Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa tại cơ quan hành chính nhà nước địa phương (Quan thực tiễn tỉnh Bắc Giang)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 105 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT






LƯƠNG THỊ PHƯƠNG THÚY







CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH THEO CƠ CHẾ "MỘT CỬA"
TẠI CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở ĐỊA PHƯƠNG
(QUA THỰC TIỄN TỈNH BẮC GIANG)






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









HÀ NỘI - 2010



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



LƯƠNG THỊ PHƯƠNG THÚY




CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH THEO CƠ CHẾ "MỘT CỬA"
TẠI CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở ĐỊA PHƯƠNG
(QUA THỰC TIỄN TỈNH BẮC GIANG)

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC





Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH Đào Trí Úc





HÀ NỘI - 2010


MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ

LUẬN VỀ CƠ CHẾ "MỘT CỬA"
6
1.1.
Tổng quan về cải cách hành chính trên thế giới
6
1.2.
Cải cách hành chính ở Việt Nam
9
1.2.1.
Nhu cầu cải cách nền hành chính nhà nước
9
1.2.2.
Nội dung cải cách hành chính
12
1.2.3.
Những kết quả chủ yếu trong cải cách hành chính thời gian qua
17
1.3.
Một số vấn đề lý luận đang đặt ra hiện nay về cơ chế "một cửa"
24

Chương 2: TÌNH HÌNH CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH THEO
CƠ CHẾ "MỘT CỬA" TẠI CƠ QUAN HÀNH CHÍNH
NHÀ NƯỚC Ở ĐỊA PHƯƠNG (QUA THỰC TIỄN TỈNH
BẮC GIANG)
30
2.1.
Tổng quan tình hình cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế
"một cửa" tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương
30

2.2.
Tình hình cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế "một cửa"
tại tỉnh Bắc Giang
48
2.2.1.
Triển khai công tác cải cách hành chính tại Bắc Giang
48
2.2.2.
Cơ chế "một cửa" tại tỉnh Bắc Giang
69

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ CẢI CÁCH
THỦ TỤC HÀNH CHÍNH THEO CƠ CHẾ "MỘT CỬA"
TẠI CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở ĐỊA PHƯƠNG
NÓI CHUNG VÀ TỈNH BẮC GIANG NÓI RIÊNG TRONG
GIAI ĐOẠN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở
NƯỚC TA
82
3.1.
Xây dựng nhà nước pháp quyền với việc cải cách hành chính
ở nước ta
82
3.2.
Phương hướng tăng cường hiệu quả cải cách thủ tục hành
chính theo cơ chế "một cửa" tại cơ quan hành chính nhà nước
ở địa phương nói chung và tỉnh Bắc Giang nói riêng
86

KẾT LUẬN
93


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
96

1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI năm 1986 của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp đổi mới ở
nước ta. Lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đã kéo theo những chuyển biến
nhất định trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chuyển đổi từ nền kinh tế tập
trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đã đặt ra yêu cầu cần phải có một nền hành chính hiện đại, đủ sức đảm
nhiệm công tác quản lý trong điều kiện mới của đất nước.
Trước yêu cầu đó, Đảng và Nhà nước ta đã từng bước tiến hành cải
cách hành chính và đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ. Cải cách hành
chính ở Việt Nam được triển khai trên nhiều nội dung: cải cách thể chế, cải
cách tổ chức bộ máy hành chính, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức, cải cách tài chính công và hiện đại hóa nền hành chính,
trong đó cải cách thủ tục hành chính là một khâu quan trọng và được đặt ra
ngay từ giai đoạn đầu của tiến trình cải cách. Thủ tục hành chính liên quan
không chỉ đến công việc nội bộ của một cơ quan, một cấp chính quyền, mà
còn đến các tổ chức và công dân trong mối quan hệ với Nhà nước. Các quyền,
nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp hay ở các văn bản
pháp luật khác có được thực hiện hay không, thực hiện như thế nào, về cơ
bản, đều phải thông qua thủ tục hành chính do các cơ quan, các cấp chính
quyền nhà nước quy định và trực tiếp giải quyết.
Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương,
chính sách, văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực cải cách hành chính nói

chung và cải cách thủ tục hành chính nói riêng. Đặc biệt, Chương trình tổng
thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010 ban hành kèm theo
Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17-9-2001 của Thủ tướng Chính phủ
2
đã xác định phải đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính với mục tiêu cơ bản là
"Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính nhằm bảo đảm tính pháp lý, hiệu quả,
minh bạch và công bằng trong khi giải quyết công việc hành chính. Loại bỏ
những thủ tục rườm rà, chồng chéo dễ bị lợi dụng để tham nhũng, gây khó
khăn cho dân. Mở rộng cải cách thủ tục hành chính trên tất cả các lĩnh vực,
xóa bỏ kịp thời những quy định không cần thiết về cấp phép và thanh tra,
kiểm tra, kiểm soát, kiểm định, giám định".
Việc nhấn mạnh ưu tiên cải cách thủ tục hành chính là hoàn toàn cần
thiết và phù hợp. Ai cũng thấy cách làm việc của các cơ quan nhà nước còn
rườm rà, phiền toái, gây tốn kém thời gian và tiền bạc của Nhà nước, tổ chức,
doanh nghiệp và người dân. Song vấn đề sửa đổi thủ tục đã được chọn làm ưu
tiên gần 20 năm nay, từ khi nêu ra và thực hiện theo cơ chế "một cửa" nửa
đầu thập kỷ 90, nhưng đến nay nội dung này vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề. Đã
có rất nhiều những công trình khoa học, bài viết của nhiều tác giả nghiên cứu,
bàn luận về lĩnh vực này. Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn, mỗi thời điểm công
cuộc cải cách lại có những biến chuyển, vẫn cần được tìm hiểu, nghiên cứu để
hoàn thiện chương trình cải cách sao cho hiệu quả nhất và phù hợp với tình
hình thực tiễn của các cơ quan quản lý hành chính nói riêng và Nhà nước ta
nói chung. Vậy, hiện nay tại các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương
(cụ thể tại tỉnh Bắc Giang) việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo cơ
chế "một cửa" đã và đang đạt được những kết quả như thế nào; vấn đề còn tồn
tại - đó là gì, do nguyên nhân nào và những biện pháp để thực hiện nội dung
này đạt hiệu quả tốt hơn nữa trong việc thực hiện chức năng của các cơ quan
hành chính nhà nước ở địa phương trong tương lai.
Được thực hiện vào năm cuối của Chương trình tổng thể cải cách hành
chính giai đoạn 2001-2010, Luận văn nhằm mang lại một cái nhìn khát quát

