MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
LỜI NÓI ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 2
3. Nội dung và phạm vi nghiên cứu 2
4. Phương pháp nghiên cứu 3
5. Kết cấu của luận văn 3
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỆ THỐNG HOÁ PHÁP
LUẬT VÀ PHÁP LUẬT HẢI QUAN ĐIỀU CHỈNH HOẠT
ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ THƯƠNG MẠI 4
1.1. Hệ thống hoá pháp luật 4
1.1.1. Khái niệm hệ thống hoá pháp luật 4
1.1.2. Hình thức thực hiện hệ thống hoá pháp luật 5
1.1.3. Chủ thể và trình tự thực hiện hệ thống hoá pháp luật 8
1.1.4. Mục đích, ý nghĩa của công tác hệ thống hoá pháp luật 12
1.2. Pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng
hoá thương mại 15
1.2.1. Khái niệm chung về pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động xuất,
nhập khẩu hàng hoá thương mại 15
1.2.2. Những nội dung cơ bản của pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt
động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại 21
1.2.3. Vai trò và các nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật điều chỉnh hoạt
động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại 26
Chương 2: THỰC TRẠNG VĂN BẢN PHÁP LUẬT HẢI QUAN
ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG XUẤT, NHẬP KHẨU HÀNG
HOÁ THƯƠNG MẠI 34
2.1. Một số chế định pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động xuất,
nhập khẩu hàng hoá thương mại 34
2.1.1. Chế định về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của hệ thống cơ
quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực xuất, nhập khẩu hàng hoá 35
2.1.2. Chế định về thủ tục hải quan, chế độ kiểm tra, giám sát hải quan 38
2.1.3. Chế định về trách nhiệm của hải quan trong việc phòng chống
buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới 44
2.1.4 Chế định về tổ chức thu thuế và các khoản thu khác đối với hàng
hoá xuất, nhập khẩu 48
2.1.5. Chế định về xử lý các hành vi vi phạm trong lĩnh vực xuất, nhập
khẩu hàng hoá thương mại 54
2.2. Đánh giá về thực trạng văn bản pháp luật hải quan về xuất,
nhập khẩu hàng hoá thương mại 61
2.2.1. Đánh giá tổng quan về giá trị, hiệu quả của pháp luật hải quan
điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại 61
2.2.2. Một số nội dung bất cập cụ thể đang tồn tại trong pháp luật hải
quan về xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại 66
Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP
THÚC ĐẨY CÔNG TÁC HỆ THỐNG HOÁ VĂN BẢN
PHÁP LUẬT HẢI QUAN ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG
XUẤT, NHẬP KHẨU HÀNG HÓA THƯƠNG MẠI 71
3.1. Sự cần thiết của việc hệ thống hoá văn bản pháp luật hải quan
điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá 71
3.1.1. Hệ thống hoá văn bản pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động
xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại có ý nghĩa quan trọng trong
việc tăng cường hiệu quả quản lý của Nhà nước 72
3.1.2. Hệ thống hoá văn bản pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động
xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại mang lại nhiều lợi ích cho
cá nhân, tổ chức thực hiện xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại 75
3.2. Thực trạng công tác hệ thống hoá pháp luật hải quan điều
chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại thời
gian qua và định hướng trong thời gian tới 77
3.2.1. Thực trạng công tác hệ thống hoá pháp luật hải quan điều chỉnh
hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại thời gian qua 77
3.2.2. Định hướng công tác hệ thống hoá văn bản pháp luật hải quan về
xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại trong thời gian tới 88
3.3. Những giải pháp hệ thống hóa văn bản pháp luật hải quan về
hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa thương mại 92
3.3.1. Đối với công tác tập hợp hóa 92
3.3.2. Đối với công tác pháp điển hóa 94
KẾT LUẬN 100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 103
1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại là một hoạt động quan trọng
trong nền kinh tế mỗi quốc gia. Mặc dù chỉ mới có sự chuyển biến rõ nét từ
sau thời kỳ đổi mới, nhất là khi Luật Hải quan năm 2001 được ban hành,
nhưng hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại ở nước ta đã có sự
phát triển mạnh mẽ. Từ thực tiễn này đã kéo theo nhu cầu phải hoàn thiện hệ
thống pháp luật để một mặt có thể hỗ trợ Nhà nước thực hiện tốt chức năng
quản lý xuất, nhập khẩu, mặt khác có thể thiết lập môi trường pháp lý minh
bạch, thông thoáng nhằm hỗ trợ các cá nhân, doanh nghiệp có thể thực hiện
có hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất, nhập khẩu, góp phần vào sự phát triển
kinh tế chung của đất nước.
Tuy nhiên, do hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại ở nước
ta chỉ mới phát triển trong một thời gian ngắn, thực tiễn lại luôn có những
chuyển biến phức tạp nên đòi hỏi Nhà nước phải liên tục ban hành các văn
bản pháp luật nhằm kịp thời đáp ứng nhu cầu quản lý về xuất, nhập khẩu hàng
hoá thương mại. Chính điều này đã tạo nên một khối lượng văn bản pháp luật
đồ sộ, gây khó khăn cho công tác tra cứu và áp dụng pháp luật. Mặt khác, do
trình độ lập pháp còn nhiều hạn chế, kinh nghiệm quản lý về xuất, nhập khẩu
chưa nhiều nên không thể tránh khỏi tình trạng cùng lúc tồn tại nhiều quy
định mâu thuẫn, chồng chéo hoặc thiếu tính khả thi.
Xuất phát từ thực trạng đó, đòi hỏi Nhà nước phải có biện pháp hiệu
quả để tiến hành tập hợp, rà soát và đánh giá toàn diện hệ thống pháp luật hải
quan về xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại, nhằm kịp thời khắc phục
những hạn chế và hoàn thiện hệ thống pháp luật; tạo điều kiện thuận lợi cho
người dân và cán bộ, công chức ngành hải quan có thể dễ dàng tiếp cận, tra
2
cứu và áp dụng pháp luật. Và hệ thống hoá pháp luật chính là một biện pháp
hiệu quả có thể đáp ứng các yêu cầu đó.
