Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Cải cách hành chính ở cấp Huyện tại thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.62 MB, 99 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





DUY HOÀNG DƯƠNG






CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH Ở CẤP HUYỆN
TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC










HÀ NỘI - 2011



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




DUY HOÀNG DƯƠNG





CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH Ở CẤP HUYỆN
TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Phạm Hồng Thái





HÀ NỘI - 2011


MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
5
1.1.
Cải cách hành chính - biện pháp bảo đảm các quyền công
dân và tổ chức
5

1.2.
Nội dung cải cách hành chính
13
1.2.1.
Nguyên nhân phải cải cách hành chính ở nước ta
13
1.2.2.
Nội dung cải cách hành chính của nền hành chính Việt Nam
19
1.2.2.1.
Cải cách thể chế
19
1.2.2.2.
Cải cách tổ chức bộ máy hành chính từ Trung ương đến
địa phương
21
1.2.2.3.
Đổi mới, nâng cao chất lượng cán bộ, công chức
26
1.2.2.4.
Cải cách tài chính công
28
1.3.
Cấp huyện và yêu cầu cải cách hành chính cấp huyện
29
1.3.1.
Khái quát về cấp huyện và chính quyền cấp huyện
29
1.3.2.
Yêu cầu cải cách hành chính cấp huyện

42

Chương 2: THỰC TRẠNG CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH CẤP HUYỆN
HIỆN NAY (5 NỘI DUNG CHỦ YẾU)
46
2.1.
Các văn bản chỉ đạo
48
2.2.
Tổ chức bộ máy hành chính
50
2.3.
Thủ tục hành chính
55

2.4.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức
57
2.5.
Tài chính công
59
2.6.
Hiện đại hóa nền hành chính công
61
2.7.
Nhận xét về ưu điểm, hạn chế cải cách hành chính ở cấp huyện
63
2.7.1.
Ưu điểm
64

2.7.2.
Hạn chế
66
2.7.3.
Nguyên nhân hạn chế
69

Chương 3: GIẢI PHÁP, PHƯƠNG HƯỚNG TĂNG CƯỜNG CẢI
CÁCH HÀNH CHÍNH Ở CẤP HUYỆN
72
3.1.
Cải cách tổ chức bộ máy hành chính
72
3.2.
Cải cách thủ tục hành chính
77
3.3.
Công tác cán bộ
78
3.4.
Cải cách tài chính công
81
3.5.
Đẩy mạnh hiện đại hóa nền hành chính công
87

KẾT LUẬN
88

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

89

PHỤ LỤC
92


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, cải cách hành chính có thể được coi như
một trong những nhiệm vụ hàng đầu trong công cuộc xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta thường
xuyên đưa ra đường lối chỉ đạo và ban hành các chính sách trong lĩnh vực cải
cách hành chính. Công tác cải cách hành chính không phải chỉ là nhiệm vụ
của riêng một cấp chính quyền, một lĩnh vực nào mà nó là nhiệm vụ chung và
có thể nói là hàng đầu của toàn thể bộ máy chính trị, các cấp chính quyền và
nhân dân. Chúng ta có thể thấy rõ được sự quyết tâm cải cách hành chính của
Việt Nam thông qua các Văn kiện Đại hội Đảng các kỳ họp của Đảng Cộng
sản Việt Nam, các quyết định, chỉ thị, kế hoạch, chương trình của Chính phủ.
Thành phố Hà Nội, với vai trò là Thủ đô và cũng là trung tâm chính
trị- văn hóa, khoa học- xã hội, kinh tế của cả nước cũng đang nghiêm túc thực
hiện công tác cải cách hành chính. Cải cách hành chính có vị trí quan trọng,
luôn là một trong hai khâu đột phá trong nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội
của thành phố Hà Nội. Thành ủy và Ủy ban nhân dân thành phố đã có những
chỉ đạo quyết liệt về vấn đề này và công tác cải cách hành chính bước đầu đã
tạo những bước chuyển biến tích cực trong hoạt động của thành phố.
Thực hiện Nghị quyết 15 của Quốc hội ngày về việc mở rộng địa giới
hành chính, Thủ đô Hà Nội mở rộng có một địa bàn rộng lớn và một bộ máy
hành chính khổng lồ. Việc mở rộng này bước đầu đã tạo nhiều cơ hội cho sự

phát triển của thành phố Hà Nội, tuy nhiên vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất
định và tạo nhiều khó khăn cho công tác cải cách hành chính.
Hiện nay, thành phố Hà Nội có tất cả 29 đơn vị hành chính cấp huyện
với các điều kiện đặc thù khác nhau. Do có sự khác nhau như vậy nên sẽ khó

2
khăn cho thành phố trong công tác quản lý và điều hành công việc. Bên cạnh
đó, thực trạng hoạt động của chính quyền cấp huyện tại thành phố Hà Nội đã
xuất hiện nhiều bất cập. Có thể kể đến như bộ máy hành chính còn cồng kềnh,
chưa có sự thống nhất giữa các quận, huyện, thị xã; thủ tục hành chính tuy đã
có việc đơn giản hóa và chuyển biến, nhưng hiện nay vẫn còn quá nhiều thủ
tục chồng chéo và quy trình giải quyết còn rườm rà, chưa thực sự tạo được sự
mới trong giao dịch giữa công dân, tổ chức, đơn vị doanh nghiệp với cơ quan
hành chính nhà nước. Một hạn chế nữa liên quan đến công tác tổ chức cán bộ
và công chức, hiện nay trình độ giữa cán bộ công chức giữa các quận huyện,
thị xã nói chung cũng như trong chính trong quận huyện, thị xã đó cũng có sự
chênh lệch nhất định, trách nhiệm của lãnh đạo đứng đầu các cơ quan cũng
tồn tại một số bất cập nhất định.
Đã có nhiều đề tài nghiên cứu phục vụ cho công tác cải cách hành chính
của thành phố Hà Nội, tuy nhiên, đề tài của luận văn này sẽ đi sâu nghiên cứu
hiệu quả công tác cải cách hành chính ở cấp huyện tại thành phố Hà Hội, từ
đó phục vụ cho công tác cải cách hành chính của toàn thành phố nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay có rất nhiều đề tài nghiên cứu về hành chính và cải cách
hành chính. Tuy nhiên, các đề tài đó lại đề cập đến nhiều khía cạnh khác
nhau, nội dung khác nhau trong nhiều nội dung của cải cách hành chính. Và
một số đề tài khác nghiên cứu về cải cách hành chính ở các cấp khác nhau với
nhiều đối tượng khác nhau.
Năm 2010 cũng là năm để tổng kết và đánh giá kết quả 10 việc thực
hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính trên toàn quốc nói chung và

thành phố Hà Nội nói riêng. Do vậy, đề tài được nghiên cứu dựa trên kết quả
tổng kết, có phân tích sâu và rõ một số ưu điểm, hạn chế trong công tác cải
cách hành chính của cấp huyện để đưa ra một số kiến nghị và giải pháp thực
hiện để tăng cường cải cách hành chính ở cấp huyện.