về cải cách hành chính nói chung, cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế
"một cửa" nói riêng và giải quyết các vấn đề nêu trên, góp phần để chương
trình này đạt được kết quả cao hơn nữa trong quá trình tiếp tục thực hiện công
3
cuộc cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế "một cửa" trong giai đoạn xây
dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trên diễn đàn khoa học, đã và đang có nhiều bài viết liên quan đến
tình hình cải cách hành chính nói chung và cải cách thủ tục hành chính theo
cơ chế "một cửa" nói riêng. Một số công trình nghiên cứu về vấn đề này, như:
Đào Trí Úc (2007), Đánh giá kết quả của cải cách hành chính và các
giải pháp tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính ở nước ta, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội;
Phạm Hồng Thái và Đinh Văn Mậu (2009), Luật hành chính Việt
Nam, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội;
Đào Trí Úc (2006), Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, Nxb Tư pháp, Hà Nội;
Trần Công Dũng (2010), Vách ngăn hay ngăn cách nơi giao dịch "một
cửa", Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số 6;
Nguyễn Ngọc Hiến (2001), Các giải pháp thúc đẩy cải cách hành chính
ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Mục đích nghiên cứu
Nhằm tổng quan lại Chương trình tổng thể cải cách hành chính giai
đoạn 2001 - 2010 và một số vấn đề lý luận về cơ chế "một cửa".
Đồng thời, nêu lên tình hình cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế
"một cửa" tại cơ quan hành chính nhà nước địa phương ở nước ta nói chung
và tỉnh Bắc Giang nói riêng. Từ đó đưa ra những biện pháp để tiếp tục phát
huy và nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác cải cách thủ tục hành chính theo
cơ chế "một cửa" tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương nói chung
trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta.

4
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những quan điểm về chủ trương đường
lối của Đảng Cộng sản Việt Nam và chính sách pháp luật của Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về cải cách hành chính nói chung và cải cách
thủ tục hành chính theo cơ chế " một cửa" tại cơ quan hành chính nhà nước ở
địa phương nói riêng, đặc biệt tập trung vào giai đoạn 2001 - 2010.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên phương pháp luận của cChủ nghĩa
duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và một số phương pháp nghiên
cứu khoa học cụ thể, như:
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Luận văn kế thừa, tổng kết lại
những kết quả của các nghiên cứu về cải cách hành chính nói chung, cải cách
thủ tục hành chính theo cơ chế "một cửa" tại cơ quan hành chính nhà nước ở
địa phương nói riêng.
Phương pháp so sánh: Thông qua một số dẫn chứng về triển khai công
tác cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế "một cửa".
Phương pháp lịch sử: Xem xét pháp luật về cải cách hành chính nói
chung và trong cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế "một cửa" nói riêng
theo từng giai đoạn.
Phương pháp thống kê xã hội học: Từ những kết quả thống kê, đánh
giá về thực trạng triển khai công tác cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế
"một cửa" tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương nói chung.
6. Ý nghĩa nghiên cứu đề tài
Hệ thống các quan điểm, đánh giá quá trình thực hiện cải cách hành
chính ở Việt Nam nói chung. Là tài liệu tham khảo mang tính hệ thống về
triển khai chương trình cải cách hành chính ở nước ta.
5
Chỉ ra những ưu điểm, thành tựu cũng như bất cập, hạn chế của quá
trình cải cách thủ tục hành chính qua kinh nghiệm thực tiễn tại tỉnh Bắc Giang.

Đề xuất những giải pháp có tính khả thi trong vận dụng vào công cuộc
cải cách hành chính ở nước ta nói chung và tỉnh Bắc Giang nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cải cách hành chính và một số vấn đề lý luận về cơ chế
"một cửa".
Chương 2: Tình hình cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế "một cửa"
tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương (qua thực tiễn tỉnh Bắc Giang).
Chương 3: Phương hướng tăng cường hiệu quả cải cách thủ tục hành
chính theo cơ chế "một cửa" tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương
nói chung và tỉnh Bắc Giang nói riêng trong giai đoạn xây dựng nhà nước
pháp quyền ở nước ta.

6
Chương 1
CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ CƠ CHẾ "MỘT CỬA"

1.1. TỔNG QUAN VỀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH TRÊN THẾ GIỚI
Ngày nay, cải cách hành chính là vấn đề mang tính toàn cầu. Cả các
nước đang phát triển và các nước phát triển đều xem cải cách hành chính như
một động lực mạnh mẽ để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển dân chủ và
các mặt khác của đời sống xã hội.
Sau khi gia nhập WTO năm 2001, nền kinh tế của Trung Quốc đã phát
triển rất mạnh mẽ, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng bình quân 10,14%
trong 5 năm (2001-2006). GDP bình quân đầu người tăng gần gấp 2 lần (năm
2001 là 1042 USD, năm 2006 là 2004 USD), tổng kim ngạch xuất khẩu tăng
bình quân 30%/năm. Năm 2006, xuất khẩu đạt 969 tỷ USD, nhập khẩu đạt
791 tỷ USD. Những thành tích nổi bật mà Trung Quốc đạt được nêu trên là rất

