cao của pháp luật trong các lĩnh vực hoạt động của nhà nước và
trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội.
1.2. Tiêu chí của Chính phủ trong Nhà nƣớc pháp quyền:
Nói đến Nhà nước pháp quyền không thể không nói đến những thuộc
tính của hành pháp, chính những đặc điểm của hành pháp giúp việc nhận diện
Nhà nước pháp quyền được rõ ràng và chính xác. Như vậy, tồn tại trong một
Nhà nước pháp quyền, Chính phủ phải có những tiêu chí đặc điểm riêng, nếu
không có những đặc điểm đó thì không thể có Nhà nước pháp quyền
- Đầu tiên, là sự hợp pháp của Chính phủ. Nhà nước pháp quyền phải là
nhà nước hợp pháp thì Chính phủ cũng phải được tổ chức và hoạt động hợp
pháp. Nhà nước pháp quyền phải là nhà nước tuân thủ pháp luật thì Chính phủ

15
cũng phải là trọng tâm của việc tuân thủ các quy định của Hiến pháp và pháp
luật. Chính việc thành lập đúng, thành lập đủ Chính phủ đem lại một Chính
phủ hợp pháp, phần cơ bản của một nhà nước hợp pháp, một tiêu chí quan
trọng của nhà nước pháp quyền.
Trong thời kỳ đầu tiên của nhà nước quân chủ, chưa có sự hiện diện của
một nhà nước dân chủ, Chính phủ được tập trung vào tay nhà vua, được hình
thành một cách thế tập truyền ngôi, cũng thể hiện một Chính phủ hợp pháp,
vấn đề tiếp theo của Chính phủ là việc cần phải đặt mình dưới sự cai trị của
một hệ thống pháp luật anh minh có thể là gần đủ cho một của Nhà nước pháp
quyền lúc bấy giờ. Cũng chính vì sự hợp pháp đó mà chế độ quân chủ vẫn còn
hay chí ít cũng còn những dấu hiệu cho đến tận ngày nay. Chuyển sang thời
đại dân chủ, với đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền, việc hình thành Chính phủ

phải có sự tham gia một cách trực tiếp hay ít nhất là gián tiếp của người dân.
Sau khi giai cấp tư sản giành được chính quyền thì họ mau chóng nhận
thức ra vai trò quan trọng của Chính phủ - hành pháp, từ đó nhu cầu thành lập
ra một Chính phủ bằng phương pháp bầu cử càng trở nên cấp bách. Thế giới
của thời đại dân chủ hiện nay có hai cách thành lập ra Chính phủ hợp pháp:
Cách thứ nhất, cách thức thành lập ra Chính phủ của các nhà nước theo
chế độ Tổng thống là nhân dân trực tiếp hoặc có thể là gián tiếp bầu ra người
đứng đầu Chính phủ và người đứng đầu Chính phủ tự thành lập Chính phủ
của mình mà không phụ thuộc vào Quốc hội. Nhà nước được tổ chức theo chế
độ Tổng thống cộng hòa là nhà nước tổ chức theo nguyên tắc phân quyền
cứng rắn. Lập pháp và hành pháp đều do nhân dân bầu ra thông qua cử tri,
những người có quyền bầu cử theo quy định của pháp luật. Bầu ra người đứng
đầu hành pháp có hai cách đó là bầu cử trực tiếp hoặc bầu cử gián tiếp. Sau
khi có Tổng thống, Tổng thống bổ nhiệm các thành viên Chính phủ, Tổng
thống và các thành viên Chính phủ không thể đồng thời là thành viên của Hạ
viện và Thượng viện. Khác với việc tổ chức hành pháp của chế độ đại nghị,

