Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp huyện - qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 115 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




HÀ THU HƢƠNG



BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI
TRONG PHÁP LUẬT TRÁCH NHIỆM
BỒI THƢỜNG NHÀ NƢỚC Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con ngƣời
Mã số : Chuyên ngành đào tạo thí điểm


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: GS.TS PHẠM HỒNG THÁI




HÀ NỘI - 2014



LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng cá
nhân tôi. Những số liệu, ví dụ và trích dẫn được nêu trong luận văn
là trung thực, bảo đảm tính chính xác, tin cậy và trung thực. Những
kết luận khoa học của luận văn chứ từng được ai công bố trong bất
kỳ công trình nào khác. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã
thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa
Luật Đại học Quốc gia Hà Nội
Tác giả luận văn


Hà Thu Hƣơng
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt trong luận văn

MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON
NGƢỜI TRONG PHÁP LUẬT TRÁCH NHIỆM BỒI

THƢỜNG NHÀ NƢỚC 5
1.1. Khái niệm 5
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm về quyền con người 5
1.1.2. Khái niệm về chế định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ở
Việt Nam 6
1.1.3. Khái niệm về bảo vệ quyền con người trong pháp luật trách
nhiệm về bồi thường nhà nước ở Việt Nam 8
1.1.4. Quan hệ pháp luật về TNBTCNN 8
1.2. TNBTCNN tại một số quốc gia trên thế giới 10
1.2.1. Quy định về TNBTCNN của một số quốc gia trên thế giới 10
1.2.2. Đánh giá 15
1.3. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền con ngƣời trong pháp luật về
TNBTCNN ở Việt Nam 17
1.3.1. Việc xây dựng chế định TNBTCNN là phù hợp với yêu cầu của
việc bảo đảm các quyền con người cũng như phù hợp với xu thế
chung của thế giới 17
1.3.2. Quá trình ra đời Luật TNBTCNN 2010 với mục đích bảo vệ tối
đa các quyền con người về BTNN ở Việt Nam cho đến nay 19
1.4. Pháp luật TNBTCNN hiện hành ở Việt Nam 24
1.4.1. Về đối tượng được bồi thường 25
1.4.2. Về phạm vi trách nhiệm bồi thường 25
1.4.3. Về quyền và nghĩa vụ của người bị thiệt hại trong việc yêu cầu
bồi thường 33
1.4.4. Căn cứ xác định TNBTCNN 34
1.4.5. Trình tự, thủ tục giải quyết bồi thường 35
1.4.6. Về các thiệt hại được bồi thường và mức bồi thường 40
1.4.7. Việc áp dụng Luật TNBTCNN 43
1.5. Một số điểm mới của Luật TNBTCNN so với các văn bản
quy định trƣớc đây 44
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI

TRONG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG
CỦA NHÀ NƢỚC Ở VIỆT NAM 48
2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật trƣớc khi có đạo luật riêng 48
2.2. Thực tiễn áp dụng Luật TNBTCNN và văn bản hƣớng dẫn
thi hành 52
2.2.1. Kết quả giải quyết bồi thường 53
2.2.2. Thực trạng hạn chế, vướng mắc của Luật TNBTCNN 54
2.2.3. Nhận diện một số sai phạm của người thi hành công vụ dẫn đến
thiệt hại giúp người dân nhận thức và tự bảo vệ quyền 75
2.3. Đánh giá chung về pháp luật TNBTCNN 80
2.3.1. Pháp luật về TNBTCNN có phù hợp với Nhà nước pháp
quyền không? 80
2.3.2. Quyền con người về bồi thường nhà nước có phù hợp với pháp
luật quốc tế hay không? 81

CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP BẢO VỆ VÀ THÚC ĐẨY QUYỀN CON
NGƢỜI TRONG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI
THƢỜNG CỦA NHÀ NƢỚC Ở VIỆT NAM 86
3.1. Mục đích ban đầu khi ban hành đao luật riêng về bồi thƣờng
nhà nƣớc không đạt đƣợc 88
3.2. Quan điểm về giải pháp sửa đổi, bổ sung Luật TNBTCNN 89
3.3. Một số giải pháp bảo đảm việc bảo vệ, thúc đẩy quyền con
ngƣời trong pháp luật về trách nhiệm bồi thƣờng của Nhà
nƣớc ở Việt Nam một cách hữu hiệu 90
3.3.1. Giải pháp hoàn thiện thể chế 90
3.3.2. Giải pháp lâu dài về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức và hiểu biết của người dân 97
3.3.3. Xây dựng cơ quan chuyên trách bảo vệ các quyền và lợi ích của
con người về bồi thường nhà nước cấp quốc gia 97
3.3.4. Hợp tác quốc tế 99

