Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Hệ thống hóa văn bản pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (487.81 KB, 20 trang )

Hệ thống hóa văn bản pháp luật Hải quan điều
chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa
thương mại
Đỗ Hồng Dương
Khoa Luật
Luận văn ThS ngành: Lý luận lịch sử NN&PL; Mã số: 60 38 01
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Hoàng Anh
Năm bảo vệ: 2012
Abstract: Tìm hiểu các một số vấn đề lý luận cơ bản về cơng tác hệ thống hố pháp luật;
về pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại. Đánh
giá thực trạng hệ thống pháp luật hải quan về xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại. Đề
xuất một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả cơng tác hệ thống hố pháp luật hải
quan về xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại, góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật
hải quan.
Keywords: Luật Hải quan; Xuất nhập khẩu; Hàng hóa; Pháp luật Việt Nam; Văn bản
pháp luật
Content
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.Lý do chọn đề tài
Xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại là một hoạt động quan trọng trong nền kinh tế
mỗi quốc gia. Để điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội này, trong những năm gần đây Nhà nước
đã ban hành nhiều văn bản pháp luật, một mặt có thể hỗ trợ Nhà nước thực hiện tốt chức
năng quản lý xuất, nhập khẩu, mặt khác có thể thiết lập mơi trường pháp lý minh bạch, thơng
thống nhằm hỗ trợ các cá nhân, doanh nghiệp thực hiện có hiệu quả hoạt động kinh doanh
xuất, nhập khẩu, góp phần vào sự phát triển kinh tế chung của đất nước.
Tuy nhiên, do hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại ở nước ta chỉ mới phát
triển trong một thời gian ngắn, thực tiễn lại ln có những chuyển biến phức tạp nên địi hỏi Nhà
nước phải liên tục ban hành các văn bản pháp luật nhằm kịp thời đáp ứng nhu cầu quản lý về
xuất, nhập khẩu hàng hố thương mại. Chính điều này đã tạo nên một khối lượng văn bản pháp
luật đồ sộ, gây khó khăn cho cơng tác tra cứu và áp dụng pháp luật. Mặt khác, do trình độ lập
pháp còn nhiều hạn chế, kinh nghiệm quản lý về xuất, nhập khẩu chưa nhiều nên khơng thể tránh


khỏi tình trạng cùng lúc tồn tại nhiều quy định mâu thuẫn, chồng chéo hoặc thiếu tính khả thi.
Xuất phát từ thực trạng đó, địi hỏi Nhà nước phải có biện pháp hiệu quả để tiến hành tập
hợp, rà soát và đánh giá toàn diện hệ thống pháp luật hải quan về xuất, nhập khẩu hàng hoá
thương mại, nhằm kịp thời khắc phục những hạn chế và hoàn thiện hệ thống pháp luật; tạo điều


kiện thuận lợi cho người dân và cán bộ, công chức ngành hải quan có thể dễ dàng tiếp cận, tra
cứu và áp dụng pháp luật. Và hệ thống hoá pháp luật chính là một biện pháp hiệu quả có thể đáp
ứng các yêu cầu đó.
Mặc dù đã nhận thức được tầm quan trọng của cơng tác “Hệ thống hố văn bản pháp luật
hải quan về xuất nhập khẩu hàng hoá thương mại”, tuy nhiên, do cơ sở và pháp lý và lý luận của
vấn đề này cịn chưa hồn thiện nên dẫn đến thực trạng công tác hệ thống hoá pháp luật hải quan về
xuất, nhập khẩu trong thời gian qua chưa đạt được kết quả như mong muốn. Vì vậy, hồn thiện cơ sở
lý luận cho cơng tác hệ thống hoá pháp luật là tiền đề quan trọng để thực hiện có hiệu quả cơng tác
hệ thống hố pháp luật, góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật hải quan về xuất, nhập khẩu hàng
hoá thương mại và tạo điều kiện cho công tác tiếp cận, tra cứu, áp dụng pháp luật đơn giản và chính
xác hơn. Đó cũng chính là nhu cầu cấp thiết của đề tài này.
2.Mục đích nghiên cứu của luận văn, nội dung, phạm vi nghiên cứu
 Mục đích nghiên cứu chính của đề tài:
 Tìm hiểu các khái qt về cơng tác hệ thống hoá pháp luật.
 Đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật hải quan về xuất, nhập khẩu hàng hoá thương
mại.
 Đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả cơng tác hệ thống hố pháp luật
hải quan về xuất, nhập khẩu hàng hố thương mại, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật hải
quan.
 Nội dung và phạm vi nghiên cứu: Bài luận văn của tôi chủ yếu tập trung đi sâu vào
phân tích thực trạng của hệ thống văn bản pháp luật hải quan về xuất, nhập khẩu hàng hoá
thương mại; thực trạng tiến hành cơng tác hệ thống hố pháp luật trong lĩnh vực hải quan, từ đó
đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cơng tác hệ thống hố pháp luật về xuất, nhập
khẩu hàng hoá, thương mại.

3.Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như: Phương pháp duy vật
biện chứng, phương pháp phân tích đánh giá, phương pháp đối chiếu so sánh, … dựa trên những
tài liệu, thơng tin có được từ các cơng trình nghiên cứu, các tác phẩm của các tác giả và từ những
nhận thức, đánh giá của bản thân.
II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia thành ba chương:
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỆ THỐNG HOÁ PHÁP LUẬT VÀ PHÁP LUẬT HẢI
QUAN ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HỐ THƢƠNG MẠI
1.1.Hệ thống hố pháp luật
1.1.1. Khái niệm hệ thống hoá pháp luật
Hệ thống hoá pháp luật là hoạt động hệ thống, sắp xếp, chỉnh lý, bổ sung các văn bản quy
phạm pháp luật theo một trật tự nhất định nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tra cứu và áp
dụng pháp luật.
1.1.2. Hình thức thực hiện hệ thống hoá pháp luật
Tập hợp hoá: là hoạt động sắp xếp các văn bản quy phạm pháp luật hoặc các quy phạm
pháp luật riêng biệt theo một trật tự nhất định, có thể theo trình tự thời gian ban hành, theo vần
chữ cái hoặc theo từng vấn đề, thậm chí theo một trật tự khác tuỳ thuộc vào chủ thể tiến hành tập
hợp. Hoạt động này không làm thay đổi nội dung văn bản pháp luật, không bổ sung những quy


định mới mà chỉ nhằm loại bỏ các quy phạm pháp luật đã hết hiệu lực.
Pháp điển hoá: là hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, trong đó, khơng
những chỉ tập hợp các văn bản quy phạm pháp luật đã có theo một trình tự nhất định, loại bỏ các
quy phạm pháp luật lỗi thời, mâu thuẫn hoặc chồng chéo, mà còn bổ sung các quy phạm pháp
luật mới để thay thế cho các quy phạm pháp luật đã bị loại bỏ, khắc phục những lỗ hổng đã được
phát hiện, nhằm nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật và tăng cường hiệu lực pháp lý
của chúng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Kết quả của cơng tác pháp điển hố có thể
cho ra đời một văn bản quy phạm pháp luật mới.

Trong khoa học pháp lý, pháp điển hóa được phân chia thành hai hình thức: pháp điển
hóa về mặt nội dung và pháp điển hóa về mặt hình thức.
1.1.3. Chủ thể và trình tự thực hiện hệ thống hố pháp luật
Chủ thể:
- Tập hợp hố: có thể được tiến hành bởi cơ quan nhà nước, hoặc bất kỳ cá nhân, tổ
chức, doanh nghiệp.
- Pháp điển hoá: chỉ được thực hiện bở cơ quan nhà nước có thẩm quyèn theo quy định
của pháp lt.
Trình tự thực hiện:
- Tập hợp hố: khơng có quy định bắt buộc về trình tự thực hiện.
- Pháp điển hố: trình tự, thủ tục pháp điển hố chỉ mới được quy định tại Pháp lệnh về
Pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2013).
1.1.4. Mục đích, ý nghĩa của cơng tác hệ thống hoá pháp luật
 Thực trạng hệ thống pháp luật Việt Nam:
Một cách khái quát, có thể nhận thấy hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của chúng
ta đang tồn tại một số mặt hạn chế, cần phải khắc phục:
- Tản mát, tức là có cùng lúc nhiều quy phạm pháp luật trong các văn bản quy phạm
pháp luật khác nhác cùng điều chỉnh một vấn đề.
- Khơng đồng nhất, tức là có sự khác nhau, thậm chí là mâu thuẫn giữa các quy phạm
pháp luật cùng điều chỉnh một vấn đề.
- Không minh bạch. Sự không minh bạch này thể hiện ở chổ là cùng một quy phạm pháp
luật nhưng có thể có nhiều cách hiểu khác nhau, có nhiều cơng văn hướng dẫn khác nhau.
- Hiệu lực văn bản không rõ ràng. Điều này nhận thấy rõ ràng nhất trong trường hợp văn
bản luật đã chấm dứt hiệu lực nhưng hệ thống các văn bản hướng dẫn dưới luật vẫn tồn tại và
vẫn được áp dụng.
 Mục đích, ý nghĩa của cơng tác hệ thống hóa pháp luật:
- Tập hợp được tất cả các quy phạm pháp luật đang nằm phân tán, rải rác ở nhiều văn bản
trong một văn bản pháp luật duy nhất.
- Minh bạch hóa và bảo đảm cập nhập kịp thời các quy định mới cũng như pháp hiện
những quy định không hợp lý cần sửa chữa, bổ sung.