ấn tượng và để đạt được những thành tựu đó, phải kể tới việc đẩy mạnh cải
cách hành chính ở cả trung ương và địa phương. Chính phủ Trung Quốc đã
tiến hành cải cách hành chính, tập trung vào lĩnh vực quản lý hành chính và
xây dựng chính quyền.
Thứ nhất, cải cách thể chế chính quyền nhằm thực thi sự chuyển đổi
hơn nữa chức năng của Chính phủ, hoàn thiện cơ cấu thể chế Chính phủ, điều
chỉnh sự phân chia thể chế chính phủ, cải thiện mức độ quản lý và xây dựng
hệ thống hành chính, đề cao các hành vi chuẩn mực, hoạt động phối hợp
thông suốt, công bằng, minh bạch, trung thực và có hiệu quả.
Thứ hai, nâng cao chức năng quản lý xã hội và dịch vụ công của
Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp, trước tiên tập trung vào
chuyển đổi chức năng của Chính phủ.
7
Thứ ba, tiếp tục cải cách đối với hệ thống phê chuẩn và kiểm tra hành
chính. Một số lượng lớn các vấn đề về phê chuẩn và kiểm tra hành chính đã
được hủy bỏ hay quy định thành luật trong thời gian gần đây.
Thứ tư, cải cách ở các thị trấn và tiến hành các cuộc thử nghiệm về hội
nhập ở đô thị và nông thôn đang được tiến hành. Chính phủ Trung Quốc bắt
đầu tiến hành cải cách ở thị trấn từ đầu năm 2000. Ngoài việc tiếp tục giảm và
sáp nhập các thị trấn, chính phủ Trung Quốc hiện nay đang cân nhắc cải cách
thị trấn như một giải pháp cho vấn đề tồn tại và kéo dài ở Trung Quốc nhiều
năm qua. Đó là cấu trúc hai mặt giữa đô thị và nông thôn. Việc giải quyết này
nhằm thực thi chiến lược kiến tạo vùng nông thôn xã hội chủ nghĩa tiên tiến
của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Chính phủ Trung Quốc hiện nay đã có những nỗ lực vượt bậc trong
cải cách hành chính và đã đạt được những kết quả rõ rệt. Tuy nhiên, những
cải cách này là phức tạp và khó khăn. Nhiều khó khăn trong quản lý hành
chính của chính quyền chưa được đánh giá đúng mức. Đó là sự chuyển biến
chậm chạp về chức năng của chính quyền địa phương, vấn đề vượt quá giới
hạn phê chuẩn hành chính, sự yếu kém trong quản lý xã hội và dịch vụ công,

sự không rõ ràng trong chức năng, hợp tác không hiệu quả giữa các cơ quan,
tính lạc hậu của phương thức quản lý, tình trạng giải quyết không triệt để
những vấn đề liên quan đến lợi ích của người dân, đặc biệt là chủ nghĩa hình
thức, quan liêu, gian lận, lãng phí, thiếu ý thức của một bộ phận công chức
trong quản lý hành chính và tình trạng tham nhũng trầm trọng ở một số cơ
quan và một số địa phương. Đây là những vấn đề thu hút mối quan tâm của
nhân dân và toàn xã hội và việc đẩy mạnh cải cách hành chính trên phạm vi
sâu rộng hơn nữa là phát ngôn của Đảng Cộng sản, Nhà nước Trung Quốc và
toàn xã hội.
Từ năm 1989, cơ chế một cửa quốc gia được xây dựng và phát triển
ở Thụy Điển. Bắt đầu với việc ngành Hải quan phát triển Hệ thống thông tin
8
Hải quan dành cho quy trình xuất khẩu hàng hóa và gửi thông tin thống kê
điện tử cho Tổng cục thống kê. Đến nay, cơ chế một cửa quốc gia Thụy
Điển đã thu được những kết quả rất tốt đẹp. Hàng năm, 94% tờ khai hải quan
được gửi bằng phương pháp điện tử qua XML hoặc EDIFACT. Hệ thống
thông tin của Hải quan Thụy Điển hiện nay quản lý hơn 100.000 thông điệp
điện tử/ngày.
Hiện nay, cơ chế một cửa quốc gia Thụy Điển có sự tham gia của cơ
quan Hải quan, Nông nghiệp, Thương mại, Ủy ban quốc gia về giám sát hàng
hóa chiến lược và Cảnh sát. Trong đó, Hải quan là cơ quan đầu mối quốc gia
về cơ chế một cửa. Việc xây dựng cơ chế một cửa quốc gia Thụy Điển nhằm
giải quyết tình trạng chồng chéo về thủ tục hành chính giữa các cơ quan quản
lý nhà nước. Để thực hiện được cơ chế một cửa quốc gia, Thụy Điển đã tiến
hành sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật hiện hành. Nội dung sửa đổi, bổ
sung đó cho phép sử dụng chứng từ điện tử, chữ ký số, dán tem, Thẩm
quyền chia sẻ thông tin giữa cơ quan Hải quan và các cơ quan quản lý khác
cũng được quy định trong nội dung sửa đổi, bổ sung của pháp luật. Thông qua
việc áp dụng cơ chế một cửa quốc gia đã mang lại nhiều lợi ích. Trước hết là
đối với doanh nghiệp, cơ chế một cửa quốc gia giúp giảm thời gian và kinh