KẾT LUẬN 100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 103

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN


BLDS
: Bộ luật dân sự
BTNN
: Bồi thường nhà nước
BTTH
: Bồi thường thiệt hại
CQNN
: Cơ quan nhà nước
QPPL
: Quy phạm pháp luật
TNBT
: Trách nhiệm bồi thường
TNBTCNN
: Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
TNHT
: Trách nhiệm hoàn trả
TTDS
: Tố tụng dân sự
TTHC
: Tố tụng hành chính
TTHS
: Tố tụng hình sự
TTLT
: Thông tư liên tịch


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và Nhà nước ta trong
công cuộc đổi mới hiện nay là tiến tới xây dựng một Nhà nước Pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. “Quá trình
Nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình thông qua hành vi của đội
ngũ công chức thì một điều tất yếu là có thể gây thiệt hại cho bất kỳ cá nhân,
tổ chức nào” [30, tr.1]. Vậy nếu Nhà nước gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức
thì Nhà nước phải chịu TNBT thiệt hại.
Pháp luật về TNBTCNN là một bộ phận cấu thành trong hệ thống pháp
luật Việt Nam, hình thành và phát triển cùng với sự đổi mới về nhận thức của
Đảng ta về hoàn thiện hệ thống pháp luật để phục vụ quá trình xây dựng Nhà
nước pháp quyền. Việt Nam hiện nay đã có một đạo luật riêng quy định về
TNBTCNN, cụ thể là Luật TNBTCNN 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Như vậy, về mặt thực tiễn pháp lý, Việt Nam đã thừa nhận trách nhiệm của Nhà
nước trong các trường hợp cụ thể song về mặt thực thi các quy định của pháp
luật trên thực tế đã đầy đủ, bao quát, toàn diện và hiệu quả để bảo vệ quyền con
người, quyền công dân hay chưa lại là câu hỏi lớn cần được giải đáp.
Từ thực tiễn như vậy, việc nghiên cứu có hệ thống về pháp luật nói
chung về TNBTCNN tại một số quốc gia trên thế giới; tại các giai đoạn cụ thể
của Việt Nam thông qua các bản Hiến pháp và tại quy định của đạo luật riêng
về BTNN liên quan đến phạm vi bồi thường, đối tượng bồi thường, các loại
thiệt hại được bồi thường và quyền yêu cầu của người bị thiệt hại, qua đó,
nhận định được những mặt phù hợp và hạn chế của Luật; phát hiện những sai
phạm chủ yếu dẫn đến phát sinh TNBTCNN; đồng thời, đánh giá pháp luật về
TNBTCNN đã phù hợp với Nhà nước pháp quyền và phù hợp với các quy
định của Luật quốc tế hay chưa là vô cùng cần thiết trong giai đoạn hiện nay.


2
Đó là lý do để học viên lựa chọn đề tài “Bảo vệ quyền con người trong pháp
luật trách nhiệm bồi thường nhà nước ở Việt Nam”. Luận văn có thể sẽ là cơ
sở để xác định TNBTCNN một cách toàn diện, đầy đủ, góp phần hoàn thiện
pháp luật về TNBTCNN, làm nền tảng pháp lý cho việc bảo vệ quyền con
người ở Việt Nam.
Trong đề tài này, học viên nghiên cứu chủ yếu dựa trên các nghiên cứu từ:
- Luận văn Thạc sỹ Luật học của tác giả Lê Thái Phương (2006): “Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà
nước”. Luận văn này chủ yếu nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản, nội
dung và quá trình thực thi pháp luật về trách nhiệm của Nhà nước.
- Luận văn Thạc sỹ Luật học của tác giả Phạm Thị Thu Hương (2013):
“Thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt
động quản lý hành chính nhà nước ở tỉnh Hưng Yên”. Luận văn này chủ yếu
tập chung đánh giá ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân trong thực hiện pháp luật
về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong quản lý hành chính, đồng thời,
đưa ra nhiều giải pháp bảo đảm việc thực hiện pháp luật về bồi thường nhà
nước có hiệu quả.
- Luận văn thạc sỹ Luật học của tác giả Hoàng Xuân Hoan (2013):
“Pháp luật Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới về trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước”. Luận văn này nghiên cứu sâu sắc về TNBTCNN tại
một số quốc gia trên thế giới.
Bên cạnh đó, học viên còn nghiên cứu những báo cáo khoa học, bài
nghiên cứu, các bài báo, các văn bản Luật có liên quan đến BTNN, …
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Thông qua việc tìm hiểu các bản Hiến pháp có quy định về BTNN,
pháp luật quốc tế về chế định BTNN, các văn bản Luật về BTNN tại một số
quốc gia và đạo luật riêng về TNBTCNN ở Việt Nam, cụ thể là Luật


