Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Đổi mới tổ chức và hoạt động của UBND cấp huyện ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 93 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



TRỊNH TUẤN THÀNH





ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC







HÀ NỘI – 2005







ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



TRỊNH TUẤN THÀNH




ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 6.01.01


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Đức Thảo


HÀ NỘI – 2005





MỤC LỤC



Trang

MỞ ĐẦU
1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRONG ĐIỀU KIỆN
CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
5
1.1.
Vị trí, đặc điểm của Ủy ban nhân dân cấp huyện trong hệ
thống chính quyền địa phương
5
1.2.
Khái lược về tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân
cấp huyện
10
1.3.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp huyện
trước yêu cầu cải cách hành chính nhà nước
19

Chương 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA ỦY BAN

NHÂN DÂN CẮP HUYỆN
28
2.1.
Cơ cấu tổ chức của Ủy ban nhân dân cấp huyện
28
2.2.
Nội dung hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp huyện
31
2.3.
Đánh giá tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp huyện
47

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
65
3.1.
Một số quan điểm đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban
nhân dân cấp huyện
65
3.2.
Một số giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban
nhân dân cấp huyện
70

KẾT LUẬN
81

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
83








DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT



CCHC : Cải cách hành chính
HĐND : Hội đồng nhân dân
UBHC : Ủy ban hành chính
UBND : Ủy ban nhân dân




1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những vấn đề quan trọng hiện nay là đổi mới tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động
trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta. Trong những năm qua, Đảng và nhà nước
đã có nhiều đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật trong lĩnh vực cải
cách bộ máy nhà nước, cải cách hành chính, cải cách tư pháp và có những
hiệu quả tích cực. Tuy nhiên, thực tiễn tổ chức và hoạt động của các cơ quan
trong bộ máy nhà nước mới chỉ tập trung vào các cơ quan lập pháp và tư

pháp, mà chưa có sự quan tâm tương xứng tới các cơ quan hành chính nhà
nước nhà nước ở địa phương. Hoạt động của hệ thống các cơ quan chính
quyền địa phương, đặc biệt là hoạt động hàng ngày của Ủy ban nhân dân
(UBND) các cấp luôn gắn liền với công dân, trực tiếp đảm bảo các quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân cũng như ảnh hưởng đến vấn đề dân chủ trong đời
sống nhân dân, và qua đó thể hiện niềm tin của nhân dân với nhà nước. Tình
trạng đơn thư khiếu nại, tố cáo bức xúc, kéo dài, phức tạp, nhiều bất cập trong
quản lý nhà nước về đất đai, xây dựng, chính sách xã hội, thủ tục hành chính
đang minh chứng sự kém hiệu lực, hiệu quả của chính quyền địa phương. Tổ
chức và hoạt động của chính quyền địa phương còn nhiều bất cập cả trong việc
thực thi đường lối chính sách pháp luật thống nhất trong toàn quốc cũng như
phát huy sức mạnh, tự chủ của địa phương. Vì vậy, cần phải "Phân công, phân
cấp, nâng cao tính chủ động của chính quyền địa phương, kết hợp chặt chẽ
quản lý ngành và quản lý lãnh thổ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân
chủ" [22, tr. 133]. Từ thực trạng đó, việc nghiên cứu tổ chức và hoạt động của
các cơ quan trong bộ máy nhà nước, trong đó có hệ thống các cơ quan hành

2
chính nhà nước ở địa phương, để đưa ra những giải pháp đổi mới, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả hoạt động là vấn đề cấp thiết trong điều kiện cải cách hành
chính nhà nước hiện nay. Vì vậy, với phạm vi nhất định, việc nghiên cứu đề
tài: "Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp huyện ở nước
ta hiện nay" có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương
nói chung và UBND cấp huyện nói riêng đã được nhiều công trình khoa học
nghiên cứu đề cập. Các công trình như: "Đổi mới tổ chức bộ máy hành chính
đô thị trong cải cách nền hành chính quốc gia ở nước ta hiện nay" của TS.
Đỗ Xuân Đông; "Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ quản lý hành
chính nhà nước ở nước ta hiện nay" của TS. Lê Đình Khiên; "Luận cứ khoa

học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" của PGS.TS Nguyễn Phú Trọng và
PGS.TS Trần Xuân Sầm; "Cẩm nang thông tin kỹ năng và nghiệp vụ hoạt
động của đại biểu Hội đồng nhân dân và thành viên ủy ban nhân dân các
cấp" của TS. Trịnh Đức Thảo (chủ biên); "Cải cách tổ chức và hoạt động của
chính quyền địa phương đáp ứng các yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân" của PGS.TS Lê Minh Thông Các
công trình nghiên cứu nêu trên đều đề cập đến những khía cạnh, phạm vi khác
nhau liên quan đến tổ chức và hoạt động của UBND cấp huyện. Do vậy, việc
nghiên cứu đồng thời những vấn đề liên quan đến đổi mới tổ chức và hoạt
động của UBND cấp huyện trong bối cảnh đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi
mới cơ chế quản lý nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng và trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay là vấn đề có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn cho việc có những phương hướng, giải pháp hữu hiệu để nâng cao
vai trò của chính quyền địa phương hiện nay.

