Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Cải cách thủ tục hành chính trong ngành Hải Quan hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 126 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





TRỊNH PHƢƠNG THẢO






CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
TRONG NGÀNH HẢI QUAN HIỆN NAY





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC







HÀ NỘI - 2011





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




TRỊNH PHƢƠNG THẢO





CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
TRONG NGÀNH HẢI QUAN HIỆN NAY

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số : 60 38 01



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Thị Hiền





HÀ NỘI - 2011



MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục từ viết tắt


Danh mục các bảng


Danh mục các hình



MỞ ĐẦU
1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỦ TỤC
HÀNH CHÍNH TRONG NGÀNH HẢI QUAN
6
1.1.
Hải quan và cải cách thủ tục hành chính trong ngành Hải quan
6
1.1.1.
Tổ chức và hoạt động của ngành Hải quan nhìn từ góc độ lí
luận nhà nước và pháp luật
6
1.1.2.
Khái niệm thủ tục hành chính trong ngành Hải quan
13
1.1.3.
Đặc điểm của thủ tục hành chính trong ngành Hải quan
24
1.2.
Định hướng cải cách thủ tục hành chính trong ngành Hải quan
26
1.2.1.
Cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hóa, công
khai, minh bạch và dễ tiếp cận
26
1.2.2.
Bảo đảm tính ổn định của quy trình thủ tục hành chính
27
1.2.3.

Cải cách thủ tục chính áp dụng phương pháp quản lý hiện đại
28
1.3
Phân loại thủ tục hành chính trong ngành Hải quan
31
1.4.
Ý nghĩa của cải cách thủ tục hành chính trong ngành Hải quan
33

Chương 2: THỰC TRẠNG CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
TRONG NGÀNH HẢI QUAN HIỆN NAY
37
2.1.
Quan điểm của nhà nước về cải cách thủ tục hành chính trong
ngành Hải quan
37
2.2.
Thực trạng cải cách thủ tục hành chính trong ngành Hải quan
39
2.2.1.
Thực trạng pháp luật về thủ tục hải quan với xu hướng cải cách
39
2.2.2.
Thực trạng cải cách thủ tục hành chính đối với hoạt động xuất
nhập khẩu
45
2.2.3.
Thực trạng thực hiện thủ tục hải quan điện tử
52
2.2.4.

Xây dựng cơ chế một cửa quốc gia
69

Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH
CHÍNH TRONG NGÀNH HẢI QUAN
85
3.1.
Định hướng cải cách thủ tục hải quan từ nay đến năm 2020
85
3.2.
Giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về thủ tục hải quan
91
3.3.
Giải pháp thực hiện thủ tục hải quan điện tử
95
3.3.1.
Xây dựng cơ sở pháp lý cho thủ tục hải quan điện tử trên cơ
sở nội luật hóa các chuẩn mực quốc tế
95
3.3.2.
Nội luật hóa các chuẩn mực liên quan đến thủ tục hải quan
điện tử theo thứ tự ưu tiên
99
3.3.3.
Xây dựng nguồn nhân lực trong môi trường thủ tục hải quan
điện tử
103
3.4.
Giải pháp triển khai cơ chế một cửa quốc gia gắn với cải cách
thủ tục hành chính

106
3.4.1.
Tiêu chuẩn hóa và hài hòa hóa quy trình thủ tục
106
3.4.2.
Tiêu chuẩn hóa và hài hóa yêu cầu thông tin, chứng từ
108
3.4.3.
Đẩy mạnh sự phối kết hợp với cơ quan nhà nước có liên quan
111
3.5.
Phát triển công nghệ thông tin
113

KẾT LUẬN
116

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
118





DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CNTT
: Công nghệ thông tin
GDĐT
: Giao dịch điện tử

QLRR
: Quản lý rủi ro
TTHC
: Thủ tục hành chính
TTHQ
: Thủ tục hải quan
TTHQĐT
: Thủ tục hải quan điện tử





Danh môc c¸c b¶ng

Sè hiÖu
b¶ng
Tªn b¶ng
Trang
2.1
Phân biệt cơ chế một cửa hành chính và cơ chế một cửa
quốc gia
84



Danh môc c¸c H×NH

Sè hiÖu
h×nh

Tªn h×nh
Trang
2.1
Sơ đồ quy trình TTHQĐT
59
2.2
Sơ đồ quản lý hàng hóa xuất nhập khẩu
71
2.3
Mô tả quy trình cấp phép
74
2.4
Quy trình thông quan hàng hóa
75




MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong khoảng thời gian từ hơn một chục năm trở lại đây, đất nước
ngày càng đổi mới theo chủ trương của Đảng đề ra, đặc biệt kể từ khi chúng ta
bắt đầu thực hiện chủ trương cải cách nền hành chính nhà nước và bước đầu cải
cách thủ tục hành chính (TTHC), ý nghĩa của TTHC đã được đánh giá đúng mức
hơn. Vai trò của TTHC với tư cách là một bộ phận của cơ chế hành chính ngày
càng có vai trò to lớn. TTHC là cơ sở và điều kiện cần thiết để cơ quan nhà nước
giải quyết công việc của người dân và các tổ chức theo pháp luật, bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức và các cơ quan có công việc
cần giải quyết. Với tư cách là một bộ phận của TTHC, trong những năm qua