Mặc dù vậy, theo nhận thức của bản thân, hiện nay chưa có bất kỳ đề
tài nghiên cứu chuyên sâu về hệ thống hoá pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt
động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại được thực hiện, mà chỉ mới dừng
lại ở các bài viết, tham luận về công tác hệ thống hoá pháp luật nói chung.
Nhận thức được tầm quan trọng, và với nguyện vọng được nghiên
cứu sâu hơn, nhằm góp phần tạo lập cơ sở lý luận cho công tác “Hệ
thống hoá văn bản pháp luật hải quan về xuất nhập khẩu hàng hoá
thương mại”, tôi xin phép mạo muội chọn đây là đề tài nghiên cứu cho
Luận văn này.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài hướng tới các mục đích nghiên cứu chính sau đây:
* Tìm hiểu các một số vấn đề lý luận cơ bản về công tác hệ thống hoá
pháp luật; về pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng
hoá thương mại.
* Đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật hải quan về xuất, nhập khẩu
hàng hoá thương mại.
* Đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả công tác hệ
thống hoá pháp luật hải quan về xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại, góp
phần hoàn thiện hệ thống pháp luật hải quan.
3. Nội dung và phạm vi nghiên cứu
Luận văn chủ yếu tập trung đi sâu vào phân tích thực trạng của hệ
thống văn bản pháp luật hải quan về xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại;
thực trạng tiến hành công tác hệ thống hoá pháp luật trong lĩnh vực hải quan,
từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác hệ thống hoá
pháp luật về xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại.
3
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như:
Phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp phân tích đánh giá, phương
pháp đối chiếu so sánh, … dựa trên những tài liệu, thông tin có được từ các
công trình nghiên cứu, các tác phẩm của các tác giả và từ những nhận thức,
đánh giá của bản thân.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu và kết luận, luận văn được chia làm ba chương chính:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hệ thống hoá pháp luật và Pháp
luật hải quan điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại.
Chương 2: Thực trạng văn bản pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt
động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hệ thống hoá văn bản pháp luật
hải quan điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại.
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều song do hạn chế về thời gian và trình độ,
nên luận văn chắc chắn còn nhiều hạn chế và không tránh khỏi những khiếm
khuyết. Rất mong nhận được các ý kiến đóng góp quý báu từ quý Thầy, Cô.
4
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỆ THỐNG HOÁ PHÁP LUẬT
VÀ PHÁP LUẬT HẢI QUAN ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG
XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ THƯƠNG MẠI
1.1. Hệ thống hoá pháp luật
1.1.1. Khái niệm hệ thống hoá pháp luật
Trong khoa học pháp lý, hệ thống hoá pháp luật được hiểu là hoạt động
hệ thống, sắp xếp, chỉnh lý, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật theo một
trật tự nhất định nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tra cứu và áp dụng pháp
luật. Đồng thời thông qua công tác hệ thống hoá pháp luật cũng cho phép các
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có được sự nhìn nhận, đánh giá tổng quát về
thực trạng hệ thống pháp luật hiện hành, kịp thời phát hiện những quy định
không phù hợp, mâu thuẫn, chồng chéo hoặc thiếu tính khả thi của hệ thống
pháp luật nhằm tiến tới mục tiêu hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Từ khái niệm này đã thể hiện khá rõ nét đặc điểm của công tác hệ thống
hoá pháp luật không chỉ đơn thuần dừng lại ở việc tập hợp, sắp xếp cơ học các
văn bản quy phạm pháp luật, mà còn là một hoạt động trí tuệ thông qua việc
đối chiếu, so sánh, chỉnh lý, bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật. Đây
là một công việc vô cùng phức tạp, đặc biệt là ở Việt Nam, với một khối
lượng văn bản quy phạm pháp luật đồ sộ; với trình độ lập pháp, lập quy còn
nhiều hạn chế dẫn đến thực trạng tồn tại nhiều mâu thuẫn, chồng chéo giữa
các văn bản pháp luật diễn ra khá phổ biến. Thực trạng này đòi hỏi công tác
hệ thống hoá pháp luật phải được thực hiện cẩn trọng và có thể mất rất nhiều
thời gian. Kinh nghiệm thực hiện công tác hệ thống hoá pháp luật ở Hoa Kỳ
và một số quốc gia Châu Âu cho thấy để hoàn thành một bộ pháp điển quốc
gia thông thường phải mất từ vài năm đến vài chục năm. Cá biệt như Hoa Kỳ,
5
sau hơn 85 năm thực hiện bộ pháp điển quốc gia (US.code), chỉ mới có 26
trong tổng số 50 chủ đề được chính thức hoá 1. Điều này đã phần nào nói
lên tính chất phức tạp của công tác pháp điển hoá nói riêng và hệ thống hoá
pháp luật nói chung.
Ở Việt Nam, thực tiễn đã chứng minh công tác hệ thống hoá pháp luật
đã được thực hiện từ rất lâu, chứ không chỉ mới phát sinh trong nền pháp lý
hiện đại. Sự ra đời của các bộ luật Hình Thư (triều Lý), Hồng Đức (triều hậu
Lê) và Gia Long (Hoàng Việt Luật Lệ, triều Nguyễn) đều được đánh giá là có
sự tham chiếu, tiếp thu và chỉnh sửa, bổ sung các quy định pháp luật trước đó,
mà một phần quan trọng là pháp luật của các triều đại phong kiến Trung Hoa
2. Điều này đã thể hiện rất rõ công tác hệ thống hoá pháp luật ở nước ta đã
hình thành, phát triển rất sớm và song hành cùng công tác lập pháp từ các
triều đại phong kiến cho đến thời điểm hiện tại.
Do ảnh hưởng của các yếu tố về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội,…
và trình độ pháp lý của mỗi thời kỳ, nhất là ý chí của nhà cầm quyền mà
công tác hệ thống hoá pháp luật có thể được thực hiện theo những định
hướng khác nhau. Tuy nhiên, suy cho cùng thì công tác hệ thống hoá pháp
luật, dù được thực hiện dưới hình thức nào, ở bất kỳ thời điểm nào, cũng
nhằm mục đích xây dựng và hoàn thiện một hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật để điều chỉnh, dẫn dắt các quan hệ xã hội diễn biến theo ý
chí của Nhà nước. Đây cũng là một biểu hiện của bản chất giai cấp – một
bản chất cố hữu của pháp luật.