16
người đứng đầu hành pháp của chế độ này - Tổng thống không phải là đại
biểu Quốc hội và nhiệm kỳ của Tổng thống cũng không cần phải có sự chấp
thuận của đa số Quốc hội/ Hạ nghị viện.
Cách thứ hai, cách thức thành lập ra Chính phủ của các nhà nước được tổ
chức theo chế độ đại nghị kể cả quân chủ lẫn cộng hòa là cách thức dựa trên
cơ sở của Quốc hội lập pháp. Nhân dân thông qua cử tri trực tiếp bầu ra Quốc
hội/Hạ nghị viện. Hạ nghị viện thay mặt cho nhân dân theo quy định của pháp
luật đứng ra thành lập Chính phủ, bằng cách bầu ra người đứng đầu Chính
phủ - Thủ tướng, sau đó Thủ tướng đứng ra thành lập Chính phủ bằng cách đệ
trình một danh sách các thành viên để Hạ nghị viện phê chuẩn.
Thành lập ra Chính phủ như là một trong những trách nhiệm của Hạ nghị
viện trong chế độ này. Trường hợp không thành lập được Chính phủ thì Quốc

hội/Hạ nghị viện cũng phải ra đi. Trong tổ chức và hoạt động của Chính phủ
luôn luôn phải giành được sự tín nhiệm của Quốc hội/Hạ nghị viện, trường
hợp không còn sự tín nhiệm của Hạ nghị viện thì Chính phủ phải từ chức, Hạ
nghị viện có quyền thành lập ra Chính phủ mới. Trường hợp không thể thành
lập được Chính phủ mới thì Hạ nghị viện phải giải tán. Nhân dân bằng
phương pháp bầu cử sẽ bầu ra Quốc hội mới, Quốc hội mới có trách nhiệm
thành lập ra Chính phủ mới. Trên thực tế nhiều người đứng đầu Chính phủ có
thể lợi dụng chế định tín nhiệm để kéo dài nhiệm kỳ hoặc có thể để củng cố
quyền lực hành pháp của mình.
Cách thức thành lập ra Chính phủ của nhà nước được tổ chức theo mô
hình đại nghị kể cả quân chủ lẫn cộng hòa có nguồn gốc từ Anh quốc. Việc
Chính phủ - hành pháp phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện - một đặc điểm
quan trọng bậc nhất của chính thể đại nghị kể cả quân chủ lẫn cộng hòa, đồng
thời cũng là một trong những biểu hiện quan trọng của sự chịu trách nhiệm
của quyền lực nhà nước của loại hình tổ chức nhà nước này không phải hình

17
thành ngay từ những ngày đầu của cách mạng tư sản, mà cũng phải dần dần
theo trình tự lịch sử của nhà nước Anh.
Như vậy, cả hai cách thức thành lập Chính phủ nói trên đều đòi hỏi phải
có các cuộc bầu cử tự do, bình đẳng, không có sự áp đặt, ép buộc nào. Trường
hợp ngược lại đều là cơ sở cho việc hình thành nên một Chính phủ phi pháp,
không phải Chính phủ của một Nhà nước pháp quyền;
-Thứ hai, cơ cấu của Chính phủ phải tinh gọn. Nếu cơ cấu của Chính phủ
phức tạp cồng kềnh sẽ là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc các quan
chức dễ lợi dụng điểm này để gây sách nhiễu đối với công dân, lạm quyền,
tham nhũng. Cơ cấu Chính phủ càng tinh gọn thì càng làm giảm bớt tình trạng
lạm quyền, tham nhũng. Hơn nữa, Nhà nước pháp quyền tồn tại trong một xã
hội công dân năng động và phát triển. Các thiết chế trong cấu trúc quyền lực
của Nhà nước pháp quyền phải có khả năng phản ứng nhanh nhạy đối với

những vấn đề phát sinh trong xã hội công dân. Sự phức tạp, rườm rà về cơ cấu
tổ chức sẽ là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sức ỳ, kém hiệu quả
trong hoạt động của Chính phủ vì nếu được cơ cấu gồm quá nhiều tiểu cấu
trúc, nhất là lại không ăn khớp với nhau thì sẽ làm cho Chính phủ trở nên lạc
hậu so với sự phát triển của xã hội, không có khả năng giải quyết một cách
nhanh chóng các vấn đề phát sinh, nền hành chính trở nên không thông suốt
và chậm chạp. Vì vậy, để có thể thích ứng được với điều kiện của Nhà nước
pháp quyền, Chính phủ phải có một cơ cấu tinh gọn để có thể phản ứng một
cách kịp thời, nhanh chóng, giải quyết hiệu quả các vấn đề nảy sinh từ xã hội
công dân.
Trong Nhà nước pháp quyền, Chính phủ - hành pháp cần thiết chỉ gồm
rất ít những tiểu cấu trúc bên trong, giảm những khâu, những đầu mối của quy
trình hành pháp đồng thời có khả năng hoạt động hiệu quả, có khả năng giải
quyết tốt, nhanh những vấn đề phát sinh trong quá trình phát triển của xã hội,
của nền kinh tế thị trường. Có nghĩa rằng, Chính phủ - hành pháp chỉ làm