3
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Luận văn có mục đích phân tích, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn tổ
chức và hoạt động của UBND cấp huyện trong điều kiện cải cách hành chính
nhà nước hiện nay nhằm góp phần tìm ra những giải pháp cho việc nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước nói chung và của UBND cấp huyện nói
riêng.
Với mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Làm rõ quan niệm, vai trò, đặc điểm tổ chức và hoạt động của
UBND cấp huyện.
- Phân tích những yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động của UBND
cấp huyện.
- Đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của UBND cấp huyện.

- Nêu và phân tích một số giải pháp quan trọng nhằm đổi mới tổ chức
và hoạt động của UBND cấp huyện.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đổi mới tổ chức và hoạt động của UBND có thể đề cập ở nhiều góc
độ khác nhau, tuy nhiên, luận văn chỉ đề cập vào một số nội dung cơ bản về tổ
chức và hoạt động của UBND cấp huyện, thực trạng tổ chức và hoạt động của
UBND cấp huyện.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa
Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng về tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước. Trong quá trình thực hiện đề tài, luận văn
tham khảo những kết quả nghiên cứu của những công trình khoa học đã có.
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng kết hợp với các phương

4
pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: phương pháp phân tích, tổng hợp, lịch
sử, so sánh, tổng kết thực tiễn.
6. Những điểm mới của luận văn
Nghiên cứu đổi mới tổ chức và hoạt động của UBND cấp huyện là
một vấn đề còn nhiều phức tạp đòi hỏi phải đặt trong tổng thể nhiều vấn đề,
yêu cầu thực tiễn. Trong phạm vi nghiên cứu nhất định, luận văn góp phần
làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận có liên quan đến tổ chức và hoạt động của
UBND cấp huyện được nhìn nhận ở góc độ hiệu lực, hiệu quả quản lý hành
chính nhà nước trước những đòi hỏi về cải cách hành chính, xây dựng Nhà
nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
Trên cơ sở phân tích thực trạng tổ chức và hoạt động của UBND cấp
huyện, luận văn nêu một số quan điểm và giải pháp có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn cho việc đổi mới tổ chức và hoạt động của UBND ở nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội

dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.




5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
TRONG ĐIỀU KIỆN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC

1.1. VỊ TRÍ, ĐẶC ĐIỂM CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRONG
HỆ THỐNG CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƢƠNG
1.1.1. Khái niệm
Nghiên cứu thực tế tổ chức chính quyền địa phương của các nước trên
thế giới và trong lịch sử nước ta cho thấy, các nước đều phân chia quốc gia
theo các đơn vị hành chính lãnh thổ để từ đó xây dựng mô hình tổ chức chính
quyền địa phương. V.I. Lênin đã chỉ rõ: đặc trưng đầu tiên của nhà nước là
việc phân chia công dân của quốc gia theo đơn vị lãnh thổ. Việc phân chia đó
còn phụ thuộc vào hình thức cấu trúc nhà nước, các yếu tố cộng đồng dân cư,
địa lý, văn hóa, kinh tế [37, tr. 47] Về bản chất, việc phân chia các đơn vị
hành chính không chỉ mang ý nghĩa hành chính-quản lý, mà còn để thực hiện
quản lý nhà nước một cách thống nhất trên toàn lãnh thổ quốc gia.
Với cấu trúc nhà nước đơn nhất ở nước ta hiện nay, chính quyền địa
phương được chia thành ba cấp theo đơn vị hành chính lãnh thổ và các cấp đó
được chia thành hai loại: nông thôn và đô thị, đó là:
- Chính quyền cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là
chính quyền cấp tỉnh);
- Chính quyền cấp huyện, thành phố trực thuộc tỉnh, quận và thị xã
(gọi chung là chính quyền cấp huyện);

- Chính quyền xã, phường, thị trấn (gọi chung là chính quyền cấp xã).
Việc phân chia như vậy là cơ sở cho việc tổ chức và hoạt động của các
cấp chính quyền địa phương, thực hiện quản lý nhà nước trên các lĩnh vực đời

6
sống xã hội ở mỗi cấp (quản lý ngành, lĩnh vực và theo đơn vị hành chính-
lãnh thổ), có ý nghĩa cho việc thực hiện các quyền công dân cả về vật chất và
tinh thần (quyền bầu cử, ứng cử, tham xây dựng và quản lý nhà nước, quyền
kinh doanh ) và khai thác tốt những lợi thế của mỗi cấp chính quyền địa
phương theo những đặc điểm vốn có.
Theo qui định của Hiến pháp và pháp luật hiện hành, có thể xác định
chính quyền địa phương tại mỗi cấp hành chính lãnh thổ bao gồm: Hội đồng
nhân dân (HĐND) và UBND. Việc phân cấp giữa các cơ quan chính quyền
địa phương phải đảm bảo sự phù hợp với nhiệm vụ, khả năng của từng cấp,
bảo đảm sự bình đẳng của các cấp địa phương và đảm bảo sự liên kết giữa các
cấp chính quyền địa phương. Vì vậy, có thể nói rằng: UBND cấp huyện là
trung gian quan trọng cho sự liên kết đó, có những nhiệm vụ, quyền hạn theo
qui định của pháp luật trong việc thực hiện quản lý nhà nước ở địa phương
(UBND cấp huyện là một cơ quan chính quyền trung gian giữa cấp tỉnh và
cấp xã) và tùy từng điều kiện lịch sử nhất định, tên gọi của UBND cấp huyện
cũng có sự khác nhau (UBND, Ủy ban hành chính (UBHC) cấp huyện).
Từ những qui định của Hiến pháp và pháp luật, có thể xác định:
UBND cấp huyện là cơ quan do HĐND cấp huyện bầu ra, cơ quan chấp
hành của HĐND cấp huyện, cơ quan hành chính nhà nước ở cấp huyện, chịu
trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ quan nhà
nước cấp trên và nghị quyết của HĐND cấp huyện.
Với cách hiểu trên cho thấy, UBND cấp huyện vừa là cơ quan chấp
hành và hành chính, vừa là cơ quan nhà nước cấp huyện. Điều đó phản ánh
mối quan hệ giữa tính đại diện và thực thi quyền lực nhà nước; giữa quyền uy
và phục tùng trong quản lý hành chính nhà nước. Đồng thời, cũng chỉ ra mối