ngành Hải quan luôn ý thức được tầm quan trọng của cải cách thủ tục hải
quan (TTHQ) và xác định đây là một nhiệm vụ trọng tâm của toàn ngành.
Bên cạnh đó, để hoàn thành trọng trách là người gác cửa nền kinh tế
đất nước, xuất phát từ nhiệm vụ kiểm tra, giám sát đối với các hoạt động xuất
khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh lãnh thổ Việt Nam, cơ quan
hải quan phải xây dựng các quy trình thủ tục xuất nhập khẩu đảm bảo vừa
kiểm soát hải quan đối với hàng hóa, phương tiện vừa tạo thuận lợi cho
thương mại hợp pháp, thu hút đầu tư nước ngoài.
Hiện nay, các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hàng hóa,
phương tiện vận tải tăng trưởng nhanh về số lượng theo từng năm. Về hình
thức, "kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh cũng ngày càng đa dạng,
đặc biệt là sự ra đời và phát triển nhanh chóng của thương mại điện tử đã làm
tăng tốc độ luân chuyển của hàng hóa" [13, tr. 5].
Bên cạnh đó dưới tác động của tự do hóa, toàn cầu hóa thương mại
quốc tế, các quốc gia khi tham gia các tổ chức, diễn đàn quốc tế và khu vực
đều phải tạo mọi điều kiện thuận lợi cho thương mại, dịch vụ hợp pháp hoạt
động và phát triển. Các tổ chức quốc tế hiện nay rất chú trọng tới đơn giản
hóa, hài hòa hóa thủ tục hải quan, giảm thiểu tối đa chi phí trong quá trình
làm thủ tục, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Do đó,
cơ quan hải quan ngày càng phải đối mặt với nhiều thách thức như môi
trường làm việc phức tạp, biến đổi liên tục, khối lượng hàng hóa tăng nhanh,
phương thức vận chuyển hàng hóa đa dạng, hiện đại (vận chuyển đa phương
thức ), áp lực tạo thuận lợi thương mại cao (xử lý hàng hóa trong thời gian
ngắn và hạn chế can thiệp trực tiếp vào hàng hóa…); phạm vi hoạt động của
hải quan mở rộng và chuyên sâu (bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, ngăn chặn việc
xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh bất hợp pháp các loại rác thải độc hại…), các
hoạt động vi phạm pháp luật hải quan tinh vi và phức tạp; nguồn lực hạn chế…
Để giải quyết tổng thể những thách thức này thì việc cải cách TTHC
trong ngành Hải quan là một trong những giải pháp hiệu quả. Tuy nhiên, để
thực hiện giải pháp này, cơ quan Hải quan đồng thời phải thực hiện các yêu

cầu tổng thể về hiện đại hóa: sửa đổi hệ thống pháp luật, tái cơ cấu tổ chức và
sử dụng hợp lý nguồn nhân lực, phát triển và ứng dụng đồng bộ hệ thống
công nghệ thông tin (CNTT) trong các khâu nghiệp vụ quản lý và tích hợp các
hệ thống, TTHQ với dây chuyền cung ứng. Dưới sự tác động này, các chương
trình, dự án về cải cách TTHC trong ngành Hải quan đã được chú trọng thực
hiện trong nhiều năm qua và đã thu được nhiều kết quả tích cực.
Do đó, việc nghiên cứu Đề tài "Cải cách thủ tục hành chính trong
ngành Hải quan hiện nay" giữa bối cảnh hiện nay, hết sức có ý nghĩa về cả
lý luận, thực tiễn và tính thời sự, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quàn lý nhà
nước về hải quan, đáp ứng yêu cầu cải cách, hiện đại hóa hải quan theo định
hướng chung của Đảng và của Nhà nước.
2. Tình hình nghiên cứu
2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Hiện nay, việc cải cách TTHC được triển khai ở nhiều nước trên thế
giới đặc biệt trong lĩnh vực hải quan bởi đây là một lĩnh vực liên quan trực
tiếp đến tạo thuận lợi thương mại, thu hút đầu tư và làm tăng khả năng cạnh
tranh của mỗi quốc gia khi tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Các nghiên cứu của thế giới liên quan đến cải cách thủ tục hải quan
hiện nay có thể kể tới các tài liệu như: Cải cách thủ tục xuất nhập khẩu hướng
dẫn cho đối tượng thực thi (9/2008) của Ngân hàng thế giới, Sổ tay hiện đại
hóa hải quan (2007); Kinh nghiệm cải cách thủ tục hải quan của các nước
ASEAN (2009)
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Các nghiên cứu trong nước đối với cải cách thủ tục hành chính nói
chung và đối với thủ tục hải quan nói riêng trong thời gian qua khá nhiều. Bởi
đây là một vấn đề mang tính thời sự, là đòi hỏi đặt ra trong bối cảnh hội nhập
kinh tế quốc tế, được Đảng và Nhà nước coi là một trong những khâu đột phá
của cải cách nền hành chính quốc gia.
Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài "Cải cách thủ tục
hành chính trong ngành Hải quan hiện nay" bao gồm: Hoàn thiện thủ tục