- Đảm bảo tính hệ thống, thống nhất của hệ thống pháp luật.
- Nâng cao sự tin tưởng của người dân vào hệ thống pháp luật thơng qua việc đơn giản
q trình tra cứu và áp dụng pháp luật.
- Tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình sửa đổi, bàn hành pháp luật.
1.2. Pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thƣơng mại
1.2.1. Khái niệm chung về pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu
hàng hoá thương mại
Pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại là tập hợp


tất cả các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện nhằm mục tiêu điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện xuất, nhập khẩu hàng hố nhằm mục đích
sinh lợi.
1.2.2. Những vấn đề cơ bản của pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động xuất, nhập
khẩu hàng hoá thương mại
1.2.2.1. Nguồn của pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng
hoá thương mại
- Nguồn luật quốc tế.
- Nguồn luật quốc gia.
1.2.2.2. Phạm vi, đối tượng và phương pháp điều điều chỉnh
- Phạm vi điều chỉnh: các quan hệ pháp luật phát sinh liênh quan đến hoạt động xuất,
nhập khẩu hàng hoá thương mại.
- Phương pháp điều chỉnh: Phương pháp hành chính – mệnh lệnh.
1.2.3. Vai trò và các nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật điều chỉnh hoạt động xuất,
nhập khẩu hàng hoá thương mại
1.2.3.1. Vai trò của pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hố
thương mại
Vai trị chính trị:
- Thể chế hố chính sách, chủ trương, đường lối của Đảng về định hướng phát triển lĩnh
vực xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại.

- Quy định khung pháp lý về tổ chức cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực xuất,
nhập khẩu hàng hố thương mại.
Vai trị kinh tế:
- Xây dựng khung pháp lý để các cơ quan Nhà nước tiến hành hoạt động quản lý trong
lĩnh vực xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại.
- Xây dựng hành lang pháp lý để các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức có thể thực hiện và
bảo việ quyền tự chủ trong hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại.
- Là cơng cụ để Nhà nước có thể chủ động thực thi một cách đúng đắn các chính sách
bảo hộ mậu dịch thương mại nhằm hạn chế các hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh và góp phần
bảo vệ nền sản xuất trong nước.
Vai trị xã hội:
- Thơng qua cơ chế điều tiết xuất, nhập khẩu, pháp luật hải quan góp phần đảm bảo hài
hồ lợi ích của mọi thành phần trong xã hội.
- Nhà nước tham gia quản lý, điều hành hoạt động xuất, nhập khẩu đối với một số loại
hàng hoá quan trọng, thiết yếu nhằm đảm bảo ổn định xã hội.
- Thông qua pháp luật hải quan, Nhà nước có thể chủ động khuyến khích hay hạn chế
xuất, nhập khẩu đối với một số loại hàng hoá nhất định, nhất là các sản phẩm không phù hợp với
môi trường văn hố, giáo dục; các sản phẩm gây ơ nhiễm môi trường; hạn chế xuất khẩu tài
nguyên thô;… nhằm đảm bảo một sự phát triển bền vững cho các thế hệ tương lai.
1.2.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động xuất, nhập,
khẩu hàng hoá thương mại
- Nhu cầu phát triển kinh tế đất nước: đây là nhân tố ảnh hưởng mạnh mẽ và rõ nét nhất.
Sự phát triển của bất kỳ một quốc gia nào cũng trải qua nhiều giai đoạn và trong từng giai đoạn
có thể có những định hướng và mục tiêu khác nhau, từ đó dẫn đến chính sách kinh tế đối ngoại
nói chung và chính sách xuất nhập khẩu hàng hố nói riêng sẽ có những đặc điểm khác nhau.
Mặc khác, hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại chịu ảnh hưởng trực tiếp từ nhu cầu


và năng lực sản xuất của nền kinh tế trong nước, mà nhu cầu và năng lực này có thể biến đổi
theo thời gian. Do vậy, từ tình hình thực tiễn của từng giai đoạn mà Nhà nước sẽ đề ra những

chính sách chiến lược về xuất, nhập khẩu cụ thể, từ đó tác động trực tiếp đến cơng tác xây dựng
và thực thi pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại.
- An ninh quốc gia: Theo cách hiểu truyền thống, an ninh ninh quốc gia là sự ổn định,
phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Với
khái niệm này, an ninh quốc gia mang bản chất chính trị rõ nét. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện
nay, vấn đề an ninh quốc gia được hiểu khơng chỉ bó hẹp trong lĩnh vực quốc phịng, chính trị
mà cịn bao gồm nhiều lĩnh vực như kinh tế, văn hố,… hoặc chậm chí trong phạm vi một vấn đề
như an ninh năng lượng, an ninh lương thực,… Trong phạm vi bài viết này, an ninh quốc gia
được hiểu theo nghĩa rộng. Mục tiêu đảm bảo an ninh quốc gia sẽ trực tiếp tác động đến đường
lối kinh tế đối ngoại của đất nước, từ đó ảnh hưởng đến công tác xây dựng và thực thi pháp luật
hải quan điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại.
- Ổn định xã hội: Bất kỳ một chính sách kinh tế nào cũng phải tính đến những tác động
xã hội của nó. Một chính sách kinh tế không thể thành công nếu gây ra những tác động tiêu cực
(dù là vật chất hay phi vật chất) cho xã hội. Quản lý xuất nhập, khẩu hàng hoá thương mại cũng
khơng nằm ngồi quy luật đó. Bên cạnh nhu cầu phát triển kinh tế, chính sách xuất nhập khẩu
hàng hố phải tính đến những tác động của nó gây ra cho đời sống văn hoá, xã hội, nhằm đảm
bảo hài hồ lợi ích của mọi thành phần trong xã hội, nhất là thành phần dân cư có thu nhập thấp.
Từ đó xây dựng những chính sách, quy phạm pháp luật cụ thể đảm bảo vừa đáp ứng nhu cầu
phát triển xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại, vừa duy trì sự ổn định xã hội, đặc biệt là giữ gìn
bản sắc văn hố, truyền thống của dân tộc.
- Phát triển bền vững: Hiện nay, phát triển bền vững đang là vấn đề cấp bách và đặc biệt
quan trọng, thu hút sự quan tâm của tất cả các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia
đang phát triển như ở Việt Nam. Vấn đề phát triển bền vững chủ yếu được đề cập trên các khía
cạnh:
 Phát triển kinh tế phải đi đôi với bảo vệ mơi trường và phịng chống biến đổi khí hậu.
 Sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Tăng cường nghiên
cứu, phát triển các nguyên vật liệu nhân tạo nhằm thay thế nguồn tài nguyên thiên nhiên. Không
thể phủ nhận nhu cầu phát triển bền vững đã tác động trực tiếp đến chính sách kinh tế của các
quốc gia, trong đó có chính sách xuất nhập khẩu hàng hoá thương mại, cụ thể như:

 Hạn chế sản xuất, xuất, nhập khẩu hàng hoá tác động xấu đến mơi trường, từ đó hình
thành thói quen và ý thức tiêu dùng sản phẩm thân thiện với môi trường cho người dân.
 Hạn chế xuất khẩu tài nguyên thô, nâng cao cơng nghệ nhằm sử dụng có hiệu q và
tăng cường giá trị gia tăng cho nguồn tài nguyên thiên nhiên.
 Khuyến khích nhập khẩu các sản phẩm, các nguồn nguyên vật liệu sạch, thân thiện với
môi trường,…
Chương 2
THỰC TRẠNG VĂN BẢN PHÁP LUẬT HẢI QUAN ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG
XUẤT, NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ THƢƠNG MẠI
2.1.Một số chế định pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng
hoá thƣơng mại
2.1.1. Chế định về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của hệ thống cơ quan quản


lý nhà nước trong lĩnh vực xuất, nhập khẩu hàng hoá
2.1.1.1. Cơ sở pháp lý
Luật Hải Quan (2001); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hải Quan (2005);
Quyết định số 02/2010/QĐ-TTg; Quyết định số 1027/QĐ-BTC; Quyết định 2053/QĐ-BTC ;
Quyết định số 1169/QĐ-TCHQ.
2.1.1.2. Nội dung cơ bản của chế định
 Hệ thống cơ quan Hải quan Việt Nam:
Cơ quan Tổng cục Hải quan ở Trung ương: Tổng cục Hải quan là cơ quan trực thuộc
Bộ Tài Chính, có tư cách pháp nhân, con dấu có hình Quốc huy, có tài khoản riêng tại Kho bạc
Nhà nước và có trụ sở tại Thành phố Hà Nội. Về cơ cấu tổ chức, Tổng cục Hải quan bao gồm các
đơn vị hành chính có chức năng hỗ trợ Tổng Cục trưởng thực hiện quản lý nhà nước trong lĩnh
vực hải quan và các đơn vị sự nghiệp.
Cơ quan hải quan ở địa phương: Hệ thống cơ quan hải quan ở địa phương được tổ chức
bao gồm:
- Các Cục hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thuộc Tổng cục Hải
quan (gọi chung là Cục Hải quan);

