Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Cải cách thủ tục Hải quan - qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên - Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (781.75 KB, 94 trang )



2
MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ HẢI QUAN VÀ YÊU CẦU CẢI CÁCH
THỦ TỤC HẢI QUAN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 7
1.1- Khái niệm về Hải quan và thủ tục Hải quan 7
1.1.1- Khái quát chung về Hải quan. 7
1.1.2- Khái niệm thủ tục Hải quan 13
1.2 - Cải cách thủ tục Hải quan trong giai đoạn hiện nay 16
1.2.1- Cải cách thủ tục hành chính và và vai trò của cải cách thủ tục hành
chính trong quản lý Nhà nước 16
1.2.2 - Cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về Hải quan 17
1.2.3 - Những loại thủ tục Hải quan 20
1.3 - Nội dung của cải cách thủ tục Hải quan 21
1.3.1 Mục tiêu của cải cách thủ tục Hải quan 21
1.3.2 - Yêu cầu cải cách thủ tục Hải quan 23
1.3.3 - Kinh nghiệm của một số quốc gia về cải cách thủ tục Hải quan: 28
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC CẢI CÁCH
HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC HẢI QUAN 36
2.1- Thực trạng cải cách thủ tục Hải quan ở Việt Nam 36
2.1.1- Đánh giá chung 36
2.1.2- Cải tiến qui trình thủ tục Hải quan 37




3
2.1.3 - Cải cách trong nghiệp vụ Hải quan 48
2.2 - Cải cách thủ tục hành chính tại Cục Hải quan Thừa Thiên Huế từ năm
2008 đến nay 65
2.2.1 Cải cách về nghiệp vụ: 65
2.2.2 Triển khai thủ tục Hải quan điện tử 69
2.2.3 Triển khai toàn diện các quy định tại Nghị định số 63/2010/NĐ-CP về
kiểm soát thủ tục hành chính của Chính phủ. 73
2.2.4 Thực hiện dân chủ hóa công khai hóa thủ tục Hải quan: 74
2.2.5 Cải cách thủ tục về quản lý thuế và trị giá Hải quan: 75
2.2.6 Quan hệ hợp tác giữa cơ quan Hải quan và cộng đồng doanh nghiệp: 76
2.2.7 Nâng cao kỹ thuật nghiệp vụ: 77
2.3- Một số tồn tại, hạn chế, nguyên nhân 79
2.3.1- Tồn tại, hạn chế: 79
2.3.2 - Nguyên nhân: 80
2.3.3 - Bài học rút ra từ việc cải cách thủ tục Hải quan: 80
2.4 - Các giải pháp và tiếp tục cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực Hải
quan tại Cục Hải quan Thừa Thiên Huế 80
2.4.1- Về cải cách thể chế 80
2.4.2 - Về thủ tục Hải quan và chế độ quản lý Hải quan 81
2.4.3 - Về quản lý thuế 82
2.4.4 - Về kỹ thuật nghiệp vụ quản lý Hải quan 83
2.4.5 - Về tổ chức bộ máy, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực 84
2.4.6 - Các nội dung khác 85
KẾT LUẬN 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 88
PHỤ LỤC 90





4


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
APEC
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương
CHXHCN
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
EU
Châu Âu
NCKH
Nghiên cứu khoa học
NAFTA
Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ
TTHQĐT
Thủ tục hải quan điện tử
TTHC
Thủ tục hành chính
TCVN
Tiêu chuẩn Việt Nam
XNK
Xuất nhập khẩu
XHCN

Xã hội chủ nghĩa
WTO
Tổ chức Thương mại thế giới
WCO
Tổ chức Hải quan thế giới







1
MỞ ĐẦU

1- Tính cấp thiết của đề tài
Trong hơn một thập kỷ qua, toàn cầu hoá và các hiệp định tự do thương
mại đã làm cho kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá của mỗi quốc gia tăng lên
nhanh chóng. Bên cạnh việc hàng rào thuế quan được giảm dần theo lộ trình
cam kết thì việc xuất hiện các hình thức bảo hộ mới như hàng rào kỹ thuật, vệ
sinh an toàn, môi trường, chống bán phá giá, độc quyền đối với các nước
lớn ngày càng gia tăng và mâu thuẫn sâu sắc.
Sau sự kiện 11/9/2001 tại Mỹ, xuất hiện các nguy cơ về khủng bố quốc
tế, buôn lậu, vận chuyển trái phép các chất thải, chất độc gây nguy hiểm, các
chất ma tuý, vũ khí, rửa tiền dưới nhiều hình thức khác nhau dẫn đến nguy cơ
bất ổn cho nền kinh tế và gây bất an cho lợi ích của cộng đồng.
Những nhân tố đó có tác động sâu sắc đến hoạt động của cơ quan Hải
quan, và các cơ quan Hải quan trên thế giới phải có sự thay đổi để thích ứng
với tình hình mới, nhằm vừa tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho hoạt động
thương mại quốc tế, vừa đảm bảo việc chấp hành và tuân thủ các quy định của

của pháp luật Hải quan của mỗi nước
Với những nỗ lực không ngừng, Hải quan Việt Nam nói chung, Cục Hải
quan Thừa Thiên Huế nói riêng đã thực hiện các chương trình cải tiến quy
trình thủ tục Hải quan truyền thống và đã đạt được một số thành tựu nhất
định. Tuy nhiên, trước sự thay đổi sâu sắc của tình hình thế giới và trong
nước, đặc biệt sau khi Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO), các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá, phương tiện vận tải và
hành khách xuất nhập cảnh tăng lên nhanh chóng cùng với các hình thức
thương mại mới như các loại hình kinh doanh qua mạng, thương mại điện tử
Cũng theo đó, Việt Nam phải cam kết xóa bỏ những quy định hành chính ảnh