3
TNBTCNN 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành, mục đích của học viên
là đưa ra được một cái nhìn toàn diện, có tính hệ thống và khoa học về các
vấn đề pháp lý, thực tiễn liên quan đến quyền con người trong pháp luật về
TNBTCNN tại Việt Nam. Trên cơ sở đó, đề xuất những quan điểm, giải pháp
để hoàn thiện pháp luật về TNBTCNN nhằm bảo vệ, thúc đẩy quyền con
người, quyền công dân về BTNN ở nước ta trong thời gian tới.
3. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận dùng để nghiên cứu đề tài này là các quan điểm duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê nin. Các phương pháp
cụ thể được sử dụng để giải quyết những cấn đề đặt ra trong khóa luận này là:
tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh.
4. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn “Bảo vệ quyền con người trong pháp luật trách nhiệm bồi
thường nhà nước ở Việt Nam” là công trình nghiên cứu, phân tích những cơ
sở lý luận tại một số quốc gia trên thế giới và Việt Nam để khẳng định rằng
Nhà nước phải có trách nhiệm bảo vệ quyền con người cho những thiệt hại
mà Nhà nước đã gây ra. Từ đó, nêu lên thực tiễn việc áp dụng các quy định
của pháp luật hiện hành về bồi thường nhà nước trong yêu cầu bồi thường và
giải quyết bồi thường qua các ví dụ cụ thể, điển hình trong lĩnh vực quản lý
hành chính, tố tụng và thi hành án.
Đồng thời, Luận văn tập trung phân tích những bất cập, hạn chế của
pháp luật Việt Nam hiện hành về TNBTCNN, chỉ ra được các sai phạm chính
dẫn đến bồi thường nhà nước mà cơ quan nhà nước có thể gây ra để người
dân có thể tự bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Qua đó, đánh giá
tính phù hợp của pháp luật hiện hành về TNBTCNN đối với Nhà nước pháp
quyền và đối với pháp luật quốc tế.
Sau cùng, Luận văn đưa ra quan điểm và kiến nghị góp phần hoàn thiện
pháp luật về trách nhiệm bồi thường nhà nước ở Việt Nam.


4
5. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn
TNBTCNN là một vấn đề mới, chỉ mới thực sự được biết đến kể từ khi
Luật TNBTCNN năm 2010 ra đời, do đó, chưa có nhiều bài viết nghiên cứu
vấn đề này. Luận văn này sẽ đi sâu nghiên cứu những vấn đề mà thực tiễn
phát sinh, đánh giá được những hạn chế liên quan đến phạm vi bồi thường,
đối tượng bồi thường, thiệt hại được bồi thường và khó khăn, vướng mắc
trong việc thực hiện quyền yêu cầu bồi thường của người bị thiệt hại cũng
như việc áp dụng các quy định của pháp luật đối với thủ tục giải quyết bồi
thường của cơ quan có TNBT. Học viên nghiên cứu đề tài này với tham vọng
Luận văn sẽ là cẩm nang để người dân cũng như các cán bộ, công chức của cơ
quan Nhà nước nghiên cứu, vận dụng để tự bảo vệ quyền và lợi ích của mình,
quyền và lợi ích của Nhà nước. Đồng thời, Luận văn được hy vọng sẽ là một
phương tiện, mà thông qua đó, có tính chất tuyên truyền, giáo dục tới các đối
tượng trong xã hội đã, đang và sẽ có liên quan đến TNBTCNN.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan
nhà nước trong xây dựng, sửa đổi và thực thi các văn bản pháp luật liên quan
đến bảo vệ quyền con người trong pháp luật về trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước ở Việt Nam. Thêm vào đó, luận văn cũng có thể sử dụng làm tài
liệu tham khảo cho việc nghiên cứ, giảng dạy môn luật nhân quyền và các
môn học khác có liên quan ở Khoa Luật ĐHQG Hà Nội và các cơ sở đào tạo,
nghiên cứu khác.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần: Mở đầu; Kết luận; Lời cam đoan; Danh mục tài liệu
tham khảo, nội dung của Luận văn được chia thành 3 Chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về bảo vệ quyền con người trong pháp luật
trách nhiệm bồi thường nhà nước.
Chương 2: Thực trạng bảo vệ quyền con người trong pháp luật về
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ở Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trong pháp

luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ở Việt Nam.

5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI TRONG
PHÁP LUẬT TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG NHÀ NƢỚC


1.1. Khái niệm
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm về quyền con người
1.1.1.1. Khái niệm về quyền con người
Quyền con người là sự kết tinh những giá trị cao đẹp nhất trong nền văn
hóa của nhân loại mà trong đó, những giá trị này “được đóng góp của tất cả
các quốc gia, dân tộc, giai cấp, tầng lớp và cá nhân con người trên thế giới”
[52, tr.14]. Tuy nhiên, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, mỗi khu vực trên thế giới có
sự khác nhau về chính trị, lịch sử, văn hóa, tôn giáo, do đó, hình thành nên rất
nhiều cách hiểu khác nhau về quyền con người. Cho đến nay, có đến “gần 50
định nghĩa về quyền con người” [52, tr.41], theo đó, mỗi định nghĩa tiếp cận
vấn đề về quyền con người khác nhau bởi lẽ mỗi định nghĩa lại phụ thuộc vào
sự nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân sống tại quốc gia đó, dân tộc đó.
Ở cấp độ quốc tế, Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con
người đã định nghĩa “quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có
trác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc
sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ
bản của con người” [52, tr.41].
Ở Việt Nam, quyền con người thể hiện qua những ý niệm và hành động
khoan dung nhân đạo xuất phát từ hàng nghìn năm lịch sử đất nước đoàn kết
chống thù trong giặc ngoài, hun đúc từ nhiều thế hệ tạo nên những giá trị văn
hóa, tinh thần tiêu biểu của dân tộc. Đó là sự cần cù, kiên trì, nhân ái, vị tha,
tinh thần quật cường, đoàn kết của con người Việt Nam qua các thời kỳ phong

kiến, thời kỳ Pháp thuộc, thời kỳ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 cho đến

6
ngày nay. Xuất phát từ bối cảnh lịch sử đó, ở nước ta, quyền con người được
hiểu là “những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người
được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý
quốc tế” [52, tr.42].
Như vậy, từ khái niệm mang cấp độ quốc tế đến khái niệm mang cấp độ
quốc gia, mà ở đây là nước Việt Nam, cho thấy dù nhìn quyền con người ở
góc độ nào và cấp độ nào thì quyền con người cũng được xác định như là
những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ; là những
giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ trong mọi xã hội và trong mọi giai
đoạn lịch sử.
1.1.1.2. Đặc điểm của quyền con người
Quyền con người có đặc điểm cơ bản của riêng nó, mà trong đó, quyền
con người mang tính phổ biến được hiểu là những quyền tự nhiên, vốn có, tất
yếu của con người khi sinh ra, được áp dụng bình đẳng, không phân biệt về
chủng tộc, tôn giáo, dân tộc, giới tính, thành phần, xuất thân…Đồng thời,
quyền con người còn mang tính không thể chuyển nhượng thể hiện ở việc các
quyền đó không thể bị tước đoạt hay hạn chế một các tùy tiện bởi bất cứ ai,
Nhà nước nào, chủ thể nào trong khuôn khổ pháp luật của mỗi quốc gia cho
phép; quyền con người mang tính không thể phân chia, mọi quyền đều có tầm
quan trọng như nhau, việc tước bỏ hay hạn chế vát kỳ quyền con người nào
đều tác động tiêu cực đến nhân phẩm, gia trị và sự phát triển của con người.
Và, quyền con người mang tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau, trong đó, sự vi
phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc
bảo đảm các quyền khác và ngược lại.
1.1.2. Khái niệm về chế định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ở
Việt Nam
Bồi thường là việc “đền bù những tổn thất đã gây ra” [60, tr.191]. Về