hải quan trong giai đoạn hiện nay (2006); Báo cáo chẩn đoán của chuyên gia
Dự án hiện đại hải quan (2005), Báo cáo đề án đơn giản hóa thủ tục hành
chính của Việt Nam: Tối đa hiệu quả từ cải cách nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập WTO (2007) của Cơ quan phát triển quốc
tế Hoa Kỳ; Thủ tục hành chính về xuất nhập khẩu hàng hóa theo Luật Hải
quan, những điểm tích cực và hạn chế (2007)
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
TTHC trong ngành Hải quan rất đa dạng và được chia thành nhiều
loại, trong đó TTHC trong hoạt động xuất nhập khẩu (thủ tục hải quan) được
thực hiện một cách thường xuyên và ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả quàn lý
nhà nước về hải quan. Đây được coi là thủ tục xương sống của ngành Hải
quan hiện nay. Trong phạm vi đề tài, tác giả tập trung nghiên cứu những cải
cách TTHQ hiện nay nhằm tìm ra những mặt tích cực, hạn chế và đề xuất các
giải pháp tương ứng.
4. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Về mục đích, đề tài phân tích cải cách TTHC đối với hoạt động xuất
nhập khẩu hiện nay của ngành Hải quan hiện nay, chỉ ra những ưu điểm và
nhược điểm đồng thời đề xuất một số giải pháp khắc phục.
Để đạt được mục đích, đề tài giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Phân tích và làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về cải cách TTHC trong
ngành Hải quan: Tổ chức và hoạt động của ngành Hải quan dưới góc độ lý
luận nhà nước và pháp luật; Khái niệm TTHC trong ngành Hải quan; các
nguyên tắc thực hiện TTHC trong ngành Hải quan
- Phân tích và đánh giá thực trạng cải cách TTHC hiện nay: Phân tích
quy trình TTHQ hiện tại; Xây dựng TTHQĐT và cơ chế một cửa quốc gia -
nội dung của cải cách thủ tục hành chính trong ngành Hải quan.
- Đề xuất một số giải pháp cải cách TTHC trong ngành Hải quan trong
thời gian tới.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận

Dựa trên chủ nghĩa Mác- Lê nin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về quan điểm của Đảng cộng sản Việt
Nam về đường lối phát triển kinh tế ở Việt Nam, về hội nhập kinh tế quốc tế.
5.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp tổng hợp, phân tích
Đề tài có sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích nhằm hệ thống
hóa một cách cơ bản các TTHC cơ bản, cốt lõi của ngành hải quan. Đó là các
TTHC liên quan đến hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa qua biên giới.
Qua đó, đưa ra các nhận định về hiện trạng TTHC hiện hành nhằm phát hiện
các ưu, nhược điểm và đề xuất các biện pháp khắc phục.
- Phương pháp so sánh dùng để phân biệt các đối tượng nghiên cứu
trong đề tài để từ đó có cách hiểu thống nhất đối với vấn đề đưa ra.
6. Đóng góp khoa học của đề tài
Đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống về cải cách
TTHC trong lĩnh vực hải quan trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, đặc
biệt là việc triển khai thủ tục hải quan điện tử và cơ chế một cửa quốc gia của
ngành hải quan hiện nay.
Đóng góp khoa học của đề tài thể hiện ở những khía cạnh sau:
- Làm sáng tỏ các vấn đề lý luận cơ bản về thủ tục hành chính trong
ngành hải quan;
- Đánh giá thực trạng cải cách thủ tục trong ngành hải quan trong xu
thế hội nhập hiện nay;
- Đề ra các giải pháp để cải cách thủ tục hành tục hành chính trong
ngành hải quan.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về thủ tục hành chính trong
ngành hải quan.
Chương 2: Thực trạng cải cách thủ tục hành chính trong ngành hải

quan hiện nay.
Chương 3: Một số giải pháp cải cách thủ tục hành chính trong ngành
hải quan.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TRONG NGÀNH HẢI QUAN

1.1. Hải quan và cải cách thủ tục hành chính trong ngành Hải quan
1.1.1. Tổ chức và hoạt động của ngành Hải quan nhìn từ góc độ lí
luận nhà nước và pháp luật
Hải quan là một bộ phận của bộ máy nhà nước do nhà nước lập ra để
thực hiện chức năng quàn lý nhà nước về hải quan. Hải quan nằm trong hệ
thống các cơ quan hành chính nhà nước, có cơ cấu tổ chức riêng để thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của mình do pháp luật quy định, hoạt động trên một đơn
vị hành chính- lãnh thổ hải quan hay trên một lĩnh vực nhất định -lĩnh vực hải
quan. Các quốc gia đều đặc biệt quan tâm tới công tác quàn lý nhà nước về
hải quan và xác định đây là một trong những nội dung quan trọng của hoạt
động quàn lý nhà nước. Luật pháp của mỗi nước đều có các quy định xác định
mục tiêu, nội dung hoạt động, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của cơ
quan hải quan nước mình. Có thể nói rằng, hải quan đã trở thành một công cụ
thiết yếu của nhà nước trong việc đảm bảo thực hiện chính sách về phát triển
các quan hệ chính trị, kinh tế, văn hóa với nước ngoài, góp phần tăng cường
sự giao lưu và hợp tác quốc tế, bảo vệ lợi ích, chủ quyền và an ninh quốc gia.
Tổ chức Hải quan thế giới đã định nghĩa về cơ quan Hải quan như sau:
"Hải quan là cơ quan của Chính phủ chịu trách nhiệm thi hành Luật Hải quan
và thu thuế hải quan và thuế khác đồng thời cũng chịu trách nhiệm thi hành
các luật khác có liên quan đến việc nhập khẩu, xuất khẩu, vận chuyển hoặc
lưu kho hàng hóa" [18].
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, hải quan là "công tác kiểm soát, đánh
thuế hàng hóa xuất nhập cảng" [31]. Định nghĩa này về hải quan đã nêu một