2
hưởng đến kinh tế thị trường dẫn đến công tác quản lý của ngành Hải quan
ngày càng nhiều thách thức và nặng nề hơn, đòi hỏi phải cải cách sâu rộng,
trong đó một chế độ thủ tục Hải quan đơn giản, minh bạch và hiện đại là một
yêu cầu cấp thiết.
Xuất phát từ những lý do và nhận thức về cải cách thủ tục Hải quan là
nội dung có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, tôi chọn đề tài: “Cải cách thủ tục
Hải quan - qua thực tiễn tại tỉnh Thừa Thiên Huế ” làm đề tài luận văn
thạc sỹ luật học.
2- Tình hình nghiên cứu
Với nhận thức hệ thống thủ tục Hải quan là xương sống của ngành Hải
quan, thủ tục Hải quan đơn giản, hài hoà, thống nhất và đạt chuẩn mực quốc
tế sẽ giúp cơ quan Hải quan thực hiện việc quản lý một cách hiệu quả, đồng
thời giúp cho cộng đồng doanh nghiệp xuất nhập khẩu thuận lợi trong hoạt
động sản xuất kinh doanh, tăng khả năng cạnh tranh trong việc chấp hành
pháp luật Hải quan. Theo hướng đó, Hải quan Việt Nam xác định trọng tâm
của của công tác cải cách thủ tục hành chính là cải cách thủ thủ tục Hải quan
theo hướng áp dụng phương pháp quản lý Hải quan hiện đại thông qua việc

nội luật hoá các chuẩn mực, thông lệ và cam kết quốc tế mà Việt Nam là
thành viên, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong thực hiện thủ tục
Hải quan.
Trong khoa học đã có một số công trình nghiên cứu có liên quan đến
cải cách thủ tục hải quan và một số lĩnh vực hoạt động của hải quan như:
- Luc De Wulf và José B. Sokol (2007), Sổ tay hiện đại hoá Hải quan,
NXB Lý luận chính trị
- Một số giải pháp ứng dụng thương mại điện tử vào các ngành doanh
nghiệp Việt Nam- Lê Đình Tứ - Luận văn Thạc sỹ 2000.
- Thực trạng và các giải pháp về thương mại điện tử cho các doanh
nghiệp Việt Nam – Công trình nghiên cứu khoa học 2000.


3
- Một số giải pháp đẩy mạnh quá trình hội nhập của Việt Nam với Hải
quan các nước – Đoàn Thị Hồng Vân – Công trình NCKH cấp Bộ năm 2001
- Những biện pháp cải cách và hiện đại hóa công tác quản lý hành chính
hải quan Việt Nam giai đoạn 2001-2006. Trần Đình Thọ - Luận văn Thạc sỹ 2001
- Một số giải pháp ứng dụng tin học vào quản lý hành chính ngành hải
quan giai đoạn 2002-2005. Nguyễn Hồng Sơn – Luận văn Thạc sỹ 2002
- Kiểm toán Hải quan – Công cụ chống gian lận thương mại. Mai Thị
Hoàng Minh – Công trình NCKH 2005
Tuy nhiên, những nghiên cứu, tư liệu này chỉ mới nêu ra một số ý
tưởng, chưa nghiên cứu tập trung hoặc chỉ đưa ra mô hình cải cách của một số
quốc gia có một số điều kiện chưa thực sự phù hợp với thực tiễn của Việt
Nam. Chính vì vậy, những nghiên cứu trong luận văn sẽ là những thông tin
được cập nhật mới đến thời điểm nghiên cứu. Đó là kết quả nghiên cứu, tổng
hợp, phân tích từ nhiều nguồn thông tin, tư liệu khác nhau, mang tính khoa
học và thực tiễn đáng tin cậy.
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận chung quản lý nhà nước

về hải quan, những quy định của WTO liên quan, đánh giá tình hình quản lý
nhà nước về hải quan ở Việt Nam trong thời gian qua, dự đoán những xu
hướng vận động liên quan ở Việt Nam trong thời gian tới từ đó đề ra những
giải pháp mang tính đồng bộ, lâu dài cho hoạt động cải cách thủ tục hải quan
ở Việt Nam nói chung và tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng trong thời gian tới
đáp ứng được xu thế phát triển trong điều kiện hội nhập ngày càng sâu rộng
vào nền kinh tế thế giới và khu vực.
3- Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là tìm ra những giải pháp, kiến nghị
nhằm hoàn thiện các thủ tục Hải quan để tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp trong hoạt động xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh và bảo đảm
yêu cầu quản lý.


4
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
(1) Phân tích thực trạng thủ tục hải quan nói chung và công tác cải cách
thủ tục Hải quan nói riêng của ngành Hải quan và tại Cục Hải quan Thừa
Thiên Huế, các ưu điểm, hạn chế hiện nay cũng như các nguyên nhân của các
ưu điểm và hạn chế đó.
(2) Đề xuất những giải pháp, kiến nghị để nâng cao hiệu quả công tác
cải cách thủ tục Hải quan trong giai đoạn hiện nay tại Cục Hải quan tỉnh Thừa
Thiên Huế.
4- Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Cải cách thủ tục Hải quan là đề tài tương đối rộng. Vì vậy, luận văn chỉ
tập trung vào những cải cách thủ tục hành chính tại Cục Hải quan tỉnh Thừa
Thiên Huế.
- Đối tượng nghiên cứu: Công tác cải cách thủ tục Hải quan qua thực
tiễn tại tỉnh Thừa Thiên Huế trong giai đoạn hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu:

+ Nghiên cứu cơ sở lý luận thủ tục Hải quan và cải cách thủ tục Hải
quan trong giai đoạn hiện nay.
+ Đánh giá và phân tích những thuận lợi, khó khăn, vướng mắc trong
công tác cải cách thủ tục Hải quan tại tỉnh Thừa Thiên Huế.
+ Đề xuất quan điểm đóng góp của tác giả về một số vấn đề trong thực
hiện cách thủ tục Hải quan tại tỉnh Thừa Thiên Huế.
5- Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng tổng hợp nhiều phương
pháp khác nhau. Đó là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác - Lênin; hệ thống hoá, phương pháp thống kê so sánh;
phương pháp phân tích các tình huống… qua đó phát hiện những vấn đề chưa
hoàn thiện trong thủ tục Hải quan tại Cục Hải quan tỉnh Thừa Thiên Huế và