- Các Chi cục Hải quan, Đội kiểm soát Hải quan và đơn vị tương đương thuộc Cục Hải
quan.
 Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan hải quan:
- Nhiệm vụ và quyền hạn của Tổng cục Hải quan được quy định tại Điều 2 của Quyết
định số 02/2010/QĐ-TTg.
- Nhiệm vụ và quyền hạn của các Cục Hải quan được quy định tại Điều 2 của Quyết định
số 1027/QĐ-BTC.
- Nhiệm vụ và quyền hạn của các Chi cục Hải quan được quy định tại Điều 2 của Quyết
định số 1169/QĐ-TCHQ.
- Cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các đơn vị hành chính, đơn vị
sự nghiệp trực thuộc Tổng cục Hải quan được thực hiện theo các quyết định do Bộ Tài Chính
ban hành.
2.1.2.
Chế định về thủ tục hải quan, chế độ kiểm tra, giám sát hải quan
2.1.2.1. Cơ sở pháp lý:
Luật Hải Quan (2001); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hải Quan (2005); Nghị
định số 154/2005/NĐ-CP; Thông tư số 194/2010/TT-BTC.
2.1.2.2. Nội dung cơ bản của chế định:
- Nguyên tắc thực hiện thủ tục hải quan;
- Trình tự các bước, thời hạn thực hiện thủ tục hải quan;
- Địa điểm thực hiện thủ tục hải quan;
- Hồ sơ hải quan;
- Nghĩa vụ và quyền của người khai hải quan;
- Trách nhiệm và quyền hạn của cán bộ, công chức hải quan.
- Thủ tục hải quan.
- Kiểm tra, giám sát hải quan đối với hàng hoá xuất, nhập khẩu.
- Xử lý khiếu nại về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến hàng hố xuất, nhập khẩu.
2.1.3. Chế định về trách nhiệm của hải quan trong việc phịng chống bn lậu, vận
chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới
2.1.3.1. Cơ sở pháp lý

Luật Hải Quan (2001); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hải Quan (2005);


Nghị định số 107/2002/NĐ-CP; Thông tư 102/2005/TT-BTC.
2.1.3.2. Nội dung cơ bản của chế định:
- Trách nhiệm, phạm vi hoạt động của hải quan trong cơng tác phịng, chống bn lậu,
vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới.
- Thẩm quyền của hải quan trong việc áp dụng các biện pháp phịng, chống bn lậu, vận
chuyển trái phép hàng hố qua biên giới.
- Thẩm quyền của hải quan, công chức hải quan trong việc xử lý các hành vi buôn lậu,
vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới.
2.1.4. Chế định về tổ chức thu thuế và các khoản thu khác đối với hàng hoá xuất,
nhập khẩu
2.1.4.1. Cơ sở pháp lý
Luật Hải quan (2001); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hải Quan (2005); Luật
Quản lý thuế (2006); Nghị định số 85/2007/NĐ-CP; Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu (2005);
Nghị định số 87/2010/NĐ-CP: Luật thuế giá trị gia tăng (2008); Nghị định số 123/2008/NĐ-CP;
Luật thuế tiêu thụ đặc biệt (2008); Nghị định số 26/2009/NĐ-NĐ; Nghị định số 12/2006/NĐ-CP;
Nghị định số 29/2008/NĐ-CP; Quyết định số 33/2009/QĐ-TTg.
2.1.4.2. Nội dung cơ bản của chế định
- Quyền và nghĩa vụ của người khai hải quan khi kê khai, tính thuế, nộp thuế.
- Trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan hải quan.
2.1.5.
Chế định về xử lý các hành vi vi phạm trong lĩnh vực xuất, nhập khẩu hàng
hoá thƣơng mại
2.1.5.1. Cơ sở pháp lý
Luật Hải quan năm (2001); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hải quan năm
(2005); Bộ luật Hình sự năm (1999); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm
(2009); Luật xử lý vi phạm hành chính (2012); Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002;
Pháp lệnh sửa đổi Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2007; Pháp lệnh sửa đổi Pháp lệnh

xử lý vi phạm hành chính năm 2008; Nghị định số 128/2008/NĐ-CP; Nghị định số 97/2007/NĐCP; Nghị định số 18/2009/NĐ-CP; Thông tư số 193/2009/TT-BTC; Nghị định số 98/2007/NĐCP; Thông tư số 61/2007/TT-BTC; Nghị định số 97/2010/NĐ-CP; Thông tư số 37/2011/TTBKHCN; Nghị định số 47/2009/NĐ-CP;…
2.1.5.2. Nội dung cơ bản của chế định
 Chủ thể vi phạm là cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp trực tiếp tham gia hoạt động
xuất, nhập khẩu hàng hoá thƣơng mại
- Nguyên tắc xử lý.
- Biện pháp xử lý.
Theo Điều 6 Nghị định 97/2007/NĐ-CP, khi chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành
chính trong lĩnh vực xuất, nhập khẩu hàng hố, tuỳ theo mức độ vi phạm có thể bị áp dung một
trong các hình thức xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền. Tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà chủ
thể vi phạm cịn có thể bị áp dung một trong các hình phạt bổ sung sau: Tước quyền sử dụng
giấy phép, chứng chỉ hành nghề; Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành
chính. Ngồi ra, cá nhân, tổ chức vi phạm cịn có thể bị áp dụng một hoặc các biện pháp khắc
phục hậu quả sau đây: Buộc tiệu huỷ, tang vật vi phạm là văn hoá phẩm độc hại, hàng hoá gây
hại cho sức khoẻ con người, vật nuôi và cây trồng; Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc
buộc tái xuất hàng hoá, phương tiện vi phạm tại cửa khẩu nhập; Buộc nộp lại số tiền bằng giá trị
tang vật, phương tiện vi phạm đã bị tiêu thụ, tẩu tán, tiêu huỷ trái với quy định của pháp luật.
Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính đối với từng hành vi vi phạm cụ thể được quy định


chi tiết tại mục 2 Chương I Nghị định 97/2007/NĐ-CP.
- Thẩm quyền xử phạt: được quy định tại Điều 28 Nghị định 97/2007/NĐ-CP.
- Các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và đảm bảo việc xử phạt vi phạm hành
chính.
Trường hợp hành vi vi phạm nghiêm trọng, tuỳ theo hành vi và mức độ vi phạm, chủ thể
vi phạm có thể bị khởi tố và xử lý theo các quy định của Bộ luật Hình sự như: Tội bn lậu
(Điều 153); Tội vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới (Điều 154);...
 Chủ thể vi phạm là cơ quan hải quan, công chức hải quan:
Cán bộ, cơng chức hải quan có trách nhiệm gương mẫu chấp hành các quy định của pháp
luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực hải quan. Mọi hành vi vi phạm, tuỳ theo mức độ mà có
thể bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Trường hợp có hành vi vi phạm mà gây

thiệt hại cho tổ chức, cá nhân khác thì cơ quan hải quan phải bồi thường thiệt hại theo quy định
của pháp luật.
2.2. Thực trạng văn bản pháp luật hải quan về xuất, nhập khẩu hàng hoá thƣơng
mại
2.2.1. Đánh giá tổng quan về giá trị, hiệu quả của pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt
động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại
2.2.1.1. Đánh giá chung về hiệu quả của pháp luật hải quan
Về cơ bản, pháp luật hải quan đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thực hiện quyền tự
do kinh doanh trong hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại thơng qua các quy định cụ
thể về trình tự, thủ tục hải quan. Bên cạnh đó, Pháp luật hải quan cũng đóng vai trị tích cực vào
việc khuyến khích, bảo hộ đầu tư kinh doanh.
Pháp luật hải quan quy định thủ tục cho từng loại hình, rất dễ tiếp cận giúp doanh nghiệp
lựa chọn hình thức kinh doanh xuất, nhập khẩu phù hợp với khả năng của doanh nghiệp.
Pháp luật hải quan cũng đã góp phần đảm bảo được mơi trường cạnh tranh bình đẳng
thơng qua cách thức quy định thủ tục hải quan như nhau cho từng loại hình xuất nhập khẩu, từ đó
tác động tích cực và tạo điều kiện bình đẳng cho các doanh nghiệp.
Về phía Nhà nước, pháp luật hải quan cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu quản lý của nhà
nước trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu. Giúp Nhà nước chỉ đạo hoạt động xuất, nhập khẩu
phát triển theo đúng quỹ đạo, đồng thời hài hồ hố các quy định trong nước với pháp luật và
thơng lệ quốc tế.
Ngồi ra, Pháp luật hải quan cũng đã đề cao vị thế, vai trò của doanh nghiệp thông qua cơ
chế quản lý hải quan trên cơ sở tự kê khai, tự nộp thuế và tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệpi.
2.2.1.2. Đánh giá tính minh bạch
Luật hải quan và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc và
tương đối đầy đủ cho việc thực hiện thủ tục hải quan và các quy định về quản lý hải quan. Chính
sự đầy đủ, chi tiết này đã tạo được những tác động tích cực như: bảo đảm tính minh bạch của hệ
thống pháp luật và trong thực thi thủ tục hành chính; hạn chế cơ chế xin - cho và góp phần hạn
chế những điểm sơ hở, bất hợp lý để một số công chức hải quan biến chất nhũng nhiễu, gây khó
khăn cho hoạt động thương mại.
Tuy vậy, vẫn còn tồn tại một số nội dung chưa được quy định đầy đủ và cụ thể nên chưa có

cơ sở để áp dụng trong thực tiễn hoặc cách hiểu và áp dụng không thống nhất, như: phân định nghĩa
vụ của đại lý trước Nhà nước, quy định về các chứng từ thuộc hồ sơ hải quan, cơ chế phối hợp kiểm
tra giữa các ngành,... Một số quy định chưa rõ ràng, minh bạch dẫn đến q trình áp dụng có nhiều
cách hiểu khác nhau như: giá trị tờ khai hải quan, đối tượng miễn kiểm tra thực tế hàng hoá, chế độ
thơng quan đối với hàng hố phải kiểm dịch,...