3
3. Nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu của đề tài là nghiên cứu công tác cải cách hành chính cấp
huyện của Thành phố Hà Nội, từ đó đưa ra các giải pháp và phương hướng để
hoàn thiện hơn nữa công tác cải cách hành chính, do đó để thực hiện mục tiêu
này, đề tài sẽ tập trung thực hiện một số nhiệm vụ sau đây:
- Đánh giá thực trạng của công tác cải cách hành chính của các quận,
huyện và thị xã cho đến nay.
- Tìm ra những lý do, nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đưa ra một số giải pháp, kiến nghị chung để từng bước tăng cường,
hoàn thiện trong công tác cải cách hành chính cấp huyện của thành phố Hà Nội.
4. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là công tác cải cách hành chính
cấp huyện tại thành phố Hà Nội. Trong đó có liên hệ thực tiễn với một số
quận, huyện như Tây Hồ, Hoài Đức, Từ Liêm và một số quận, huyện khác.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đánh giá được công tác cải cách hành chính cấp huyện tại thành
phố Hà Nội, trước hết đề tài sẽ nghiên thông qua các Văn kiện Đại hội Đảng
các khóa, Luật, các văn bản chỉ đạo của Chính phủ, các văn bản như Chương
trình Thành ủy, nghị quyết các kỳ họp trong những năm gần đây của Hội
đồng nhân dân thành phố, báo cáo, kế hoạch của Ủy ban nhân dân thành phố,
Báo cáo của các Sở, ban ngành và quận, huyện, thị xã. Đề tài sẽ tổng hợp, so
sánh những số liệu cụ thể và đưa ra đánh giá về thực trạng và kết quả.
Sau khi tìm ra lý do, nguyên nhân của tồn tại, bằng việc nghiên cứu
qua các tài liệu tham khảo, các công trình khoa học khác và kinh nghiệm thực

tiễn về cải cách hành chính của một số quốc gia, một số địa phương khác và
kiến thức của cá nhân, đề tài sẽ nêu ra các kiến nghị, giải pháp chung để tăng

4
cường và nâng cao hiệu quả công tác cải cách hành chính của các quận, huyện
và thị xã trong thời gian sắp tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dụng của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về cải cách hành chính.
Chương 2: Thực trạng cải cách hành chính cấp huyện hiện nay (5 nội
dung chủ yếu).
Chương 3: Phương hướng và giải pháp tăng cường cải cách hành
chính ở cấp huyện.


5
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH

1.1. Cải cách hành chính - biện pháp bảo đảm các quyền công
dân và tổ chức
Trong suốt tiến trình đấu tranh cách mạng cũng như xây dựng Nhà
nước, trong mọi công tác cũng như tổ chức hoạt động, Đảng và Nhà nước ta
đều thực hiện theo mục đích cao nhất là vì con người và quyền con người. Tư
tưởng này được thể hiện rõ nét trong các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vấn đề quyền con người và cơ chế để bảo vệ
quyền con người đã được Đảng và Nhà nước ta thể hiện trong hai nội dung
chính: xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và vấn đề quyền con
người; hoàn thiện hệ thống pháp luật và các cơ chế khác để đảm bảo quyền

con người.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước lấy nhân dân làm chủ thể, lấy pháp
luật làm tiêu chí để quản lý xã hội. Cốt lõi của tư tưởng, quan điểm về nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chính là nhà nước của dân, do dân và vì
dân; nhà nước quản lý xã hội và quản lý chính bản thân mình bằng pháp luật.
Không một thể chế nhà nước và xã hội nào có thể đứng trên pháp luật và
đứng ngoài pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức và công dân phải nghiêm chỉnh
chấp hành các quy định của luật pháp. Mọi quyết định của cơ quan công
quyền phải hợp pháp. Cán bộ, công chức trong thực thi công vụ phải lấy pháp
luật làm chuẩn mực.
Do đặc thù của thể chế chính trị, do đặc điểm truyền thống của các
dân tộc và do những nguyên nhân khác nhau, Nhà nước pháp quyền không có
khuôn mẫu chung cho mọi quốc gia. Nhiều nước phân chia quyền lực nhà
nước thành ba nhánh quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp, với phương

6
châm dùng quyền lực kiểm tra, giám sát quyền lực. Trong quá trình hoạt
động, các cơ quan này kiểm soát lẫn nhau, bảo đảm sự cân bằng quyền lực,
tránh tình trạng lạm quyền, lấn át của quyền này đối với quyền khác. Ở nước
ta, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Ba quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
không độc lập, càng không đối lập, mà thống nhất với nhau trên cơ sở đường
lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Về tính chất, mối quan hệ và hoạt
động của ba quyền này là sự phân công, phối hợp để thực hiện nhiệm vụ
chung. Vì vậy, cần có sự phân định rành mạch, khoa học để các cơ quan thực
hiện các quyền phát huy tính năng động, sáng tạo, hoạt động đúng thẩm
quyền, và tránh chồng chéo chức năng, nhiệm vụ. Đồng thời, có sự phối hợp,
kiểm tra lẫn nhau giữa các cơ quan thực hiện các quyền để phát huy hiệu lực
chung của quyền lực nhà nước thống nhất. Cải cách hành chính do đó cần
được tổ chức triển khai toàn diện, đồng bộ, gắn kết với cải cách lập pháp và

cải cách tư pháp.
Nền hành chính có chức năng thực thi quyền hành pháp - tổ chức thi
hành pháp luật và quản lý, điều hành mọi hoạt động trên các lĩnh vực đời sống
xã hội nhằm chuyển hóa chủ trương, đường lối của lực lượng cầm quyền
thành hiện thực, bảo đảm cho các chủ thể quan hệ pháp luật thực hiện nghiêm
chỉnh, chính xác luật pháp. Vì nền hành chính ra đời, tồn tại và thay đổi theo
sự hình thành, phát triển của Nhà nước nên cải cách hành chính phải xuất phát
từ tính chất riêng biệt của hệ thống chính trị, từ hoàn cảnh lịch sử và thực tế
đời sống chính trị - kinh tế - xã hội mỗi nước. Mục tiêu cải cách hành chính
nước ta là xây dựng nền hành chính trong sạch, vững mạnh, quản lý toàn xã
hội một cách hiệu quả, đáp ứng các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa. Yêu cầu này đòi hỏi trước hết phải xây dựng một nền hành chính
dân chủ, pháp quyền. Đó là nền hành chính có tổ chức và hoạt động theo
chuẩn mực pháp luật; bảo đảm, bảo vệ các quyền công dân bằng pháp luật.
Công dân là người chủ thực sự, có quyền làm những việc pháp luật không