quan hệ giữa UBND cấp huyện với các cơ quan khác là: UBND cấp tỉnh,
HĐND cấp huyện, các cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh, HĐND và

7
UBND cấp xã và những mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức khác trong hệ
thống chính trị trên địa bàn huyện.
1.1.2. Đặc điểm tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp huyện
Xét từ bản chất tổ chức và hoạt động là một cơ cấu trong hệ thống các
cơ quan của chính quyền địa phương, UBND cấp huyện có những đặc điểm
cơ bản sau:
- Tính tự chủ trong việc thực hiện quyền lực nhà nước
Trong thực tế, các cơ quan nhà nước thường có xu hướng ôm đồm
nhiều việc còn người dân thì muốn trông chờ nhiều vào nhà nước. ở nước ta,
việc phân chia các cấp chính quyền địa phương như hiện nay được xác định
theo cơ chế tổ chức quyền lực cho các đơn vị hành chính lãnh thổ, theo đó bộ
máy nhà nước được cấu tạo là bộ máy nhà nước ở trung ương và bộ máy nhà
nước ở địa phương, và việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trong
toàn hệ thống phải đảm bảo tính liên thông của quyền lực nhà nước từ trung
ương xuống địa phương, thể hiện cơ chế quyền lực vừa độc lập, vừa phụ
thuộc, đảm bảo tính liên hệ và kiểm soát lẫn nhau. Vì vậy, trong quan hệ
quyền lực theo chiều ngang đã có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp thì
trong quan hệ theo chiều dọc theo các đơn vị hành chính lãnh thổ thì quyền
lực nhà nước được xác định theo sự phân cấp, phân quyền giữa trung ương và
địa phương và giữa các cấp trong hệ thống chính quyền địa phương nhằm
đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước. Nói cách khác, việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước
ở mỗi đơn vị lãnh thổ phải phù hợp với tính hệ thống của bộ máy nhà nước và
tính độc lập, tự chủ của mỗi cấp chính quyền. Tuy nhiên, thực tế cho thấy,
UBND cấp huyện vừa thực hiện quyền lực nhà nước thống nhất, vừa là cơ chế

để thực hiện quyền tự chủ của cộng đồng dân cư trên địa bàn huyện. Điều này

8
có nghĩa là UBND cấp huyện phải thực thi thống nhất quyền lực nhà nước tại
địa bàn huyện theo đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước. Đồng thời, hoạt động của UBND cấp huyện còn là thực hiện ý chí,
nguyện vọng của cộng đồng dân cư phù hợp với đặc điểm, điều kiện kinh tế -
xã hội và mức độ thực hành dân chủ của người dân trên địa bàn huyện và chịu
sự giám sát của nhân dân. Kết hợp hai yêu cầu trên, UBND cấp huyện phải
được phân công và ủy quyền theo những phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn nhất
định để có thể tự chủ trong việc giải quyết các công việc hàng ngày của địa
phương. Từ những đề cập trên, nhiều tác giả cho rằng tổ chức và hoạt động
của chính quyền địa phương vừa mang tính chất quyền lực nhà nước, vừa
mang tính tự quản và sự tương quan giữa hai tính chất này phụ thuộc vào mỗi
cấp chính quyền, mang tính lịch sử và không đồng nhất. Điều này có thể thấy
rõ nhất là chính quyền cấp huyện. Việc tự chủ của UBND cấp huyện được
thông qua việc quyết định, tổ chức và hoạt động thực tiễn hàng ngày của địa
phương đối với những vấn đề của riêng địa phương, bằng các nguồn lực của
địa phương. Do đó, có thể nói về bản chất, UBND cấp huyện là cấp cơ quan
quan trọng trong việc đại diện cho quyền lực nhà nước thống nhất, đại diện
cho lợi ích quốc gia song cũng đại diện cho ý chí của nhân dân địa phương,
hoạt động vì nhân dân địa phương.
- Tính chất phụ thuộc trong tổ chức quyền lực nhà nước
Hoạt động của UBND cấp huyện là hoạt động chấp hành - hoạt động
của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương và là một bộ phận trong
guồng máy hành chính nhà nước thống nhất do Chính phủ chỉ đạo, điều
hành. Với vị trí này, UBND cấp huyện chịu sự lãnh đạo của cơ quan hành
chính nhà nước cấp trên trong phạm vi và mức độ được phân cấp theo qui
định của pháp luật. Đồng thời, sự phân cấp như vậy cũng là cơ sở để UBND
cấp huyện thực hiện sự tự chủ của mình trong tổ chức và hoạt động quản lý

nhà nước trên địa bàn.