2.2.1.3. Đánh giá tính thống nhất
Về cơ bản có thể đánh giá các quy định hiện hành của pháp luật hải quan về xuất, nhập
khẩu hàng hoá thương mại đã tương đối phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về hải quan, hài hồ
hố thủ tục hải quan Việt Nam với các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Các quy
định về hải quan cơ bản đã thống nhất giữa Luật Hải quan với các luật liên quan, giữa Luật Hải
quan với các văn bản quy định chi tiết thi hành; bảo đảm tương đối tính đồng bộ của hệ thống
pháp Luật Hải quan.
Mặc dù vậy, vẫn còn một số quy định của Luật Hải quan còn thiếu hoặc chưa thống nhất
với quy định của các chuẩn mực quốc tế (Công ước Kyoto). Một số nội dung của Luật hải quan
còn thiếu thống nhất với các Luật liên quan hoặc thiếu thống nhất giữa các điều trong Luật hải
quan. Một số quy định chưa thống nhất giữa Luật, Nghị định, Thơng tư.
2.2.1.4. Đánh giá tính hợp lý và khả thi
Tính hợp lý:
Pháp luật hải quan đã tạo cơ chế áp dụng quản lý rủi ro trong hoạt động kiểm tra hải
quan, giảm thời gian thông quan hàng hố và chi phí cho doanh nghiệp trong khi làm thủ tục hải
quan; đưa ra cơ chế căn bản về quản lý hải quan trên cơ sở tự khai, tự nộp thuế và tự chịu trách
nhiệm của doanh nghiệp. Thủ tục hải quan đơn giản, tạo môi trường hoạt động xuất nhập khẩu
bình đẳng giữa các doanh nghiệp, tạo sự thuận lợi và bình đẳng trước pháp luật giữa các chủ thể
trong quan hệ pháp Luật Hải quan.
Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số mặt hạn chế như một số chuẩn mực quốc tế (Công ước
Kyoto) tạo thuận lợi chưa được áp dụng hoặc áp dụng chưa đầy đủ. Một số quy định chưa đầy
đủ hoặc thiếu thống nhất giữa văn bản cấp dưới với văn bản cấp cao hơn, quy định không hợp lý
nên hạn chế quyền tự do hoặc chưa thực sự tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu.

Tính khả thi:
Qua hơn mười năm triển khai thực hiện, với hiệu quả tích cực đạt được đã chứng minh
Luật Hải quan và các văn bản hướng dẫn thi hành có tính khả thi cao. Tuy vậy, vẫn còn tồn tại
một số quy định về thủ tục thiếu khả thi, khó thực hiện trong thực tế như: thời hạn khai và làm
thủ tục hải quan ngắn, khơng có cơ chế chấp nhận việc khai bổ sung sau khi đã thông quan đối
với trường hợp không ảnh hưởng đến thuế và chính sách xuất nhập khẩu, quy định đưa hàng hoá
đến địa điểm kiểm tra tập trung; quy định thời hạn nộp hồ sơ thanh khoản không phù hợp.
2.2.2. Một số bất cập tồn tại cụ thể trong pháp luật hải quan về xuất, nhập khẩu
hàng hoá thương mại
 Quy định về khai bổ sung hồ sơ khai thuế đối với hàng hoá xuất khẩu
- Điều 22 Luật Hải Quan quy định, đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, việc khai bổ
sung hồ sơ khai thuế phải thực hiện trước thời điểm cơ quan hải quan kiểm tra thực tế hàng hoá
hoặc quyết định miễn kiểm tra thực tế hàng hoá. Và theo Điều 68 Luật Hải quan, trong thời hạn
6 tháng kể từ ngày đăng ký tờ khai, nếu phát hiện có sự nhầm lẫn trong việc kê khai, tính thuế,
nộp thuế thì người khai hải quan có trách nhiệm phải báo cho cơ quan hải quan nơi làm thủ tục
hải quan để điều chỉnh số tiền thuế phải nộp. Tuy nhiên, theo quy định tại Khoản 5 Điều 23 Luật
Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu thì thời hạn này chỉ là sáu mươi ngày.
- Cũng liên quan đến vấn đề này, Điều 34 Luật Quản lý thuế quy định: Đối với hàng hoá
xuất khẩu, nhập khẩu, việc khai bổ sung hồ sơ khai thuế được thực hiện trong các trường hợp sau
đây:
 Trước thời điểm cơ quan hải quan kiểm tra thực tế hàng hoá hoặc quyết định miễn
kiểm tra thực tế hàng hoá, người khai hải quan phát hiện hồ sơ khai thuế đã nộp có sai sót;
 Người nộp thuế tự phát hiện những sai sót ảnh hưởng đến số thuế phải nộp trong thời


hạn sáu mươi ngày, kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan nhưng trước khi cơ quan hải quan thực
hiện kiểm tra thuế, thanh tra thuế tại trụ sở của người nộp thuế.
Việc khống chế thời gian với trường hợp khai bổ sung hồ sơ khai thuế xuất khẩu thuế
nhập khẩu tại Luật quản lý thuế, Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu là chưa cô ng bằng
với người nộp thuế so với các loại thuế khác. Thời hạn khai bổ sung hồ sơ thuế đối với người

nộp thuế có hoạt động kinh doanh hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu quá ngắn so với người nộp
thuế có hoạt động kinh doanh hàng hóa sản xuất trong nước. Quy đ ịnh này chưa khuyến
khích được người nộp thuế tự phát hiện những sai sót và khai bổ sung để thu đúng, thu đủ số
tiền thuế phải nộp vào Ngân sách nhà nước. Và có sự phân biệt giữa hàng hóa sản xuất nội
địa với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
 Về thẩm quyền gia hạn nộp thuế đối với hàng hố xuất khẩu, nhập khẩu
Có sự khơng hợp lý giữa Luật quản lý thuế và pháp luật hải quan về thẩm quyền gia hạn
nộp thuế đối với hàng hoá xuất, nhập khẩu.
Theo quy định Điều 50 Luật quản lý thuế thì thẩm quyền gia hạn nộp thuế là “Thủ trưởng cơ
quan quản lý thuế quản lý trực tiếp căn cứ hồ sơ gia hạn nộp thuế để quyết định số tiền thuế được gia
hạn nộp, thời gian gia hạn nộp thuế”.
Quy định thẩm quyền gia hạn nộp thuế tại Điều 50 Luật quản lý thuế chưa phù hợp với
việc gia hạn nộp thuế đối với doanh nghiệp có hoạt động xuất, nhập khẩu. Vì theo quy định của
Luật Hải quan: DN có thể mở tờ khai xuất khẩu, nhập khẩu ở nhiều cửa khẩu nên việc gia hạn
nộp thuế xuất khẩu, nhập khẩu có thể liên quan đến nhiều cơ quan hải quan. Để thực hiện đơn
giản hoá thủ tục hành chính và tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế khi gặp khó khăn, đề
nghị cần phân cấp thẩm quyền việc gia hạn nộp thuế đối với hàng hóa xuất khẩu.
 Kiểm tra thuế tại trụ sở cơ quan thuế, tại trụ sở của ngƣời nộp thuế
Theo quy định tại Điều 77 Luật Quản lý thuế thì khơng giới hạn thời gian kiểm tra. Trong
khi đó theo quy định tại Điều 32 của Luật Hải quan quy định thời hạn kiểm tra là 5 năm kể từ
ngày đăng ký tờ khai Hải quan. Như vậy quy định về kiểm tra thuế ở hai luật này không thống
nhất với nhau.
 Sự thiếu thống nhất giữa luật hải quan và các luật chuyên ngành khác
Bên cạnh những nội dung trên, Luật Hải quan cũng còn một số vấn đề chưa thống nhất
với các ngành Luật khác, như: Luật Hải quan với Luật Thương mại, Luật Hàng hải chưa có
hướng dẫn về nội dung sửa chữa, bổ sung về vấn đề manifest. Hiện tại Thông tư số
194/2010/TT-BTC bãi bỏ Điều 87 Thơng tư 79/2009/TT-BTC của Bộ Tài chính nhưng các văn
bản hướng dẫn Luật Hàng hải chưa có hướng dẫn việc sửa chữa, bổ sung manifest (Về vấn đề
này, hiện này chỉ có Quyết định số 19/2011/QĐ-TTg ngày 23-3-2011 về việc thí điểm thực hiện
tiếp nhận bản khai hàng hóa, các chứng từ có liên quan và thơng quan điện tử đối với tàu biển

nhập cảnh, xuất cảnh, nhưng chỉ thí điểm triển khai tại 4 Chi cục Hải quan gồm: Hải Phịng, Đà
Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa Vũng Tàu, đối với các địa phương còn lại vẫn chưa có
quy định). Một số nội dung (quy định đối với hàng gia công, hàng tạm nhập, tái xuất; tạm xuất,
tái nhập; hàng quá cảnh; hàng tham dự hội chợ, triễn lãm...) trong Luật Thương mại và Luật Hải
quan còn trùng lặp, phân tán. Bên cạnh đó, việc áp dụng các biện pháp kiểm sốt bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ (Luật Sở hữu trí tuệ) khơng thống nhất với quy định tạm dừng làm thủ tục hải quan
đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ (Luật Hải quan).
Tất cả những chồng chéo, mâu thuẫn này khiến cho việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước
trong lĩnh vực xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại gặp nhiều trở ngại, vừa gây khó khăn cho
cơ quan thực thi, vừa khó cho chủ thể thực hiện xuất, nhập khẩu.
Trong vấn đề phối hợp thực hiện pháp luật hải quan, mặc dù pháp luật hải quan cũng đã


có một số quy định, tuy nhiên, trên thực tế, các đơn vị Hải quan gặp rất nhiều khó khăn trong
công tác phối hợp với các cơ quan chức năng liên quan do vướng các quy định riêng của cơ quan
chức năng đó. Chẳng hạn như việc đề nghị ngân hàng cung cấp thông tin về tài khoản của doanh
nghiệp vẫn gặp khá nhiều khó khăn do vấp phải các quy định của pháp luật về ngân hàng; hay
khó khăn trong việc phối hợp với cơ quan điều tra, cơ quan Công an để điều tra, xác minh doanh
nghiệp nợ thuế. Những bất cập, chồng chéo, thiếu thống nhất nêu trên cần được xem xét, hoàn
thiện và đưa vào nội dung Luật Hải quan trong lần sửa đổi, bổ sung sắp tới.
Chương 3
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HỆ THỐNG HOÁ VĂN BẢN PHÁP LUẬT HẢI
QUAN ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG XUẤT, NHẬP KHẨU HÀNG HÓA THƢƠNG MẠI
3.1. Sự cần thiết khách quan của việc hệ thống hoá văn bản pháp luật hải quan
điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá
3.1.1. Sự cần thiết trong thực hiện chức năng quản lý của Nhà nước
- Cần thiết để đánh giá chính xác thực trang hệ thống pháp luật hải quan điều chỉnh xuất,
nhập khẩu hàng hoá.
- Cần thiết trong việc xác định định hướng chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp
luật hải quan về xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại.