phí gửi thông tin đến các cơ quan quản lý nhà nước. Bên cạnh đó, thông qua
cơ chế một cửa quốc gia, doanh nghiệp sẽ trở nên dễ dàng tiếp cận thông tin
hơn. Việc cải thiện trong quá trình gửi thông tin đem đến những lợi ích rất rõ
ràng cho doanh nghiệp như giảm ách tắc, tăng độ chắc chắn và giảm rào cản
thương mại. Đối với Chính phủ, cơ chế một cửa quốc gia giúp giảm thời gian
xử lý công việc hành chính. Bên cạnh đó, nguồn lực sẽ được sử dụng hiệu quả
hơn nhờ tập trung nguồn lực vào những vị trí phức tạp và không thể vi tính
hóa được. Với cơ chế một cửa quốc gia, Cơ quan Hải quan và các cơ quan
khác của Chính phủ có thể cải thiện hiệu quả hoạt động quản lý của mình,
đồng thời cải thiện dịch vụ cung cấp cho doanh nghiệp.
9
1.2. CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM
1.2.1. Nhu cầu cải cách nền hành chính nhà nƣớc
Hòa chung công cuộc đổi mới trên thế giới, bối cảnh đất nước ta cũng
đặt ra các yêu cầu phải thay đổi nền hành chính nước nhà.
Thứ nhất, đó là nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp
năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001 ghi nhận quan điểm xây dựng
nhà nước pháp quyền và được Đảng ta đặt ra như một nhiệm vụ chiến lược
quan trọng trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước. Hiến pháp năm 1992 sửa
đổi đã ghi nhận tại Điều 2:
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối
hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp [34].
Tại Đại hội lần thứ X, Đảng ta đã khẳng định chủ trương "đẩy nhanh
công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên các mặt: hệ

thống thể chế, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy; cán bộ, công chức;
phương thức hoạt động", với những giá trị và đặc trưng cơ bản- đó là: Nhà
nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã
hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa;
Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa; Bảo vệ quyền con người, các quyền cơ
bản của công dân; Tổ chức để nhân dân tham gia xây dựng đất nước; Thiết
lập trật tự kỷ cương. Nhận thức nói trên về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa đã làm cơ sở thực hiện cho tiến trình cải cách hành chính, nhằm bảo
đảm quyền lực thuộc về nhân dân, bảo vệ các quyền con người, quyền cơ bản
10
của công dân và để nhân dân có thể thực sự tham gia vào các quá trình đổi
mới của đất nước.
Xuất phát từ những nhu cầu nảy sinh trong thực tiễn tổ chức quản lý
xã hội nói chung - đó là nhu cầu về sự cần thiết phải tạo cho được ý thức coi
trọng pháp luật trong quản lý xã hội, quản lý nhà nước; nhu cầu về sự cần
thiết phải xác định đúng mối quan hệ qua lại giữa nhà nước và công dân; nhu
cầu về bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công dân; nhu
cầu về bảo đảm tính hợp hiến của các thể chế, chính sách, tổ chức và toàn bộ
hệ thống pháp luật, tạo môi trường pháp lý đồng bộ ổn định cho các hoạt động
trong xã hội; nhu cầu về tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước thống nhất, tập
trung theo cơ chế phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong
thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, có thể nói rằng
nhà nước pháp quyền là mô hình nhà nước lý tưởng để giải quyết tổng hòa
được các nhu cầu nêu trên.
Mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền đã khiến cho những khuyết
điểm, yếu kém trong bộ máy nhà nước bộc lộ rõ rệt, làm cho vấn đề cải cách
hành chính càng trở nên bức thiết, đồng thời cũng là căn cứ để xác định rõ
thêm nội dung và giải pháp trong tiến trình cải cách hành chính.
Thứ hai, đó là nhu cầu phục vụ sự phát triển của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự chuyển đổi từ một nền kinh tế kế hoạch hóa

tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, sự vận hành nền kinh tế theo các quy luật của thị trường đã tác động
sâu sắc và đặt ra yêu cầu phải đổi mới mạnh mẽ vai trò, chức năng của Nhà
nước nói chung và của nền hành chính nhà nước nói riêng, đòi hỏi phải
chuyển mạnh sang nền hành chính "phục vụ", xóa bỏ triệt để cơ chế "xin -
cho"; phải khắc phục sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào các hoạt động
của doanh nghiệp như: quy định giá cả cho các sản phẩm công và nông
nghiệp, vận tải, phân bổ các khoản tín dụng, cấp giấy phép đầu tư theo các
11
mức nhất định, bao cấp các hàng tiêu dùng, thành lập các doanh nghiệp nhà
nước và trợ cấp cho các doanh nghiệp nhà nước thua lỗ bằng ngân sách quốc
gia…; phải tôn trọng và tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp trong
mọi hoạt động kinh tế - xã hội; phải thực sự thúc đẩy sự phát triển nhanh, bền
vững của nền kinh tế đất nước; phải đối xử bình đẳng với các thành phần kinh
tế khác nhau, tạo ra "sân chơi", "luật chơi" phù hợp với quy luật của thị
trường và thực hiện tốt vai trò của người "trọng tài" khách quan, công bằng
trong việc kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành pháp luật, chính sách của các
chủ thể tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội. Hội nhập khu vực và quốc tế
vừa là thời cơ, thuận lợi, vừa đặt ra thách thức mới đối với nền hành chính
nhà nước. Trong điều kiện kinh tế mở, có tính toàn cầu, đòi hỏi phải nhanh
chóng tạo lập đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế, thể chế hành chính phù hợp
với thông lệ chung của thế giới; phải đổi mới tổ chức bộ máy và nâng cao
trình độ, năng lực, trách nhiệm của cán bộ, công chức để Nhà nước có đủ khả
năng hoàn thành tốt các nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn mới như: đảm
bảo sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô, xây dựng cơ sở hạ tầng cần thiết để
phát triển kinh tế lâu dài, thiết lập một khuôn khổ pháp lý làm cơ sở cho một
Nhà nước pháp quyền với những quy luật cần thiết cho nền kinh tế thị trường
có thể hoạt động, tạo những điều kiện tiên quyết để phát huy một xã hội dân
chủ nhằm từng bước thích nghi và hòa nhập vào cộng đồng quốc tế, cộng
đồng khu vực.