7
cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Nền hành chính tạo mọi điều kiện để
công dân tham gia tích cực vào quá trình xây dựng luật pháp. Thông qua đó,
các quyền tự do, dân chủ của công dân được thể chế hóa và mở rộng trên tất
cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Tiếp theo, nền hành chính bảo đảm các quyền
công dân theo luật định được tôn trọng trên thực tế thông qua hệ thống lập
quy và bằng các biện pháp cụ thể. Các văn bản pháp quy phải căn cứ vào
pháp luật, chủ yếu là chấp hành pháp luật; văn bản cấp dưới không trái với
văn bản cấp trên. Các chủ thể hành chính tuyệt đối tuân thủ pháp luật, chỉ
được làm những việc mà pháp luật cho phép. Đồng thời, nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa cũng yêu cầu xây dựng một nền hành chính phát triển.
Đó là nền hành chính vì dân, coi công dân là trung tâm và đề cao chức năng
phục vụ công. Nền hành chính hướng tới sứ mệnh thỏa mãn lợi ích chung của
toàn xã hội và đáp ứng các nhu cầu chính đáng của nhân dân một cách chất

lượng, hiệu quả, kinh tế nhất. Nền hành chính tạo mọi thuận lợi để công dân và
các tổ chức của họ tham gia thực hiện các công việc nhà nước. Bằng hành
động thực tiễn, nền hành chính quan tâm đảm bảo các quyền và lợi ích của công
dân, bảo đảm an sinh xã hội, bảo đảm công bằng, bình đẳng, tạo điều kiện cần
thiết để mọi thành viên xã hội với những địa vị, điều kiện, thể chất, … khác
nhau nhưng có cơ hội như nhau để phát triển; bù đắp cho những người được
hưởng lợi ít nhất; quan tâm giúp đỡ, cung cấp dịch vụ cho nhân dân vùng sâu,
vùng xa, vùng có điều kiện khó khăn và những nhóm đối tượng yếu thế, có vị
thế bất lợi trong nền kinh tế thị trường.
Trong suốt tiến trình phát triển từ khi Nhà nước Việt Nam kiểu mới ra
đời năm 1945, bản chất nhân dân của Nhà nước được khẳng định trong các
Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm
2001). Tuy nhiên, trong tiềm thức của không ít cán bộ, công chức vẫn còn
đậm tính công quyền, cưỡng chế của Nhà nước. Nhân dân là đối tượng chịu
sự quản lý, cai quản thay vì là ‘khách hàng’ mà nền hành chính phải phục vụ.
Hoạt động quản lý công trong nhiều trường hợp bị ‘hành chính hóa’, quá chú

8
trọng thực hiện mệnh lệnh, chấp hành chỉ đạo của cấp trên, tuân theo quy
trình, thủ tục, hơn là nêu cao trách nhiệm phục vụ, linh hoạt thỏa mãn nguyện
vọng của nhân dân một cách hiệu quả nhất. Do đó, cần tiếp tục cải cách, giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nền hành chính và công dân. Công dân ủy
quyền cho công chức - "công bộc" của mình cung ứng những dịch vụ có chất
lượng theo pháp luật. Nền hành chính không có mục đích tự thân mà phải vì
nhân dân phục vụ. Cơ quan công vụ là các thiết chế phục vụ xã hội, phục vụ
nhân dân. Cán bộ công chức gương mẫu chấp hành pháp luật, thực thi công
vụ một cách phi vụ lợi, đặt lợi ích của xã hội, của công dân lên trên hết. Nhân
dân là đối tác chính trong xây dựng và triển khai chính sách, được tạo mọi
điều kiện để chủ động tham gia vào quá trình quản lý, cung ứng dịch vụ công;
giám sát hoạt động của các cơ quan công quyền, và có thể thông qua các đại

biểu của mình bãi miễn chức vụ của cán bộ công chức không đủ uy tín, năng
lực, với cơ chế thuận tiện, khả thi. Để làm được điều đó, phải chú trọng nâng
cao dân trí, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà
nước. Cần thể chế hóa các quy định liên quan tới quyền và nghĩa vụ công dân
một cách rõ ràng, cụ thể nhằm đảm bảo cho công dân thực sự được hưởng
quyền và nghiêm chỉnh thực hiện nghĩa vụ. Thực hiện đầy đủ nguyên tắc công
khai, dân chủ trong tổ chức và hoạt động của nền hành chính, tiếp tục đẩy
mạnh cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hóa nhằm xóa bỏ mầm
mống quan liêu, cửa quyền, tham nhũng. Nền hành chính cần tạo lập các cơ
sở pháp lý để bảo đảm công khai, minh bạch thông tin cho xã hội; lắng nghe,
tiếp thu ý kiến và sẵn sàng tiếp nhận sự kiểm tra, giám sát và phê bình của
nhân dân. Các cơ quan phải chủ động xây dựng những kênh phù hợp cho mọi
tầng lớp nhân dân tiếp cận và phản hồi thông tin về hoạt động quản lý của
mình nhằm phát huy vai trò phản biện chính sách của xã hội và nâng cao trách
nhiệm giải trình của bộ máy hành chính. Tăng cường các hình thức dân chủ
trực tiếp; qua đó, động viên được nhân dân tham gia sâu rộng, thực chất hơn
vào các hoạt động chính trị - xã hội.