- Cần thiết trong việc nâng cao hiệu quả áp dụng và thực thi các văn bản pháp luật hải
quan về xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại.
- Cần thiết trong việc tăng cường tính rõ ràng, minh bạch của pháp luật; giảm thiểu tình
trạng tiêu cực, nhũng nhiễu của cán bộ, cơng chức hải quan, góp phần nâng cao ý thức tuân thủ
pháp luật của cán bộ, công chức ngành hải quan, nâng cao hiệu quả quản lý và uy tín của Nhà
nước.
3.1.2. Sự cần thiết về phía cá nhân, tổ chức thực hiện xuất, nhập khẩu hàng hoá
thương mại
 Về mặt kinh doanh
- Hệ thống hoá pháp luật giúp công tác tra cứu pháp luật được thực hiện nhanh chóng và
chính xác, tiết kiệm thời gian, chi phí.
- Hệ thống hoá pháp luật giúp người dân giảm thiểu rủi ro phát sinh từ việc không hiểu
hoặc áp dụng khơng đúng quy định pháp luật;
- Hệ thống hố pháp luật giúp cải thiện thủ tục hải quan theo hướng giảm thiểu thủ tục,
rút ngắn thời gian, tăng cường hiệu quả kinh doanh xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại cho
doanh nghiệp.
 Về mặt thực hiện quyền giám sát
Hệ thống hoá pháp luật sẽ giúp người dân và doanh nghiệp đơn giản hơn trong quá trình
tiếp cận và tìm hiểu pháp luật, từ đó góp phần cải thiện trình độ pháp lý. Khi trình độ pháp lý
được nâng cao, người dân sẽ có điều kiện để tự bảo vệ tốt hơn các quyền lợi chính đáng của
mình; mạnh dạn tố cáo tiêu cực của cán bộ, công chức hải quan trong lĩnh vực xuất, nhập khẩu
hàng hoá thương mại, tăng cường hiệu quả công tác giám sát nhân dân đối với hoạt động quản lý
nhà nước, góp phần làm trong sạch, lành mạnh hố đội ngũ cán bộ, cơng chức hải quan.
3.2.Thực trạng cơng tác hệ thống hố pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động xuất,
nhập khẩu hàng hoá thƣơng mại thời gian qua và định hƣớng trong thời gian tới
3.2.1. Thực trạng cơng tác hệ thống hố pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động
xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại thời gian qua


 Thực trạng hành lang pháp lý công tác hệ thống hoá pháp luật hải quan điều

chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hố thƣơng mại
Hiện nay, cơng tác hệ thống hoá pháp luật hải quan trong lĩnh vực xuất, nhập khẩu hàng
hóa được thực hiện chủ yếu dựa trên các quy định sau:
- Điều 93 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (2008);
- Điều 62 Nghị định số 24/2009/NĐ-CP ngày 05/03/2009;
Để xây dựng một hành lang pháp lý rõ ràng, minh bạch cho công tác pháp điển hố nói
chung, pháp điển phạm pháp luật hải quan về xuất, nhập khẩu hàng hóa thương mại nói riêng, ngày
22/03/2012, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh số 03/2012/UBTVQH về “Pháp
điển hệ thống quy phạm pháp luật” gồm 4 Chương, 18 Điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng
07 năm 2013. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác pháp điển, ngày 28/06/2012, Văn phịng
chính phủ đã có cơng văn số 4735/VPCP-PL truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ
“Giao Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan soạn thảo Nghị định của Chính
phủ quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật; trình Chính
phủ ban hành vào tháng 12 năm 2012” và ngày 29/06/2012, Bộ Tư Pháp đã có Quyết định số
1901/QĐ-BTP về việc ban hành kế hoạch triển khai thi hành Pháp lệnh Pháp điển hệ thống quy
phạm pháp luật.
 Thực trạng công tác tổ chức thực hiện hệ thống hoá pháp luật hải quan điều
chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thƣơng mại
Thực trạng hoạt động tập hợp hoá:
Trong thời gian qua, đã xuất hiện nhiều tập sách có nội dung tập hợp, sắp xếp các văn
bản pháp luật hải quan về xuất nhập khẩu do nhà xuất bản chủ động tập hợp và phát hành như:
sách Luật Thương mại, Luật Hải quan và Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu của Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia năm 2005; sách Luật thuế xuất nhập khẩu 2010 và hướng dẫn mới nhất
về thủ tục khai báo hải quan, miễn giảm thuế, hồn thuế đối với hàng hố xuất nhập khẩu của
Nhà xuất bản Lao động; sách Chính sách thuế hải quan 2011 dành cho các doanh nghiệp quy
định mới về trình tự, thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất, nhập khẩu (áp dụng từ 20/01/2011)
của Nhà xuất bản Lao động; sách Biểu Thuế - Biểu Thuế Xuất Khẩu – Nhập Khẩu và thuế GTGT
hàng nhập khẩu của Nhà xuất bản Tổng Hợp Thành phố Hồ Chí Minh;… hoặc các tập sách do
cá nhân biên soạn như: sách Luật Hải quan và các văn bản hướng dẫn thi hành thủ tục hải quan,
phương pháp xác định giá tính thuế của tác giả Nguyễn Đình Thiêm, do Nhà xuất bản Lao động

Xã hội phát hành năm 2002; sách Chính sách thuế mới và quy trình đăng ký, thu, nộp, hồn thuế,
thực hiện nghĩa vụ thuế, sử dụng hoá đơn chứng từ và quy trình thủ tục hải quan của tác giả
Khải Nguyên do Nhà xuất bản Tài chính phát hành năm 2010; sách Chính sách Thuế - Hải quan
2011 dành cho các doanh nghiệp – quy định mới về trình tự thủ tục hải quan đối với hàng hoá
xuất nhập khẩu của tác giả Quốc Cường, do Nhà xuất bản Tài Chính phát hành năm 2011 … Bên
cạnh đó, chúng ta cũng tìm thấy một số sách do Bộ Tài chính ấn hành, vừa mang giá trị hướng
dẫn, vừa mang giá trị tập hợp như: sách Hướng dẫn quy trình, thủ tục thuế, hải quan, Nhà xuất
bản Tài chính phát hành năm 2006; …
Bên cạnh các cơng trình tập hợp văn bản pháp luật hải quan về xuất, nhập khẩu hàng hố
thương mại được phát hành dưới hình thức sách in, trong những năm gần đây, chúng ta dễ dàng
tìm thấy các cơng trình tập hợp văn bản pháp luật hải quan trên các website điện tử của các cơ
quan nhà nước như Quốc hội (); Chính phủ (); Bộ
Tài chính (), Tổng cục Hải quan () và của các
cơ quan hải quan địa phương. Không chỉ vậy, nhiều website của các doanh nghiệp, tổ chức khác
cũng tiến hành tập hợp hoá các văn bản pháp luật hải quan về xuất, nhập khẩu hàng hoá thương


mại mà phổ biến và chất lượng nhất có thể kể đến cơng trình tập hợp cơng bố trên website
Rõ ràng, nếu xét về tính hiệu quả thì các cơng trình tập hợp văn bản
bản trên các trang thơng tin điện tử có giá trị rất tích cực bởi một số ưu thế như: thuận tiện cho
việc tra cứu; rút ngắn thời gian; tiết kiệm chi phí và đặc biệt là ưu thế phổ biến rộng rãi của nó so
với các hình thức tập hợp dưới dạng sách in. Do vậy, các cơng trình tập hợp này có giá trị rất lớn
trong việc phổ biến pháp luật về xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại đến người dân và doanh
nghiệp, giúp họ chủ động hơn trong quá trình tìm hiểu và áp dụng pháp luật, cũng như góp phần
nâng cao hiệu quả quản lý xuất, nhập khẩu của cán bộ, công chức ngành hải quan.
Thực trạng hoạt động pháp điển hoá
Xét về cách thức thực hiện, pháp điển hoá bao gồm pháp điển hố về hình thức và pháp
điển hoá về nội dung. Ở cấp độ đơn giản, pháp điển hoá nội dung là hoạt động rà soát, đối chiếu
các văn bản pháp luật hiện có, và trên cơ sở đó tiến hành chỉnh sửa các quy phạm mâu thuẫn,
chồng chéo hoặc khơng cịn phù hợp để xây dựng thành một văn bản pháp luật mới. Hình thức