9
- Việc xác lập chức năng, thẩm quyền của UBND cấp huyện dựa trên
đặc thù, điều kiện của địa phương
Thực tế tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương cho thấy
vấn đề có tính quan trọng là xác định và thực hiện các chức năng, thẩm quyền
của chính quyền địa phương nói chung và mỗi cấp chính quyền địa phương
nói riêng dựa trên bản chất của chế độ nhà nước, điều kiện kinh tế - xã hội của
địa phương. Là một cấp quản lý trong hệ thống chính quyền địa phương,
UBND cấp huyện, trong tổ chức và hoạt động của mình, thực hiện chức năng
đại diện; tiếp nhận và giải quyết các yêu cầu, nguyện vọng của người dân địa
phương; quyết định và tổ chức thực hiện các công việc của địa phương, phục
vụ lợi ích cộng đồng theo phạm vi, mức độ tự chủ của địa phương; bảo vệ
những quyền, lợi ích chính đáng của người dân theo những qui định của pháp
luật. Chính vì vậy, trong chừng mực nhất định, theo ý kiến của nhiều tác giả,
UBND cấp huyện được gọi là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương
chứ không phải là cơ quan hành chính nhà nước của địa phương; là một pháp
nhân công quyền, hoạt động theo nguyên tắc quyền uy, phục tùng, đảm bảo
cho quyền lực nhà nước được thực thi thống nhất từ trung ương đến địa
phương và giải quyết các công việc, đề nghị của người dân địa phương theo
qui định của pháp luật.
Các chức năng của UBND cấp huyện:
+ Chức năng chấp hành và điều hành: Như trên đã nói, UBND cấp
huyện là cấp trung gian trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương, vì vậy, UBND cấp huyện vừa có nhiệm vụ chấp hành các đường lối,
quyết định của các cơ quan nhà nước cấp trên, vừa thực hiện chức năng điều
hành các hoạt động quản lý nhà nước đối với các cơ quan chuyên môn, chính
quyền cấp xã. Điều này cũng có nghĩa là, UBND cấp huyện vừa phụ thuộc
vừa tự chủ theo nguyên tắc cấp dưới phục tùng cấp trên, cấp trên lãnh đạo, chỉ

đạo cấp dưới. Hoạt động chấp hành của chính quyền địa phương không tách

10
rời với hoạt động điều hành trong quản lý nhà nước và mục đích của nó là giải
quyết hiệu quả các vấn đề của địa phương trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội, vừa thể hiện sự can thiệp của quyền lực nhà nước vừa thể hiện
sự cộng tác, phối hợp với nhân dân. Tuy nhiên, hoạt động chấp hành và điều
hành của UBND cấp huyện phải được thể hiện thông qua việc ban hành các
văn bản pháp luật trong quản lý điều hành hàng ngày của mình và các cơ quan
chuyên môn. Để thực hiện tốt chức năng quản lý và điều hành, UBND cấp
huyện còn phải thực hiện công tác kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật,
các chủ trương, qui định của địa phương theo những trình tự, thủ tục nhất
định. Theo qui định của Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), UBND
cấp huyện chỉ đạo, kiểm tra, tổ chức thực hiện các chủ trương, quyết định của
HĐND
và các cơ quan cấp trên liên quan đến các lĩnh vực quản lý nhà nước trên địa
bàn huyện.
+ Chức năng hỗ trợ cộng đồng: Về bản chất của nhà nước ta, vấn đề
quản lý và điều hành trong quản lý nhà nước nhằm mục tiêu 'vì dân phục vụ',
vì vậy, hoạt động của UBND cấp huyện và các cơ quan chuyên môn trực
thuộc, phải có sự hỗ trợ đối với công dân trong việc thực hiện các trình tự, thủ
tục liên quan đến quản lý nhà nước như hỗ trợ pháp lý, thông tin (đòi hỏi
UBND cấp huyện phải thông tin cho công dân và hướng dẫn các thủ tục cần
thiết khi tiến hành các thủ tục hành chính tại UBND cấp huyện), hỗ trợ thông
qua các công cụ điều tiết trong quản lý nhà nước (như hỗ trợ vốn, hướng dẫn
áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh)…
1.2. KHÁI LƢỢC VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA ỦY BAN NHÂN
DÂN CẤP HUYỆN
Dưới thời kỳ phong kiến ở nước ta, xét về bản chất, hoạt động hành
chính, tổ chức hành chính địa phương được chia thành chính quyền cấp xã,