7
mặt pháp lý, bồi thường thiệt hại là một dạng nghĩa vụ dân sự phát sinh do
gây thiệt hại. Trong pháp luật dân sự, bồi thường thiệt hại là việc đền bù
những tổn thất và khắc phục những hậu quả do hành vi vi phạm gây ra; vì
vậy bồi thường thiệt hại là “hình thức trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên có
hành vi gây ra thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách bù đắp, đền bù
tổn thất về vật chất và tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại” [50, tr.31].
Bên cạnh đó, thiệt hại, về mặt pháp lý, là những tổn thất về tài sản, tổn thất
về tính mạng, sức khỏe, uy tín, danh dự, nhân phẩm. Do đó, bồi thường thiệt
hại là sự khôi phục lại những tổn thất trên bằng những cách thức và tiêu chí
do pháp luật đặt ra.
Mục tiêu của Nhà nước là bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của
người dân, do đó, đối với các thiệt hại gây ra trong khi thi hành công vụ cũng
phải được pháp luật bảo vệ. Như vậy, khi Nhà nước thực hiện quyền lực công
thông qua các hành vi thi hành công vụ của đội ngũ công chức mà gây thiệt
hại cho các tổ chức, cá nhân thì phải chịu TNBT. Do đó, trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước là trách nhiệm khôi phục những tổn thất về tài sản, bù
đắp những tổn thất về uy tín, tinh thần khi người thi hành công vụ gây thiệt
hại cho các cá nhân, tổ chức trong quá trình thực thi quyền lực công/trong quá
trình thi hành công vụ. Khái niệm này có thể được hiểu theo nghĩa rộng và
nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, TNBTCNN là trách nhiệm mà trong đó Nhà
nước có nghĩa vụ bồi thường cho cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do CQNN,
người thi hành công vụ gây ra. Nghĩa là, việc bồi thường thiệt hại được thực
hiện cho tất cả các trường hợp có thiệt hại do hành vi của cơ quan, người thi
hành công vụ nhà nước gây ra. Theo nghĩa hẹp, thì TNBTCNN là trách nhiệm
pháp lý trong đó Nhà nước có nghĩa vụ phải bồi thường cho cá nhân, tổ chức
bị thiệt hại do người thi hành công vụ nhà nước gây ra.
Để điều chỉnh các quan hệ trong hoạt động thực hiện TNBTCNN, luôn


8
cần có sự điều chỉnh của các quy phạm pháp luật để bảo đảm các hoạt động
này đi đúng với các chủ trương, định hướng, chính sách của Đảng, Nhà nước.
Do đó, pháp luật về TNBTCNN được hiểu là tổng thể các văn bản quy phạm
pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, từ các quy định của
Hiến pháp, các văn bản luật và các văn bản hướng dẫn thi hành điều chỉnh
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và các vấn đề khác có liên quan để thực
hiện có hiệu quả trách nhiệm này. Như vậy, pháp luật về TNBTCNN là hệ
thống quy tắc xử sự chung thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng Cộng
sản Việt Nam, thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân, do các CQNN có
thẩm quyền ban hành và bảo đảm thực hiện trên nguyên tắc thỏa thuận, bình
đẳng, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện
TNBTCNN, xử lý trách nhiệm của người thi hành công vụ và hoạt động quản
lý nhà nước về công tác bồi thường.
1.1.3. Khái niệm về bảo vệ quyền con người trong pháp luật trách
nhiệm về bồi thường nhà nước ở Việt Nam
Từ những khái niệm nêu trên về quyền con người, về TNBTCNN, học
viên cho rằng bảo vệ quyền con người trong pháp luật TNBTCNN là việc xây
dựng một hệ thống quy tắc xử sự chung thể chế hóa chủ trương, đường lối của
Đảng, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân để điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong quá trình thi hành công vụ giữa các CQNN có thẩm
quyền với các cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ những nhu cầu, lợi ích tự nhiên,
vốn có và khách quan của con người được pháp luật ghi nhận và bảo vệ.
1.1.4. Quan hệ pháp luật về TNBTCNN
Có thể hiểu quan hệ pháp luật về TNBTCNN là những quan hệ phát
sinh trong quá trình thực hiện TNBTCNN và được các quy phạm pháp luật về
TNBTCNN điều chỉnh, trong đó các chủ thể có quyền và nghĩa vụ đối với
nhau trên nguyên tắc bình đẳng và được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Cũng