1.1.2. Hình thức thực hiện hệ thống hoá pháp luật
Ở Việt Nam, công tác hệ thống hoá pháp luật được thực hiện chủ yếu
thông qua hai hình thức: tập hợp hoá và pháp điển hoá. Cả hai hình thức đều
là những hoạt động phức tạp, tỉ mỉ và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
Tập hợp hoá: là hoạt động sắp xếp các văn bản quy phạm pháp luật
6
hoặc các quy phạm pháp luật riêng biệt theo một trật tự nhất định, có thể theo
trình tự thời gian ban hành, theo vần chữ cái hoặc theo từng vấn đề, thậm chí
theo một trật tự khác tuỳ thuộc vào chủ thể tiến hành tập hợp 3 (ví dụ tập
“Hệ thống hoá luật lệ hình sự”, tập “Hệ thống hoá luật lệ dân sự” do Toà án
nhân dân Tối cao thực hiện trước đây). Hoạt động này không làm thay đổi nội
dung văn bản pháp luật, không bổ sung những quy định mới mà chỉ nhằm loại
bỏ các quy phạm pháp luật đã hết hiệu lực. Do vậy, hình thức tập hợp hoá
chưa giải quyết được vấn đề chỉnh sửa và loại bỏ những quy phạm pháp luật
mâu thuẫn, chồng chéo với các văn bản quy phạm pháp luật cấp trên, cũng
như chưa trực tiếp đóng góp vào quá trình chỉnh lý và hoàn thiện pháp luật,
mà chỉ mới dừng lại ở việc tạo điều kiện thuận lợi để phục vụ công tác tra cứu
và áp dụng các văn bản quy phạm pháp luật.
Pháp điển hoá: là hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền,
trong đó, không những chỉ tập hợp các văn bản quy phạm pháp luật đã có theo
một trình tự nhất định, loại bỏ các quy phạm pháp luật lỗi thời, mâu thuẫn hoặc
chồng chéo, mà còn bổ sung các quy phạm pháp luật mới để thay thế cho các
quy phạm pháp luật đã bị loại bỏ, khắc phục những lỗ hổng đã được phát hiện,
nhằm nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật và tăng cường hiệu lực
pháp lý của chúng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội 4.
Từ khái niệm trên, ta thấy công tác pháp điển hoá được thực hiện qua
ba giai đoạn:
Giai đoạn 1: sắp xếp các văn bản quy phạm pháp luật hay các quy
phạm pháp luật theo một trật tự nhất định tuỳ theo mục đích của chủ thể
thực hiện.
Giai đoạn 2: rà soát, đối chiếu, so sánh giữa các quy phạm phạm pháp
luật nhằm tìm ra sự khác biệt, mẫu thuẫn giữa quy phạm cấp dưới và quy
phạm cấp trên; phát hiện những quy định pháp luật không còn phù hợp hoặc
7
thiếu tính khả thi hoặc những lỗ hổng pháp lý do thiếu sót những quy phạm
pháp luật điều chỉnh đối với một, một số quan hệ xã hội nhất định, nhất là
những quan hệ xã hội mới phát sinh.
Giai đoạn 3: sửa đổi, bổ sung các thiếu sót đã được phát hiện, nhằm
đảm bảo xây dựng một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật đảm bảo
tính thống nhất, minh bạch, hiểu quả và khả thi.
Như vậy, pháp điển hoá là hình thức phức tạp hơn rất nhiều so với công
tác tập hợp hoá. Nếu tập hợp hoá chỉ đơn thuần là việc sắp xếp các văn bản
quy phạm pháp luật một cách có hệ thống, theo một trật tự nhất định thì đặc
trưng của pháp điển hoá thể hiện ở việc chỉnh lý, bổ sung nhằm hoàn thiện hệ
thống pháp luật. Kết quả của công tác pháp điển hoá có thể cho ra đời một
văn bản quy phạm pháp luật mới nhằm hoàn thiện và thay thế cho các quy
phạm pháp luật về cùng một lĩnh vực, một vấn đề mà trước đó được quy định
rải rác trong nhiều văn bản, ở nhiều cấp độ khác nhau. Chính vì vậy, pháp
điển hoá có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động xây dựng, thực hiện và bảo
vệ pháp luật.
Trong khoa học pháp lý, pháp điển hóa được phân chia thành hai hình
thức: pháp điển hóa về mặt nội dung và pháp điển hóa về mặt hình thức.
Pháp điển hóa về mặt nội dung: (hay còn được gọi theo các cách gọi
khác nhau như: pháp điển hóa lập pháp, pháp điển hóa truyền thống, pháp
điển hóa có tạo ra quy phạm mới,…) là việc xây dựng, soạn thảo một văn bản
pháp luật mới trên cơ sở hệ thống, tập hợp, rà soát, sắp xếp các quy định ở
nhiều văn bản quy phạm pháp luật hiện hành vào văn bản đó với sự sửa đổi,
bổ sung, điều chỉnh để phù hợp với thực tiễn. Việc xây dựng các bộ luật của
nước ta như Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, Bộ luật lao động,… đều được
thực hiện theo hình thức pháp điển này. Cách thức pháp điển này giống như
hoạt động lập pháp thông thường.
8
Pháp điển hóa về mặt hình thức: (còn được gọi là pháp điển hóa
không làm thay đổi nội dung văn bản) là cách thức tập hợp, sắp xếp các quy
phạm pháp luật đang có hiệu lực tại nhiều văn bản khác nhau thành Bộ pháp
điển theo từng chủ đề và theo một trật tự nhất định, với bố cục logic, phù hợp,
có thể kèm theo những sửa đổi, điều chỉnh cần thiết nhằm làm cho các quy
định này phù hợp với nhau. Về nguyên tắc, quá trình sửa đổi, điều chỉnh trong
hoạt động pháp điển hóa hình thức chỉ nhằm mục đích tạo nên sự hài hòa giữa
các quy định, đảm bảo trật tự của Bộ pháp điển mà không nhằm tới mục đích
tạo ra những chính sách, văn bản quy phạm pháp luật mới và các quy định pháp
luật đang có hiệu lực được tôn trọng tối đa. Ở nước ta, công tác pháp điển hóa
hình thức chưa được chính thức thực hiện. Tuy nhiên, ngày 16 tháng 4 năm
2012 Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh Pháp điển hệ thống
quy phạm pháp luật (có hiệu từ ngày 01 tháng 7 năm 2012), đây là cơ sở pháp
lý để chúng ta tiến hành xây dựng Bộ pháp điển trong thời gian tới.