chính quyền cấp huyện, chính quyền cấp tỉnh. Tuy nhiên, chính quyền cấp

11
huyện lúc đó chưa có sự rõ nét, bởi vì thời kỳ này, dưới chính quyền cấp tỉnh
là các phủ (bao gồm một số huyện) nhưng về quản lý hành chính, thực thi
quyền lực nhà nước ở địa phương được tập trung vào các cơ quan hành chính
của huyện - các quan tri huyện. Quan tri huyện là những người được triều
đình phong kiến lựa chọn qua các khoa thi, đỗ đạt cao được bổ dụng làm
quan. Hoạt động của chính quyền cấp huyện có thể nói là được thể hiện chủ
yếu thông qua các quan tri huyện. Quan tri huyện thực hiện các công việc
quản lý hành chính, thực hiện công việc xét xử các vụ kiện thuộc địa hạt mình
phụ trách. Để đảm bảo hoạt động của chính quyền, ngoài quan tri huyện còn
có các viên huấn đạo, thầy đề, ông thông, ông thừa, lục sự được phân công
đảm nhận các công việc trong hoạt động của chính quyền.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, với sự ra đời của Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa, việc tổ chức xây dựng và củng cố chính quyền là
nhiệm vụ trọng tâm của Cách mạng Việt Nam. Vị trí, vai trò của UBND nói
chung, UBND cấp huyện nói riêng được khẳng định từng bước trong quá
trình xây dựng bộ máy nhà nước ta.
Ngay sau khi tuyên bố thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 63 ngày 22/11/1945 qui
định về tổ chức HĐND và UBHC. Theo Sắc lệnh số 63, UBHC (nay là
UBND) do HĐND bầu ra để thực hiện việc quản lý các công việc hành chính
ở địa phương. Cùng với Sắc lệnh số 63 ngày 22/11/1945 về tổ chức, quyền
hạn, cách thức làm việc của HĐND và UBHC các cấp (xã, huyện, tỉnh, kỳ),
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn ban hành Sắc lệnh số 77 ngày 21/12/1945 về việc
thành lập thành phố trực thuộc Chính phủ trung ương, hoặc kỳ, thị xã thuộc
kỳ hoặc tỉnh. Hai Sắc lệnh trên là cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động
của chính quyền địa phương trong thời kỳ xây dựng và củng cố chính quyền.
Theo Sắc lệnh số 63, chính quyền địa phương ở nước ta gồm HĐND

và UBHC (nay là UBND). HĐND là cơ quan đại diện cho nhân dân, được

12
nhân dân trực tiếp bầu ra theo lối phổ thông đầu phiếu. UBHC do HĐND bầu
ra để thực hiện việc quản lý các công việc hành chính ở địa phương. Tuy
nhiên, trong thời kỳ này, ở cấp huyện và kỳ chỉ có UBHC mà không có
HĐND. Theo qui định tại Điều 22, Sắc lệnh số 63, UBHC là cơ quan thực
hiện chức năng quản lý nhà nước trên địa bàn huyện, có 03 ủy viên chính thức
(Chủ tịch, Phó chủ tịch, Thư ký) và 02 ủy viên dự khuyết. UBHC huyện do
đại biểu HĐND các xã trong huyện bầu ra. Khi có 1/3 tổng số đại biểu HĐND
các xã yêu cầu bỏ phiếu tín nhiệm UBHC huyện thì phải tổ chức bỏ phiếu;
nếu quá nửa số đại biểu HĐND các xã không tín nhiệm thì các ủy viên UBHC
phải từ chức.Cũng theo Sắc lệnh số 63, UBHC huyện có những nhiệm vụ,
quyền hạn sau đây:
- Thi hành và kiểm soát sự thi hành mệnh lệnh của cấp trên; kiểm soát
hoạt động của Hội đồng nhân dân xã và UBHC xã;
- Thủ tiêu những quyết định của HĐND xã trái với các chỉ thị của cấp
trên hay trái với quyền lợi của nhân dân trong xã;
- Duyệt y hoặc đệ lên UBHC tỉnh duyệt y các quyết nghị của HĐND xã;
- Kiểm soát các cơ quan chuyên môn về cách thừa hành chức vụ;
- Giải quyết các công việc khác trong phạm vi huyện;
- Điều khiển đội cảnh binh đặt ở huyện để lo việc tuần phòng và trị an.
Việc phân công công việc và nhiệm vụ, quyền hạn của các ủy viên
UBHC huyện tùy thuộc vào năng lực, trình độ của ủy viên.
Cùng với quá trình xây dựng và củng cố chính quyền, vị trí của
UBND với tư cách là cơ quan thực hiện quản lý hành chính ở địa phương tiếp
tục được khẳng định và có những bước phát triển cơ bản qua các Hiến pháp
1946, 1959, 1980 và 1992.
1.2.1. Tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp huyện theo
Hiến pháp 1946