5
đưa ra những khuyến nghị để tiếp tục cải cách thủ tục hành chính tại thủ tục
Hải quan tỉnh Thừa Thiên Huế
6- Điểm mới của luận văn:
Luận văn xác định trọng tâm của của công tác cải cách thủ tục hành
chính của ngành Hải quan là cải cách thủ thủ tục Hải quan theo hướng áp
dụng phương pháp quản lý Hải quan hiện đại thông qua việc nội luật hoá các
chuẩn mực, thông lệ và cam kết quốc tế, ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu của
công nghệ thông tin trong thực hiện thủ tục Hải quan với những điểm mới:
- Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động hải quan, từng bước
tiếp cận với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế, quy trình thủ tục Hải quan
được cải tiến theo hướng đơn giản, hài hoà, minh bạch, tạo lập cơ sở pháp lý
để Cục Hải quan Thừa Thiên Huế triển khai áp dụng nhiều quy định mới về
quản lý hải quan hiện đại, đặc biệt là triển khai thủ tục hải quan điện tử.
- Đổi mới phương pháp quản lý hải quan từ tiền kiểm sang hậu kiểm.
Thủ tục hải quan đã cơ bản được thực hiện đơn giản, hài hoà dựa trên phương

pháp quản lý rủi ro và áp dụng công nghệ thông tin song song với việc đẩy
mạnh áp dụng kiểm tra sau thông quan. Các quy trình thủ tục hải quan đã rõ ràng,
hiệu quả, phân định được trách nhiệm của từng khâu nghiệp vụ, từng công chức
thực hiện;
- Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng, nâng cấp
nhiều chương trình công nghệ thông tin ứng dụng phục vụ cho triển khai Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hải quan và Luật Thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu sửa đổi, Luật Quản lý thuế… và các văn bản pháp luật có liên quan.
- Nâng cao hiệu quả công tác thống kê Nhà nước về Hải quan, giúp các
Chính phủ và các cơ quan quản lý Nhà nước có được những số liệu chính xác
về tình hình kinh tế, nâng cao hiệu quả và tính xác thực trong việc điều hành
vĩ mô nền kinh tế.


6
- Kiện toàn tổ chức bộ máy, sắp xếp bố trí đội ngũ cán bộ công chức
Cục Hải quan tỉnh Thừa Thiên Huế để đáp ứng yêu cầu quản lý Hải quan hiện
đại dựa trên mô hình thủ tục Hải quan điện tử, hệ thống công nghệ thông tin
hiện đại, xử lý dữ liệu thông quan tập trung, áp dụng toàn diện kỹ thuật quản
lý rủi ro, sử dụng có hiệu quả các trang thiết bị kỹ thuật hiện đại. Xây dựng,
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công chức Hải quan nắm vững đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, có chuyên môn nghiệp vụ
chuyên nghiệp, chuyên sâu đáp ứng yêu cầu quản lý Hải quan hiện đại.
7- Kết cấu của luận văn:
Kết cấu của Luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục, nội dung của Luận văn gồm có 2 chương :
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ HẢI QUAN VÀ YÊU CẦU CẢI CÁCH
THỦ TỤC HẢI QUAN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC CẢI CÁCH
THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC HẢI QUAN



7
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ HẢI QUAN VÀ YÊU CẦU CẢI CÁCH THỦ TỤC
HẢI QUAN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1- Khái niệm về Hải quan và thủ tục Hải quan
1.1.1- Khái quát chung về Hải quan.
- Sự ra đời và phát triển của Hải quan Việt Nam.
“Hải quan” là cụm từ được phiên dịch từ chữ Hán, theo khái niệm này
Hải quan là cơ quan Nhà nước phụ trách việc kiểm tra, giám sát, kiểm soát
hàng hoá, vật phẩm và phương tiện vận tải được phép đưa vào, đưa ra khỏi
lãnh thổ quốc gia, và thu thuế quan các loại động sản này.
Xét về lịch sử phát triển, từ Hải quan có nguồn gốc từ từ “Douane” của
người Ai Cập ngay từ khi Nhà nước của quốc gia này hình thành - từ này có
nghĩa là “thu quốc gia”. Sau đó từ này được La tinh hoá, rồi Pháp cũng sử
dụng từ này. Còn Hi Lạp và Đức gọi là Zull cũng có nghĩa là “thu quốc gia”,
Anh và các nước nói tiếng Anh gọi là “Customs” - “tập quán”. Ban đầu, Hải
quan được thành lập với chức năng cơ bản là thu thuế đối với hàng hóa,
phương tiện và hành khách di chuyển qua biên giới quốc gia. Do chức năng
cơ bản này, hiện nay cơ quan Hải quan của nhiều nước trực thuộc Bộ Tài
chính.
Theo tập quán và thông lệ quốc tế, Hải quan là công cụ hành pháp mà
bất cứ một Nhà nước nào cũng đều phải tổ chức ra để bảo vệ lợi ích, chủ
quyền và an ninh quốc gia trong hoạt động đối ngoại và kinh tế đối ngoại.
Tuỳ theo tình hình chính trị, hoàn cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế - xã hội
và mối quan hệ quốc tế của mỗi nước, mỗi khu vực trong từng thời kỳ mà
chức năng nhiệm vụ, hình thức tổ chức, tên gọi, phạm vi địa bàn hoạt động, vị
trí trong hệ thống bộ máy Nhà nước có thể khác nhau, nhưng xét về tính chất
cơ bản, Hải quan các nước đều có vai trò quan trọng như nhau : Đó là binh



8
chủng đặc biệt gác cửa đất nước về kinh tế, gắn liền với hoạt động đối ngoại,
kinh tế đối ngoại và an ninh quốc gia.
Theo sử sách, hoạt động thuế quan của Việt Nam xuất hiện từ thời Lý
(thế kỷ XI) và trở thành một bộ phận hữu cơ của nền ngoại thương.
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, đến năm 1884 Pháp thiết
lập hệ thống thuế quan khá hoàn chỉnh từ Trung ương đến địa phương.
Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, lập nên nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa. Sự kiện này mở ra một trang sử mới cho đất nước Việt Nam
nói chung và cho ngành Hải quan nói riêng. Ngày 10/09/1945 Bộ trưởng Bộ
Nội vụ Võ Nguyên Giáp, thừa ủy quyền Chủ tịch Chính phủ lâm thời đã ký
sắc lệnh số 27- SL thành lập Sở Thuế quan và Thuế giám quản tiền thân của
ngành Hải quan, đánh dấu sự khởi đầu của Hải quan cách mạng Việt Nam.
Trải qua từng giai đoạn cách mạng, ngành Hải quan đã không ngừng
phát triển, đảm bảo đáp ứng yêu cầu các nhiệm vụ quản lý, phục vụ đắc lực
cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Ngay sau khi thành lập, Hải quan Việt Nam đã tổ chức kiểm soát chặt
chẽ hàng hóa xuất nhập khẩu, đấu tranh chống buôn lậu giữa vùng tự do với
vùng bị tạm chiến và phối hợp với các lực lượng khác thực hiện chủ trương
chống bao vây kinh tế của địch, bảo vệ chủ quyền thuế quan của Nhà nước,
tạo nguồn thu cho ngân sách quốc gia.
- Hải quan Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và
đấu tranh thống nhất đất nước.
Nhiệm vụ của ngành Hải quan là cùng với cả nước xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc, đấu tranh chống đế quốc Mỹ giải phóng Miền Nam thống
nhất đất nước. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, tháng 10 năm 1954 Hội
đồng Chính phủ đã quyết định giao Bộ Công Thương quản lý hoạt động ngoại
thương và thành lập Sở Hải quan thuộc Bộ Công Thương.