9

như các quan hệ pháp luật chuyên ngành khác, bên cạnh những đặc điểm của
quan hệ pháp luật nói chung, quan hệ pháp luật về TNBTCNN có những đặc
điểm riêng như sau:
1.1.4.1. Quan hệ TNBTCNN đối với tổ chức, cá nhân trong Nhà nước
pháp quyền là quan hệ pháp luật dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Pháp luật Việt Nam kể từ Bộ luật Dân sự 1995 đến Hiến pháp 2013 đều
quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do công chức nhà nước gây ra, theo
đó, quan hệ BTNN là quan hệ pháp luật dân sự. Cũng có ý kiến cho rằng quan
hệ pháp luật này vừa có tính dân sự, vừa có tính hành chính vì một bên chủ
thể trong quan hệ pháp luật luôn là Nhà nước. Bởi lẽ Nhà nước khi tham gia
vào các quan hệ pháp luật thì có thể mang một trong hai tư cách như một chủ
thể thông thường và tư cách của chủ thể của quyền lực công; theo đó, những
quan hệ pháp luật mà Nhà nước tham gia với tư cách là chủ thể mang quyền
lực công không phải là những quan hệ hợp đồng. Những quan hệ pháp luật
mà Nhà nước tham gia và nhân danh quyền lực công phải là những quan hệ
pháp luật có liên quan đến việc thực hiện những hoạt động thuộc về chức
năng chính của Nhà nước. Trong quá trình thực hiện những hoạt động này mà
Nhà nước gây thiệt hại cho các cá nhân, tổ chức thì Nhà nước sẽ phải bồi
thường. Việc bồi thường không phải do vi phạm các nghĩa vụ về hợp đồng,
chính vì vậy TNBTCNN đối với các thiệt hại gây ra bởi hoạt động công
quyền là TNBT thiệt hại ngoài hợp đồng.
1.1.4.2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
Pháp luật TNBTCNN thực chất là một dạng cụ thể của TNBT thiệt hại
ngoài hợp đồng như đã phân tích ở trên, do đó, điều kiện phát sinh
TNBTCNN được xác định là phải có thiệt hại xảy ra; thiệt hại đó bị gây ra bởi
hành vi trái pháp luật; hành vi trái pháp luật được thực hiện trong quá trình thi
hành công vụ; công chức gây thiệt hại phải có lỗi cố ý hoặc vô ý và có mối

10
quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và thiệt hại xảy ra. Chính vì vậy,

ngoài những điểm giống nhau thì giữa TNBTCNN và trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng cũng có những điểm khác biệt, chứa đựng những yếu
tố đặc thù về xác định TNBTCNN bao gồm: không quy định lỗi là một căn cứ
xác định TNBTCNN; hành vi gây ra thiệt hại của người thi hành công vụ phải
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định là trái pháp luật; hành vi trái
pháp luật gây ra thiệt hại của người thi hành công vụ phải thuộc các trường
hợp được bồi thường mà Luật quy định.
1.2. TNBTCNN tại một số quốc gia trên thế giới
Chế định pháp luật về TNBTCNN là một chế định khá phức
tạp và có nhiều nội dung liên quan trực tiếp đến chính sách pháp lý
của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, với nỗ lực mong muốn bảo vệ triệt để
các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức bị xâm phạm bởi
hoạt động công quyền; kiểm soát, ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp
luật, xu hướng lạm dụng quyền lực của những người thực hiện công
quyền mà việc xây dựng và hoàn thiện chế định pháp luật này là
hoàn toàn cần thiết [34, tr.68].
1.2.1. Quy định về TNBTCNN của một số quốc gia trên thế giới
Hiện nay, trên thế giới, chế định pháp luật về BTNN của các nước có
hai mô hình chính bao gồm nhóm quốc gia có đạo luật riêng về BTNN và
nhóm các quốc gia không có đạo luật riêng về BTNN. Việc quy định
TNBTCNN trong một văn bản luật riêng hay chỉ quy định tại một số điều
trong văn bản luật chung của một số quốc gia, mục đích duy nhất và chung
nhất, là nhằm bảo vệ một cách cao nhất, có hệ thống các quyền của con người
trong việc thể hiện TNBTCNN. Do đó, có thể hiểu, dù ở quốc gia nào, dân tộc
nào, chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ra sao, hệ thống pháp luật quy
định như thế nào, thì mưu cầu mang lại sự bình đẳng, dân chủ cho người dân