pháp điển hoá này đã được thực hiện từ rất lâu và song hành cùng hoạt động lập pháp của hầu
hết các quốc gia. Thực tiễn xây dựng pháp luật hải quan về xuất nhập khẩu hàng hoá thương mại
cũng chứng minh đã được thực hiện bằng hình thức này. Mới đây nhất, dự thảo luật hải quan sửa
đổi do Tổng cục Hải quan soạn thảo cũng được tiến hành theo hình thức pháp điển thơng qua
việc rà sốt, đối chiếu, chỉnh sửa và bổ sung các quy phạm pháp luật hiện hành. Theo đó, nội
dung dự thảo Luật Hải quan sửa đổi dự kiến gồm 129 điều, được bố cục thành 9 chương, trong
đó giữ nguyên 28 điều, sửa đổi 37 điều và bổ sung mới 64 điều. Có thể nói, đây là kết quả mới
nhất và giá trị nhất từ công tác pháp điển các quy phạm pháp luật hải quan hiện hành, thông qua
hệ số so sánh giữa số điều luật được giữ nguyên với tổng số điều luật được sửa đổi và bổ sung.
Sự hoàn thiện đáng kể này đã góp phần quan trọng vào việc hài hồ hoá các quy phạm pháp luật
quốc gia với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; khắc phục các quy định khơng phù
hợp, thiếu tính khả thi của luật hiện hành và tạo cơ sở để xây dựng lại hệ thống pháp luật hải
quan đảm bảo tính thống nhất, tinh gọn và hiệu quả.
Ở cấp độ cao hơn, pháp điển nội dung và pháp điển hình thức được thực hiện thơng qua hình
thức xây dựng Bộ pháp điển. Điểm khác biệt cơ bản là pháp điển hình thức chỉ đơn giản tập hợp tất
cả các quy phạm pháp luật hiện hành vào Bộ pháp điển theo một trật tự nhất định mà không trực tiếp
chỉnh sửa, bổ sung các quy phạm đó. Ngược lại, pháp điển nội dung cho phép, bên cạnh việc tập
hợp, sắp xếp, là hoạt động trực tiếp chỉnh sửa những quy định chồng chéo, thiếu tính khả thi hoặc
trực tiếp bổ sung các quy phạm pháp luật còn thiếu vào Bộ pháp điển. Theo kinh nghiệm của một số
nước như Hoa Kỳ, Pháp,… thẩm quyền xây dựng Bộ pháp điển do cơ quan nhà nước thực hiện, phải
tuân thủ theo một quy trình chặt chẽ do pháp luật quy định, do vậy nó mang bản chất của hoạt động
lập pháp. Ở Việt Nam, thời gian qua chúng ta chưa có cơ sở pháp lý để tiến hành thực hiện xây dựng
Bộ pháp điển. Do vậy, đến thời điểm này, gần như chưa có bất kỳ hoạt động nào về việc triển khai
xây dựng Bộ pháp điển nói chung, và trong lĩnh vực hải quan về xuất nhập khẩu hàng hố thương
mại nói riêng. Tuy nhiên, các cơ quan có thẩm quyền hiện đang khẩn trương triển khai kế hoạch thi
hành Pháp lệnh số 03/2012/UBTVQH về “Pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật” theo Cơng văn
số 4735/VPCP-PL của Văn phịng Chính Phủ và Quyết định số 1901/QĐ-BTP của Bộ Tư Pháp.
Điều này, cho chúng ta có cơ sở tin tưởng rằng trong tương lai không xa, Bộ pháp điển sẽ được triển
khai xây dựng và trong đó, đề mục về xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại sẽ là một nội dung quan
trọng được ưu tiên thực hiện.

Bên cạnh đó, việc ban hành Pháp lệnh về hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật đã tạo nền
tảng pháp lý quan trọng cho việc hồn thiện về hình thức việc sửa đổi, bổ sung các văn bản quy
phạm pháp luật. Trong thời gian qua, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nước ta thường xuyên


được sửa đổi, bổ sung, cá biệt có văn bản được sửa đổi đến hai, ba lần (ví dụ như Bộ luật lao động
năm 1994 được sửa đổi, bổ sung đến ba lần vào các năm 2002, 2006, 2007). Điều này dẫn đến thực
trạng là việc cứu văn bản quy phạm pháp luật mất rất nhiều thời gian để xác định văn bản nào đã
đươ ̣c sửa đổi, bổ sung, các lần sửa đổi, bổ sung; quy định nào còn hiê ̣u lực , quy đinh nào hế t hiê ̣u
̣
lực, quy định nào đã được sửa đổi…Tương tự, viê ̣c trích dẫn quy đ ịnh đã được sửa đổi, bổ sung
hay đặt tên văn bản cũng gặp nhiều khó khăn, lúng túng trong quá trình áp dụng và thực hiện văn
bản. Do vậy, trong thời gian chưa hoàn thiện Bộ pháp điển thì việc hợp nhất các văn bản quy phạm
pháp luật có ý nghĩa vơ cùng quan trọng, góp phần đảm bảo cho hệ thống pháp luật đơn giản, rõ
ràng, dễ sử dụng, từ đó nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật.
3.2.2. Định hướng công tác hệ thống hoá văn bản pháp luật hải quan về xuất, nhập
khẩu hàng hoá thương mại trong thời gian tới
 Thuận lợi và khó khăn
Thuận lợi
- Tiếp thu được kinh nghiệm thế giới.
- Bước đầu đã có những quy định pháp luật làm cơ sở cho việc thực hiện pháp điển.
- Đã có sẵn nhiều cơ sở dữ liệu về hệ thống văn bản pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt
động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại do các cơ quan, cá nhân, tổ chức tập hợp.
Khó khăn
- Giá trị pháp lý của Bộ pháp điển chưa được công nhận như một văn bản quy phạm
pháp luật.
- Pháp điển hoá về hình thức cịn là vấn đề mới ở Việt Nam, vì vậy có thể chúng ta sẽ
gặp nhiều khó khăn trong quá trình xây dựng Bộ pháp điển.
- Pháp luật hiện hành chỉ quy định về pháp điển hình thức, chưa cho phép chỉnh sửa, bổ
sung trực tiếp quy phạm pháp luật trong quá trình xây dựng Bộ pháp điển.

- Số lượng văn bản pháp luật hải quan về xuất, nhập khẩu hàng hố thương mại lớn, tính
chất văn bản phức tạp, có mối liên hệ đan xen với nhiều văn bản pháp luật khác nên cơng tác rà
sốt sẽ gặp nhiều trở ngại.
- Hoạt động pháp điển là một q trình liên tục, lâu dài và địi hỏi một sự đầu tư thích
đáng về cả thời gian, tài chính và nhân sự. Đặt biệt, trong bối cảnh Nhà nước đang thực hiện yêu
cầu giảm chi tiêu ngân sách, tinh gọn bộ máy quản lý thì những vấn đề này cũng là một trở ngại
lớn.
 Định hƣớng công tác hệ thống hoá pháp luật hải quan về xuất, nhập khẩu hàng
hoá thƣơng mại trong thời gian tới
- Trong thời gian Nhà nước chưa thể triển khai xây dựng Bộ pháp điển, các cơ quan hải
quan cần chủ động tiếp tục duy trì cơng tác tập hợp, rà sốt lại tất cả các văn bản quy phạm pháp
luật hải quan về xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại.
- Tổng cục Hải quan, tuỳ theo điều kiện của mình, có thể chủ động xây dựng và triển
khai đề mục của Bộ pháp điển về xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại.
- Tăng cường phổ biến các cơ sở dữ liệu văn bản pháp luật, các kết quả của công tác tập
hợp hố, pháp điển hố thơng qua các hình thức khác nhau, mà quan trọng nhất là thông qua các
trang thông tin điện tử của Tổng cục Hải quan và các Cục Hải quan địa phương.
3.3.Những giải pháp hệ thống hóa văn bản pháp luật hải quan về hoạt động xuất,
nhập khẩu hàng hóa thƣơng mại
3.3.1. Đối với cơng tác tập hợp hóa
- Trong thời gian Bộ pháp điển chung cho cả hệ thống pháp luật chưa được triển khai xây
dựng, Tổng cục Hải quan, căn cứ vào thẩm quyền và khả năng của mình, có thể chủ động chủ trì


thực hiện tập hợp, rà sốt lại tồn bộ hệ thống văn bản pháp luật hải quan về hoạt động xuất,
nhập khẩu hàng hoá thương mại, như một “cẩm nang” cho những ai có nhu cầu tra cứu pháp luật.
Thực hiện tốt công tác này sẽ mang lại nhiều lợi ích thiết thực như: rà sốt có hiệu quả các quy
phạm pháp luật hải quan về xuất, nhập khẩu hàng hố thương mại, từ đó có những kiến nghị để
chỉnh sửa, bổ sung hoàn thiện pháp luật; việc thực hiện công tác tập hợp tại một đầu mối là Tổng
cục Hải quan một mặt đảm bảo chất lượng của kết quả tập hợp, mặt khác tránh được tình trạng