1.1.3. Chủ thể và trình tự thực hiện hệ thống hoá pháp luật
Xuất phát từ bản chất và đặc điểm khác nhau của mỗi hình thức hệ
thống hoá pháp luật dẫn đến chủ thể thực hiện cũng có sự khác nhau. Vì tính
chất đơn giản hơn và mục đích chỉ đơn thuần tạo điều kiện thuận lợi cho việc
tra cứu, áp dụng văn bản quy phạm pháp luật mà chủ thể thực hiện công tác
tập hợp hoá rất đa dạng, có thể là cơ quan Nhà nước, tổ chức, doanh nghiệp,
hoặc thậm chí có thể là cá nhân. Trình tự thực hiện tập hợp hoá cũng không bị
ràng buộc bởi bất kỳ một quy định pháp lý nào, ngoại trừ nguyên tắc chủ thể
tập hợp hoá phải đảm bảo tính chính xác tuyệt đối của nội dung các văn bản
quy phạm pháp luật.
Tuỳ thuộc vào mục đích của chủ thể thực hiện mà phạm vi và cách thức
thực hiện tập hợp hoá cũng khác nhau, có thể là tập hợp theo trình tự thời gian
ban hành, theo cấp độ hiệu lực, theo từng chủ đề nhất định hoặc theo bất kỳ
9
một cách thức nào khác. Ở Việt Nam hiện nay, công tác tập hợp hoá diễn ra
khá phổ biến, không chỉ dừng lại ở các cơ quan Nhà nước, các cơ sở đào tạo
pháp luật, các luật gia, mà còn được thực hiện bởi các doanh nghiệp nhằm đáp
ứng hiệu quả nhu cầu tìm hiểu pháp luật phục vụ mục đích kinh doanh của
chính họ. Điều này thể hiện nhận thức của doanh nghiệp về vai trò của pháp
luật trong hoạt động kinh doanh đã được nâng cao, đây là một tín hiệu đáng
mừng khi nền kinh tế Việt Nam đang dần vận hành theo cơ chế thì trường thì
việc nắm bắt kịp thời và áp dụng hiệu quả các quy định pháp luật là điều hết
sức cần thiết và quan trọng.
Ngược lại do tính chất phức tạp và mục đích của pháp điển hoá là
chỉnh sửa, bổ sung và hoàn thiện pháp luật nên chủ thể thực hiện pháp điển
hoá chỉ có thể là cơ quan Nhà nước, và phải tuân thủ theo đúng các quy định
của pháp luật. Ở Việt Nam hiện nay, hành lang pháp lý cho việc pháp điển
hoá vẫn còn nhiều hạn chế, văn bản pháp luật cao nhất điều chỉnh vấn đề
này là Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật được Quốc hội khoá 12
thông qua ngày 12 tháng 6 năm 2008 và Pháp lệnh Pháp điển hệ thống quy
phạm pháp luật do Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội khoá 13 thông qua ngày
16 tháng 4 năm 2012, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2013. Tại Điều 4
Pháp lệnh Pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật đã quy định thẩm quyền
thực hiện pháp điển như sau:
Bộ, cơ quan ngang bộ thực hiện pháp điển đối với quy phạm pháp
luật do mình ban hành hoặc chủ trì soạn thảo; quy phạm pháp luật trong văn
bản quy phạm pháp luật do cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình điều
chỉnh những vấn đề thuộc lĩnh vực quản lý Nhà nước của mình.
Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán
Nhà nước thực hiện pháp điển đối với quy phạm pháp luật trong văn bản quy
phạm pháp luật do mình ban hành hoặc chủ trì soạn thảo; quy phạm pháp luật
10
trong văn bản pháp luật do cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình điều
chỉnh những vấn đề thuộc lĩnh vực quản lý Nhà nước của mình.
Văn phòng Quốc hội thực hiện pháp điển đối với quy phạm pháp
luật trong văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc
hội ban hành điều chỉnh những vấn đề không thuộc thẩm quyền thực hiện
pháp điển của các cơ quan Nhà nước nêu tại các mục trên.
Văn phòng Chủ tịch nước thực hiện pháp điển đối với quy phạm
pháp luật trong văn bản quy phạm pháp luật do Chủ tịch nước ban hành
không thuộc thẩm quyền thực hiện pháp điển của các cơ quan Nhà nước nêu
tại các mục trên.
Bên cạnh đó, Pháp lệnh Pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật cũng
quy định trình tự và thủ tục thực hiện công tác pháp điển. Theo đó công tác
pháp điển được thực hiện theo các chủ đề được sắp xếp theo thứ tự Alphabet,
có tất cả 45 chủ để được quy định tại Điều 7 của Pháp lệnh. Tuỳ theo tình
hình phát triển kinh tế xã hội mà Chính phủ có quyền quyết định bổ sung chủ
đề mới theo đề nghị của Bộ Tư Pháp. Mỗi chủ đề có thể bao gồm nhiều đề
mục. Trong đề mục, tuỳ theo nội dung có thể có phần, chương, mục, điều,
khoản, điểm. Các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện công tác pháp
điển theo đề mục và gửi kết quả đến Bộ Tư Pháp. Bộ trưởng Bộ Tư Pháp sau
khi nhận được hồ sơ sẽ quyết định thành lập Hội đồng thẩm định để thẩm
định kết quả pháp điển theo đề mục. Hội đồng thẩm định này do Bộ trưởng
Bộ Tư Pháp làm Chủ tịch, và các thành viên bao gồm đại diện lãnh đạo cơ
quan thực hiện pháp điển, Ủy ban pháp luật của Quốc hội, cơ quan, tổ chức có
liên quan và một số chuyên gia pháp luật. Nội dung thẩm định kết quả pháp
điển theo đề mục tập trung vào các vấn đề:
- Tính chính xác, đầy đủ của các quy phạm pháp luật trong đề mục;
- Sự phù hợp của vị trí quy phạm pháp luật trong đề mục;
11
- Sự tuân thủ trình tự, thủ tục pháp điển theo đề mục;
- Các vấn đề khác liên quan đến nội dung của đề mục.