cách khái quát nội dung công việc của hải quan, đó là phụ trách việc kiểm tra,
giám sát, kiểm soát hàng hóa, phương tiện vận tải đưa vào, đưa ra khỏi lãnh
thổ quốc gia và thu thuế các hoạt động này.
Theo nguồn gốc lịch sử, từ Hải quan bắt nguồn từ từ "Douane" của
người Ai Cập, từ này có nghĩa là "thu quốc gia". Người Anh gọi là
"Customs", người Đức và Hy Lạp gọi là "Zull" Sự tan rã của xã hội cộng sản
nguyên thủy, giai cấp chủ nô ra đời, xuất hiện những thành phần dư dả vật
chất trong xã hội, cơ cấu xã hội thay đổi là những điều kiện về chính trị của
việc xuất hiện hoạt động hải quan. Xã hội loài người càng phát triển, nhu cầu
của con người ngày càng đa dạng, phong phú và ngày một đòi hỏi cao hơn sự
thỏa mãn về hàng hóa. Do vậy, các dịch vụ trao đổi, mua bán, chuyển nhượng
ngày càng phát triển. Dường như các mặt hàng trong nước không đủ để đáp
ứng nhu cầu của người dân, chính vì thế việc xuất nhập khẩu tăng lên không
ngừng và do đó vai trò của cơ quan hải quan ngày càng quan trọng.
Thời kỳ đầu, hải quan về cơ bản có các chức năng chính như việc thu
thuế tạo nguồn thu cho ngân khố, củng cố địa vị thống trị của giai cấp bóc lột.
Tại Hy Lạp, người ta thu thuế ở các chợ hàng nhập khẩu, xuất khẩu. Tàu
thuyền nhập khẩu đậu ở cảng đều phải nộp thuế, thuế này được gọi là
"inforium" khoảng 2% trị giá hàng hóa. Tại La Mã thu thuế "inforium" do
một số người đứng đầu phụ trách. Cũng vì chức năng cơ bản này mà hiện nay
cơ quan hải quan nhiều nước vẫn trực thuộc Bộ Tài chính. Hiện nay, chức
năng của Hải quan đã được mở rộng hơn không dừng lại ở việc thu thuế mà
còn phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại
Chức năng truyền thống của Hải quan là bảo vệ an ninh kinh tế quốc
gia. Mục tiêu tổng quát của chức năng này là việc bảo vệ và tạo điều kiện
thuận lợi cho phát triển kinh tế của đất nước. Chức năng của Hải quan thể
hiện qua những mục tiêu mà Hải quan nhằm đạt được thông qua các hoạt
động của mình. Những mục tiêu này thay đổi tùy theo hình thái ý thức xã hội
và mô hình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Ở Việt Nam, cơ quan hải quan được thành lập ngay sau khi nước Việt

Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Chính phủ lâm thời thành lập Sở Thuế quan và
Thuế gián thu. Sự kiện này có ý nghĩa lịch sử rất quan trọng đánh dấu sự ra
đời của Hải quan Việt Nam, không chỉ đáp ứng nhu cầu của đất nước, mà còn
khẳng định Hải quan là một công cụ không thể thiếu của một quốc gia độc lập
có chủ quyền.
Cơ quan hải quan là thiết chế nhà nước được thành lập để trực tiếp
thực hiện hoạt động hải quan theo quy định của pháp luật. Cùng với việc thực
hiện hoạt động này, Hải quan Việt Nam còn là cơ quan giúp Bộ trưởng Bộ
Tài chính thực hiện chức năng quàn lý nhà nước về hải quan.
Để thực hiện chức năng nêu trên, cơ quan hải quan có những nhiệm vụ
cụ thể sau đây:
1. Thực hiện kiểm tra giám sát, hàng hóa, phương tiện vận tải theo
quy định của pháp luật về hải quan;
2. Tham gia công tác đấu tranh phòng, chống buôn lậu, vận chuyển
trái phép hàng hóa qua biên giới;
3. Tổ chức thực hiện pháp luật về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu;
4. Kiến nghị chủ trương, biện pháp quàn lý nhà nước về hải quan đối
với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh và chính
sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Hải quan do Hiến pháp, luật và
nhiều văn bản dưới luật quy định. Mặt khác, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của cơ quan hải quan cũng do vị trí, tính chất đặc thù của ngành Hải quan
trong hệ thống các cơ quan nhà nước quy định. Quyền hạn của cơ quan hải
quan là phương tiện pháp lý cần thiết mà nhà nước quy định để thực hiện,
chức năng, nhiệm vụ được giao.
Với những nhiệm vụ và quyền hạn đặc biệt, hải quan được tổ chức
theo nguyên tắc tập trung thống nhất dưới sự chỉ đạo tập trung của Chính phủ.
Hải quan là cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính, có nhiệm vụ giúp Bộ
trưởng Bộ Tài chính thực hiện chức năng quàn lý nhà nước về hải quan, thực

thi pháp luật hải quan trong phạm vi cả nước. Hệ thống tổ chức của hải quan
không được củng cố, hoàn thiện trong những năm qua, đáp ứng các yêu cầu
đặt ra từ thực tiễn phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, theo chủ trương của
Đảng và Nhà nước đặt ra.
Hải quan được tổ chức theo mô hình 3 cấp, đứng đầu là Tổng cục Hải
quan- được coi là cơ quan đầu não của toàn ngành; Cục Hải quan tỉnh, liên
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Chi cục Hải quan cửa khẩu, Đội kiểm
soát hải quan và đơn vị tương đương. Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan
thống nhất quản lý, điều hành hoạt động của Hải quan các cấp; Hải quan cấp
dưới chịu sự quản lý, chỉ đạo của Hải quan cấp trên.
Ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc liên tỉnh có Cục Hải
quan tỉnh hoặc liên tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trực thuộc Tổng cục
Hải quan. Cục Hải quan do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập mới, tổ
chức lại và giải thể. Cục Hải quan thực hiện các công việc về hải quan trong
phạm vi lãnh thổ mà mình được phép quản lý theo quy định của pháp luật.
Ở cửa khẩu, cảng biển quốc tế, cảng sông quốc tế, bưu điện ngoại
dịch, khu vực kiểm soát hải quan trên biên giới, bờ biển, vùng lãnh hải, vùng
tiếp giáp lãnh hải, khu chế xuất hoặc các địa điểm khác theo quy định của
pháp luật có Chi cục Hải quan cửa khẩu, Đội kiểm soát hải quan hoặc đơn vị
tương đương. Việc thành lập Chi cục Hải quan cửa khẩu, Đội kiểm soát hải
quan hoặc đơn vị tương đương do Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan quyết
định theo quy hoạch tổ chức mạng lưới hải quan đã được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt. Chi cục Hải quan cửa khẩu, Đội kiểm soát hải quan và các đơn
vị tương đương là các đơn vị trực tiếp thực hiện những hoạt động nghiệp vụ
cụ thể về hải quan theo quy định của pháp luật.
Như vậy, nguyên tắc tập trung, thống nhất thể hiện một cách rõ nét
trong tổ chức bộ máy của cơ quan hải quan. Đứng đầu ngành là Tổng cục
trưởng Tổng cục Hải quan do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm theo đề nghị
của Bộ trưởng Bộ Tài chính và chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng Bộ Tài
chính về hoạt động của toàn ngành. Cục trưởng Cục Hải quan các tỉnh, liên

tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chịu trách nhiệm trước Tổng cục trưởng
Tổng cục Hải quan về hoạt động hải quan trong khu vực mà mình quản lý.
Chi cục trưởng Chi cục Hải quan cửa khẩu và đơn vị tương đương chịu sự
quản lý của Cục trưởng Cục Hải quan. Trong việc thực hiện các hoạt động
quàn lý nhà nước về hải quan, quan hệ của hải quan khu vực với cơ quan hành
chính nhà nước, viện kiểm sát, tòa án cũng như quan hệ của hải quan với các
bộ, ngành khác chỉ mang tính phối hợp hoạt động chứ không phải là quan hệ
phục tùng chỉ đạo. Nguyên tắc tập trung, thống nhất trong tổ chức và hoạt
động của cơ quan hải quan đảm bảo tính độc lập, khách quan của hoạt động
hải quan. Đây chính là đòi hỏi hết sức cần thiết đối với những công việc mà
nội dung có liên quan đến hoạt động kiểm tra, kiểm soát việc tuân thủ các quy
định của pháp luật trên bất cứ lĩnh vực nào.
Với vai trò, chức năng và nhiệm vụ của mình, cơ quan hải quan là một
bộ phận quan trọng trong bộ máy nhà nước ở các quốc gia nói chung cũng
như ở Việt Nam nói riêng. Hải quan được tổ chức xuất phát từ bản chất của
nhà nước xã hội chủ nghĩa và phải phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể và
các yếu tố như điều kiện tự nhiên và xã hội, vị trí địa lý của mỗi nước trong
từng thời kỳ cụ thể. Khi nhu cầu khách quan của xã hội thay đổi và những
điều kiện chính trị, kinh tế văn hóa, xã hội thay đổi thì cơ quan hải quan
cũng phải có những cải cách hoặc thay đổi tương ứng.
Hoạt động hải quan được xác định là những hoạt động mang tính
chuyên môn, nghiệp vụ cụ thể do các cơ quan hải quan đảm nhiệm như:
- Giám sát, kiểm tra đối với việc xuất khẩu, nhập khẩu các hàng hóa, hành
lý, bưu phẩm, bưu kiện, các tài sản, đồ vật khác theo quy định của pháp luật;
- Giám sát, kiểm tra các phương tiện vận chuyển hành khách, hàng
hóa xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh;
- Đánh thuế với hàng hóa theo quy định của pháp luật;
- Đấu tranh chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ
qua biên giới và các vi phạm pháp luật về hải quan.
Đối với đời sống chính trị, kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, vai trò

của hoạt động hải quan thể hiện qua những phương diện sau đây:
Thứ nhất, hải quan là công cụ quan trọng của mỗi quốc gia trong việc
bảo hộ và thúc đẩy phát triển nền sản xuất trong nước. Thông qua việc kiểm
soát chặt chẽ hàng hóa xuất, nhập khẩu, đấu tranh mạnh mẽ với các hoạt động
buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ và các phương tiện thanh
toán khác qua biên giới, hoạt động hải quan góp phần đảm bảo cho nền kinh
tế phát triển ổn định, kích thích và bảo hộ sản xuất trong nước. Cũng chính
thông qua việc trực tiếp thực hiện hoạt động thu thuế xuất - nhập khẩu, thuế
gián thu đối với hàng nhập khẩu, hoạt động hải quan đã trở thành công cụ rất
quan trọng trong việc bảo vệ hàng rào thuế quan nhằm góp phần điều tiết hoạt
động kinh tế diễn ra ở bên trong mỗi quốc gia. Bên cạnh đó, thông qua việc
thu thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu hoạt động hải quan đã đóng
góp một phần không nhỏ vào nguồn thu cho ngân sách của các quốc gia.
Thứ hai, hải quan được xác định là một trong những công cụ quan
trọng góp phần vào việc bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của
mỗi quốc gia. Vai trò này của hải quan được đặc biệt nhấn mạnh trong việc
phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về hải quan nói
riêng và vi phạm pháp luật nói chung nhằm đảm bảo an ninh về văn hóa tư
tưởng, an toàn vệ sinh - dịch tễ, bảo vệ sức khỏe của nhân dân, bảo vệ lợi ích
của người tiêu dùng, chủ quyền và an ninh của các quốc gia.
Thứ ba, ngày nay, các quốc gia đang có nhu cầu thu hút vốn đầu tư
của các nhà đầu tư nước ngoài nhằm xây dựng và phát triển nền kinh tế của
quốc gia mình đều đặc biệt quan tâm tới việc cải thiện môi trường đầu tư,
trong đó phải kể đến việc thay đổi luật lệ và chính sách về hải quan, xúc tiến
việc cải cách TTHC trong lĩnh vực hải quan. Đây là việc làm cần thiết bởi luật
lệ và chính sách hải quan, TTHQ là những vấn đề có liên quan trực tiếp đến
lợi ích của các nhà đầu tư nước ngoài. Như vậy, hải quan là lĩnh vực hoạt
động có tầm quan trọng đặc biệt đối với việc cải thiện môi trường đầu tư, thúc
đẩy và thu hút vốn đầu tư nước ngoài đối với mỗi quốc gia.
Nội dung chủ yếu của hoạt động hải quan bao gồm TTHQ và chế độ