18
những gì mà thị trường không có khả năng đảm nhiệm, trọng tâm là tạo ra nền
móng các thể chế pháp luật cho thị trường và xã hội hoạt động, đảm bảo quản
lý tập trung thống nhất trên các vấn đề ở tầm vĩ mô, không can thiệp trực tiếp
việc điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh, thực hiện đúng và tốt hơn chức
năng quản lý Nhà nước đích thực trong kinh tế thị trường; phát huy mạnh mẽ
tính năng động tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường; Chính
phủ tập trung vào nhiệm vụ đổi mới và hoàn thiện thể chế hành chính trong
quản lý kinh tế, xây dựng và phát triển đồng bộ các loại thị trường để chúng
có thể gánh vác trách nhiệm huy động và phân bổ các nguồn lực; thị trường
phát triển đến đâu Chính phủ lui về vị trí đứng của mình đến đó.
Chính phủ không can thiệp sâu vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội vì Nhà nước pháp quyền là một nhà nước tự giới hạn trong việc can thiệp
vào xã hội công dân. Về nguyên tắc, Nhà nước pháp quyền không được can

thiệp quá sâu vào xã hội công dân mà phải tạo điều kiện cho sự phát triển
sáng tạo, năng động của xã hội công dân. Nhà nước cần xác lập những khuôn
khổ ở tầm vĩ mô cho sự sinh hoạt của xã hội công dân. Càng đặt ra nhiều quy
phạm quá cụ thể và quá rắc rối điều chỉnh chi tiết từng hành vi của công dân,
càng làm cho công dân không có điều kiện phát triển những khả năng sáng
tạo của mình, sẽ trở nên thụ động. Hơn nữa, sự can thiệp quá mức của Chính
phủ vào đời sống của công dân càng chứng tỏ Chính phủ nặng về cai trị hơn
phục vụ. Điều này chứng tỏ xu hướng vì nhà nước, chứ không phải vì công
dân như yêu cầu của Nhà nước pháp quyền.
Nhưng như vậy không có nghĩa là Chính phủ để mặc cho xã hội phát
triển. Chính phủ không có tham vọng hành chính hóa nền kinh tế, cũng như
không thể thay thế được vai trò của thị trường và các doanh nghiệp. Tuy
nhiên, xét trên nhiều phương diện, sự quản lý, tác động của Chính phủ là điều
kiện không thể thiếu cho sự vận hành hiệu quả nền kinh tế thị trường.

19
Chính phủ vẫn đóng vai trò quan trọng của mình, đó là vai trò điều tiết,
kiểm soát sự vận hành của thị trường, bảo đảm sự tuân thủ các nguyên tắc
cạnh tranh, kiềm chế những mất cân đối vĩ mô về kinh tế, tài chính. Như vậy,
Chính phủ sẽ hạn chế, giảm thiểu các biện pháp can thiệp trực tiếp vào nền
kinh tế. Vai trò của Chính phủ chính là ở chỗ tạo ra hành lang pháp lý cho sự
vận hành của cơ chế thị trường, kiểm soát những tác động trái của cơ chế thị
trường. Đó là kinh nghiệm của sự đổi mới, hoàn thiện và phát triển chức năng
của nhà nước trong nền kinh tế thị trường mở cửa, hội nhập đang chuyển đổi
mau lẹ, sinh động.
Đã từ lâu các nhà bảo thủ cho rằng Chính phủ nên chuyển nhiều chức
năng của mình cho khu vực tư nhân. Tư nhân hóa là một mũi tên trong ống
tên của Chính phủ, nhưng tư nhân hóa không phải là giải pháp duy nhất cho
kinh tế phát triển. Có thể ký hợp đồng hoặc chuyển các dịch vụ cho khu vực
tư nhân. Nhưng công việc quản lý của Chính phủ không thể làm được như