Kết luận của Hội đồng thẩm định sẽ được gửi đến cho cơ quan thực
hiện pháp điển trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị
thẩm định.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được kết luận của Hội đồng
thẩm định, căn cứ vào kết luận này, cơ quan thực hiện pháp điển chỉnh lý,
hoàn thiện kết quả pháp điển theo đề mục và thủ trưởng cơ quan thực hiện
pháp điển sẽ ký xác thực kết quả pháp điển theo đề mục và gửi đến Bộ Tư
Pháp, sau đó Bộ Tư Pháp sẽ tiến hành sắp xếp đề mục đã được pháp điển
vào chủ đề.
Sau khi kết quả pháp điển theo đề mục được Bộ tư Pháp sắp xếp theo
chủ đề, Chính phủ sẽ quyết định thông qua kết quả pháp điển theo từng chủ
đề của Bộ pháp điển và dựa trên sự thông qua này, Bộ Tư Pháp thực hiện sắp
xếp kết quả pháp điển theo chủ đề vào Bộ pháp điển và đăng tải trên Trang
thông tin điển tử pháp điển.
Như vậy, có thể nhận thấy rõ ràng việc pháp điển phải được thực hiện
theo một quy trình tương đối chặt chẽ. Điều này nhằm hạn chế đến mức thấp
nhất những sai sót có thể xảy ra trong quá trình thực hiện công tác pháp điển.
Tuy nhiên, theo quy định của Pháp lệnh Pháp điển hệ thống quy phạm
pháp luật thì công tác pháp điển chỉ mới dừng lại ở việc rà soát, tập hợp, sắp
xếp các quy phạm pháp luật đang còn hiệu lực trong các văn bản quy phạm
pháp luật do cơ quan nhà nước ở trung ương ban hành, trừ Hiến pháp, để xây
dựng Bộ pháp điển, chứ chưa thực hiện được công tác chỉnh lý, sửa đổi, bổ
sung và hoàn thiện pháp luật. Như vậy, rõ ràng việc xây dựng Bộ pháp điển
theo quy định tại Pháp lệnh cũng chưa hoàn toàn đáp ứng được mục tiêu cao
nhất của công tác pháp điển hoá là loại bỏ những quy phạm pháp luật mâu
12
thuẫn, chồng chéo, những quy phạm không còn phù hợp hoặc thiếu tính khả
thi và tăng cường chất lượng cũng như hiệu lực pháp luật của các văn bản quy
phạm pháp luật.
1.1.4. Mục đích, ý nghĩa của công tác hệ thống hoá pháp luật
1.1.4.1. Thực trạng hệ thống pháp luật Việt Nam:
Không riêng Việt Nam, mà ở hầu hết các quốc gia đều tồn tại một hệ
thống pháp luật rất đồ sộ, điều này gây khó khăn cho việc tra cứu và áp dụng
các văn bản quy phạm pháp luật, nhất là trong bối cảnh cùng lúc tồn tại quá
nhiều văn bản quy phạm pháp luật cùng điều chỉnh một vấn đề. Chính sự
phức tạp này dẫn đến Nhà nước khó có được cái nhìn chính xác về hiệu quả
của công tác lập pháp, do đó chưa thúc đẩy tăng cường chất lượng của công
tác lập pháp.
Một cách khái quát, có thể nhận thấy hệ thống các văn bản quy phạm
pháp luật của chúng ta đang tồn tại một số mặt hạn chế, cần phải khắc phục:
- Tản mát, tức là có cùng lúc nhiều quy phạm pháp luật trong các văn
bản quy phạm pháp luật khác nhác cùng điều chỉnh một vấn đề. Ví dụ về điều
kiện nhà ở được đưa vào kinh doanh được quy định đồng thời trong Luật kinh
doanh bất động sản, Luật Nhà ở và các văn bản dưới luật như Nghị định
71/2010/NĐ-CP.
- Không đồng nhất, tức là có sự khác nhau, thậm chí là mâu thuẫn giữa
các quy phạm pháp luật cùng điều chỉnh một vấn đề. Ví dụ về một trong các
điều kiện để nhà ở được phép giao dịch theo quy định tại Điều 91 Luật Nhà ở
là phải “Có giấy chứng nhận quyền sở hữu theo quy định của pháp luật”. Tuy
nhiên, đến Nghị định số 71/2010/NĐ-CP thì Chính phủ lại quy định cho phép
giao dịch nhà ở hình thành trong tương lai, có nghĩa là nhà ở đang trong quá
trình xây dựng hoặc đã xây dựng xong nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận
quyền sở hữu vẫn được phép tham gia vào một số giao dịch nhất định. Điều
13
này tạo ra rất nhiều rủi ro cho các chủ thể tham gia giao dịch vì về nguyên tắc,
trường hợp có sự khác biệt hoặc mâu thuẫn giữa các văn bản quy phạm pháp
luật thì văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn sẽ được ưu
tiên áp dụng, nhưng trong thực tế, các chủ thể tham gia giao dịch thường chỉ
tham khảo và áp dụng các văn bản dưới luật bởi tính chi tiết và cụ thể của nó.
- Không minh bạch. Sự không minh bạch này thể hiện ở chủ yếu ở tính
mơ hồ, không rõ ràng của các quy phạm pháp luật. Từ đó dẫn đến hệ luỵ là
cùng một quy phạm pháp luật nhưng có thể có nhiều cách hiểu khác nhau, có
nhiều công văn hướng dẫn khác nhau.
- Hiệu lực văn bản không rõ ràng. Điều này nhận thấy rõ ràng nhất
trong trường hợp văn bản luật đã chấm dứt hiệu lực nhưng hệ thống các văn
bản hướng dẫn dưới luật vẫn tồn tại và vẫn được áp dụng.
Và tình trạng này ngày càng trở nên trầm trọng khi số lượng các văn
bản quy phạm pháp luật được ban hành ngày càng gia tăng. Trong khi đó,
nhiều văn bản quy phạm pháp luật bao gồm cả những quy định còn hiệu lực
lẫn những quy định đã chấm dứt hiệu lực do thông lệ ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật “sửa đổi một số điều” của văn bản ban hành trước đây.