kiểm tra, giám sát hải quan.
Thủ tục hải quan rất đa dạng, trong đó thủ tục thông quan hàng hóa,
phương tiện vận tải được thực hiện thường xuyên và là thủ tục xương sống
của ngành Hải quan. Tham gia vào thủ tục thông quan gồm có: người khai hải
quan, công chức hải quan có thẩm quyền. Thủ tục thông quan được thực hiện
tại các địa điểm làm TTHQ theo quy định của pháp luật. Để thông quan hàng
hóa phải trải qua các bước thủ tục như khai nộp, tiếp nhận và đăng ký hồ sơ
hải quan; kiểm tra hải quan; thu thuế và các khoản thu khác
Chế độ kiểm tra, giám sát hải quan là hoạt động mang tính đặc thù của
ngành Hải quan. Cùng với các hoạt động khác, kiểm tra, giám sát hải quan
góp phần rất quan trọng vào việc thực hiện chức năng quàn lý nhà nước về hải
quan của các cơ quan hải quan. Thông qua công tác này, cơ quan hải quan kịp
thời phát hiện những thiếu sót, sơ hở, những vi phạm pháp luật trong công tác
quàn lý nhà nước về hải quan để xử lý theo pháp luật, đồng thời tiến hành sửa
đổi, bổ sung hoặc kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ
sung các chính sách, chế độ quàn lý nhà nước về hải quan cho phù hợp với
trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, với yêu cầu của từng thời kỳ,
từng giai đoạn khác nhau. Có thể khẳng định rằng, vai trò của hoạt động hải
quan ở mỗi quốc gia chủ yếu thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát của cơ
cơ quan này.
Để cơ quan hải quan hoạt động có hiệu quả cần phải dựa trên cơ sở
vững chắc của những nguyên tắc và quy định cụ thể của pháp luật. Thực tiễn
cho thấy, muốn thực hiện tốt sự quản lý của nhà nước trên bất kỳ lĩnh vực nào
của đời sống kinh tế- xã hội, mở rộng quan hệ và hợp tác với các nước thì
phải "chú trọng phát huy vai trò của của pháp luật, nhanh chóng xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh trong nước,
đồng thời phù hợp với xu hướng phát triển chung của tình hình quốc tế và khu
vực" [28, tr. 347]. Hệ thống pháp luật hải quan được hình thành dần từng
bước và phụ thuộc vào những điều kiện và hoàn cảnh của đất nước.
Dưới góc độ khoa học pháp lý có thể thấy pháp luật hải quan chính là

tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội trong
lĩnh vực quàn lý nhà nước về hải quan, tức là điều chỉnh hoạt động của cơ
quan hải quan cũng như các chủ thể khác tham gia các quan hệ xã hội được
hình thành trong quá trình tổ chức và hiện hoạt động chấp hành- điều hành
của nhà nước trong lĩnh vực hải quan (thi hành các chế độ kiểm tra, giám sát,
quàn lý nhà nước đối với hàng hóa, hành lý; phương tiện vận tải xuất nhập
cảnh, chống buôn lậu, gian lận thương mại, thu thuế và các khoản thu khác )
nhằm bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước, bảo vệ chủ quyền đất nước về
mặt kinh tế.
Như vậy, tổ chức và hoạt động của ngành Hải quan tuân thủ những
nguyên tắc nhất định và theo quy định của pháp luật. Trong những năm qua,
tổ chức và hoạt động của ngành Hải quan không ngừng được hoàn thiện đặc
biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế xứng đáng là người gác cửa nền
kinh tế của quốc gia.
1.1.2. Khái niệm thủ tục hành chính trong ngành Hải quan
Trong quản lý, các công việc cần phải được giải quyết theo những thủ
tục phù hợp. Với ý nghĩa chung nhất, "thủ tục (procedure) là phương thức,
cách thức giải quyết công việc theo một trình tự nhất định, một thể lệ thống
nhất, gồm một loạt nhiệm vụ liên quan chặt chẽ với nhau nhằm đạt được kết
quả mong muốn" [10, tr. 5].
Trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, thủ tục trước hết được
hiểu là những trình tự được quy định phải tuân theo khi thực hiện công việc.
Theo quan niệm này, ở nhiều nước có luật thủ tục cho các hoạt động của các
cơ quan nhà nước tương đối cụ thể. Những thủ tục như vậy không đơn thuần
chỉ là yêu cầu về giấy tờ hành chính cần có mà còn là trật tự hoạt động của cơ
quan nhà nước được quy định.
Theo quy định của pháp luật và thực tiễn quàn lý nhà nước ở nước ta,
hoạt động chấp hành và điều hành (hành pháp) của hệ thống cơ quan hành
chính nhà nước được thực hiện bằng hành động liên tục theo một trình tự nhất
định nhằm đạt mục đích quản lý đã được đề ra. Đó là thủ tục quản lý hành