thực hiện rà soát, hệ thống rải rác ở các cơ quan hải quan địa phương, gây tốn kém thời gian, tốn
kém chi phí và lãng phí nguồn nhân lực, nhất là trong giai đoạn Nhà nước đang chịu áp lực giảm
chi tiêu cơng, tinh giảm biên chế thì việc tập trung đầu mối về Tổng cục Hải quan sẽ ít nhiều góp
phần giảm thiểu những áp lực này. Hơn nữa, nếu chúng ta thực hiện có hiệu quả cơng tác tập
hợp, rà soát văn bản pháp luật sẽ tạo tiền đề quan trọng và rút ngắn thời gian cho việc xây dựng
Bộ pháp điển sau này.
- Sau khi thực hiện công tác tập hợp, rà soát, Tổng cục Hải quan phải đảm bảo theo dõi
thường xuyên, liên tục sự thay đổi của các văn bản để kịp thời cập nhập vào cơng trình tập hợp.
- Tổng cục Hải quan, trong phạm vi thẩm quyền và khả năng cho phép, có thể chủ động
ban hành hoặc đề xuất đến cấp có thẩm quyền các chính sách, chủ trương, cơ chế, nguồn lực để
thực hiện cơng tác rà sốt, tập hợp hệ thống văn bản pháp luật hải quan nói chung và văn bản về
xuất, nhập khẩu hàng hóa thương mại nói riêng (có thể thành lập bộ phận chuyên trách trực
thuộc Vụ Pháp chế để đảm bảo thực hiện có hiệu quả cơng tác này).
- Hồn thiện hệ thống thơng tin điện tử của Tổng cục Hải quan và cơ quan Hải quan địa
phương, đảm bảo sự kết nối thông tin giữa cơ quan hải quan cấp dưới với cơ quan hải quan cấp trên;
phổ biến rộng rãi hệ thống quy phạm pháp luật hải quan về xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại
trên các trang thông tin điện tử của cơ quan hải quan, đảm bảo cho người dân, cán bộ, cơng chức hải
quan có thể tra cứu một cách thuận tiện, nhanh chóng và chính xác.
3.3.2. Đối với cơng tác pháp điển hóa
Thứ nhất: Đây là ý kiến chung cho vấn đề pháp điển cả hệ thống pháp luật, không chỉ riêng
ngành luật hải quan về xuất, nhập khẩu hàng hố thương mại, đó là cần xác định rõ giá trị pháp lý
của Bộ pháp điển. Quy định pháp luật hiện hành chưa làm rõ vấn đề này. Nếu không trao cho Bộ
pháp điển giá trị như một văn bản quy phạm pháp luật, mà chỉ như một “công cụ” đơn giản hố
việc tra cứu thì khơng cần thiết phải quy định một trình tự thủ tục xây dựng, thơng qua phức tạp
đến vậy. Hơn nữa, việc không công nhận Bộ pháp điển có giá trị như một văn bản pháp luật sẽ làm
giảm thiếu đáng kể vai trò, ý nghĩa của công tác pháp điển, không giải quyết triệt để một số hạn
chế của công tác lập pháp hiện hành như chúng tơi đã phân tích ở những phần trên, từ đó làm giảm
động lực và tính nghiêm túc của cơng tác xây dựng Bộ pháp điển.
Thứ hai: Chính phủ cần khẩn trương ban hành nghị định hướng dẫn thi hành Pháp lệnh
Pháp điển hệ thống quy phạm phạm luật, xác định rõ ngành luật hải quan về xuất, nhập khẩu

hàng hoá thương mại thuộc phạm vi chủ đề nào trong số 45 chủ đề pháp điển quy định tại Pháp
lệnh. Đồng thời, xác định rõ vị trí, cấp độ của ngành luật hải quan về xuất, nhập khẩu hàng hoá
thương mại trong Bộ pháp điển (xây dựng thành đề mục, phần, chương, mục,…).
Thứ ba: có cơ chế pháp lý đảm bảo các điều kiện cần thiết để ngành hải quan có thể chủ
động xây dựng Bộ pháp điển trong phạm vi ngành mình quản lý, cụ thể như:
- Hướng dẫn chi tiết trình tự, thủ tục, hình thức, cách trình bày, sắp xếp đề mục, phần,
chương, mục điều, khoản của Bộ pháp điển;
- Hoàn thiện điều kiện kỹ thuật, nhất là các phần mềm hỗ trợ để thực hiện nhanh chóng,
chính xác hoạt động xây dựng Bộ pháp điển;
- Xây dựng trang thông tin điển tử chuyên biệt cho công tác pháp điển nhằm phổ biến Bộ


pháp điển để người dân, doanh nghiệp có nhu cầu tra cứu quy định pháp luật hải quan về xuất,
nhập khẩu hàng hố thương mại có thể tra cứu dễ dàng; đồng thời đảm bảo kết nối với các trang
thông tin điện tử của ngành hải quan, đảm bảo cho người dân, cán bộ, cơng chức hải quan có
nhiều kênh tiếp cận và tra cứu Bộ pháp điển.
Thứ tư: Đối với Tổng cục Hải quan, trước mắt có thể triển khai thí điểm việc xây dựng
Bộ pháp điển về pháp luật hải quan, theo trình tự:
- Rà sốt, tập hợp tất cả các văn bản pháp luật hải quan về xuất, nhập khẩu hàng hoá để
đưa vào Bộ pháp điển; có thể sắp xếp theo từng vấn đề pháp lý cụ thể để thuận tiện cho việc so
sánh, đối chiếu và tập hợp các quy phạm pháp luật cùng điều chỉnh một (một nhóm) quan hệ
pháp luật vào các điều, khoản của Bộ pháp điển.
- Xây dựng cấu trúc Bộ pháp điển theo các nguyên tắc quy định tại Pháp lệnh về Pháp
điển hệ thống quy phạm pháp luật, phân chia Bộ pháp điển thành phần, chương, mục, điều,
khoản. Trong từng phạm vi phải làm rõ những vấn đề pháp lý nhất định. Ví dụ, trong Bộ pháp
điển, chúng ta có thể xây dựng vấn đề Thủ tục hải quan thành một phần riêng biệt, trong phần
này có thể bao gồm nhiều chương, mục khác nhau, mỗi mục gồm nhiều điều khoản, mỗi điều
khoản sẽ làm rõ một vấn đề pháp lý. Giả sử điều khoản về “Hồ sơ hải quan” sẽ tập hợp tất cả các
quy định hiện hành về hồ sơ hải quan nằm rải rác ở Luật Hải quan, Nghị định số 154/2005/NĐCP, Thông tư số 194/2010/TT-BTC và các văn bản pháp luật khác, theo thứ bậc từ cao xuống
thấp. Điều này giúp cho người dân, doanh nghiệp và cán bộ, cơng chức ngành hải quan có thể tra

cứu, áp dụng pháp luật một cách thuận tiện, dễ dàng và chính xác, nhất là trong trường hợp có sự
khác biệt giữa các văn bản pháp luật khác nhau về cùng một vấn đề pháp lý.
- Song song với từng vấn đề pháp lý được thể hiện trong từng điều khoản của Bộ
pháp điển, có thể bổ sung phần dẫn chiếu đến các văn bản hướng dẫn, kể cả văn bản hướng
dẫn không phải là văn bản quy phạm pháp luật (như Công văn) để người dân, cán bộ, cơng
chức hải quan có thể tìm hiểu rõ hơn về các quy phạm pháp luật, tham khảo ý kiến, quan
điểm giải thích, áp dụng pháp luật của các cơ quan Hải quan và cơ quan nhà nước khác thông
qua nội dung các văn bản hướng dẫn do họ ban hành. Đồng thời, Bộ pháp điển cũng cần dẫn
chiếu đến các phụ lục, các mẫu, biểu,… cần thiết để người dân, doanh nghiệp, cán bộ, cơng
chức hải quan có thể sử dụng trong quá trình thực hiện xuất, nhập khẩu hàng hố thương mại
cũng như trong cơng tác quản lý nhà nước về xuất, nhập khẩu.
- Ban hành hướng dẫn sử dụng Bộ pháp điển để người dân có thể hiểu rõ hơn về giá trị, ý
nghĩa của Bộ pháp điển, nhất là trong giai đoạn Bộ pháp điển còn chưa được công nhận giá trị
như một văn bản quy phạm pháp luật, trong đó giải thích rõ Bộ pháp điển chỉ có giá trị như một
cơng cụ làm đơn giản hố q trình tra cứu và áp dụng pháp luật, không phải là căn cứ pháp lý
được viện dẫn khi các bên xác lập giao dịch. Do vậy, người dân phải hiểu rằng tra cứu Bộ pháp
điển là thông qua nó để biết quy phạm đó nằm ở văn bản quy phạm pháp luật nào, và văn bản
pháp luật này mới chính là khn khổ pháp lý điều chỉnh hành vi của họ, nên trong các giao
dịch, các bên liên quan phải viện dẫn văn bản quy phạm pháp luật làm căn cứ pháp lý chứ không
phải là các điều, khoản của Bộ pháp điển.
- Dù là hoạt động triển khai thí điểm và do tính chất kéo dài của cơng tác pháp điển,
Tổng cục Hải quan có thể công bố từng phần kết quả xây dựng Bộ pháp điển để người dân có thể
nhanh chóng thụ hưởng những lợi ích do cơng tác pháp điển mang lại mà khơng nhất thiết phải
đợi đến giai đoạn hồn thành. Hơn nữa, Bộ pháp điển chỉ có tính chất tham khảo, là cơng cụ đơn
giản hố việc tra cứu chứ khơng phải là văn bản quy phạm pháp luật nên không cần phải quá tập
khắt khe trong việc phổ biến Bộ pháp điển đến người dân, cả trong quá trình đang triển khai,
thực hiện.