11
luôn ở vị trí thượng tôn. Việc hình thành và phát triển của pháp luật về
TNBTCNN gắn liền với sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội, đồng thời,

thừa nhận các quyền tự do, dân chủ của con người.
Trong đó, nhóm các quốc gia có đạo luật riêng quy định chế độ
TNBTCNNN trên cơ sở là một dạng đặc biệt của trách nhiệm BTTH ngoài
hợp đồng theo quy định của BLDS. Tại Châu á, nhiều nước có luật điều chỉnh
riêng về TNBTCNN như: Hàn Quốc có Luật BTNN 1967 và Luật ĐBHS
1958. Nhật Bản có Luật BTNN 1947 và Luật ĐBHS 1950. Trung Quốc có
Luật về thủ tục giải quyết vụ án hành chính năm 1989. Bên cạnh đó, trong
khu vực Đông nam á thì Philippine cũng đã có luật về TNBTCNN. Tại Châu
âu, Thụy Sỹ có Luật liên bang ngày 14/3/1958 về trách nhiệm của Liên bang
và công chức, viên chức của Liên bang. Tại khu vực Bắc Mĩ thì Canada và
Hoa Kỳ là những nước có luật điều chỉnh riêng về TNBTCNN, trong đó,
“Canada có Luật về trách nhiệm nhà nước của Liên bang Canada được ban
hành năm 1953. Đến năm 1990, Luật về Trách nhiệm nhà nước được sửa đổi
thành Luật về thủ tục và trách nhiệm nhà nước” [60, tr.170]. Hoa Kỳ áp dụng
theo hệ thống pháp luật thông lệ về miễn trừ trách nhiệm quốc gia và Hoa Kỳ
không có sự hiện diện của chế định TNBTCNN. Tuy nhiên, “Hoa Kỳ cũng đã
thừa nhận trách nhiệm trong lĩnh vực hành chính tại Luật Khiếu kiện bồi
thường liên bang 1946” [48, tr.1].
Đối với nhóm các quốc gia không có đạo luật riêng về BTNN thì chế
độ TNBTCNN được quy định bằng các điều luật riêng trong BLDS và phát
triển thông qua án lệ hoặc các văn bản hướng dẫn thi hành như Nga, Đức,
Pháp… Trong đó, điển hình là Pháp, “là quốc gia không có một đạo luật
riêng biệt về TNBTCNN. Chế định về TNBTCNN trong pháp luật Pháp nằm
tản mạn ở nhiều văn bản khác nhau và có phạm vi khá rộng” [57, tr.112],
theo đó, TNBTCNN của Pháp được áp dụng dựa trên án lệ. Đức là quốc gia

12
không có một hệ thống pháp luật rõ ràng về TNBTCNN mà chỉ có các quy
định về trách nhiệm của công chức nhà nước trong nhiều đạo luật khác nhau.
“Có thể nói, cho đến nay, pháp luật về BTNN của Đức là một chế định pháp