chính nhà nước, được gọi là thủ tục hành chính.
Trong khoa học luật hành chính không có quan điểm thống nhất về
phạm vi cụ thể của khái niệm thủ tục hành chính.
Quan niệm hành chính thứ nhất cho rằng, TTHC là trình tự mà các cơ
quan quàn lý nhà nước giải quyết trong lĩnh vực trách nhiệm hành chính và
xử lý vi phạm pháp luật.
Theo quan niệm thứ hai thì TTHC là trình tự giải quyết bất kỳ một
nhiệm vụ cá biệt, cụ thể nào trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước. Như
vậy, ngoài thủ tục xử lý các vi phạm hành chính thì thủ tục cấp giấy phép,
đăng ký và thủ tục xuất nhập khẩu cũng được coi là TTHC.
Quan niệm này đã có phạm vi rộng hơn nhưng vẫn chưa thật đầy đủ,
hợp lý, bởi vì ngoài trình tự giải quyết bất kỳ một vụ việc cá biệt, cụ thể nào,
hoạt động ban hành các quyết định quản lý mang tính chủ đạo và mang tính
quy phạm cũng phải tuân thủ nghiêm ngặt những trình tự nhất định nhằm đảm
bảo tính hợp pháp và hợp lý của các quyết định.
Vì vậy, TTHC cần được hiểu theo nghĩa rộng, như sau:
Thủ tục hành chính là trình tự về thời gian, không gian, các
giai đoạn cần phải có để thực hiện mọi hình thức hoạt động của các
chủ thể quản lý hành chính nhà nước, bao gồm trình tự thành lập
các công sở; trình tự bổ nhiệm, điều động viên chức; trình tự lập
quy, áp dụng quy phạm để bảo đảm các quyền chủ thể và xử lý vi
phạm; trình tự tổ chức- tác nghiệp hành chính [10, tr. 6].
Nguyên tắc quàn lý nhà nước bằng pháp luật đòi hỏi hoạt động nhà
nước phải tuân theo những quy tắc pháp lý quy định về trình tự, cách thức khi
sử dụng thẩm quyền của từng cơ quan để xử lý công việc. Hoạt động quàn lý
nhà nước tác động đến rất nhiều các quan hệ xã hội khác nhau rất đa dạng. Vì
vậy, không có một TTHC duy nhất, mà có rất nhiều loại thủ tục tương ứng
với từng loại hoạt động quản lý cụ thể. TTHC là vô cùng cần thiết, vì nó bảo
đảm cho tiến trình hành chính không trì trệ hay cản trở, có ý nghĩa to lớn
trong việc thực hiện các lợi ích xã hội khác nhau. Các cơ quan nhà nước và

công chức nhà nước khi ban hành và tổ chức thực hiện các quyết định quản lý
hành chính nhà nước đều phải tuân theo một quy trình đã được quy phạm
TTHC quy định, nhằm thực hiện một cách tốt nhất các chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước theo pháp luật cũng như phục vụ nhu cầu hàng ngày
của công dân.
TTHC là một chế định tất yếu của luật hành chính. Nói khác đi, TTHC
là loại quy phạm hành chính có tính công cụ để cho cơ quan nhà nước có điều
kiện thực hiện chức năng của mình. TTHC bảo đảm cho các quy phạm vật
chất của luật hành chính được thực hiện có hiệu quả trong đời sống xã hội.
Xây dựng một quan niệm chung, thống nhất về TTHC là rất quan
trọng. Điều đó chẳng những có ý nghĩa, vai trò to lớn trong hoạt động lập
pháp, lập quy mà còn hết sức cần thiết để có nhận thức hành động đúng đắn
trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước; đặc biệt là trong tiến trình cải
cách nền hành chính nhà nước.
Như vậy, TTHC là trình tự, cách thức giải quyết công việc của cơ
quan hành chính nhà nước có thẩm quyền trong mối quan hệ nội bộ của hành
chính và giữa các cơ quan hành chính nhà nước với các tổ chức và công dân.
Nó giữ vai trò đảm bảo cho công việc đạt được mục đích đã định, phù hợp với
thẩm quyền của các cơ quan nhà nước hoặc của các cá nhân, tổ chức được ủy
quyền trong việc thực hiện chức năng quàn lý nhà nước.
Trên cơ sở khái niệm chung về TTHC có thể hiểu TTHC trong lĩnh
vực hải quan (thủ tục hải quan) là trình tự thực hiện các công việc thuộc thẩm
quyền của cơ quan hải quan, trình tự thực hiện quyền và nghĩa vụ của các tổ
chức và cá nhân liên quan trong quá trình tiến hành hoạt động hải quan theo
quy định của pháp luật.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, hàng hóa xuất khẩu, nhập
khẩu, quá cảnh, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh phải được
làm TTHQ theo đúng các nguyên tắc của TTHC, đó là "công khai, nhanh
chóng và theo đúng các quy định của pháp luật".
Nội dung của khái niệm TTHQ thể hiện qua ba yếu tố: Chủ thể tham