9
Nền hành chính thực hiện quản lý nhà nước thông qua việc tác động
bằng tổ chức - quyền lực để điều hành các quan hệ xã hội. Vì thế, nền hành
chính phải có cơ cấu tổ chức hợp lý và cơ chế vận hành phù hợp để hoạt động
có hiệu quả, hiệu lực. Tái cơ cấu tổ chức gắn liền với đổi mới phương thức
quản lý, lề lối làm việc là một trọng tâm cải cách hành chính. Cần tiếp tục
phân định hợp lý, rành mạch thẩm quyền, trách nhiệm giữa các ngành, các
cấp, các cơ quan, đơn vị và cá nhân để tạo cơ chế cân bằng và kiểm soát
quyền lực; đồng thời, bao quát hết nhiệm vụ, đảm bảo thực thi có chất lượng
các công việc nhà nước ngày càng đa dạng, phức tạp. Trong đó, xác định hợp
lý chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của từng cơ quan, đơn vị từ trung
ương đến địa phương, định rõ trách nhiệm, quyền hạn từng vị trí, chức danh

công tác sẽ góp phần đảm bảo trật tự pháp luật hành chính. Nội dung cải cách
hành chính này bao gồm một loạt các nhóm giải pháp, cần được thực hiện
đồng bộ. Thứ nhất, phân định chức năng công quyền với quản lý sự nghiệp,
cung ứng dịch vụ công, với quản trị sản xuất - kinh doanh, trong đó có nội
dung quản trị tập đoàn kinh tế. Tách chức năng quản lý vĩ mô với các hoạt
động chuyên môn, tác nghiệp, theo hướng tăng cường năng lực định hướng,
hoạch định thể chế, chính sách của Chính phủ, các Bộ, ngành và Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh. Thứ hai, xây dựng cơ cấu công chức theo yêu cầu công tác của
từng cơ quan, theo chiến lược phát triển và nhiệm vụ ưu tiên của tổ chức
trong từng giai đoạn; trong đó, mô tả rõ yêu cầu, tiêu chuẩn đối với từng chức
danh và các mối quan hệ phối hợp dọc, ngang giữa các vị trí công tác. Bộ máy
hành chính do đó được tổ chức tinh gọn, sát thực tế, rõ thẩm quyền và trách
nhiệm hơn. Thứ ba, hoàn thiện chế độ thủ trưởng, đề cao vai trò người đứng
đầu các cấp trong hệ thống hành pháp. Thứ tư, đẩy mạnh phân cấp trung ương -
địa phương và xã hội hóa cung ứng dịch vụ công để nền hành chính gần dân
hơn. Thứ năm, tăng cường công tác hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các
văn bản đã ban hành và sử dụng các chế tài pháp luật để xử lý vi phạm nhằm
chấn chỉnh trật tự, kỷ cương hành chính. Thứ sáu, đi đôi với việc xây dựng

10
một chiến lược bao gồm các giải pháp tổng thể phát triển nguồn nhân lực hành
chính công trong thời kỳ mới, chúng ta cần khẩn trương cải cách chế độ, chính
sách cán bộ, khuyến khích công chức có năng lực tâm huyết làm việc trong nền
hành chính. Cuối cùng, chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin và các quy
trình quản lý chất lượng tiên tiến vào quá trình hiện đại hóa công sở, đổi mới
tổ chức lao động nhằm nâng cao hiệu quả làm việc của cán bộ, công chức.
Trong quá trình cải cách hành chính, phải kết hợp nhuần nhuyễn
nguyên tắc pháp trị và nguyên tắc đức trị. Hiện nay, xây dựng tiêu chuẩn đạo
đức nghề nghiệp phù hợp với từng nhóm cán bộ công chức; áp dụng hệ thống
đánh giá công tác một cách khách quan, khoa học, sát thực; chấn chỉnh việc

chấp hành pháp luật, kỷ luật ở mọi cấp, mọi ngành; tạo cơ chế kiểm tra, giám
sát việc thi hành pháp luật trong các cơ quan và trong nhân dân; trừng trị
nghiêm theo pháp luật những hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ công chức
ở bất kỳ cương vị nào; là những yêu cầu đặt ra nhằm đảm bảo pháp trị hành
chính. Thực tế đang đòi hỏi phải nâng cao ý thức đạo đức, tinh thần trách
nhiệm của cán bộ công chức; tăng cường giáo dục pháp luật cho công dân, tạo
lòng tin và nếp sống làm việc theo pháp luật của cán bộ công chức cũng như
của các tầng lớp nhân dân; phát huy vai trò của các cơ quan truyền thông, báo
chí để không chỉ là phương tiện phổ biến thông tin một cách chính xác, kịp
thời mà phải trở thành công cụ hữu hiệu để phân tích, dự báo, phản biện chính
sách cho xã hội và là diễn đàn để nhân dân trao đổi, bày tỏ ý kiến tham gia
quản lý nhà nước tạo niềm tin và hình ảnh tốt đẹp về cơ quan công vụ.
Hoàn thiện chế độ hành chính là điều kiện đặc biệt quan trọng để quản
lý nhà nước một cách hiệu quả bằng pháp luật. Khi hoạch định thể chế, pháp
luật, các ban soạn thảo phải chú trọng đến công đoạn phân tích chính sách, kết
hợp giữa kinh nghiệm quản lý ngành, lãnh thổ của các bộ, Ủy ban nhân dân
với việc lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân và sử dụng phương pháp chuyên gia.
Các văn bản, đề án phải phản ánh được ý nguyện của nhân dân, lợi ích chung
của đất nước, quy luật tự nhiên của xã hội, giải quyết được các mối quan hệ

11
giữa trung ương với địa phương, giữa các bộ ngành, giữa các nhóm lợi ích.
Để bảo đảm quyền và lợi ích của công dân, một mặt, các cơ quan khi dự thảo
các văn bản pháp quy cần lường tính, ngăn chặn những nguy cơ vi phạm đến
quyền con người từ bất kỳ chủ thể nào, kể cả từ phía Nhà nước. Mặt khác, coi
trọng vai trò của các định chế tài phán hành chính trong việc kiểm tra tính hợp
pháp, hợp lý của các quyết định, hành vi hành chính. Xây dựng hệ thống tài
phán hành chính là yêu cầu khách quan nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp của
công dân, bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ những hành vi công vụ đúng
pháp luật, giúp người dân tham gia kiểm soát quyền lực hành pháp. Quá trình