vậy, doanh nghiệp có thể làm tốt hơn Chính phủ, nhưng Chính phủ cũng làm
tốt hơn doanh nghiệp một số không ít các công việc. Cụ thể như các công tác
về quản lý chính sách, điều tiết đảm bảo tính thường xuyên và ổn định các
dịch vụ, đảm bảo sự gắn kết các giai tầng trong xã hội {3};
- Thứ ba, Chính phủ là trung tâm của bộ máy Nhà nước với nhiệm vụ
quan trọng là hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện khi chính sách được
thông qua. Trong Nhà nước pháp quyền, chức năng chủ yếu của Chính phủ là
hoạch định chính sách và ban hành các văn bản pháp quy, bởi vì Chính phủ
với hệ thống cơ quan được tổ chức khá quy mô cùng với đội ngũ nhân viên
giàu kinh nghiệm nắm trong tay vô số thông tin khác nhau, do đó hơn ai hết
Chính phủ chính là chủ thể trực tiếp hoạch định chính sách, sáng kiến luật.
Mặc dù phân quyền nhưng trong tổ chức bộ máy nhà nước của các nước
phát triển, Chính phủ - hành pháp vẫn là trung tâm phải chịu trách nhiệm của
bộ máy nhà nước. Quốc hội không thể hoạt động một mình, kể cả trong việc

20
lập pháp, dù Hiến pháp có trao cho Quốc hội mọi quyền lập pháp song quyền
này không thể được thi hành mà không có sự dính líu đến hành pháp và tư
pháp. Theo Điều 2 của Hiến pháp Hoa Kỳ, cũng như Hiến pháp một số nước
khác, người đứng đầu các cơ quan hành pháp có quyền triệu tập các phiên họp
của lập pháp. Mặc dù không trực tiếp đề ra luật, song Tổng thống “thỉnh
thoảng phải trao cho Quốc hội những thông tin về tình trạng liên bang, và
khuyến nghị họ xem xét các biện pháp, mà Tổng thống cho là cần thiết”.
Tổng thống không những có quyền phủ quyết những đạo luật đã được Quốc
hội thông qua mà Tổng thống những người đứng đầu hành pháp còn là các tác
giả phần lớn các dự án luật của Quốc hội - lập pháp.
Khái niệm về một Tổng thống có quyền lập pháp đã được phổ biến kể từ
sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Từ đó đến nay vai trò này đã được thiết chế
hóa, được thể hiện không chỉ vì cá tính độc đáo của một vị Tổng thống, một
hoàn cảnh đặc biệt nào mà chính là vì mọi người, trong đó có Quốc hội, báo

chí và công chúng trông đợi điều này;
Thứ tư, Chính phủ phải minh bạch. Nếu như Nhà nước pháp quyền
chống lại sự lạm quyền của quan chức nhà nước, sự vi phạm pháp luật của
nhà nước, vì con người thì nhân dân phải kiểm soát được hoạt động của nhà
nước. Để nhân dân có thể kiểm soát được Chính phủ, để Chính phủ không
lạm quyền, không vi phạm pháp luật, vì nhân dân thì Chính phủ phải công
khai, minh bạch. Sự minh bạch của Chính phủ có nghĩa đảm bảo công dân có
thể ràng buộc Chính phủ phải chịu trách nhiệm về những hành động của
mình. Sự minh bạch của Chính phủ có nghĩa là hoạt động của Chính phủ phải
được mọi người dân biết đến, công dân có quan tâm, được công khai xem xét
các hoạt động của Chính phủ, trừ những trường hợp đặc biệt do nhu cầu bảo
mật của quốc gia.
Nhiều quan chức của Chính phủ luôn cố gắng giữ bí mật những gì họ đã
làm, đang làm để che dấu những cái dốt nát hay tham lam của họ tạo ra sự bất