gia TTHQ; Đối tượng của TTHQ; Quy trình các bước của TTHQ.
* Chủ thể tham gia TTHQ
- Công chức hải quan có thẩm quyền: Đây là những người trực tiếp
thực hiện thẩm quyền của mình trong lĩnh vực quàn lý nhà nước về hải quan
theo quy định của pháp luật, đảm bảo cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu,
xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh được thực hiện theo đúng pháp luật.
- Người khai hải quan bao gồm chủ hàng hóa, chủ phương tiện vận tải
hoặc người được chủ hàng hóa, chủ phương tiện vận tải ủy quyền.
* Đối tượng của TTHQ
- Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh;
- Vật dụng trên phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh;
ngoại hối, tiền Việt Nam, kim khí quý, đá quý, văn hoá phẩm, di vật, bưu
phẩm, bưu kiện xuất khẩu, nhập khẩu;
- Hành lý của người xuất cảnh, nhập cảnh;
- Các vật phẩm khác xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hoặc lưu giữ
trong địa bàn hoạt động của cơ quan hải quan.
- Phương tiện vận tải đường bộ, đường sắt, đường hàng không, đường
biển, đường sông xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, chuyển cảng.
* Quy trình các bước của TTHQ
Bước 1: Tiếp nhận hồ sơ; kiểm tra điều kiện và đăng ký tờ
khai hải quan; kiểm tra hồ sơ và thông quan đối với lô hàng miễn
kiểm tra thực tế hàng hóa:
1. Tiếp nhận hồ sơ hải quan từ người khai hải quan theo quy
định của pháp luật hải quan.
2. Nhập mã số thuế, kiểm tra điều kiện đăng ký tờ khai
(cưỡng chế, vi phạm, chính sách mặt hàng):
2.1. Nhập mã số thuế xuất nhập khẩu của doanh nghiệp để
kiểm tra doanh nghiệp có bị cưỡng chế làm TTHQ hay không, kiểm
tra ân hạn thuế, kiểm tra vi phạm để xác định việc chấp hành pháp
luật của chủ hàng.

Trường hợp hệ thống thông báo bị cưỡng chế nhưng doanh
nghiệp có hồ sơ chứng minh đã nộp thuế hoặc thanh khoản, công
chức kiểm tra thấy phù hợp thì báo cáo lãnh đạo chi cục chấp nhận,
lưu kèm hồ sơ và tiến hành các bước tiếp theo.
2.2. Kiểm tra thực hiện chính sách mặt hàng (giấy phép,
điều kiện xuất khẩu, nhập khẩu).
2.3. Xử lý kết quả kiểm tra điều kiện đăng ký tờ khai:
a) Nếu hồ sơ không đủ điều kiện để đăng ký tờ khai thì trả
hồ sơ và thông báo bằng Phiếu yêu cầu nghiệp cho người khai hải
quan biết rõ lý do;
b) Nếu đủ điều kiện để đăng ký tờ khai thì tiến hành tiếp các
công việc dưới đây.
3. Nhập thông tin khai trên tờ khai hải quan hoặc khai qua
mạng, hệ thống sẽ tự động cấp số tờ khai và phân luồng hồ sơ.
4. Đăng ký tờ khai (ghi số tờ khai do hệ thống cấp lên tờ khai)
4.1. Ghi số, ký hiệu loại hình, mã Chi cục Hải quan (do hệ
thống cấp) và ghi ngày, tháng, năm đăng ký lên tờ khai hải quan.
4.2. Ký, đóng dấu công chức vào ô "cán bộ đăng ký tờ khai".
5. In Lệnh hình thức, mức độ kiểm tra hải quan.
Lệnh chỉ in 01 bản để sử dụng trong nội bộ hải quan và lưu
cùng hồ sơ hải quan. Hình thức, mức độ kiểm tra hải quan bao gồm:
5.1. Hồ sơ hải quan:
a) Kiểm tra sơ bộ đối với hồ sơ của chủ hàng chấp hành tốt
pháp luật hải quan và pháp luật về thuế theo quy định của pháp luật;
b) Kiểm tra chi tiết đối với hồ sơ của chủ hàng khác theo
quy định của pháp luật.
5.2. Thực tế hàng hóa:
a) Miễn kiểm tra thực tế đối với hàng hóa;
b) Kiểm tra thực tế đối với hàng hóa, cụ thể:
b1) Mức (1): Kiểm tra tỷ lệ (%);

b2) Mức (2): Kiểm tra toàn bộ lô hàng.
6. Kiểm tra hồ sơ hải quan
Căn cứ hình thức, mức độ kiểm tra trên Lệnh và các thông
tin khác có được tại thời điểm kiểm tra, công chức tiếp nhận hồ sơ
thực hiện:
6.1. Kiểm tra sơ bộ hoặc kiểm tra chi tiết theo hình thức,
mức độ kiểm tra ghi trên Lệnh và các thông tin khác có được tại
thời điểm kiểm tra:
6.2. Ghi kết quả kiểm tra và đề xuất xử lý kết quả kiểm tra
hồ sơ vào Lệnh;
a) Đề xuất xử lý việc khai bổ sung khi người khai hải quan
có yêu cầu, trước khi lãnh đạo chi cục duyệt, quyết định miễn kiểm
tra thực tế hàng hóa;
b) Đề xuất hình thức, mức độ kiểm tra hải quan thực hiện
theo hướng dẫn về quản lý rủi ro của Tổng cục Hải quan, gồm:
b1) Chấp nhận hình thức, mức độ kiểm tra hồ sơ do hệ
thống xác định nếu không có thông tin khác; đề xuất cụ thể mức độ
kiểm tra thực tế hàng hóa đối với trường hợp hệ thống xác định
hàng hóa phải kiểm tra thực tế:
- Mức (1) theo tỷ lệ 5% hoặc 10% tùy theo tính chất, quy
cách đóng gói,… của lô hàng.
- Mức (2) kiểm tra toàn bộ.
b2) Trường hợp có thông tin khác thì đề xuất lãnh đạo chi
cục thay đổi quyết định hình thức, mức độ kiểm tra trên cơ sở có
căn cứ, có lý do xác đáng, được ghi cụ thể vào Lệnh hình thức, mức
độ kiểm tra theo c) Đề xuất hoàn chỉnh hồ sơ hoặc cho nợ chứng từ;
và/hoặc
d) Đề xuất trưng cầu phân tích, giám định hàng hóa; và/hoặc

×