cải cách hành chính cần rà soát các quy định luật hành chính; đánh giá, rút ra
những bài học từ thực tiễn giải quyết các khiếu kiện; tổng kết quá trình tổ
chức, hoạt động của các tòa hành chính từ khi được thành lập. Đồng thời,
nghiên cứu lịch sử phát triển tài phán hành chính các nhóm nước trong khu
vực và trên thế giới để đúc rút những bài học vận dụng vào điều kiện Việt
Nam. Có thể thành lập cơ quan tài phán hành chính theo hướng nằm trong hệ
thống hành pháp hoặc do Quốc hội thành lập, nhưng phải hoạt động thực sự
độc lập trên cơ sở luật pháp. Cán bộ công chức trong cơ quan tài phán hành
chính thực hiện chức năng thẩm phán, theo yêu cầu, trình tự tố tụng hành
chính. Tổ chức cơ quan tài phán hành chính như vậy sẽ hiệu quả hơn do vừa
đảm bảo được tính khách quan, độc lập khi phán xét các hành vi hành chính,
vừa sát với thực tiễn công vụ đa dạng.
Trong cải cách thể chế, cần ưu tiên nội dung hoàn thiện chế độ trách
nhiệm hành chính. Thể chế, pháp luật công chức - công vụ phải có hệ thống
quy định về trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm vật chất đối với những trường
hợp vi phạm pháp luật, gây thiệt hại cho xã hội và công dân. Cần phân biệt rõ
trách nhiệm của bộ máy hành chính, của cơ quan với trách nhiệm của cán bộ
công chức khi thực thi công vụ. Thiết lập chế độ trách nhiệm công vụ thuộc tổ
chức là nhằm đề cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, công chức khi thực
hiện nhiệm vụ nhà nước, phục vụ lợi ích cộng đồng. Phân tích, xác định rõ lỗi

12
cá nhân là để cán bộ, công chức chịu trách nhiệm trước Nhà nước, xã hội và
công dân về hành vi công vụ của mình. Trong mọi trường hợp, cho dù trách
nhiệm thuộc về một văn bản, một chính sách, một quyết định công vụ hay
một lỗi của người công chức, thì tổ chức hay công dân bị thiệt hại phải được
bồi thường hay được khắc phục hậu quả theo luật. Từ đó, cán bộ, công chức,
đặc biệt là những người có chức vụ, quyền hạn phải am hiểu pháp luật và biết
áp dụng pháp luật khi giải quyết công việc. Cán bộ công chức phải được giao
đủ thẩm quyền (gắn với trách nhiệm) và có đủ năng lực để chủ động, linh hoạt

xử lý các vấn đề trên cơ sở pháp luật, theo nguyên tắc tập trung - dân chủ,
tránh biến hệ thống hành chính thành bộ máy quan liêu, cứng nhắc.
Nền hành chính bao gồm các bộ phận: thể chế hành chính; cơ cấu, cơ
chế tổ chức, hoạt động của bộ máy hành chính; đội ngũ cán bộ, công chức;
nguồn tài chính công và các điều kiện vật chất, phương tiện làm việc cần
thiết. Để làm tốt chức năng phục vụ công, thực hiện quản lý một cách dân
chủ, hiệu quả, nền hành chính cần chú trọng nâng cao năng lực cả bốn thành
tố trên, tạo nên sức mạnh tổng hợp để tổ chức thực hiện thành công đường lối
của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên, đầu tư cho nguồn lực con
người là yếu tố then chốt trong việc xây dựng nền hành chính phát triển, đáp
ứng yêu cầu Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong đó, đổi mới tư
duy, nâng cao khả năng hoạch định thể chế, chính sách của cán bộ công chức
lãnh đạo, quản lý các ngành các cấp có vai trò đặc biệt quan trọng để vận
dụng đầy đủ, đúng đắn các quy luật kinh tế thị trường trong tổ chức và hoạt
động của nền hành chính. Xây dựng đội ngũ công chức hành chính chuyên
nghiệp, chất lượng cao, thực hiện nghiêm minh pháp luật, phục vụ nhân dân
một cách công tâm và trách nhiệm là yêu cầu khách quan, vừa mang tính cấp
bách vừa mang tính chiến lược. Vì thế, cải cách hành chính thời gian tới cần
tập trung tăng cường năng lực cán bộ công chức, đáp ứng yêu cầu thực tế
công tác; thiết lập mối quan hệ phối hợp chặt chẽ giữa các cơ sở nghiên cứu,
giáo dục, đào tạo hành chính với các cơ quan quản lý, sử dụng cán bộ; nâng

13
cao đạo đức công chức gắn với đẩy mạnh giáo dục công dân, bồi dưỡng ý
thức làm chủ của người dân; mở rộng các hoạt động hợp tác công - tư, huy
động mọi nguồn lực tham gia hoàn thiện nền hành chính dân chủ, pháp quyền,
đáp ứng có hiệu quả các nhu cầu của nhân dân.
1.2. Nội dung cải cách hành chính
1.2.1. Nguyên nhân phải cải cách hành chính ở nước ta
Sự vận động và phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia đã làm cho

nhu cầu của xã hội ngày càng gia tăng cả về số lượng cũng như chất lượng.
Điều đó đòi hỏi nhà nước cần phải đưa ra được các biện pháp quản lý hệ
thống kinh tế, xã hội một cách hiệu quả.
Quản lý theo nghĩa chung nhất của nó là sự tác động mang tính chất
quyền lực của tổ chức thông qua các nhà quản lý đến các đối tượng cần quản lý.
Hiệu quả, hiệu lực của hoạt động quản lý phụ thuộc vào phương pháp quản lý
được áp dụng. Quản lý nhà nước là sự tác động bằng quyền lực nhà nước - quyền
lực công, thông qua các quyết định quản lý do các nhà quản lý (đại diện cho
nhà nước) đưa ra nhằm tác động đến sự vận động và phát triển kinh tế, xã hội.
Bộ máy nhà nước cũng như nền hành chính nhà nước hoạt động trong
môi trường ngày càng trở nên phức tạp. Ngay bản thân một tổ chức, một
doanh nghiệp hoạt động trong môi trường cũng chứa đựng nhiều yếu tố đòi
hỏi các nhà quản lý phải biết cách phân tích và đánh giá đầy đủ và đúng các
yếu tố tác động mới có thể đưa ra được các quyết định phù hợp. Lý thuyết tổ
chức và phân tích môi trường trong đó tổ chức, doanh nghiệp tồn tại, vận
động và phát triển sẽ giúp cho nhà quản lý thấy được những điểm mạnh, điểm
yếu, những lợi thế, thách thức đe dọa đến tổ chức, doanh nghiệp. Đồng thời,
nó cũng chỉ ra được đâu là những yếu tố thuộc môi trường bên trong của tổ
chức, ở đó các nhà quản lý có thể tác động, ảnh hưởng đến; và đâu là những
yếu tố môi trường bên ngoài tác động đến tổ chức, tác động của các nhà quản
lý ít có đến các yếu tố đó, nhưng nó lại ảnh hưởng rất lớn đến tổ chức.