Nhiều văn bản thường có điều khoản nói rằng “các quy định được ban hành
trước đây trái với quy định của luật này sẽ hết hiệu lực và không có giá trị áp
dụng” nhưng lại không nêu cụ thể các quy định bị bãi bỏ là gì. Điều này dẫn
đến hệ quả là người dân và doanh nghiệp lạc giữa “rừng luật và văn bản
hướng dẫn”, gây khó khăn và gia tăng chi phí tiếp cận văn bản, cũng như gây
ra những rủi ro pháp lý không đáng có cho xã hội.
1.1.4.2. Mục đích, ý nghĩa của công tác hệ thống hóa pháp luật
-
Tập hợp được tất cả các quy phạm pháp luật đang nằm phân tán, rải
rác ở nhiều văn bản trong một văn bản pháp luật duy nhất trong đó gồm những
quy phạm pháp luật còn hiệu lực trong một lĩnh vực, chủ đề nhất định (hoặc ở
14
một số nước là do một cơ quan ban hành), theo một trật tự logic, nhằm bảo
đảm thuận lợi cho việc tra cứu, áp dụng, thực hiện văn bản pháp luật.
-
Minh bạch hóa và bảo đảm tính cập nhật của các quy phạm pháp luật
thông qua việc bãi bỏ các nội dung không rõ ràng, mâu thuẫn, không phù hợp
với Hiến pháp và các cam kết quốc tế; chỉ ra sự mâu thuẫn, chồng chéo,
không đầy đủ trong hệ thống luật pháp và chuẩn bị đề xuất các sửa đổi, bổ
sung cần thiết từ đó nâng cao tính thống nhất của các quy định pháp luật.
-
Góp phần bảo đảm duy trì tính hệ thống của hệ thống pháp luật. Theo
cách thức pháp điển này, phần lớn các quy phạm pháp luật sẽ được sắp xếp vào
các bộ luật với phạm vi nội dung được xác định rõ ràng, ổn định, có tính hệ
thống cao. Bộ Pháp điển sẽ được sử dụng như một phương tiện để thực hiện
việc hệ thống hóa các quy định pháp luật một cách liên tục vì tất cả các quy
định mới được ban hành đều được đưa vào Bộ pháp điển ngay lập tức và các
việc thay thế các quy định cũ cũng được thực hiện ngay trên Bộ pháp điển.
-
Nâng cao sự tin tưởng của người dân vào hệ thống pháp luật. Việc
xây dựng các bộ pháp điển một cách có hệ thống và toàn diện sẽ nâng cao sự
ổn định và thống nhất của hệ thống pháp luật và vì vậy sẽ nâng cao sự tin
tưởng của người dân vào hệ thống pháp luật.
-
Tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình làm luật. Trong bối cảnh tất
cả quy phạm pháp luật đã được sắp xếp một cách hệ thống trong các bộ pháp
điển thì việc sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các quy định sẽ được thực
hiện một cách dễ dàng hơn trên cơ sở các quy định của bộ pháp điển mà
không phải tiến hành rà soát, kiểm tra các văn bản phân tán trong hệ thống
pháp luật như hiện nay. Hơn thế nữa, trong trường hợp các bộ pháp điển đã
được xây dựng ổn định, việc làm luật trong một lĩnh vực có thể chỉ dừng lại ở
việc
sửa đổi, bổ sung các bộ pháp điển trong lĩnh vực đó mà không nhất thiết
phải chỉnh sửa hay ban hành mới cả một luật hay một bộ luật như hiện nay.
15
Như vậy, lợi ích của công tác hệ thống hóa pháp luật là hiển nhiên và
không thể phủ nhận. Thực hiện thành công hệ thống hóa pháp luật giúp Nhà
nước có thể đánh giá chính xác thực trạng hệ thống pháp luật, từ đó kịp thời
chỉnh sửa, bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả
quản lý Nhà nước. Người dân và doanh nghiệp có thể tiếp cận, tra cứu pháp
luật một cách đơn giản hơn và áp dụng pháp luật chính xác, hiệu quả hơn,
đồng thời cũng giúp giảm thiểu được các rủi ro pháp lý. Tất cả những hiệu
quả tích cực này sẽ góp phần thiết thực vào việc nâng cao chất lượng lập pháp
và quản lý Nhà nước, tăng cường ý thức pháp luật cho người dân nhằm tiến
đến mục tiêu cao nhất là hoàn thiện nền pháp chế xã hội chủ nghĩa, theo định
hướng của Đảng và Nhà nước.
1.2. Pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng
hoá thương mại
1.2.1. Khái niệm chung về pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động
xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại
Để tìm hiểu về khái niệm “Pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động
xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại”, chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu một số
khái niệm có liên quan.
Khái niệm “Pháp luật” và “Văn bản quy phạm pháp luật”.
Pháp luật được hiểu là “toàn bộ những quy định do các cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền đặt ra để hướng dẫn cách xử sự, có hiệu lực áp dụng bắt
buộc đối với mọi tổ chức, cá nhân và do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
đảm bảo việc thi hành” 5. Một cách diễn đạt khác, pháp luật được hiểu là
“hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện, thể
hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố điều chỉnh các quan
hệ xã hội” 6. Ví dụ, Điều 12 Hiến pháp năm 1992 của Việt Nam quy định
“Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật… Các cơ quan Nhà nước, tổ chức
16
kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải
nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật”. Dù được diễn giải dưới
hình thức nào, nhìn chung pháp luật có một số đặc điểm sau:
- Thứ nhất: Pháp luật bao gồm một hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà
nước ban hành để điều chỉnh hành vi của cá nhân, tổ chức trong xã hội.
- Thứ hai: Pháp luật do Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh
quyền lực nhà nước.
- Thứ ba: Pháp luật là một hiện tượng xã hội vừa mang tính xã hội,
vừa mang tính giai cấp. Bản chất xã hội của pháp luật xuất phát từ mục tiêu
ban hành pháp luật là để quản lý xã hội và vì lợi ích chung của toàn xã hội.