Thứ ba, đó là nhu cầu dân chủ hóa xã hội. Trải qua các giai đoạn phát
triển của đất nước, mục tiêu dân chủ hóa xã hội cũng đạt được những thành
tựu nhất định, tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế như: quyền làm chủ của nhân
dân chưa được tôn trọng và phát huy đầy đủ, cơ chế và pháp luật bảo đảm
thực hiện dân chủ chưa được cụ thể hóa đầy đủ hay tồn tại dân chủ hình thức
ở đâu đó trong xã hội … Quá trình đẩy mạnh dân chủ hóa đời sống xã hội, các
yêu cầu về phát huy dân chủ cơ sở mang những nội dung mới cùng với quá
12
trình phát triển nền kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền đã thu
hút mạnh mẽ sự tham gia của người dân vào quản lý nhà nước, đảm bảo tính
công khai, minh bạch trong thể chế, chính sách, thủ tục hành chính cũng như
trong thực thi công vụ. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã hoạch
định phương hướng mở rộng dân chủ đó là: phải đi đôi với tăng cường kỷ
luật, kỷ cương; quyền lợi đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ; dân chủ được thể
chế hóa thành pháp luật, dân chủ trong khuôn khổ của pháp luật; khắc phục
tình trạng vô luật, dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để gây rối. Để thực
hiện được phương hướng này, dân chủ hóa xã hội cần phải được nâng cao
chất lượng chế độ dân chủ đại diện, mở rộng và có cơ chế từng bước thực
hiện chế độ dân chủ trực tiếp trước hết là ở cơ sở, một cách thiết thực, đúng
hướng và đạt hiệu quả. Xem xét nhu cầu cải cách hành chính từ phương diện
của nhiệm vụ dân chủ hóa xã hội, cải cách hành chính thực chất là tạo ra khả
năng tiếp cận nền hành chính, khả năng sử dụng nền hành chính bảo đảm
quyền lực nhân dân. Do vậy, mục tiêu của cải cách hành chính là xây dựng nền
hành chính gần dân, trong sạch và hiệu quả; chuyển từ nền hành chính truyền
thống mang tính quản lý sang nền hành chính phát triển - một nền hành chính
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng.
Như vậy, cải cách hành chính trước yêu cầu xây dựng nhà nước pháp
quyền không chỉ nhằm tạo ra một cơ chế và một năng lực quản lý mới thích
ứng với nền kinh tế thị trường và phát huy dân chủ xã hội, mà còn là nhu cầu
tự thân của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước nhằm thực hiện tốt chức

năng hành pháp trong điều kiện vận hành cơ chế phân công và phối hợp giữa
các cơ quan nhà nước thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
1.2.2. Nội dung cải cách hành chính
Chủ trương cải cách hành chính nằm trong tổng thể cải cách các cơ
quan nhà nước đã được đặt ra ngay từ đầu thời kỳ đổi mới. Trải qua các Đại
hội đại biểu toàn quốc của Đảng, chủ trương cải cách hành chính ngày càng
13
được khẳng định rõ hơn. Nghị quyết Trung ương 8 khóa VII tháng 1 năm
1995 đã được coi là Nghị quyết chuyên đề về cải cách hành chính, đánh dấu
một bước phát triển mới về chủ trương, phương hướng và nội dung cải cách
hành chính ở Việt Nam. Nghị quyết đã khẳng định "Tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải
cách một bước nền hành chính". Có thể nói, Nghị quyết Trung ương 8 khóa VII
có ý nghĩa quan trọng trong cải cách hành chính. Nghị quyết đã xác định rõ
cải cách hành chính trở thành bộ phận quan trọng trong đường lối đổi mới
toàn diện của Đảng ta, là một trong những ưu tiên hàng đầu trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời xác định đúng mức độ tổng quát về mục
tiêu, quan điểm, nội dung, phương hướng tạo ra những nhân tố động lực cơ bản
cho việc đẩy nhanh quá trình cải cách hành chính trong những năm tiếp theo.
Hội nghị lần thứ 3 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam khóa VIII tháng 6 năm 1997 đã thể chế hóa các chủ trương quan
trong của Nghị quyết Đại hội VII, đồng thời đánh dấu một bước chuyển mới
trong nhận thức về cải cách hành chính. Nếu như trước đó, cải cách hành
chính chủ yếu để đáp ứng yêu cầu đổi mới nền kinh tế, thì đến thời điểm này,
nhiệm vụ cải cách hành chính không chỉ dừng lại ở yêu cầu đó, mà còn nhằm
đảm bảo cho việc thực hiện dân chủ hóa đời sống chính trị của xã hội, phát
huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân.
Tiếp đó, Nghị quyết Trung ương 7 khóa VIII tháng 8 năm 1999 của
Đảng cộng sản Việt Nam đã thể hiện một quyết tâm chính trị rất lớn về việc
tiếp tục tiến hành cải cách hành chính, đặt cải cách hành chính trong tổng thể

của đổi mới hệ thống chính trị.
Đặc biệt, thông qua việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Đảng ta tiếp tục
xác định đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của nhà nước phát huy dân
chủ, tăng cường pháp chế. "Đổi mới tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động
của hệ thống chính trị, trọng tâm là cải cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà
14
nước trong sạch vững mạnh" được xem là lĩnh vực then chốt tạo bước đột phá
trong phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2010. Để tiếp tục đẩy mạnh
công cuộc cải cách hành chính trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI, ngày 17
tháng 9 năm 2001, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg
phê duyệt Chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2001 - 2010,
đánh dấu một bước phát triển mới trong tiến trình cải cách nền hành chính
nhà nước. Mục tiêu tổng quát của Chương trình này là:
Xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững
mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả
theo nguyên tắc của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự
lãnh đạo của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm
chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát
triển đất nước. Đến năm 2001, hệ thống hành chính về cơ bản được
cải cách phù hợp với yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa [5].
Có thể thấy trong các giai đoạn triển khai cải cách hành chính mà Đảng
và Nhà nước ta đã đề ra, nội dung cải cách hành chính giai đoạn này được mở
rộng, toàn diện và đồng bộ hơn, điều này được thể hiện rõ trong bốn lĩnh vực
thuộc Chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2001 - 2010.
Thứ nhất, cải cách thể chế. Xây dựng và hoàn thiện các thể chế và thủ
tục hành chính, trước hết là thể chế kinh tế của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, thể chế về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành
chính nhà nước, xóa bỏ những quy định mang tính hành chính quan liêu, bao
cấp, gây phiền hà, sách nhiễu cho doanh nghiệp và người dân. Đổi mới