9
Ngày 27/2/1960, Chính phủ ban hành Nghị định 03/CP ban hành điều lệ
Hải quan, đây là văn bản pháp quy tương đối hòan chỉnh đầu tiên về các luật
lệ, thủ tục Hải quan, được Nhà nước công bố và xác định lực lượng Hải quan
là “công cụ” đảm bảo thực hiện đúng chế độ Nhà nước độc quyền ngoại
thương, ngoại hối, thi hành chính sách thuế quan, tiếp nhận hàng viện trợ và
chống buôn lậu qua biên giới.
Đến năm 1962, Bộ Ngoại thương ban hành quyết định số 490 BNgT-QĐ
ngày 17/6/1962 đổi tên Sở Hải quan thành Cục Hải quan Trung ương trực
thuộc Bộ Ngoại Thương.
Sau giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước, hệ thống Hải quan triển
khai hoạt động trên địa bàn cả nước. Do yêu cầu quản lý toàn diện, tập trung
thống nhất về công tác Hải quan, Chính phủ đã có Chỉ thị số 80/CT ngày
5/3/1979 quyết định chuyển tổ chức Hải quan ở các địa phương trực thuộc
UBND Tỉnh, Thành phố sang trực thuộc Cục Hải quan Trung ương.
Ngày 30/8/1984 Hội đồng Nhà nước đã có Nghị quyết số
547/NQ/HĐNN phê chuẩn việc thành lập Tổng cục Hải quan trực thuộc Hội
đồng Bộ trưởng. Sau đó, ngày 20/10/1984 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị
định số 139/HĐBT quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của
Tổng cục Hải quan. Theo đó, Ngành Hải quan được xác định là “công cụ
chuyên chính nửa vũ trang của Đảng và Nhà nước”. Đến năm 1990, Hội đồng
Nhà nước thông qua pháp lệnh Hải quan đánh dấu bước phát triển mới của
ngành Hải quan.
Kế thừa những thành tựu và kinh nghiệm thực tiễn trong công tác quản
lý Nhà nước về Hải quan qua những năm thực hiện pháp lệnh Hải quan, xuất
phát từ những yêu cầu khách quan của sự nghiệp đổi mới, của tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế và các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, tham gia.
Ngày 29/6/2001 tại kỳ họp thứ 9 Quốc Hội khóa X đã thông qua Luật Hải



10
quan và ngày 12/7/2001 Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đã ký Lệnh số 09/2001/L/CTN công bố Luật Hải quan. Sự ra đời của Luật Hải
quan năm 2001 đã đánh dấu “một định hướng lớn” trong chính sách quản lý
Nhà nước về Hải quan và là một bước ngoặc khẳng định sự trưởng thành và
lớn mạnh của Hải quan Việt Nam. Xuyên suốt hơn nửa thế kỷ, lần đầu tiên
hoạt động quản lý Hải quan được ghi nhận trong một văn bản pháp luật có
cấp độ pháp lý chỉ đứng sau Hiến pháp – đạo luật cơ bản cao nhất Việt Nam.
Trước tác động của yêu cầu hội nhập quốc tế, yêu cầu đặt ra là phải hội
nhập tối đa các chuẩn mực quốc tế có liên quan đến Hải quan trên cơ sở phù
hợp với điều kiện, tình hình và mục tiêu hướng tới của Việt Nam. Mặc khác,
do yêu cầu của cải cách hành chính cũng như yêu cầu thay đổi mạnh về
phương thức quản lý và những vấn đề mới phát sinh, ngày 25/5/2005 Quốc
hội Khóa XI, kỳ họp thứ 7 đã thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của
Luật Hải quan. Hệ thống pháp luật về thủ tục Hải quan được từng bước điều
chỉnh, sửa đổi, bổ sung, thay thế theo hướng đơn giản, minh bạch, công khai,
thuận tiện và thống nhất, tạo cơ sở pháp lý cho việc từng bước triển khai hiện
đại hóa thủ tục Hải quan và quản lý Hải quan.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và định hướng phát triển kinh
tế của nước ta, ngành Hải quan đứng trước những nhiệm vụ ngày càng nặng
nề và phức tạp hơn, để đáp ứng nhu cầu phát triển của ngành và tạo điều kiện
phối hợp dễ dàng hơn với các cơ quan Nhà nước có liên quan, và theo yêu cầu
của quá trình cải cách hành chính Nhà nước và để thực hiện cải cách bộ máy
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 113/2002/QĐ-TTg ngày
10/9/2002 về việc chuyển Tổng cục Hải quan vào Bộ Tài chính cho đến nay.
- Chức năng, nhiệm vụ của Hải quan Việt Nam
Chức năng, nhiệm vụ truyền thống của Hải quan là bảo vệ chủ quyền an
ninh kinh tế của quốc gia. Mục tiêu tổng quát của chức năng nhiệm vụ này là



11
đảm bảo việc bảo vệ và tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế đất nước.
Chức năng của Hải quan trong xã hội thể hiện qua những mục tiêu mà Hải
quan nhằm đạt được thông qua các hoạt động của mình. Những mục tiêu này
thay đổi tuỳ theo hình thái ý thức xã hội và mô hình phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia.
Hải quan Việt Nam qua các thời kỳ phát triển của mình có những chức
năng cụ thể khác nhau. Theo nghị định 139/HĐBT ngày 20/10/1984, ngành
Hải quan có chức năng: kiểm tra, quản lý hàng hoá, hành lý, ngoại hối và các
công cụ vận tải xuất nhập khẩu qua biên giới nước CHXHCN Việt Nam, thi
hành chính sách thuế nhập khẩu, ngăn ngừa, chống các hành vi vi phạm luật
lệ Hải quan và các luật lệ khác liên quan đến xuất nhập khẩu, chống các hoạt
động buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới, nhằm
đảm bảo đúng đắn chính sách Nhà nước độc quyền về ngoại thương, ngoại
hối, góp phần bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội, phục vụ công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
Sau đó, Pháp lệnh Hải quan quy định chức năng Hải quan Việt Nam là
thực hiện “quản lý Nhà nước bằng Hải quan đối với hoạt động xuất khẩu,
nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, mượn đường Việt Nam; đấu tranh
chống buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, ngoại hối và tiền Việt Nam
qua biên giới”
Việc xác định chức năng của Hải quan Việt Nam nói trên là xuất phát từ
yêu cầu khách quan của đất nước và trên cơ sở những điều ước quốc tế mà
Việt Nam ký kết hoặc tham gia, để góp phần “bảo đảm thực hiện chính sách
của Nhà nước về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học và công nghệ;
hợp tác và giao lưu quốc tế; bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia, lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân;” (Luật Hải
quan 2001)