13
Hiến pháp 1946 qui định về việc thành lập HĐND và UBHC ở các
đơn vị hành chính trong cả nước; chế độ bầu cử HĐND, nhiệm vụ, quyền hạn
của HĐND, việc bãi miễn đại biểu HĐND và quan hệ của HĐND và UBHC
cùng cấp, đặc biệt là chế độ chịu trách nhiệm của UBHC.
Theo Hiến pháp 1946, về phương diện hành chính, nước ta được chia
thành ba bộ: Bắc, Trung, Nam. Mỗi bộ được chia thành các tỉnh; mỗi tỉnh
được chia thành các huyện; mỗi huyện được chia thành các xã (Điều 57). Tuy
nhiên, phù hợp với điều kiện lịch sử lúc đó và có sự kế thừa lịch sử, Hiến
pháp 1946 qui định: ở tỉnh, thành phố, thị xã và xã có HĐND và UBHC; ở bộ
và huyện chỉ có UBHC (Điều 58). Như vậy, có thể thấy rằng, thời kỳ này,
UBND các cấp (được gọi là UBHC) được thành lập ở tất cả các bộ, tỉnh,
thành phố, thị xã, xã, nhưng ở bộ và huyện không có HĐND. Điều này cho
thấy tính đặc thù trong tổ chức và hoạt động của UBND cấp huyện, đó là
cùng là cấp huyện nhưng đối với thị xã thì có HĐND, còn ở huyện thì không
có HĐND mà chỉ có UBHC. Hay nói cách khác, việc thành lập HĐND tùy
thuộc vào điều kiện, yêu cầu quản lý đối với từng cấp.
Theo Hiến pháp 1946, HĐND tỉnh, thành phố, thị xã, xã do nhân trực
tiếp bầu ra theo lối phổ thông đầu phiếu. Ở cấp có HĐND thì UBHC do
HĐND cử ra. Còn đối với cấp không có HĐND thì UBHC bộ do HĐND các
tỉnh, thành phố bầu ra; UBHC huyện do HĐND các xã bầu ra.
Như vậy, cùng là UBHC cấp huyện nhưng trong thời kỳ này có sự
khác biệt về cách thức cử và bầu, đó là UBHC thị xã do HĐND thị xã cử ra,
còn UBHC huyện do HĐND các xã bầu ra. Tuy vậy, trong tổ chức và hoạt
động, UBND đều có mối quan hệ về quyền hạn và nghĩa vụ đối với HĐND.
Cụ thể là: UBHC có trách nhiệm: thi hành mệnh lệnh của cấp trên; thi hành
các nghị quyết của HĐND địa phương mình sau khi được cấp trên chuẩn y;
Chỉ huy công việc hành chính trong địa phương.


14
Để cụ thể hóa những qui định của Hiến pháp 1946, Chủ tịch Hồ Chí
Minh còn ký nhiều Sắc lệnh liên quan đến tổ chức và hoạt động của UBHC
cấp huyện như: Sắc lệnh số 254-SL ngày 19/11/1948 về tổ chức lại chính
quyền nhân dân trong thời kỳ kháng chiến (Điều 2 qui định: chính quyền
nhân dân địa phương trong thời kỳ kháng chiến gồm có HĐND và UBHC);
Sắc lệnh số 255-SL ngày 19/11/1948 về cách thức tổ chức và làm việc của
HĐND và Ủy ban kháng chiến hành chính. Tiếp đó, Luật tổ chức chính quyền
địa phương năm 1958 đã qui định rõ hơn về hệ thống tổ chức của chính quyền
địa phương.
1.2.2. Tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp huyện theo
Hiến pháp 1959
Theo Hiến pháp 1959, chính quyền địa phương bao gồm ba cấp hành
chính: tỉnh, huyện, xã. Các đơn vị hành chính trên đều thành lập HĐND và
UBHC. Như vậy, so với Hiến pháp 1946, điểm mới của Hiến pháp 1959 là
cấp huyện có cả HĐND và UBHC; HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở
địa phương và UBHC các cấp là cơ quan chấp hành của HĐND địa phương,
là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.
UBHC gồm có Chủ tịch, một hoặc nhiều Phó Chủ tịch, Ủy viên Thư
ký và các Ủy viên. Nhiệm kỳ của UBHC theo nhiệm kỳ của HĐND đã bầu ra
mình (02 năm). Khi HĐND hết nhiệm kỳ hoặc bị giải tán, UBHC tiếp tục làm
nhiệm vụ cho đến khi HĐND mới bầu ra UBHC mới. UBHC cấp huyện quản
lý công tác hành chính của địa phương, chấp hành nghị quyết của HĐND cấp
huyện và nghị quyết, mệnh lệnh của cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.
UBHC huyện được ra quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thực hiện quyết
định, chỉ thị đó. Trong hoạt động quản lý hành chính, UBHC cấp huyện lãnh
đạo công tác của các ngành trong huyện và đối với UBHC cấp xã và tương
ứng có quyền sửa đổi hoặc bãi bỏ những quyết định không thích đáng của các

15

ngành và của UBHC cấp xã. UBHC cấp huyện có quyền đình chỉ việc thi
hành những nghị quyết không thích đáng của HĐND cấp xã và đề nghị
HĐND huyện sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết ấy.
UBHC huyện chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước HĐND huyện
và UBHC cấp tỉnh. UBHC huyện chịu sự lãnh đạo của UBHC tỉnh và sự lãnh
đạo thống nhất của Hội đồng Chính phủ.
1.2.3. Tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp huyện theo
Hiến pháp 1980
Theo Hiến pháp 1980, vị trí, vai trò của UBND cấp huyện vẫn được
xác định là cơ quan chấp hành của HĐND huyện, là cơ quan hành chính nhà
nước. UBND gồm có Chủ tịch, một hoặc nhiều Phó Chủ tịch, Ủy viên Thư ký
và các Ủy viên khác.
UBND huyện có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước HĐND huyện và trước
UBND tỉnh. Mỗi thành viên UBND chịu trách nhiệm cá nhân về phần công
tác của mình trước HĐND; UBND cùng với các thành viên khác chịu trách
nhiệm tập thể về hoạt động của UBND trước HĐND.
- Triệu tập hội nghị HĐND cùng cấp; chấp hành nghị quyết của
HĐND và quyết định, chỉ thị của các cơ quan hành chính cấp trên; quản lý
công tác hành chính ở địa phương; chỉ đạo các ngành, các cấp thuộc quyền
mình nhằm hoàn thành kế hoạch nhà nước, phát triển kinh tế và văn hóa, củng
cố quốc phòng, cải thiện đời sống nhân dân; xét và giải quyết các khiếu nại, tố
cáo và kiến nghị của nhân dân.
- Có quyền ra quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thực hiện các văn
bản đó trên địa bàn huyện.