Tuy nhiên, vì Nhà nước là đại diện cho một hoặc một số giai tầng cụ thể, nên
dù ít hay nhiều, pháp luật do Nhà nước ban hành cũng mang bản chất giai
cấp, là công cụ phục vụ lợi ích riêng của giai cấp thống trị.
Văn bản quy phạm pháp luật: theo quy định tại Điều 1 Luật Ban hành
văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 thì “Văn bản quy phạm pháp luật là
văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm
quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật này hoặc trong
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân, trong đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được
Nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội”. Cũng theo
luật này, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam bao gồm:
- Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.
- Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
- Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.
- Nghị định của Chính phủ.
- Quyết định của Thủ tướng chính phủ.
- Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà an nhân dân tối cao, Thông
tư của chánh án Toà án nhân dân tối cao.
17
- Thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Thông tư của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
- Quyết định của Tổng kiểm toán Nhà nước.
- Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc giữa
Chính phủ với các cơ quan trung ương của tổ chức chính trị, xã hội.
- Thông tư liên tịch giữa Chánh án Toà án nhân dân tối cao với Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ với Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao; giữa các Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
- Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân.
Như vậy, về bản chất, văn bản quy phạm pháp luật chính là nơi chứa
đựng các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành, là hình thức thể hiện nội dung
của từng ngành luật, từng vấn đề pháp lý cụ thể. Một vấn đề đáng lưu ý là ở
Việt Nam hiện nay các Điều ước quốc tế, tập quán quốc tế được tập hợp, hệ
thống bởi các tổ chức phi chính phủ không được thừa nhận là một hình thức
văn bản quy phạm pháp luật. Tương tự, các văn bản hướng dẫn thi hành pháp
luật do các cơ quan hành chính ban hành, mà phổ biến nhất là hình thức “công
văn” cũng không được thừa nhận như một loại hình văn bản quy phạm pháp
luật, có nghĩa là các văn bản này chỉ mang tính chất định hướng, tham khảo
chứ không có hiệu lực bắt buộc thi hành, dù đây là một hình thức văn bản rất
phổ biến ở Việt Nam.
Khái niệm “Xuất khẩu, nhập khẩu”
Một cách khái quát, khái niệm xuất khẩu, nhập khẩu có thể được hiểu
như sau:
- Xuất khẩu là những giao dịch hàng hoá, dịch vụ (mua bán, trao đổi,
tặng cho, đối ứng) từ cư dân, công ty, tổ chức, chính phủ của một nước đến cư
dân, công ty, tổ chức, chính phủ nước ngoài và hàng hoá, dịch vụ đó phải di
chuyển ra khỏi biên giới quốc gia.
18
- Nhập khẩu là những giao dịch hàng hoá, dịch vụ (mua bán, trao đổi,
tặng cho, đối ứng) từ cư dân, công ty, tổ chức, chính phủ ở nước ngoài đến cư
dân, công ty, tổ chức, chính phủ của một nước và hàng hoá, dịch vụ đó phải di
chuyển ra khỏi biên giới quốc gia.
Điều 28 Luật Thương Mại (2005) đã diễn giải chi tiết hơn về khái niệm
xuất, nhập khẩu hàng hoá:
- Xuất khẩu hàng hóa là việc hàng hoá được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt
Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là
khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật.
- Nhập khẩu hàng hóa là việc hàng hoá được đưa vào lãnh thổ Việt
Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam
được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật.
Như vậy, không còn như cách hiểu truyền thống, xuất, nhập khẩu hàng
hoá có thể thực hiện ngay trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia. Theo
Luật Hải Quan, Luật Thuế Xuất Khẩu, Thuế Nhập Khẩu, khái niệm “khu vực
hải quan riêng” được diễn giải bao gồm “khu chế xuất, doanh nghiệp chế
xuất, kho bảo thuế, kho ngoại quan, khu kinh tế thương mại đặc biệt, khu
thương mại - công nghiệp và khu vực kinh tế khác được thành lập theo Quyết
định của Thủ tướng Chính phủ, có quan hệ mua bán trao đổi hàng hóa giữa
khu này với bên ngoài là quan hệ xuất khẩu, nhập khẩu”.
Khái niệm “Hàng hoá thương mại”
Hàng hoá là một trong những phạm trù cơ bản của kinh tế chính trị.
Theo nghĩa hẹp, hàng hoá là vật chất tồn tại có hình dang xác định trong
không gian và có thể trao đổi, mua bán được. Theo nghĩa rộng, hàng hoá là tất
cả những gì có thể trao đổi, mua bán được.
Trong kinh tế chính trị Mark-Lenin, hàng hoá cũng được định nghĩa là
sản phẩm của lao động thông qua trao đổi, mua bán. Hàng hoá có thể là hữu
19
hình hay ở dạng vô hình như sức lao động. Theo Karl Mark, định nghĩa hàng
hoá trước hết là đồ vật mang hình dạng có khả năng thoả mãn nhu cầu của
con người nhờ vào các tính chất của nó. Để đồ vật trở thành hàng hoá phải có:
- Tính ích dụng đối với người dùng
- Giá trị (kinh tế), nghĩa là được chi phí bởi lao động
- Sự hạn chế để đạt được nó, nghĩa là độ khan hiếm
Theo quan điểm của David Ricardo, hàng hoá phải thoả mãn hai thuộc
tính cơ bản:
- Giá trị sử dụng: giá trị sử dụng của hàng hoá là ích dụng của hàng
hoá thoả mãn nhu cầu nào đó của con người. Ví dụ, công dụng của một cái
kéo là để cắt nên giá trị sử dụng của nó là để cắt; công dụng của bút để viết
nên giá trị sử dụng của nó là để viết. Một hàng hoá có thể có một hoặc nhiều
công dụng nên nó có thể có nhiều giá trị sử dụng khác nhau.
- Giá trị: giá trị của hàng hoá là lao động xã hội của người sản xuất
hàng hoá kết tinh trong hàng hoá. Mọi hàng hoá đều là sản phẩm của quá
trình sản xuất thông qua lao động, là sản phẩm của lao động, có lao động kết
tinh vào trong đó. Có sự chi phí về thời gian, sức lực và trí tuệ của con người
khi sản xuất chúng. Khi đưa ra ngoài thị trường để trao đổi, mua bán thì giá trị
của hàng hoá thể hiện thông qua giá trị trao đổi hay giá cả của hàng hoá.