12
Như vậy, Hải quan Việt Nam có hai chức năng cơ bản là chức năng quản
lý Nhà nước về Hải quan và chức năng chống buôn lậu hoặc vận chuyển trái
phép hàng hóa qua biên giới.
Chức năng “quản lý Nhà nước về Hải quan” đối với hoạt động xuất
khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh Việt Nam là nói đến cơ quan
Hải quan sử dụng quyền lực Nhà nước được thể chế hóa thành các quy phạm
pháp luật để điều chỉnh hoạt động của các chủ thể khi tham gia vào các quan
hệ pháp luật Hải quan, tức là các hành vi của tổ chức và cá nhân thực hiện
việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa, vật phẩm và xuất cảnh, nhập cảnh, quá
cảnh phương tiện vận tải ra, vào lãnh thổ Việt Nam, áp dụng các nghiệp vụ
Hải quan nhằm bảo vệ lợi ích, chủ quyền và an ninh quốc gia của Việt Nam.
Chức năng “đấu tranh chống buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng
hóa qua biên giới” là việc cơ quan Hải quan sử dụng quyền lực Nhà nước,
được xác định theo pháp luật, như trong điều 97, Bộ luật hình sự, điều 93 Bộ
luật tố tụng hình sự, chương 4 Luật Hải quan về khởi tố, điều tra ban đầu
đối với hai tội xâm phạm an ninh đối nội đối ngoại của Việt Nam là tội buôn
lậu và tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới. Theo điều 4 Luật Hải
quan thì hàng hóa bao gồm hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh; hành lý,
ngoại hối, tiền Việt nam của người xuất cảnh, nhập cảnh; vật dụng trên
phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh; kim khí quí, đá quí, cổ
vật, văn hóa phẩm, bưu phẩm, các tài sản khác xuất khẩu, nhập khẩu, quá
cảnh hoặc lưu giữ trong địa bàn hoạt động Hải quan.
Hai chức năng này là hai mặt của vấn đề thuộc quyền lực Nhà nước về
Hải quan để bảo vệ lợi ích, chủ quyền và an ninh quốc gia trong hoạt động đối
ngoại và kinh tế đối ngoại. Do đó, hai chức năng này có mối quan hệ tương
hỗ và tạo nên sức mạnh tổng hợp thuộc quyền lực của Hải quan Việt Nam,
được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.



13
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Hải quan Việt Nam
Điều 11 - Luật Hải quan quy định rõ: “Hải quan Việt Nam có nhiệm vụ
thực hiện kiểm tra, giám sát hàng hoá, phương tiện vận tải; phòng, chống
buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới; tổ chức thực hiện pháp
luật về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; thống kê hàng hoá
xuất khẩu, nhập khẩu, kiến nghị chủ trương, biện pháp quản lý Nhà nước về
Hải quan đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá
cảnh và chính sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu nhập khẩu”.
Với những nhiệm vụ trên, Hải quan là người trực tiếp thực hiện các quy
định đối với các đối tượng chịu sự quản lý Hải quan, bao gồm các quy phạm
pháp luật do cơ quan Hải quan và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác
ban hành nghĩa là thực hiện cả “Luật nội dung” và “Luật hình thức”, nếu các
đối tượng đó không làm đúng các quy định của Nhà nước thì Hải quan có quyền
không cho các đối tượng đó xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh.
Những nhiệm vụ này vừa mang tính kinh tế vừa mang tính chính trị,
nhằm bảo vệ nền sản xuất trong nước và giữ gìn an ninh xã hội. Hoạt động
xuất nhập khẩu càng phát triển thì các vi phạm về quản lý Nhà nước về Hải
quan cũng có dấu hiệu tăng nhanh.Vì vậy nhiệm vụ này ngày càng mang tính
phức tạp, khó khăn hơn, đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng của cơ quan Hải
quan, đặc biệt là cấp thừa hành.
1.1.2- Khái niệm thủ tục Hải quan
- Khái niệm chung về hành chính Hải quan
Hải quan là công cụ quan trọng của mỗi quốc gia, nằm trong hệ thống
bộ máy hành pháp của Nhà nước, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về
Hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, phương tiện vận tải xuất
cảnh, nhập cảnh, quá cảnh. Vì vậy, Hải quan là một bộ phận của nền hành
chính quốc gia, bao gồm hệ thống thực thi quyền hành pháp, là công cụ của



14
hành pháp, quản lý một lĩnh vực xã hội - lĩnh vực Hải quan, trên cơ sở thực
hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về Hải quan.
Hành chính Hải quan được thể hiện trên các phương diện:
+ Thể chế hành chính Hải quan mà nội dung của nó là hệ thống quy
phạm pháp luật Hải quan về chính sách, chế độ, thủ tục, quy chế, quy trình
nghiệp vụ Hải quan đối với các đối tượng quản lý Nhà nước về Hải quan (là
hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập
cảnh, quá cảnh Việt Nam). Đó chính là đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước về đối ngoại, kinh tế đối ngoại và an ninh quốc gia được
thể chế hóa nhằm đảm bảo thực hiện quyền lực quản lý Nhà nước trong lĩnh
vực Hải quan, thông qua công cụ hành pháp là lực lượng Hải quan. Mặt khác,
công tác Hải quan vừa tuân thủ pháp luật quốc gia, vừa tuân theo các điều ước
quốc tế liên quan và các thông lệ, tập quán quốc tế về Hải quan, mà Việt Nam
đã ký kết hoặc tham gia.Vì vậy, thể chế hành chính Hải quan còn bao hàm
việc thể chế hóa những điều ước, thông lệ và tập quán quốc tế về Hải quan
trong thủ tục Hải quan và các chế độ Hải quan như vấn đề ưu đãi Hải quan, về
các biện pháp phối hợp và phòng ngừa trong công tác quản lý về các hoạt
động giao thương giữa các nước
+ Hệ thống thiết chế bộ máy Hải quan được tổ chức từ trung ương đến
cơ sở. Hệ thống thiết chế này tương ứng với chức năng, nhiệm vụ và quyền
hạn được giao, đồng thời phải có đủ thực quyền để đảm bảo cho chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn của Hải quan được thực hiện có hiệu lực, hiệu quả
trong phục vụ, quản lý, thực thi quyền hành pháp của công cụ hành pháp Nhà
nước. Nói cách khác, hệ thống thiết chế bộ máy Hải quan phải phù hợp với hệ
thống thể chế hành chính Hải quan. Chỉ có như vậy, hệ thống thiết chế bộ
máy Hải quan mới phát huy được hiệu lực quản lý Nhà nước về Hải quan.
+ Hệ thống nhân sự Hải quan gồm đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và