16
- Có quyền đình chỉ việc thi hành, sửa đổi hoặc bãi bỏ những quyết
định không thích đáng của các ngành thuộc quyền mình và của UBND cấp xã;
đình chỉ việc thi hành những nghị quyết không thích đáng của HĐND cấp xã,

đồng thời đề nghị HĐND huyện sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết đó.
- Tạo điều kiện cho các đại biểu HĐND và các ban của HĐND hoạt
động. Chủ tịch UBND chịu trách nhiệm điều hòa, phối hợp hoạt động của các
ban do HĐND lập ra.
- Nhiệm kỳ của UBND cấp huyện theo nhiệm kỳ của HĐND huyện là
02 năm. Khi HĐND hết nhiệm kỳ, UBND tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi
HĐND khóa mới bầu ra UBND mới.
Tiếp đó, tổ chức và hoạt động của UBND cấp huyện còn được qui
định cụ thể trong Luật tổ chức HĐND và UBND năm 1989.
1.2.4. Tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp huyện theo
Hiến pháp 1992
Tiếp tục kế thừa những qui định về UBND cấp huyện trong các văn
bản pháp luật đã có, Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung
năm 2001) tiếp tục khẳng định UBND cấp huyện do HĐND cấp huyện bầu ra,
là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương,
chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ quan nhà
nước cấp trên và nghị quyết của HĐND.
UBND cấp huyện trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có
quyền ra quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành những văn bản đó. Chủ
tịch UBND lãnh đạo, điều hành hoạt động của UBND. Khi quyết định những
vấn đề quan trọng của địa phương, UBND huyện phải thảo luận tập thể và
quyết định theo đa số.

17
Chủ tịch UBND huyện có quyền đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ
những văn bản sai trái của cơ quan thuộc UBND cấp xã; đình chỉ thi hành
nghị quyết sai trái của HĐND cấp xã đồng thời đề nghị HĐND huyện bãi bỏ
những nghị quyết đó.
Thực hiện chế độ thông báo tình hình mọi mặt của đại phương cho
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của

các tổ chức này về xây dựng chính quyền và phát triển kinh tế xã hội ở địa
phương; phối hợp với các đoàn thể nhân dân động viên nhân dân cùng nhà
nước thực hiện các nhiệm vụ kinh tế- xã hội, quốc phòng an ninh ở địa phương.
Như vậy, qua những qui định của các hiến pháp về vị trí, chức năng,
nhiệm vụ của UBND cấp huyện cho thấy, cho dù về tên gọi có sự thay đổi
qua các thời kỳ (UBHC, UBND), nhưng về bản chất, UBND cấp huyện là cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương, thực hiện quản lý hành chính đối
với các vấn đề trên địa bàn huyện về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an
ninh, quốc phòng
Là một cấp hành chính trong bộ máy nhà nước, UBND cấp huyện
được qui định có những thẩm quyền, nhiệm vụ nhất định, góp phần thực hiện
thống nhất quản lý nhà nước trên phạm vi toàn quốc theo sự phân công, phân
nhiệm, phối hợp với các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương. Tổ
chức và hoạt động của UBND cấp huyện đã đáp ứng yêu cầu khách quan của
quản lý nhà nước, phù hợp với những điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa
phương cùng những đặc thù quản lý ngành, lĩnh vực nhất định. Với truyền
thống phân cấp quản lý nhà nước theo 4 cấp (Trung ương, tỉnh, huyện, xã) và
thực tiễn quản lý hành chính nhà nước, có thể nhận định rằng chính quyền cấp
huyện là cấp có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện quản lý nhà nước ở
địa phương, cấp quản lý sát dân và ở chừng mực nhất định có thể nói là cấp
quyết định việc thực tế hóa đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước trong thực tiễn quản lý, đảm bảo quản lý thống nhất ngành, lĩnh vực

18
công từ trung ương đến cơ sở. Với tư cách là một cấp cơ quan quản lý nhà
nước ở địa phương, UBND cấp huyện là cơ quan có vai trò cầu nối quan
trọng giữa chính quyền cấp tỉnh và chính quyền cấp xã trong việc thực thi
quản lý nhà nước ở địa phương.
Từ khái lược lịch sử tổ chức và hoạt động của UBND cấp huyện và
những qui định pháp luật hiện hành cho thấy, UBND cấp huyện là cơ quan quản lý hành chính nhà