21
đối xứng thông tin giữa quan chức nhà nước và quần chúng nhân dân. Bưng
bít, không minh bạch bao giờ cũng giúp cho quan chức nhà nước dễ ra quyết
định sai lầm của họ. Sự che dấu này là một bản chất của nhà nước khi nó mới
ra đời - nhà nước không phải của nhân dân, nhà nước không phải chịu trách
nhiệm. Sự bưng bít thông tin là đặc trưng của nhiều nhà nước chuyên chế
tương phản với giá trị dân chủ và giá trị nhà nước phải chịu trách nhiệm, nó
giúp cho những kẻ đương chức cố thủ giữ chức vụ của mình mà hạn chế đi sự
tham gia của người dân vào các công việc của nhà nước.
Tính minh bạch của Chính phủ yêu cầu công dân phải có quyền và phải
được tạo những điều kiện xem xét hoạt động của Chính phủ để quá trình này
được diễn ra một cách công khai. Công dân phải được tạo điều kiện để có thể
dễ dàng tiếp cận với những thông tin về hoạt động của Chính phủ. Việc hoạch
định chính sách của Chính phủ phải công khai, minh bạch để nhân dân có thể
tham gia vào quá trình đó. Hơn nữa, để cho nhân dân có điều kiện tham gia

vào tiến trình hoạch định chính sách, Chính phủ phải cung cấp những thông
tin có liên quan đến chính sách để nhân dân được biết. Thông tin về những
hoạt động của Chính phủ phải được công bố trên Internet. Công dân có thể
phải được cung cấp những thông tin cần thiết về hoạt động của Chính phủ
thông qua hình thức gửi thư trực tiếp hoặc thư điện tử cho các nhân viên của
Chính phủ.
Tính minh bạch của Chính phủ cũng yêu cầu rằng các quy định pháp luật
điều chỉnh về tổ chức và hoạt động của Chính phủ phải dễ truy cập đối với
công dân. Nhà nước pháp quyền yêu cầu Chính phủ phải chịu sự điều chỉnh
bởi pháp luật. Công dân phải biết được Chính phủ đang được tổ chức và hoạt
động trên cơ sở những khuôn khổ pháp lý nào. Nếu có những quy phạm pháp
luật được đặt ra để giới hạn hành vi của Chính phủ vì quyền lợi của công dân
thì quy phạm đó phải được mọi công dân biết đến. Vì nếu công dân không
biết thì khó có thể có cơ sở để đảm bảo rằng pháp luật có giới hạn công quyền

22
để vì công dân hay không. Các Bộ, các ngành cũng phải đăng tải các thông tin
về cơ cấu tổ chức và thủ tục của mình để công dân có thể hiểu được và biết sẽ
làm thế nào đối với các Bộ, ngành đó khi có việc cần tới.
Các quy định của Chính phủ phải dễ được tiếp cận và phải được phổ biến
đối với công dân. Nhà nước không nên “đánh đố” công dân bằng cách ban
hành ra quy định pháp luật, chẳng hạn như liên quan đến thủ tục hành chính,
rồi cứ thế áp dụng, không biết là những đối tượng bị áp dụng - những người
dân có biết hay không. Khi người dân vi phạm pháp luật, làm sai so với
những yêu cầu của pháp luật do không biết pháp luật, thì Chính phủ phải nhận
thấy trách nhiệm ở mình đã không minh bạch hóa các quy định của mình.
Ngoài ra, sự minh bạch như là một trong những đảm bảo của trách nhiệm
nhà nước, trách nhiệm của chính quyền luôn luôn gắn liền với việc phải quy
kết được trách nhiệm của chính quyền, có nghĩa Chính phủ phải tăng cường ý
thức trách nhiệm trong hoạt động của mình. Yêu cầu của Nhà nước pháp

quyền về sự kiểm soát lạm quyền của các quan chức nhà nước, bảo vệ quyền
con người đặt ra vấn đề Chính phủ phải tăng cường ý thức trách nhiệm trong
hoạt động của mình, để họ không lạm quyền, không để những hậu quả đáng
tiếc xảy ra ảnh hưởng đến đời sống của người dân. Ý thức trách nhiệm của
Chính phủ cũng chính là ý thức phục vụ nhân dân.
Khác với các nhà nước bình thường khác, nhà nước pháp quyền phải là
một nhà nước chịu trách nhiệm. Với tư cách là thiết chế trung tâm, hoạt động
của Chính phủ ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động của các thiết chế khác
trong bộ máy nhà nước. Vì vậy, nói đến sự chịu trách nhiệm của nhà nước là
nói đến sự chịu trách nhiệm của Chính phủ. Sự không chịu trách nhiệm của
các bộ phận cấu thành nhà nước cũng là biểu hiện của nhà nước không chịu
trách nhiệm.