đội ngũ công chức Hải quan. Hệ thống này thuộc yếu tố con người, gắn liền


15
với hệ thống công sở đặt dưới quyền quản lý của thủ trưởng cơ quan Hải quan
các cấp, có ý nghĩa quyết định đến việc thực thi quyền hành pháp trong lĩnh
vực quản lý Nhà nước về Hải quan, hiệu lực, hiệu quả của quyền lực quản lý.
Ở nước ta, hệ thống hành chính Hải quan bao gồm từ hệ thống thể chế
hành chính, đến hệ thống thiết chế bộ máy và hệ thống nhân sự, là công cụ
đắc lực bảo vệ cho đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
Nghị quyết của Quốc hội và hệ thống văn bản pháp quy của Chính phủ về
phát triển kinh tế- xã hội nói chung, về đối ngoại, kinh tế đối ngoại và an ninh
quốc gia nói riêng, được thực hiện nhằm đem lại lợi ích cho đất nước và cho
nhân dân, đóng góp ngày càng quan trọng trong việc đem lại lợi ích cho cả
cộng đồng quốc tế.
- Khái niệm thủ tục Hải quan
Trước hết, như đã nêu ở trên, thủ tục Hải quan là một bộ phận của hành
chính Hải quan, chịu sự chi phối của các bộ phận thuộc hành chính Hải quan,
cụ thể là: hệ thống văn bản pháp quy điều chỉnh trực tiếp và có liên quan, hệ
thống cơ cấu tổ chức bộ máy Hải quan và đội ngũ nhân sự Hải quan.
Khoản 6, điều 4 - Luật Hải quan nêu rõ: “Thủ tục Hải quan là các công
việc mà người khai Hải quan và công chức Hải quan phải thực hiện theo quy
định của Luật này đối với hàng hóa, phương tiện vận tải”.
Thủ tục Hải quan là một bộ phận của nghiệp vụ Hải quan nhằm thực
hiện chức năng quản lý Nhà nước về Hải quan. Thủ tục Hải quan cụ thể hóa,
chi tiết hóa những yêu cầu đề ra cho các đối tượng chịu sự quản lý Nhà nước
về Hải quan. Các đối tượng đó chỉ được thông quan khi đã hoàn thành thủ tục
Hải quan. Thể lệ thủ tục Hải quan được đặt ra vừa có tính chất hướng dẫn,
vừa có tính chất bắt buộc phải thi hành đối với các cá nhân, tổ chức tiến hành
các hoạt động xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh.

Do thủ tục Hải quan là một bộ phận của hành chính Hải quan, chịu sự
chi phối của các quy phạm pháp luật Hải quan và được thực hiện bởi hệ thống


16
nhân sự Hải quan tổ chức theo cơ cấu nhất định do Nhà nước đặt ra, nên việc
thực hiện chức năng quản lý Hải quan thông qua thủ tục Hải quan phụ thuộc
vào ba yếu tố: hệ thống văn bản pháp luật quy định, điều chỉnh và có liên
quan đến thủ tục Hải quan, cơ cấu tổ chức bộ máy Hải quan, đội ngũ nhân sự
Hải quan.
1.2- Cải cách thủ tục Hải quan trong giai đoạn hiện nay
1.2.1- Cải cách thủ tục hành chính và và vai trò của cải cách thủ tục
hành chính trong quản lý Nhà nước
Quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam bắt đầu từ năm 1979 với tính
cách là một đáp ứng sách lược trước những khó khăn kinh tế do nền kinh tế
bao cấp và sự giảm viện trợ của nước ngoài gây ra. Trong suốt thập niên 80
của thế kỷ XX, Nhà nước đã có những biện pháp cải cách khác nhau, nhưng
đã không đạt được nhiều thành công ở tầm vĩ mô, nền kinh tế vẫn ở trong tình
trạng mất ổn định và khủng hoảng kinh tế- xã hội. Nền kinh tế bao cấp, kế
hoạch hóa tập trung không tôn trọng quy luật cung cầu và các quy luật khách
quan khác trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, cùng với sự trì trệ trong công tác tổ
chức, cán bộ đã kìm hãm lực lượng sản xuất, triệt tiêu nhiều động lực phát
triển. Một bộ máy hành chính bộc lộ nhiều khuyết tật như: cồng kềnh, rườm
rà, nhiều trung gian, chồng chéo, hoạt động kém hiệu quả, quan liêu, lãng phí,
chế độ công vụ lạc hậu, thêm vào đó cơ chế xin- cho tồn tại trong thời gian
dài, và hệ thống pháp luật chưa đầy đủ đồng bộ; tất cả những điều đó đã hạn
chế sự phát triển và cản trở thành công trong những cải cách của đất nước ta.
Đứng trước thực tiễn đó, đại hội VI của Đảng năm 1986 đã khởi xướng
công cuộc đổi mới đất nước, chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang
kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, song song với quá trình này nền

hành chính quốc gia cũng buộc phải có nhiều đổi mới, cải cách thủ tục hành
chính Nhà nước đã đặt ra như một đòi hỏi khách quan của thực tiễn, của quy
luật phù hợp giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng. Cải cách thủ tục