phương thức và quy trình xây dựng thể chế, cải tiến sự phối hợp của các
ngành các cấp có liên quan. Tăng cường việc chỉ đạo, kiểm tra, nâng cao kỷ
luật và hiệu lực thi hành pháp luật trong hệ thống các cơ quan nhà nước và
trong toàn xã hội.
15
Thứ hai, cải cách tổ chức bộ máy nhà nước. Tách chức năng quản lý
nhà nước với hoạt động kinh doanh, xúc tiến đổi mới tổ chức bộ máy, cơ chế
hoạt động và quy chế làm việc của các cơ quan nhà nước. Thực hiện mạnh mẽ
việc phân cấp trong hệ thống hành chính đi đôi với nâng cao tính tập trung,
thống nhất trong việc ban hành thể chế. Khắc phục tình trạng trùng chéo,
chậm trễ trong giải quyết công việc, nâng cao vai trò tòa án hành chính trong
giải quyết các khiếu kiện hành chính. Tách cơ quan hành chính thông thường
với tổ chức sự nghiệp. Đẩy mạnh việc thực hiện hiện đại hóa nền hành chính.
Kiện toàn bộ máy và tinh giản biên chế một cách cơ bản.
Thứ ba, đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Đẩy
mạnh đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, chú trọng đội ngũ cán bộ xã/phường.
Đổi mới và thực hiện có hiệu quả công tác quản lý cán bộ nói chung. Cải cách
tiền lương và các chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, công chức. Thực hiện tốt quy
chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở, bảo đảm cho dân tiếp xúc dễ
dàng với cơ quan công quyền, có điều kiện kiểm tra cán bộ, công chức nhất là
những người trực tiếp làm việc với dân.
Thứ tư, cải cách tài chính công. Đổi mới cơ chế phân cấp quản lý tài
chính và ngân sách, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống tài chính quốc gia
và vai trò chỉ đạo của ngân sách trung ương, đồng thời phát huy tính chủ
động, năng động, sáng tạo và trách nhiệm của địa phương và các ngành trong
việc điều hành tài chính và ngân sách. Đổi mới cơ bản cơ chế tài chính đối với
khu vực dịch vụ công. Thực hiện thí điểm để áp dụng rộng rãi một số cơ chế
tài chính mới như cho thuê đơn vị sự nghiệp riêng, khoán một số loại hình
dịch vụ công, hợp đồng một số dịch vụ công trong cơ quan hành chính… Đổi
mới công tác kiểm toán đối với các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp

nhằm nâng cao trách nhiệm và hiệu quả sử dụng ngân sách. Thực hiện dân
chủ, công khai, minh bạch về tài chính.
Chương trình tổng thể cải cách hành chính được thực hiện với hai giai
đoạn, giai đoạn một từ năm 2001 đến năm 2005 với những nhiệm vụ cải cách
16
trọng tâm là: Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của
các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương; Thực hiện
xong về cơ bản việc phân cấp chức năng và thẩm quyền về quản lý nhà nước
giữa trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương; đổi
mới cơ chế hoạt động và quản lý tài chính công đối với các cơ quan hành
chính, đơn vị sự nghiệp; Hoàn thành cơ bản việc cải cách chế độ tiền lương
cán bộ, công chức. Giai đoạn hai từ năm 2006 đến năm 2010, dựa trên kết quả
đã đạt được trong giai đoạn một, tiếp tục hoàn chỉnh làm cho bộ máy quản lý
hành chính nhà nước phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, hoàn
thành mục tiêu chung của Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà
nước giai đoạn 2001 - 2010.
Các nội dung và nhiệm vụ cụ thể trong từng giai đoạn được triển khai
thông quan bảy chương trình hành động cụ thể, bao gồm: 1. Chương trình đổi
mới công tác xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng văn bản quy phạm
pháp luật; 2. Chương trình nghiên cứu xác định vai trò, chức năng và cơ cấu
tổ chức của các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước; 3. Chương trình
tinh giản biên chế; 4. Chương trình xây dựng nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, công chức; 5. Chương trình cải cách tiền lương; 6. Chương trình đổi mới
cơ chế quản lý tài chính đối với các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp
công; 7. Chương trình hiện đại hóa nền hành chính.
Thông qua việc thực hiện cải cách hành chính trong các giai đoạn
trước, Đảng và Nhà nước ta đã rút ra những kinh nghiệm nhất định, đồng thời
nêu ra năm giải pháp chủ yếu trong tổ chức thực hiện ở giai đoạn này, đó là:
1. Tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành. Đặc biệt là sự quyết tâm của các
cấp lãnh đạo cao của Đảng và Nhà nước, của những người đứng đầu các cơ