- Hồn thiện mạng thơng tin kết nối giữa cơ quan hải quan địa phương và Tổng cục Hải

quan, đảm bảo kết quả pháp điển đều được phổ biến kịp thời đến các cơ quan hải quan cấp dưới
để tạo điều kiện mở rộng phương tiện, kênh tra cứu cho người dân, doanh nghiệp và cán bộ, công
chức ngành hải quan, nhất là khi nhu cầu tra cứu pháp luật về xuất, nhập khẩu hàng hoá thương
mại hiện nay là rất lớn và mang lại giá trị thiết thực, đóng góp đáng kể vào q trình phát triển
kinh tế đất nước.
Tuy nhiên, mọi giải pháp chỉ có thể phát huy hiệu quả khi có cơng tác tổ chức thực hiện
tốt, nhất là khi các cơ chế thực hiện hệ thống hố cịn chưa được đầy đủ, rõ ràng như hiện nay thì
địi hỏi Tổng cục Hải quan nói riêng, ngành Hải quan nói chung phải chủ động, linh hoạt, căn cứ
vào tình hình thực tiễn của ngành mình để có những bước triển khai phù hợp. Quan trọng nhất là
ngành Hải quan phải nhận thức được nhu cầu, ý nghĩa, tầm quan trọng và những giá trị thiết thực
mà công tác hệ thống hố pháp luật mang lại, đó khơng chỉ là vì quyền lợi của các cá nhân,
doanh nghiệp trực tiếp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu, mà trước hết, đó là điều kiện quan
trọng để ngành hải quan thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý nhà nước về xuất, nhập khẩu
của mình. Có như vậy, mới hy vọng có những chuyển biến nhanh chóng, tích cực trong cơng tác
hệ thống hố pháp luật hải quan về xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại trong thời gian tới.
KẾT LUẬN
Hệ thống hoá pháp luật là một hoạt động cần thiết để tăng cường khả năng giám sát chất
lượng hệ thống pháp luật hải quan về xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại, tạo điều kiện thuận
lợi cho hoạt động chỉnh sửa, bổ sung pháp luật, qua đó góp phần nâng cao chất lượng cửa hệ
thống văn bản pháp luật. Ở một khía cạnh khác, thực hiện tốt cơng tác hệ thống hố pháp luật có
thể giúp cán bộ, công chức ngành hải quan và người dân tiếp cận, tra cứu và áp dụng pháp luật
một cách dễ dàng và chính xác hơn. Do vậy, đây là một xu hướng tất yếu mà Việt Nam đang
hướng đến.
Nhìn chung, luận văn này đã mang lại một số kết quả như sau:
Thứ nhất: Luận văn đã làm rõ những nội dung cơ bản về cơng tác hệ thống hố pháp luật,
cũng như vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của cơng tác hệ thống hố pháp luật nói chung.
Thứ hai: Luận văn đã trình bày khái quát những chế định cơ bản của ngành luật hải quan
điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hố. Từ đó, đưa ra những nhận xét, đánh giá về
những mặt hạn chế cần tiếp tục chỉnh sửa, hoàn thiện.
Thứ ba: Luận văn đã làm rõ thực trạng cơng tác hệ thống hố pháp luật hải quan về xuất,

nhập khẩu hàng hoá thương mại trong thời gian qua, những thành tựu đạt được cũng như những
hạn chế còn tồn tại, từ đo đưa ra định hướng cho cơng tác hệ thống hố pháp luật hải quan về
xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại trong thời gian tới.
Thứ tư: Luận văn đã đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả của công tác hệ
thống hoá pháp luật.
Luận văn được nghiên cứu với hy vọng góp phần thiết lập và hồn thiện cơ sở lý luận cho
cơng tác hệ thống hố pháp luật hải quan về xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại, từ đó góp
phần cải thiện chất lượng hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, do giới hạn phạm vi nghiên cứu khá
hẹp, cũng như thời gian nghiên cứu có hạn nên chắc chắn luận văn khơng tránh khỏi những thiếu
sót.
Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp, bổ sung của q Thầy, Cơ để luận văn
được hồn thiện hơn.


References
Tiếng Việt
Sách:
1. Bộ Tài Chính (2006), Hướng dẫn quy trình, thủ tục thuế, hải quan, NXB Tài chính.
2. Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, NXB
Công an nhân dân.
3. Khải Ngun (2010), Chính sách thuế mới và quy trình đăng ký, thu, nộp, hoàn thuế, thực
hiện nghĩa vụ thuế, sử dụng hố đơn chứng từ và quy trình thủ tục hải quan, NXB Tài
chính.
4. Lê Văn Chấn (2007), Tìm hiểu pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, NXB Tổng
hợp TP.HCM.
5. Luật Thương mại, Luật hải quan và Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (2005), NXB
Chính trị Quốc gia.
6. Nguyễn Đình Thiêm (2002), Luật Hải quan và các văn bản hướng dẫn thi hành thủ tục hải
quan, phương pháp xác định giá tính thuế, NXB Lao động Xã hội.
7. Nguyễn Thừa Lộc (2008), Luật Hải quan Việt Nam và Quốc tế, NXB Đại học Kinh tế Quốc

dân.
8. Nhà pháp luật Việt – Pháp, Từ điển thuật ngữ pháp luật Pháp – Việt (2009), NXB Tư Pháp.
9. Nhà xuất bản Lao động, (2010), Luật thuế xuất nhập khẩu 2010 và hướng dẫn mới nhất về
thủ tục khai báo hải quan, miễn giảm thuế, hồn thuế đối với hàng hố xuất nhập khẩu.
10. Nhà xuất bản Lao động, Chính sách thuế hải quan 2011 dành cho các doanh nghiệp quy
định mới về trình tự, thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất, nhập khẩu (áp dụng từ
20/01/2011).
11. Nhà xuất bản Tổng Hợp Thành phố Hồ Chí Minh, (2010), Biểu Thuế - Biểu Thuế Xuất
Khẩu – Nhập Khẩu và thuế GTGT hàng nhập khẩu (Áp dụng đối với các tờ khai hải quan
hàng hoá nhập khẩu đăng ký với cơ quan hải quan từ ngày 24/10/2010).
12. Quốc Cường (2011), Chính sách Thuế - Hải quan 2011 dành cho các doanh nghiệp - quy
định mới về trình tự thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu, NXB Tài Chính.

2.
3.
4.

Bài viết:
Đặng Thị Bình An, Báo cáo rà sốt Luật Hải quan 2001, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
Luật Hải quan (2005), Cơng ty Luật Leadco.
Nguyễn Đình Lộc, Truyền thống pháp điển hoá qua các triều đại phong kiến Việt Nam.
Nguyễn Thị Bình, Góp ý hồn thiện pháp luật quản lý thuế, VPLS Leadco.
Trần Văn Lợi, Một số kinh nghiệm pháp điển của Hoa Kỳ, Cổng thông tin Bộ Tư Pháp.

1.
2.
3.
4.
5.
6.

7.
8.

Văn bản pháp luật:
Quốc Hội, (2005), Bộ luật Dân sự.
Quốc Hội, (1999), Bộ luật Hình sự.
Quốc Hội, (2009), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự.
Quốc Hội, (2008), Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Quốc Hội, (2001), Luật Hải Quan.
Quốc Hội, (2005), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hải Quan.
Quốc Hội, (2006), Luật Quản lý thuế.
Quốc Hội, (2008), Luật thuế giá trị gia tăng.

1.


9.
10.
11.
12.
13.
14.
15.
16.
17.
18.
19.
20.
21.
22.

23.
24.
25.
26.
27.
28.
29.
30.
31.
32.
33.
34.
35.
36.
37.
38.
39.
40.
41.
42.
43.
44.
45.
46.
47.
48.

Quốc Hội, (2008), Luật thuế tiêu thụ đặc biệt.
Quốc Hội, (2005), Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu.
Quốc Hội, (2012), Luật xử lý vi phạm hành chính.

UBTVQH, (2012), Pháp lệnh Pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật.
UBTVQH, (2012), Pháp lệnh về Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật
UBTVQH, (2002), Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính.
UBTVQH, (2007), Pháp lệnh sửa đổi Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính.
UBTVQH, (2008), Pháp lệnh sửa đổi Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính.
Chính phủ, (2002), Nghị định số 107/2002/NĐ-CP.
Chính phủ, (2005), Nghị định số 154/2005/NĐ-CP.
Chính phủ, (2006), Nghị định số 12/2006/NĐ-CP.
Chính phủ, (2007), Nghị định số 85/2007/NĐ-CP.
Chính phủ, (2007), Nghị định số 97/2007/NĐ-CP.
Chính phủ, (2007), Nghị định số 98/2007/NĐ-CP.
Chính phủ, (2008), Nghị định số 29/2008/NĐ-CP.
Chính phủ, (2008), Nghị định số 123/2008/NĐ-CP.
Chính phủ, (2008), Nghị định số 128/2008/NĐ-CP.
Chính phủ, (2009), Nghị định số 18/2009/NĐ-CP.
Chính phủ, (2009), Nghị định số 24/2009/NĐ-CP.
Chính phủ, (2009), Nghị định số 26/2009/NĐ-CP.
Chính phủ, (2009), Nghị định số 47/2009/NĐ-CP.
Chính phủ, (2010), Nghị định số 87/2010/NĐ-CP.
Chính phủ, (2010), Nghị định số 97/2010/NĐ-CP.
Chính phủ, (2010), Nghị định số 106/2010/NĐ-CP.
Chính phủ, (2011), Nghị định số 113/2011/NĐ-CP.
Chính phủ, (2011), Nghị định 121/2011/NĐ-CP.
Thủ tướng Chính phủ, (2004), Quyết định số 65/2004/QĐ-TTg.
Thủ tướng Chính phủ, (2009), Quyết định số 33/2009/QĐ-TTg.
Thủ tướng Chính phủ, (2010), Quyết định số 02/2010/QĐ-TTg.
Bộ Tài Chính, (2005), Thơng tư số 102/2005/TT-BTC.
Bộ Tài Chính, (2007), Thơng tư số 61/2007/TT-BTC.
Bộ Tài Chính, (2009), Thơng tư số 193/2009/TT-BTC.
Bộ tài Chính (2010), Thông tư số 194/2010/TT-BTC.

Bộ Khoa Học và Công Nghệ (2011),Thông tư số 37/2011/TT-BKHCN.
Bộ tài Chính (2010), Quyết định số 1027/QĐ-BTC.
Bộ tài Chính (2010), Quyết định số 2053/QĐ-BTC.
Bộ Tư Pháp (2012), Quyết định số 1901/QĐ-BTP.
Tổng Cục Hải Quan (2009), Quyết định 2396/QĐ-TCHQ.
Tổng Cục Hải Quan (2010), Quyết định số 1169/QĐ-TCHQ.
Văn phòng Chính phủ, (2012), Cơng văn số 4735/VPCP-PL.

1.
2.
3.
4.

Website:






5.
6.




Tiếng pháp:
Website:
1.
2.

3.
4.



×