17
hành chính có tác động to lớn đối với việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Thông qua việc cải cách thủ tục hành chính sẽ gỡ bỏ những rào cản về thủ tục
hành chính đối với môi trường kinh doanh và đời sống của người dân, giúp
cắt giảm chi phí và rủi ro của người dân và doanh nghiệp trong việc thực hiện
thủ tục hành chính. Thực tế cho thấy, sau khi tất cả các giải pháp đơn giản hóa
thủ tục hành chính được thông qua sẽ cắt giảm tối đa chi phí tuân thủ thủ tục
hành chính mà xã hội phải gánh chịu, chi phí tiết kiệm được sẽ được tái phân
bổ vào các hoạt động phục vụ việc đầu tư, tạo việc làm, qua đó góp phần thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội.
Ở Việt Nam, đồng thời với việc đổi mới về kinh tế thì cải cách hành
chính cũng được tiến hành. Cuộc cải cách hành chính được thực hiện từng
bước thận trọng và đã thu được nhiều kết quả rất đáng khích lệ. Công tác cải
cách hành chính là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, là
trọng tâm của việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, nhằm bảo đảm thực hiện dân chủ hoá đời sống chính trị của xã hội, giữ
vững và phát huy bản chất tốt đẹp của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Nhà nước, trong giám sát hoạt động của
bộ máy Nhà nước và hoạt động của cán bộ, công chức.
1.2.2- Cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản lý Nhà nước
về Hải quan
Thủ tục hành chính là sự thiết lập các thao tác quản lý của Nhà nước
theo những trình tự, qui trình nhất định của cơ quan hành chính Nhà nước đáp
ứng những loại dịch vụ hành chính khác nhau mà người dân cần tới sự cung
cấp một cách tốt nhất (dễ dàng, đơn giản và đem lại sự hài lòng của người

dân). Nói cách khác, thủ tục hành chính là cách mà cơ quan công quyền phục
vụ người dân từ trách nhiệm nhân dân giao cho họ.
Thủ tục Hải quan cũng là một loại thủ tục hành chính, do đó cải cách
thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về Hải quan giải quyết


18
mâu thuẫn giữa sự tăng lên nhanh chóng về khối lượng hàng hoá xuất nhập
khẩu, phương tiện vận tải xuất nhập cảnh với nguồn nhân lực hiện có của
ngành Hải quan, tương thích sự phát triển của Hải quan các nước trong khu
vực và trên thế giới trong thời kỳ hội nhập
Cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về Hải
quan nhằm nâng cao năng lực quản lý và chất lượng phục vụ của cơ quan Hải
quan, bên cạnh việc giải quyết các mâu thuẫn trong quá trình tác nghiệp của
ngành Hải quan với sự gia tăng nhanh và không ngừng của khối lượng hàng
hoá xuất nhập khẩu, phương tiện vận tải và người xuất nhập cảnh, sự đa dạng
hoạt động giao lưu thương mại quốc tế, thông qua việc cải cách thủ tục hành
chính Hải quan cũng sẽ tạo thuận lợi, thông thoáng hơn cho hoạt động xuất
nhập khẩu, đầu tư, du lịch, góp phần nâng cao nâng cao vị thế của ngành Hải
quan cũng như nâng cao năng lực cạnh tranh của cộng đồng doanh nghiệp.
Thực tiễn qua hơn 7 năm thực hiện cải cách, phát triển và hiện đại hoá
ngành Hải quan qua các giai đoạn 2004-2006 với Kế hoạch được ban hành
theo Quyết định 810/QĐ-BTC ngày 16/4/2004 của Bộ Tài chính và giai đoạn
2008-2010 với Kế hoạch được ban hành theo Quyết định 456/QĐ-BTC ngày
16/3/2008 của Bộ Tài chính đã cho thấy hiệu quả của công tác cải cách thủ
tục hành chính trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về Hải quan trên phạm vi cả
nước, đặc biệt là một số chỉ tiêu chủ yếu sau:
- Quy trình thủ tục Hải quan đã từng bước được cải tiến theo hướng
đơn giản, hài hoà, minh bạch, vừa đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước về Hải
quan, vừa đảm bảo tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thương mại. Được

sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ ngành Hải quan đã triển khai thủ tục Hải
quan điện tử. Hải quan điện tử đã đạt được một số thành công bước đầu, giảm
đáng kể thời gian xử lý hồ sơ Hải quan (từ 7 - 8 giờ xuống còn 10 - 15 phút)
và không yêu cầu nộp các loại giấy tờ ngay cho cơ quan Hải quan. Bắt đầu


19
chuyển đổi phương thức quản lý Hải quan hiện đại từ quản lý theo từng giao
dịch sang quản lý theo doanh nghiệp, từ xử lý trên giấy tờ sang xử lý trên dữ
liệu điện tử; hình thành đội ngũ cán bộ làm việc trong môi trường mới. Doanh
nghiệp đã từng bước được hỗ trợ làm quen với thủ tục Hải quan điện tử và
hướng dẫn kịp thời những vướng mắc ngay tại đơn vị hoặc trên mạng.
- Số thu vào ngân sách Nhà nước hàng năm của Ngành đều vượt so với
chỉ tiêu kế hoạch được giao. Hiện đại hoá công tác theo dõi, quản lý thu nộp
thuế, nâng cao tính tuân thủ của người nộp thuế trong việc thực hiện pháp luật
về thuế.
- Góp phần hiệu quả vào việc bảo vệ an ninh quốc gia, an toàn sức khoẻ
cộng đồng, chống thất thu thuế, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, đảm
bảo thực hiện tuân thủ chính sách Nhà nước đối với các hoạt động xuất nhập
khẩu, xuất nhập cảnh.
- Thực hiện kết nối trao đổi dữ liệu điện tử với các các đơn vị thuộc Bộ
Tài chính: Hải quan, Thuế, Kho bạc… và phối hợp thu ngân sách Nhà nước
qua Ngân hàng thương mại, phù hợp với tiến trình hiện đại hoá của ngành Hải
quan, tạo thuận lợi trong việc cải cách thủ tục Hải quan.
- Hoàn chỉnh quy hoạch mạng lưới Hải quan làm cơ sở cho việc điều
chỉnh, sắp xếp lại tổ chức bộ máy theo yêu cầu của các quy trình thủ tục mới
và quản lý Hải quan hiện đại. Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức Hải quan
chuyên nghiệp, hiện đại và hoạt động có hiệu quả.
- Đã tiến hành rà sát, thống kê, hệ thống hoá, công khai hoá Bộ thủ tục
hành chính trong lĩnh vực Hải quan. Kiến nghị bãi bỏ các thủ tục không cần

thiết, ghép các thủ tục Hải quan thực hiện bằng phương thức điện tử và
phương thức thủ công có chung bản chất thành một thủ tục.
- Xây dựng và sử dụng có hiệu quả chương trình quản lý và xử lý văn
bản trên mạng (Net.office) tại Tổng cục và tiến hành nối mạng xuống các Cục