14
Nền hành chính nhà nước cũng tồn tại, vận động và phát triển trong
môi trường rất phức tạp, đa dạng. Tính phức tạp, đa dạng đó của môi trường
không chỉ thể hiện ở quy mô, mức độ tác động mà còn ở số lượng của yếu tố
tác động; thể hiện cả ở tính phức tạp, đa dạng của phương thức tác động của
các nhân tố đó đến sự vận động và phát triển của nền hành chính. Nhiều
phương thức tác động đến nền hành chính nhà nước đến từ bên ngoài khó có
thể lượng hóa.

Môi trường trong đó nền hành chính nhà nước tồn tại, vận động và
phát triển luôn biến đổi (môi trường động). Chính vì vậy những sự thay đổi,
điều chỉnh phương thức hoạt động quản lý nhà nước đặt ra như là một đòi hỏi
tất yếu.
Trong hoạt động quản lý, mỗi một phương thức quản lý chỉ thích ứng
trong môi trường cụ thể. Khi môi trường thay đổi, phương thức quản lý cũng
phải điều chỉnh, thay đổi. Sự thay đổi của môi trường trong đó nền hành chính
nhà nước tồn tại biểu hiện tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội (trong đó môi trường chính trị có ý nghĩa quan trọng).
Môi trường chính trị quốc tế đang có nhiều biến động phức tạp, không
dễ dàng có thể dự báo những xu thế đó. Vì vậy, các nhà quản lý nhà nước nói
chung và bộ máy hành chính nhà nước nói riêng vẫn đứng trước nhiều thách
thức của sự tác động này và nếu không nhận thức đúng nội hàm của các vấn
đề tác động đến nền hành chính nhà nước, sẽ không kịp đưa ra các biện pháp
để điều chỉnh, can thiệp cần thiết nhằm làm cho nền hành chính nhà nước
thích ứng với môi trường chính trị quốc tế đang diễn biến rất phức tạp như
hiện nay.
Môi trường kinh tế thế giới cũng đang tác động rất mạnh hoạt động
của bộ máy hành chính nhà nước của các quốc gia trên thế giới. Nếu như các
yếu tố thuộc ý thức hệ tác động đến hoạt động của nền hành chính nhà nước
có thể biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau và thông qua những hoạt

15
động "diễn biến hòa bình", khó nhận dạng, thì vấn đề kinh tế thế giới tác động
đến bộ máy nhà nước nói chung và nền hành chính nhà nước nói riêng có thể dễ
nhận dạng hơn và mức độ tác động của nó có thể rất mạnh và đo lường cụ thể.
Tính toàn cầu hóa và khu vực hóa về kinh tế cũng như các vấn đề
khác đã tạo ra những thách thức và đòi hỏi mới của chính phủ nhiều quốc gia
trong hoạt động quản lý. Đó không chỉ là sự quản lý nhằm phù hợp với đòi
hỏi chung của các quốc gia trong tổ chức cùng liên kết, ví dụ Việt Nam trở

thành thành viên chính thức ASEAN đòi hỏi nhà nước Việt Nam cần có một
sự thay đổi về mặt cơ cấu tổ chức; về đội ngũ cán bộ công chức hành chính
nhà nước cũng như các thủ tục, thông lệ nhằm làm cho nền hành chính nhà nước
Việt Nam thích ứng với môi trường hoạt động mới cũng đồng thời đáp ứng
đòi hỏi của sự hội nhập ASEAN cũng như trong tương lai của APEC, WTO.
Việt Nam gia nhập và trở thành thành viên chính thức của ASEAN từ
1995 đã làm cho mối quan hệ Việt Nam và các quốc gia Đông Nam Á có
những bước thay đổi quan trọng. Nhiều mối quan hệ mới được thiết lập do từ
sự nghi ngờ chuyển sang sự hợp tác. Nhiều vấn đề hợp tác được thiết lập,
nhiều tổ chức, cơ quan trong bộ máy hành chính nhà nước được tạo ra. Nhiều
vấn đề thuộc về thủ tục hành chính, thủ tục hải quan, phải được xem xét,
thay đổi nhằm phù hợp với xu thế hội nhập. Nếu như nền hành chính nhà
nước Việt Nam trước đây chỉ phục vụ xã hội, công dân Việt Nam thì trong xu
thế hội nhập khách hàng của nền hành chính Việt Nam đã mở rộng hơn, phức
tạp hơn và đa dạng hơn.
Sự thay đổi của môi trường chính trị, kinh tế, xã hội quốc gia, khu vực
và quốc tế đã làm cho nền hành chính nhà nước phải biến đổi theo cho phù hợp.
Tuy nhiên trong một thế giới đang thay đổi như hiện nay, sự phức tạp
của môi trường trong đó nền hành chính nhà nước tồn tại, vận động và phát
triển gia tăng và điều cần được quan tâm là mỗi một nước đều có những yếu
tố lợi thế so sánh rất khác nhau và do đó không thể có một cách tiếp cận

16
chung cho tất cả các nước. Trả lời cho câu hỏi: "cái gì nhà nước cần làm, phải
làm và nhà nước làm những việc đó ra sao?", tưởng như là câu hỏi mang tính
cổ điển của kinh tế, nhưng vẫn chưa dễ dàng đưa ra câu trả lời tốt nhất. Người
ta vẫn tiếp tục tranh luận với nhau về chức năng của nhà nước. Vấn đề về
những chức năng cơ bản, chức năng quan trọng cho đến những chức năng tích
cực nhằm giải quyết tốt hơn những khuyết tật của thị trường. Các chức năng
này cũng được khuyến cáo theo nhiều cấp độ khác nhau ở từng nước tùy