23
Tính dám chịu trách nhiệm thể hiện ở chỗ dám chịu trách nhiệm gánh
vác hậu quả trước mọi thất bại có thể xảy ra như dám từ chức, dám bồi
thường thiệt hại, dám xin lỗi trước công chúng. Đồng thời các Bộ trưởng là
thành viên của Chính phủ chịu trách nhiệm trước người đứng đầu hành pháp.
Rất ít có Hiến pháp nào quy định vấn đề này song trên thực tế của đất nước
nào cũng như vậy. Hiến pháp của Mỹ là bản Hiến pháp thành văn lâu đời nhất
không quy định việc tổ chức Chính phủ và các thành viên của Chính phủ
nhưng các Bộ trưởng vẫn được hình thành và chỉ chịu trách nhiệm trước Tổng
thống mà không phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Trong chế độ đại nghị
của Anh quốc, các Bộ trưởng phải chịu trách nhiệm trước Hạ nghị viện nhưng
phải chịu trách nhiệm trước Thủ tướng vì Bộ trưởng phải do Thủ tướng đề cử;
- Thứ năm, trong Nhà nước pháp quyền, hành pháp phải có thẩm quyền
mạnh. Các nước phát triển đã làm rất nhiều điều để tăng cường quyền lực của
hành pháp, như việc gắn đảng cầm quyền với hành pháp, việc tăng cường chế
độ thủ trưởng, chế độ chịu trách nhiệm cá nhân, chế độ chịu trách nhiệm tập
thể.

Chính phủ là bộ phận quan trọng của chính quyền nhà nước, trực tiếp
điều hành xã hội. Hê-ghen cho rằng quyền hành chính “quan hệ một cách trực
tiếp hơn với cái đặc thù trong xã hội công dân và thực hiện lợi ích phổ biến ở
bên trong những mục đích đặc thù đó”. Một khi Chính phủ là một cơ quan
trực tiếp điều hành xã hội mà lại không được phân giao thẩm quyền mạnh thì
hiệu quả của việc điều hành xã hội khó có thể đạt được cao. Trong một xã hội
công dân năng động và phát triển thì các vấn đề phát sinh trong xã hội không
phải mọi thứ đều phải chờ đến cơ quan đại diện - một cơ quan không hoạt
động thường xuyên giải quyết. Vì vậy, Chính phủ phải được giao những thẩm
quyền mạnh để có thể điều hành xã hội, đảm bảo sự thông suốt, thuận lợi cho
việc phát triển của xã hội công dân - môi trường tồn tại của Nhà nước pháp
quyền.

24
Chương 2
CHÍNH PHỦ NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Chính phủ nƣớc CHXHCN
Việt Nam:
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Chính phủ nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thành
lập, lịch sử Chính phủ từ đó đến nay đã trải qua sáu thập kỷ.
Dưới ánh sáng của tư tưởng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì
dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hoạt động đối nội và đối ngoại của Chính phủ
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam,
Chính phủ kháng chiến (11/1946) trở đi đã dựa trên cơ sở pháp quyền cách
mạng được hoàn thiện theo tiến trình phát triển thắng lợi của cuộc kháng
chiến. Ủy ban dân tộc giải phóng và Chính phủ lâm thời hoạt động trên cơ sở
Nghị quyết của Quốc dân đại hội Tân Trào, Chính phủ Liên hiệp kháng chiến
hoạt động theo các quyết định của Quốc hội do cuộc Tổng tuyển cử ngày 06

tháng 01 năm 1946 bầu ra. Chính phủ kháng chiến hoạt động trên cơ sở các
quyết định của kỳ họp Quốc hội thứ hai và Hiến pháp ngày 09 tháng 11 năm
1946 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bản Hiến pháp này mới chỉ quy
định Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất; về quyền hạn của Chính phủ
chưa được quy định rõ; về nhiệm vụ, Hiến pháp chỉ ghi: “Chính phủ thi hành
các đạo luật và quyết nghị của nghị viện, có quyền trình dự án luật và sắc
luật”.
Sang giai đoạn mới, giai đoạn thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến
lược: xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giải phóng miền Nam,
thống nhất Tổ quốc, với tinh thần dân chủ hóa, pháp chế hóa, kế hoạch hóa,
coi trọng ứng dụng khoa học vào xây dựng cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành
của Chính phủ, ngày 01 tháng 01 năm 1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc

×