quan hành chính các cấp; 2. Thực hiện cải cách hành chính đồng bộ với đổi
mới hệ thống chính trị. Tập trung trước hết vào đổi mới nội dung và phương
thức lãnh đạo của Đảng. Sự chỉ đạo cải cách hành chính phải gắn chặt với sự
chỉ đạo đổi mới hoạt động lập pháp và cải cách tư pháp; 3. Thực hiện cải cách
17
hành chính đồng bộ từ trung ương tới địa phương. Trước hết là cấp trung
ương, từ đó tạo tiền đề động viên, thúc đẩy cải cách hành chính của chính
quyền địa phương. Khắc phục sự thụ động, thiếu khẩn trương của các Bộ,
ngành trung ương trong việc sửa đổi những thể chế không còn phù hợp, trong
việc phân cấp cho chính quyền địa phương. Xác định rõ trách nhiệm của
người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước trong việc tổ chức thực
hiện các nhiệm vụ cải cách hành chính. 4. Bố trí đủ nguồn tài chính và nhân
lực. Bố trí nguồn lực tài chính cần thiết từ ngân sách nhà nước để xây dựng và
thực hiện các chương trình hành động cụ thể; huy động và bố trí đủ cán bộ có
năng lực cho việc chuẩn bị và thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính. 5. Tăng
cường công tác thông tin, tuyên truyền để mọi cán bộ, công chức và người
dân nhận thức đúng về cải cách hành chính. Đồng thời cần có những biện
pháp thiết thực để thực hiện quyền giám sát của nhân dân đối với bộ máy
hành chính.
Có thể thấy qua các giai đoạn đổi mới của đất nước với đổi mới kinh
tế làm trọng tâm, Đảng và Nhà nước ta đã thể hiện ngày càng rõ hơn những
nhận thức về ý nghĩa của cải cách nền hành chính nhà nước đối với mục tiêu
xây dựng đất nước. Cụ thể là thông qua đường lối, quan điểm, chủ trương, nội
dung và giải pháp về cải cách hành chính nhà nước được hình thành và từng
bước được bổ sung, hoàn thiện. Các nội dung, nhiệm vụ trọng tâm của cải
cách hành chính đã có sự thay đổi linh hoạt phù hợp với sự thay đổi của nhu
cầu xã hội, chủ yếu là dựa trên các yêu cầu về đổi mới kinh tế, do vậy ở khía
cạnh nhất định đã góp phần ổn định và thúc đẩy các quan hệ xã hội mới phát
triển theo chiều hướng tích cực.
1.2.3. Những kết quả chủ yếu trong cải cách hành chính thời gian qua

Thực hiện những nhiệm vụ đề ra trong Chương trình tổng thể cải cách
hành chính giai đoạn 2001 - 2010, thời gian qua Chính phủ đã tập trung chỉ
đạo, huy động mọi nguồn lực nhằm mở ra một nền hành chính mới năng
18
động, hiện đại và gần với nhân dân. Sự nỗ lực của Đảng và Nhà nước ta đã được
khẳng định bằng những thay đổi quan trọng của nền hành chính nước nhà.
Về cải cách thể chế hành chính. Đây là lĩnh vực được xác định là một
trong những trọng tâm của cải cách hành chính và đã đạt được những hiệu
quả nhất định trong xây dựng, điều chỉnh thể chế quản lý hành chính nhà
nước với bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và hội
nhập nền kinh tế thế giới. Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành
nhiều văn bản quy phạm pháp luật quan trọng, tạo hành lang pháp lý trong
phát triển kinh tế xã hội và tổ chức hoạt động của các cơ quan hành chính nhà
nước ở các cấp. Trong đó đã sửa đổi một số điều trong Hiến pháp 1992, ban
hành mới các Luật như: Luật Đầu tư, Luật Cán bộ công chức, Luật Bảo hiểm
y tế, Luật Lý lịch tư pháp … đồng thời quy định lại cơ cấu tổ chức, chức năng
nhiệm vụ, quyền hạn của tất cả các Bộ, ngành trung ương, tạo sự đồng nhất về
thể chế hành chính.
Cải cách thủ tục hành chính được tập trung thực hiện theo hướng đơn
giản hóa, công khai, minh bạch và đã mang lại những hiệu quả tích cực. Đã
triển khai có kết quả Quy chế thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên
thông tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, được ban hành kèm
theo Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg ngày 22/6/2007 của Thủ tướng Chính
phủ, tạo thuận lợi trong giải quyết các công việc của dân, thay đổi mối quan
hệ giữa Nhà nước và công dân, tạo sự liên thông giữa các cơ quan chức năng
trong việc giải quyết các yêu cầu của người dân. Công tác cải cách thủ tục
hành chính càng được đẩy mạnh khi kết hợp với việc ứng dụng công nghệ
thông tin trong giải quyết công việc của công dân, áp dụng hệ thống quản lý
chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2000 vào hoạt động của các cơ
quan hành chính nhà nước theo Quyết định số 144/2006/QĐ-TTg (hiện nay là

TCVN ISO 9001:2008 theo Quyết định số 118/2009/QĐ-TTg ngày 30/9/2009
về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 144/2006/QĐ-TTg
ngày 20/6/2006 của Thủ tướng Chính phủ). Đặc biệt là ngày 10/01/2007, Thủ
19
tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 30/QĐ-TTg phê duyệt Đề án
Đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn
2007 - 2010, "nhằm bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ, đơn giản, công khai,
minh bạch của thủ tục hành chính; tạo sự thuận lợi cho cá nhân, tổ chức và
doanh nghiệp trong tiếp cận và thực hiện thủ tục hành chính; nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; góp
phần phòng, chống tham nhũng và lãng phí". Lần đầu tiên Việt Nam đã thiết
lập và công bố công khai được bộ cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành
chính, Đề án 30 giúp chuẩn hóa thu gọn từ 10.000 bộ thủ tục cấp xã, 700 bộ
thủ tục hành chính cấp huyện xuống chỉ còn 63 bộ thủ tục hành chính cấp xã
và 63 bộ cấp huyện tại 63 tỉnh, thành Trung ương trên cả nước. Có thể nói,
việc triển khai Đề án 30 là bước đột phá trong tiến trình cải cách thủ tục hành
chính ở Việt Nam. Đề án được triển khai trên phạm vi toàn quốc, tại 4 cấp
chính quyền, (tức là gồm hơn 10.000 đơn vị cấp xã, khoảng 700 đơn vị cấp
huyện, 1.300 sở, ngành cấp tỉnh, 400 vụ, cục, đơn vị trực thuộc Bộ, cơ quan
ngang Bộ) với tất cả các thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà
nước liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống của người dân.
Việc thống nhất thực hiện các thủ tục hành chính tại từng địa phương có ý
nghĩa rất quan trọng trên nhiều phương diện, trước hết là tạo điều kiện để
người đứng đầu cơ quan hành chính các cấp nắm vững và kiểm soát được số
lượng thủ tục hành chính hiện có đang áp dụng trên địa bàn; tiếp đó là giúp
khắc phục tình trạng tùy tiện, thiếu thống nhất về nội dung và số lượng thủ tục
giữa các xã, các huyện trong cùng một tỉnh; đây cũng là điều kiện cần thiết để
bảo đảm sự thông suốt trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước,
tạo điều kiện thuận lợi để người dân và doanh nghiệp tham gia giám sát quá trình
thực thi công vụ của cán bộ, công chức, góp phần phòng chống tham nhũng,