nước có vai trò quan trọng nhất ở địa phương, là cấp chuyển tải, thực tế hóa đường lối, chính
sách pháp luật của Đảng và Nhà nước trong thực tế tại địa bàn cấp huyện, giải quyết số lượng lớn
các công việc hàng ngày trong quản lý nhà nước phù hợp với tình hình địa phương. Xét về thứ
bậc trong hệ thống các cơ quan quản lý hành chính nhà nước ở địa phương, UBND cấp huyện là
cấp quản lý hành chính trung gian để thực hiện những chính sách, quyết định từ Trung ương tại
cơ sở, trong nhân dân. Có thể nói, so với chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện là cấp trực tiếp hơn, sát
dân hơn khi thực thi, triển khai các hoạt động quản lý nhà nước trên phạm vi địa bàn quận, huyện.
Hiện nay, UBND là cơ quan do HĐND bầu là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan
hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước HĐND cùng cấp và cơ quan nhà nước
cấp trên. UBND chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước
cấp trên và nghị quyết của HĐND cùng cấp nhằm bảo đảm thực hiện chủ trương, biện pháp phát
triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh và thực hiện các chính sách khác trên địa bàn.
UBND thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương, góp phần bảo đảm sự chỉ đạo, quản
lý thống nhất trong bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương tới cơ sở.
Về thẩm quyền, UBND cấp huyện là cơ quan quản lý thẩm quyền chung ở địa phương,
thực hiện quản lý nhà nước trên các mặt cơ bản của đời sống xã hội. Trong thực tế, ở phạm vi cấp
huyện, có thể thấy những việc của người dân hầu như phần nhiều được giải quyết tại UBND cấp
huyện với những cơ quan có thẩm quyền riêng là các phòng, ban thuộc UBND huyện, do đó,
việc luôn đổi mới, kiện toàn tổ chức và hoạt động của UBND cấp huyện là yếu tố cơ bản nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính của UBND cấp huyện ở nước ta hiện nay. Việc đổi
mới tổ chức và hoạt động của UBND cấp huyện phải được thực hiện đồng bộ trên các phương

19
diện đổi mới cơ cấu tổ chức; mối quan hệ giữa UBND cấp huyện với các cơ quan, tổ chức hữu
quan; vấn đề cán bộ, công chức; vấn đề thể chế pháp lý và cơ chế, phương thức hoạt động.
1.3. ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN
CẤP HUYỆN TRƢỚC YÊU CẦU CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC
Là một cấp cơ quan quản lý hành chính nhà nước ở địa phương trong
hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước, việc đổi mới tổ chức và hoạt động
của UBND cấp huyện không thể nằm ngoài những yêu cầu. mục tiêu, nhiệm

vụ, nội dung của việc đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, yêu
cầu cải cách hành chính (CCHC) và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Theo Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn
2001-2010, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của UBND cấp huyện phải góp
phần đáp ứng mục tiêu tổng thể sau: Xây dựng một nền hành chính dân chủ,
trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực,
hiệu quả theo nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự
lãnh đạo của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và
năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Đến
năm 2010, hệ thống hành chính về cơ bản được cải cách phù hợp với yêu cầu
quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ mục tiêu tổng thể trên, cải cách hành chính nhà nước nhằm các
mục tiêu cụ thể sau:
Một là, hoàn thiện hệ thống thể chế hành chính, cơ chế, chính sách phù hợp với thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trước hết là các thể chế về kinh tế, về tổ chức và hoạt
động của hệ thống hành chính. Tiếp tục đổi mới quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy
phạm pháp luật, khắc phục tính cục bộ trong việc chuẩn bị, soạn thảo các văn bản; đề cao trách
nhiệm của từng cơ quan trong quá trình xây dựng thể chế, phát huy dân chủ, huy động trí tuệ
của nhân dân để nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật.

20
Hai là, xóa bỏ về cơ bản các thủ tục hành chính mang tính quan liêu, rườm rà, gây phiền
hà cho doanh nghiệp và nhân dân; hoàn thiện các thủ tục hành chính mới theo hướng công khai,
đơn giản và thuận tiện cho dân.
Ba là, các cơ quan trong hệ thống hành chính được xác định chức
năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm rõ ràng; chuyển được một số công việc và dịch vụ
không cần thiết phải do cơ quan nhà nước thực hiện cho doanh nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức phi
Chính phủ đảm nhận.
Bốn là, cơ cấu tổ chức của Chính phủ gọn nhẹ, hợp lý theo nguyên tắc Bộ quản lý đa

ngành, đa lĩnh vực, thực hiện chức năng chủ yếu là quản lý vĩ mô toàn xã hội bằng pháp luật,
chính sách, hướng dẫn và kiểm tra thực hiện. Bộ máy của các bộ được điều chỉnh về cơ cấu trên
cơ sở phân biệt rõ chức năng, phương thức hoạt động của các bộ phận tham mưu, thực thi chính
sách, cung cấp dịch vụ công.
Năm là, đến năm 2005, về cơ bản xác định xong và thực hiện được
các quy định mới về phân cấp quản lý hành chính nhà nước giữa Trung ương và địa phương,
giữa các cấp chính quyền địa phương; định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và tổ chức bộ
máy chính quyền ở đô thị và nông thôn. Các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp
huyện được tổ chức lại gọn nhẹ, thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước theo nhiệm vụ và
thẩm quyền được xác định trong Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003. Xác định rõ tính chất,
cơ cấu tổ chức, chế độ làm việc của chính quyền cấp xã.
Sáu là, đến năm 2010, đội ngũ cán bộ, công chức có số lượng, cơ cấu hợp lý, chuyên
nghiệp, hiện đại. Tuyệt đại bộ phận cán bộ, công chức có phẩm chất tốt và đủ năng lực thi hành
công vụ, tận tụy, phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước và phục vụ nhân dân.
Bảy là, đến năm 2005, tiền lương của cán bộ, công chức được cải cách cơ bản, trở
thành động lực của nền công vụ, bảo đảm cuộc sống của cán bộ, công chức và gia đình.
Tám là, đến năm 2005, cơ chế tài chính được đổi mới thích hợp với tính chất của cơ
quan hành chính và tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công.

×