Sự thay đổi và phát triển nhận thức đối với đời sống kinh tế dẫn đến các
cách hiểu hàng hoá không còn bó hẹp như các nhà kinh tế cổ điển đã xác
định. Phạm trù hàng hoá mất đi ranh giới của sự hiển hiện vật lý của vật thể
và tiến sát đến gần phạm trù giá trị. Tiền, cổ phiếu, quyền sở hữu nói chung,
quyền sở hữu trí tuệ nói riêng, sức lao động,… đều được xem là hàng hoá cho
dù chúng có thể không đáp ứng đầy đủ các tính chất đã được các nhà kinh tế
cổ điển xác định như đã phân tích ở trên.
Theo Khoản 2 Điều 3 Luật Thương mại, hàng hoá bao gồm:
20
- Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai;
- Những vật gắn liền với đất đai.
Theo Điều 174 Bộ Luật Dân Sự thì bất động sản bảo gồm:
- Đất đai;
- Nhà ở, công trình xây dựng gắn liền với đất đại, kể cả các tài sản gắn
liền với nhà, công trình xây dựng đó;
- Các tài sản khác gắn liền với đất đai;
- Các tài sản khác do pháp luật quy định.
Và động sản được xác định là những tài sản không phải là bất động sản.
Cũng theo Bộ Luật Dân Sự, tài sản bao gồm “vật, tiền, giấy tờ có giá
và các quyền tài sản”. Từ các quy định này cho thấy “giấy tờ có giá, quyền
tài sản” cũng được xem là hàng hoá, và các giao dịch mua bán, chuyển
nhượng các tài sản này qua biên giới quốc gia (hoặc qua ranh giới của khu
vực hải quan riêng) cũng được xem là hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá.
Trong phạm vi ngành luật hải quan, hàng hoá được giải thích bao gồm
“hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh; hành lý, ngoại hối, tiền Việt Nam
của người xuất cảnh, nhập cảnh; vật dụng trên phương tiện vận tải xuất cảnh,
nhập cảnh, quá cảnh; kim khí quí, đá quí, cổ vật, văn hoá phẩm, bưu phẩm,
các tài sản khác xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hoặc lưu giữ trong địa bàn
hoạt động hải quan” và “Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh bao gồm
tất cả động sản có mã số và tên gọi theo quy định của pháp luật được xuất
khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hoặc lưu giữ trong địa bàn hoạt động hải quan”
(Khoản 1 Điều 4 Luật Hải Quan).
Tuy nhiên, không phải mọi giao dịch xuất, nhập khẩu đều là xuất, nhập
khẩu hàng hoá thương mại. Theo Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại: “Hoạt
động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi…”. Như vậy, xuất,
nhập khẩu hàng hoá chỉ là hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại
21
khi và chỉ khi nó mang mục đích sinh lợi. Mọi hoạt động xuất, nhập khẩu
hàng hoá không nhằm mục đích sinh lợi đều không thuộc phạm vi nghiên cứu
của bài viết này.
Như vậy, từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm chung về
pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại
như sau:
“Pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá
thương mại là tập hợp tất cả các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và đảm
bảo thực hiện nhằm mục tiêu điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
quá trình thực hiện xuất, nhập khẩu hàng hoá nhằm mục đích sinh lợi”.
1.2.2. Những nội dung cơ bản của pháp luật hải quan điều chỉnh
hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại
1.2.2.1. Nguồn của pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động xuất, nhập
khẩu hàng hoá thương mại
Trong tiếng Việt, “nguồn” được hiểu là “nơi bắt đầu, nơi phát sinh ra
hoặc nơi có thể cung cấp hay rút ra cái gì, điều gì” 7. Trong khoa học pháp
lý, nguồn của luật được hiểu là nơi chứa đựng các quy tắc xử sự của các chủ
thể trong xã hội do Nhà nước quy định và đảm bảo thực hiện bằng quyền lực
Nhà nước 8. Như vậy, khi nói đến nguồn của pháp luật hải quan điều chỉnh
hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại tức là nói đến các văn bản
pháp luật chứa đựng các quy phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh hành vi của
các chủ thể có liên quan đến xuất, nhập khẩu hàng hoá như: các cá nhân, tổ
chức, doanh nghiệp thực hiện xuất, nhập khẩu; các cơ quan quản lý nhà nước
trong lĩnh vực xuất, nhập khẩu;…
Cũng như các ngành luật khác, pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động
xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại được hình thành từ các nguồn sau:
22
Nguồn luật quốc tế
Sau hơn hai mươi lăm năm đổi mới, Việt Nam đã hội nhập sâu rộng
vào kinh tế thế giới thông qua việc tăng cường hợp tác kinh tế với các quốc
gia và tổ chức quốc tế. Hiện nay Việt Nam đã là thành viên của Tổ chức
thương mại thế giới (WTO), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN),
thành viên các diễn đàn kinh tế khu vực như Diễn đàn hợp tác liên khu vực Á
– Âu (ASEM), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương
(APEC),… và không ngừng mở rộng hợp tác kinh tế với các quốc gia khác
trên thế giới. Chính việc mở rộng các mối quan hệ kinh tế này đã xây dựng
nên một hệ thống nguồn mang tính chất quốc tế của pháp luật hải quan điều
chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại, thể hiện thông qua các
nhóm văn bản sau:
- Các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam, đặc biệt liên quan trực
tiếp đến hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại là cam kết chung về
thuế quan và các cam kết về các nhóm hàng hoá nhất định như dệt may, điện
tử, giấy, ô tô, thép, lương thực, rau quả, cây công nghiệp, chăn nuôi,…; các
cam kết về Trợ cấp nông nghiệp, Các biện pháp bảo hộ nông nghiệp phi thuế,
Cam kết WTO về hạn chế số lượng xuất, nhập khẩu,…
- Các Hiệp định và các văn bản khác của WTO liên quan đến hoạt
động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại.
- Các hiệp định và văn bản khác trong khuôn khổ Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (ASEAN) và các Hiệp định giữa ASEAN với các quốc gia khác.
- Hiệp định song phương giữa Việt Nam và các quốc gia khác trên
thế giới.
- ……
Nguồn luật quốc gia
Nguồn luật quốc gia của pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động xuất,