tiêu cực; giảm gánh nặng cho dân, vẫn đảm bảo mục tiêu quản lý nhà nước.
Về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước. Đã xác định rõ hơn,
điều chỉnh một bước chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi
20
cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước, khắc phục được sự trùng chéo
trong công việc giữa các Bộ, ngành ở Trung ương, quyết định rõ hơn, cụ thể
hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp.
Đẩy mạnh một bước phân cấp quản lý hành chính giữa Trung ương và
địa phương, quy định rõ thẩm quyền cho từng cấp. Nghị quyết 08/CP của
Chính phủ năm 2004 là mốc quan trọng đánh dấu sự đổi mới một bước trong
việc tăng cường phân cấp giữa Trung ương và địa phương theo tinh thần cải
cách hành chính. Với tinh thần phân cấp mới, đã đề cao hơn vai trò, trách
nhiệm của chính quyền địa phương các cấp trong việc giải quyết những nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.
Trên cơ sở định rõ chức năng để sắp xếp, điều chỉnh, thay đổi cơ cấu
tổ chức bộ máy của Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp theo nguyên tắc tổ
chức quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, nhưng phù hợp với năng lực, trình độ
quản lý của cán bộ, công chức và phương tiện, điều kiện quản lý, đảm bảo
yêu cầu thực hiện cải cách cơ cấu tổ chức bộ máy vừa có sự thay đổi và tinh
gọn đầu mối, vừa tránh xáo trộn để có kế thừa, ổn định, phát triển và phù hợp
với tình hình thực tế. Nhìn chung, cách thức tổ chức này đã phát huy được vai
trò, tác dụng tích cực trong quản lý nhà nước đối với phạm vi, lĩnh vực được
giao quản lý và đặc biệt là phù hợp theo những tiêu chí đặc thù của các cấp
Ủy ban nhân dân từng địa phương.
Về xây dựng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Trong
những năm qua Đảng và Nhà nước ta thường xuyên quan tâm, chú trọng đến
công tác đổi mới và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức. Cụ thể như:
- Công tác tuyển dụng: Nhìn chung, đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức đã có sự phát triển cả về số lượng và chất lượng. Đổi mới công tác tuyển

dụng công chức hành chính từ hình thức xét tuyển sang tổ chức thi tuyển, kết
hợp với việc thực hiện tốt chính sách tinh giản biên chế là điều kiện thuận lợi
21
để tuyển dụng mới công chức, viên chức trẻ có trình độ chuyên môn nghiệp
vụ đáp ứng được yêu cầu công tác. Công tác tuyển dụng công chức cấp xã
thông qua thi tuyển cũng đã được thực hiện nghiêm túc, dân chủ, công khai,
đã góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ công chức ở cấp chính quyền cơ sở.
- Đổi mới công tác quản lý cán bộ, công chức thông qua việc xây
dựng, hoàn thiện tiêu chuẩn chức danh, luân chuyển, chuyển đổi vị trí công
tác, chuyển loại đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo Nghị định
số 158/2007/NĐ-CP ngày 27/10/2007 của Chính phủ quy định danh mục các
vị trí công tác định kỳ chuyển đổi và thời hạn chuyển đổi vị trí công tác trong
các cơ quan, đơn vị nhà nước. Qua việc luân chuyển, chuyển đổi vị trí công
tác đã cơ bản khắc phục được sự trì trệ trong thực thi nhiệm vụ, đồng thời
nâng cao ý thức trách nhiệm đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo và tạo động lực
khuyến khích, bồi dưỡng cán bộ trẻ có triển vọng phát triển, sớm trở thành
cán bộ nguồn cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo.
- Đã đề cao trách nhiệm người đứng đầu trong thực thi nhiệm vụ, công
vụ theo Nghị định 157/2007/NĐ-CP ngày 27/10/2007 quy định chế độ trách
nhiệm người đứng đầu cơ quan, tổ chức nhà nước. Đây là việc làm mới, thể
hiện sự quyết tâm cao của Chính phủ, sự cố gắng của các cấp, các ngành và
địa phương trong việc xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu các cơ
quan Nhà nước trong thực thi nhiệm vụ, công vụ. Nhìn chung việc thực hiện
quy định chế độ trách nhiệm người đứng đầu đã có tác dụng tốt, góp phần
tăng cường công tác theo dõi, giám sát, chỉ đạo thực thi nhiệm vụ của thủ
trưởng các cơ quan, tổ chức, nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao.
- Triển khai thí điểm thực hiện Đề án thí điểm tổ chức thi tuyển một
số chức vụ lãnh đạo, quản lý trong một số cơ quan nhà nước ở Trung ương và
địa phương (cấp vụ và tương đương thuộc bộ, cơ quan ngang bộ, cấp phòng
thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện và tương đương, cấp sở thuộc Ủy ban nhân

dân cấp tỉnh và tương đương). Những năm gần đây, một số địa phương như

×