thuộc vào năng lực của nhà nước.
Câu hỏi làm như thế nào để đạt được hiệu quả cao nhất khi phải thực
hiện các chức năng đó đang đặt ra nhiều tranh cãi. Vấn đề điều tiết của nhà
nước đối với nền kinh tế thị trường được thừa nhận, ngày càng mở rộng
nhưng lại phức tạp hơn, vượt sang nhiều lĩnh vực như môi trường sinh thái,
thị trường tài chính, độc quyền. Vấn đề kết hợp giữa thị trường, xã hội công
dân và nhà nước trong việc cung cấp nhiều loại dịch vụ được quan tâm,
nhưng cũng hoàn toàn không giống nhau.
Chúng ta tiến hành cải cách nền hành chính nhà nước trong bối cảnh
nền kinh tế trong nước đang chuyển đổi rất mạnh từ nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung sang nền kinh tế thị trường, trong bối cảnh chính trị, kinh tế, xã hội
của khu vực, thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, kể cả những biến
động không được dự kiến của các tổ chức tài chính khu vực (ví dụ, khủng
hoảng tài chính Đông Nam Á hình như đã không được dự báo trước của cả
Quỹ tiền tệ quốc tế (MIF), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB).
Nhiều biện pháp cải cách hành chính nhà nước được tiến hành trong
khuôn khổ của 3 định hướng lớn đã được Hội nghị ban chấp hành trung ương
các lần gần đây nhất đề ra và được nhắc lại trong nhiều văn kiện khác: cải
cách thể chế hành chính; cải cách cơ cấu tổ chức bộ máy và cải cách vấn đề
con người trong bộ máy. Đó cũng là những hướng vĩ mô của cải cách nền
hành chính nhà nước của nhiều nước trên thế giới. Nhưng một vấn đề đặt ra

17
trong tiến trình cải cách nền hành chính nhà nước vẫn là những hoạt động cụ
thể của cải cách và hiệu quả của nó. Và điều đó chỉ có thể làm được trên cơ sở
phân tích một cách thực tế môi trường của các hoạt động cải cách được tiến
hành kể cả môi trường trong nước, môi trường khu vực và môi trường quốc
tế. Có thể nói, xét trên giác độ vĩ mô, nhiều hoạt động cải cách nền hành
chính thông qua việc hoàn thiện các thủ tục quản lý hành chính nhà nước (thủ
tục hành chính), việc ban hành các văn bản pháp luật quản lý nhà nước được

dư luận trong và ngoài nước hoan nghênh, xem đó là những bước cải cách
quan trọng ở nước ta. Nhiều kết quả của cải cách đã thấy rõ tác động tích cực
của nó đến sự vận động và phát triển kinh tế - xã hội. Nhưng cũng cần thấy
rằng hoạt động cải cách nền hành chính nhà nước thông qua việc hoàn thiện
hệ thống văn bản quản lý nhà nước phải được xác định trên cơ sở lợi ích quốc
gia trong khuôn khổ so sánh lợi thế của Việt Nam đối với các nước. Đồng
thời cũng phải vì lợi ích của các nhà sản xuất, người tiêu dùng. Đặc biệt trong
lĩnh vực quản lý kinh tế, các văn bản pháp luật phải vừa bảo vệ lợi ích của các
nhà sản xuất, đồng thời phải bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng trong khuôn
khổ của một thị trường không chỉ trong biên giới quốc gia mà là của cả khu
vực 10 nước ASEAN cũng như cả châu Á, khu vực APEC và cả thế giới. Các
nhà doanh nghiệp trong nước mong muốn được bảo vệ nhiều hơn bằng việc
tăng thuế nhập khẩu các loại hàng hóa được đưa vào Việt Nam cạnh tranh
lành mạnh với hàng hóa nội địa để hàng hóa nội địa được lợi về giá, dần dần
vươn lên. Trong khi đó người tiêu dùng lại ủng hộ hơn xu thế mở cửa theo
thông lệ ASEAN càng sớm càng tốt để họ có nhiều lựa chọn hơn, rẻ hơn (ví
dụ: mặt hàng xi măng là một điển hình; hay công nghiệp hàng điện tử). Trong
khi đó đối với các loại hàng hóa có khả năng xuất khẩu, các nhà sản xuất
mong muốn được giảm thuế, trợ cấp về thuế, để họ giành được thị trường.
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, nếu như không hội nhập, không đặt Việt
Nam vào trong môi trường hội nhập, và nếu các tổ chức kinh tế Việt Nam vẫn
mong muốn nhận được trợ cấp của nhà nước thông qua nhiều hình thức khác

18
nhau trong đó có bảo hộ mà không dựa vào nội lực của mình, tìm kiếm
phương thức sản xuất thích hợp (công nghệ, nhân công, nguyên liệu, ) sao
cho hiệu quả cao nhất thì nhất định không thể cạnh tranh được trên thị trường
khu vực và quốc tế. Vấn đề quan trọng đối với nhà nước là phải tạo ra được
một hành lang pháp lý vừa phù hợp với thông lệ khu vực, quốc tế, vừa phù
hợp với đặc trưng kinh tế - xã hội ở nước ta song phải rõ ràng, minh bạch,

bình đẳng, công khai. Có như vậy mới tạo cho các chủ thể kinh tế khác nhau
phát huy hết nội lực của mình một cách hiệu quả, trung thực. Sự tham gia của
xã hội công dân, của các nhóm, các tổ chức, hiệp hội những người sản xuất sẽ
có ý nghĩa rất quan trọng trong quyết định.
Trong nghị quyết của các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng
cộng sản Việt Nam từ khóa VIII đến nay, đặc biệt và trong Quyết định số
136/2001/QĐ-TTg ngày 17 tháng 9 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ về
việc quyết định phê duyệt tổng thể chương trình cải cách hành chính nhà nước
giai đoạn 2001-2010 đã nêu lên một số thực trạng và tồn tại của nền hành
chính nhà nước như:
- Chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của bộ máy hành chính trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa được xác định thật rõ và
phù hợp; sự phân công, phân cấp giữa các ngành và các cấp chưa thật rành mạch;
- Hệ thống thể chế hành chính chưa đồng bộ, còn chồng chéo và thiếu
thống nhất; thủ tục hành chính trên nhiều lĩnh vực còn rườm rà, phức tạp; trật
tự, kỷ cương chưa nghiêm;
- Tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc; phương thức quản lý
hành chính vừa tập trung quan liêu lại vừa phân tán, chưa thông suốt; chưa có
những cơ chế, chính sách tài chính thích hợp với hoạt động của các cơ quan
hành chính, đơn vị sự nghiệp, tổ chức làm dịch vụ công;
- Đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều điểm yếu về phẩm chất, tinh
thần trách nhiệm, năng lực chuyên môn, kỹ năng hành chính; phong cách làm