20
Hải quan tỉnh, thành phố góp phần đẩy mạnh công tác cải cách hành chính
trong hoạt động chỉ đạo hàng ngày của Tổng cục xuống các đơn vị trực thuộc.
1.2.3- Những loại thủ tục Hải quan
Để phù hợp với xu thế đa dạng hoá, đa phương hoá các mối quan hệ
kinh tế, thương mại, thủ tục Hải quan hiện nay cũng liên tục được bổ sung,
thay đổi cho phủ hợp. Tuy nhiên, đối tượng quản lý của cơ quan Hải quan là
hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh và phương tiện vận tải xuất cảnh,
nhập cảnh, quá cảnh. Do đó, tất cả các loại thủ tục Hải quan cũng chỉ tập
trung vào 2 đối tượng này, có thể liệt kê một số loại thủ tục Hải quan như sau:
* Đối với hàng hoá:
- Thủ tục Hải quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu thương mại
- Thủ tục Hải quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu đầu tư, tạo tài sản
cố định.
- Thủ tục Hải quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu theo hình thức gia công.
- Thủ tục Hải quan đối với hàng hoá tạm xuất - tái nhập, tạm nhập - tái xuất
- Thủ tục Hải quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu chuyển cửa khẩu
- Thủ tục Hải quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu tại chỗ
- Thủ tục Hải quan đối với hàng hoá nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu.
- Thủ tục Hải quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu phi mậu dịch
- Thủ tục Hải quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu ra vào kho ngoại
quan, kho bảo thuế
- Thủ tục Hải quan đối với hàng hoá quá cảnh
* Đối với phương tiện vận tải

- Thủ tục Hải quan đối với phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh
(đường bộ, đường biển, đường không).
- Thủ tục Hải quan đối với phương tiện vận tải quá cảnh (đường bộ).
- Thủ tục Hải quan đối với phương tiện vận tải chuyển cảng (đường biển)


21
1.3- Nội dung của cải cách thủ tục Hải quan
1.3.1 Mục tiêu của cải cách thủ tục Hải quan
Như đã đề cập ở trên, cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản
lý Nhà nước về Hải quan nhằm nâng cao năng lực quản lý và chất lượng phục
vụ của cơ quan Hải quan, bên cạnh việc giải quyết các mâu thuẫn trong quá
trình tác nghiệp của ngành Hải quan với sự gia tăng không ngừng của khối
lượng hàng hoá xuất nhập khẩu, phương tiện vận tải và người xuất nhập cảnh,
sự đa dạng hoạt động thương mại quốc tế, giúp cho nền kinh tế Việt Nam hội
nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới.
Đồng thời, thông qua việc cải cách thủ tục Hải quan cũng sẽ tạo thuận
lợi, thông thoáng hơn cho hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư, du lịch, góp phần
nâng cao nâng cao vị thế của ngành Hải quan cũng như nâng cao năng lực
cạnh tranh của cộng đồng doanh nghiệp.
Việt Nam đang nỗ lực triển khai nền ngoại thương và hoạt động đầu tư
nước ngoài với cùng phương thức như nhiều nước khác, thị trường mang đặc
tính cạnh tranh và đối tượng tham gia hoạt động trên thị trường sẽ lựa chọn
nơi thực hiện hoạt động kinh doanh, tại những địa điểm có điều kiện tốt nhất
cho kinh doanh. Vì vậy, mục tiêu của cơ quan Hải quan là phải hướng tới
giảm thiểu chi phí hành chính của công tác Hải quan và giảm cả gánh nặng
chi phí đối với doanh nghiệp và công chúng trong việc chấp hành thủ tục Hải
quan. Điều đó có nghĩa là Hải quan phải trở thành một tổ chức hiện đại có khả
năng thực hiện tốt chức năng quản lý của mình, đồng thời phục vụ tốt các nhu
cầu hợp pháp của doanh nghiệp và công chúng.

Đối với nghiệp vụ Hải quan, thì cải cách thủ tục hành chính trọng tâm
là cải cách thủ tục Hải quan bởi lẽ:
- Cải cách thủ tục Hải quan thực chất là làm đơn giản hóa, công khai
hóa và từng bước hiện đại hóa công tác Hải quan. Quá trình này sẽ tạo ra môi


22
trường thông thoáng cho hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư, du lịch đáp ứng
yêu cầu chính sách mở cửa kinh tế của đất nước; ngăn chặn, hạn chế quan liêu
cửa quyền, phiền hà, sách nhiễu, tiêu cực của cán bộ công chức Hải quan
trong thực thi công vụ, gắn liền với đấu tranh chống tham nhũng và xây dựng
lực lượng Hải quan trong sạch, vững mạnh.
- Cải cách thủ tục Hải quan là khâu đột phá để thực hiện hoàn thiện đồng bộ
công tác quản lý Hải quan từ quản lý Nhà nước đến quản lý nghiệp vụ Hải quan.
- Cải cách thủ tục Hải quan bắt buộc cải cách đồng bộ thể chế hành
chính Hải quan bao gồm: tổ chức bộ máy, luật pháp và hệ thống nhân sự Hải quan.
- Cải cách thủ tục Hải quan nhằm giảm chi phí xã hội
Công tác quản lý Hải quan có tác động trực tiếp, gián tiếp làm thay đổi
chi phí của nền kinh tế đối với lĩnh vực Hải quan. Đứng ở góc độ doanh
nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu, thủ tục Hải quan không làm tăng giá bán
sản phẩm xuất khẩu nhưng làm tăng chi phí đầu vào của sản phẩm đó. Mức
tăng này phụ thuộc cung cách quản lý Hải quan. Với giả định đó, doanh
nghiệp chấp hành luật Hải quan tốt, thì trình tự thủ tục Hải quan, thái độ xử lý
của công chức Hải quan đối với bộ hồ sơ Hải quan lại là “yếu tố” làm tăng
hay tiết kiệm chi phí đầu vào, làm tăng hay giảm chi phí cơ hội của doanh
nghiệp. Đứng ở góc độ toàn nền kinh tế, chỉ trong lĩnh vực xuất nhập khẩu,
thủ tục Hải quan kém hiệu quả sẽ có tác động: Làm tăng chi phí đầu vào sản
phẩm xuất khẩu do vậy làm giảm lợi nhuận kinh doanh xuất khẩu; làm tăng
giá nhập khẩu mà doanh nghiệp hoặc người tiêu dùng phải gánh chịu, tăng
cao chi phí hoạt động của ngành Hải quan, gây thiệt hại cho nền kinh tế nói

chung và ảnh hưởng đến lợi nhuận của hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp nói riêng.
Cơ quan Hải quan hiện đại không chỉ đơn thuần là người thực thi pháp
luật mà còn phải có mục đích đóng góp cho sự phồn thịnh của nền kinh tế

×