19
việc chậm đổi mới; tệ quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân tiếp tục
diễn ra nghiêm trọng trong một bộ phận cán bộ, công chức;
- Bộ máy hành chính ở các địa phương và cơ sở chưa thực sự gắn bó
với dân, không nắm chắc được những vấn đề nổi cộm trên địa bàn, lúng túng,
bị động khi xử lý các tình huống phức tạp.
Có thể thấy được từ những tồn tại hạn chế trên, đã dẫn đến người dân

chưa thể thực hiện được tốt quyền lợi chính đáng của mình. Vì vậy, yêu cầu
đặt ra cho Đảng và nhà nước ta là phải đổi mới nền hành chính, cải cách nền
hành chính để đảm bảo hiệu quản hoạt động cao nhất nhằm phục vụ đắc lực
nhân dân, đảm bảo quyền lợi cho nhân dân, đồng thời giữ vững kỷ cương,
phép nước, kỷ luật trong xã hội và trong bộ máy nhà nước.
1.2.2. Nội dung cải cách hành chính của nền hành chính Việt Nam
1.2.2.1.Cải cách thể chế
Thể chế ở đây được hiểu là toàn bộ các quy định của pháp luật về việc
xây dựng các thiết chế và tổ chức thực hiện chúng trong quá trình thực thi. Cụ
thể là:
- Xây dựng thể chế về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính
trước hết là tổ chức và hoạt động của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, các
cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp về thẩm quyền quản lý
nhà nước đối với doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp Nhà nước nói riêng
nhằm phân biệt rõ quyền của chủ sở hữu, quyền quản lý nhà nước với quyền tự
chủ kinh doanh của doanh nghiệp; về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa trong đó chú trọng về thị trường vốn và tiền tệ, thị trường chứng
khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ, thị trường lao
động và dịch vụ. Đồng thời xây dựng mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân
như: thu thập ý kiến của nhân dân trước khi quyết định các chủ trương, chính
sách quan trọng; trưng cầu dân ý; xử lý các hành vi trái pháp luật của các cơ

20
quan và cán bộ, công chức trong khi làm nhiệm vụ; thẩm quyền, trách nhiệm
của cơ quan hành chính và Tòa án trong việc giải quyết khiếu nại của nhân
dân. Đây cũng là nhiệm vụ to lớn nhằm xác định lại mối quan hệ quyền lực
giữa bộ máy hành chính với xã hội, doanh nghiệp và công dân.
- Đổi mới quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp
luật. Quy trình này ở nước ta từ trước đến nay còn nhiều bất cập, ảnh hưởng
trực tiếp đến việc thực thi pháp luật và hiệu quả của hệ thống pháp luật. Do

đó, việc cải cách thể chế cũng nhằm "bảo đảm cho các văn bản quy phạm
pháp luật có nội dung đúng đắn, nhất quán, khả thi". Cần tập trung vào các
nội dung sau đây:
+ Rà soát và hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật theo từng
lĩnh vực, loại bỏ những quy định pháp luật không còn hiệu lực hoặc chồng
chéo, trùng lặp. Phát huy hiệu quả của cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản quy
phạm pháp luật;
+ Tăng cường năng lực của các cơ quan hành chính nhà nước ở Trung
ương và địa phương trong việc xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp
luật. Khắc phục tình trạng luật, pháp lệnh "chờ" Nghị định và thông tư hướng
dẫn thi hành;
+ Khắc phục các biểu hiện thiếu khách quan cục bộ trong việc xây
dựng văn bản quy phạm pháp luật của các bộ, ngành chủ trì soạn thảo bằng
cách nghiên cứu, đổi mới phươg thức, quy trình xây dựng pháp luật từ khâu
bắt đầu soạn thảo đến khi đưa ra Chính phủ xem xét, quyết định hoặc thông
qua để trình Quốc hội theo hướng "cải tiến sự phối hợp giữa các ngành, các
cấp có liên quan, coi trọng sử dụng các chuyên gia liên ngành và dành vai trò
rất quan trọng cho tiếng nói của nhân dân, của doanh nghiệp";
+ Bảo đảm tính minh bạch, công khai của pháp luật, cần tổ chức tốt
việc lấy ý kiến của nhân dân, của những người là đối tượng điều chỉnh của
văn bản trước khi ban hành; đồng thời, các văn bản quy phạm pháp luật sau

21
khi ký ban hành hoặc có hiệu lực pháp luật phải được đăng Công báo hoặc yết
thị, đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng để công dân, các tổ chức
có điều kiện tìm hiểu và thực hiện.
- Bảo đảm việc thực thi pháp luật nghiêm chỉnh của các cơ quan nhà
nước, của cán bộ, công chức. Các văn bản pháp luật cụ thể hóa thẩm quyền
của mỗi một cơ quan, mỗi người trong bộ máy theo hướng "người nào việc
nấy" và trách nhiệm của cơ quan, cá nhân trước pháp luật.

Mặt khác, cần thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; chế độ cán bộ
chủ chốt của các ngành ở Trung ương và địa phương định kỳ trực tiếp gặp gỡ,
đối thoại giải quyết các vấn đề cho doanh nghiệp và nhân dân đặt ra; phát huy
hiệu lực của các thiết chế thanh tra, kiểm sát và tài phán để đảm bảo hiệu lực
quản lý nhà nước, giữ gìn kỷ cương xã hội; mở rộng dịch vụ tư vấn pháp luật
cho nhân dân, cho người nghèo, người thuộc diện chính sách và đồng bào dân
tộc ít người, vùng sâu, vùng xa. Tạo điều kiện cho hoạt động luật sư, hoạt
động bổ trợ tư pháp có hiệu quả.
- Cải cách thủ tục hành chính nhằm bảo đảm tính pháp lý, hiệu quả,
minh bạch và công bằng trong khi giải quyết công việc hành chính. Loại bỏ
những thủ tục hành chính rườm rà, chồng chéo dễ bị lợi dụng để tham nhũng,
gây khó khăn cho dân; xóa bỏ kịp thời những quy định không cần thiết về cấp
giấy phép và thanh tra, kiểm tra, kiểm soát, giám định; thống nhất và mẫu hóa
các loại giấy tờ về giải quyết các công việc liên quan đến sản xuất, kinh doanh
của công dân, doanh nghiệp; mở rộng thực hiện cơ chế "một cửa" trong việc
giải quyết các công việc của công dân, tổ chức với các cơ quan hành chính
các cấp; công khai các loại phí, lệ phí, lịch công tác tại trụ sở làm việc của các
cơ quan hành chính nhà nước.
1.2.2.2. Cải cách tổ chức bộ máy hành chính từ Trung ương đến địa phương
Hệ thống cơ quan hành chính từ Trung ương đến địa phương, đứng
đầu là Chính phủ - cơ quan hành chính nhà nước cao nhất cần được xác định

×