luật hết sức phức tạp và thiếu vắng tính hệ thống. Bên cạnh những quy phạm
pháp luật thành văn thì hình thức tồn tại chủ yếu của pháp luật về BTNN của
Đức đến nay vẫn chủ yêu là án lệ” [33, tr. 158].
Ở các quốc gia này, nhìn chung, các quy định về TNBTCNN nhằm
điều chỉnh đối với các vấn đề như sau:
- Về quyền yêu cầu bồi thường thể hiện ở hai khía cạnh là: “khi nào thì
người bị thiệt hại có quyền yêu cầu bồi thường và người bị thiệt hại có quyền
yêu cầu ai bồi thường” [36, tr.5]. Đa số pháp luật của các nước quy định
người bị thiệt hại có quyền khởi kiện ngay ra Tòa án để yêu cầu bồi thường
nhưng người bị thiệt hại lại không có quyền yêu cầu người thi hành công vụ
bồi thường mà phải yêu cầu Nhà nước, hoặc CQNN bồi thường. Ví dụ: Thụy
Sỹ quy định người bị thiệt hại phải gửi yêu cầu của mình đến Bộ Tài chính để
xem xét việc yêu cầu bồi thường và sau đó mới có quyền khởi kiện ra Tòa án
để yêu cầu bồi thường; Nhật Bản lại quy định cho người bị thiệt hại có quyền
khởi kiện ngay ra Tòa để yêu cầu bồi thường thiệt hại.
- Về thời hiệu yêu cầu bồi thường quy định tương tự thời hiệu yêu cầu
bồi thường trong luật dân sự, như Nhật Bản quy định thời hiệu yêu cầu bồi
thường như quy định của BLDS. Thụy Sỹ quy định thời hiệu yêu cầu Liên
bang bồi thường là 06 tháng. Nếu trong thời hạn 1 năm sau khi biết về thiệt
hại mà người bị thiệt hại không yêu cầu bồi thường thì Liên bang không có trách
nhiệm bồi thường, đồng thời, “trong thời hạn 10 năm kể từ ngày công chức thực
hiện hành vi gây thiệt hại nếu Liên bang từ chối yêu cầu hoặc không trả lời
trong thời hạn 03 tháng, người bị thiệt hại có quyền khởi kiện trong thời hạn 06
tháng, nếu không khởi kiện thì mất quyền được bồi thường” [36, tr.5]. Trong khi

13
đó, Trung Quốc quy định thời hiệu yêu cầu bồi thường là 2 năm, kể từ khi xác
định được hành vi của người thi hành công vụ là trái quy định của pháp luật.
Nước Đức thì quy định thời hiệu tùy theo loại TNBT căn cứ thời hiệu quy
định của pháp luật chuyên ngành.

- Về cơ quan có TNBT “Có hai mô hình chính là mô hình tập trung,
trong đó, trách nhiệm bồi thường do một cơ quan chuyên trách thực hiện, và
mô hình phân tán, trong đó, trách nhiệm bồi thường do từng cơ quan cụ thể
thực hiện” [8, tr.9]. Ví dụ: Hàn Quốc tổ chức theo mô hình tập trung, tức là
có cơ quan hành chính được giao thẩm quyền giải quyết bồi thường ngoài tố
tụng, bên cạnh việc giải quyết tố tụng tại Tòa án. Hoa Kỳ không giao cho một
CQNN thực hiện việc giải quyết bồi thường, nhưng Bộ Tư pháp có trách
nhiệm là đầu mối phối hợp với các cơ quan khác trong chính phủ liên bang
thực hiện việc giải quyết bồi thường và có thể làm trọng tài, thực hiện việc
dàn sếp hoặc giải quyết bất cứ yêu cầu bồi thường nào theo quy định. Nhật
Bản cũng quy định trách nhiệm này cho Bộ Tư pháp, và đồng thời Bộ Tư
pháp là đại diện cho Nhà nước tham gia tố tụng tại Tòa án về việc giải quyết
yêu cầu bồi thường. Tuy nhiên, Trung Quốc lại quy định về cơ quan có TNBT
theo mô hình phân tán là CQNN nào gây ra tổn hại cho cá nhân, pháp nhân
hay tổ chức khác thì CQNN đó có TNBT cho đối tượng bị tổn hại.
- Về phạm vi TNBTCNN do ảnh hưởng của nhiều yếu tố như văn hóa,
tư duy, tài chính, phòng tục tập quán của mỗi quốc gia khác nhau nên chính
sách pháp lý của các nước là rất khác nhau. Ví dụ: Nhật Bản bồi thường với
mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước; Hàn Quốc và Canada - có phạm vi
BTNN rộng đối với các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước, là lập pháp, hành
pháp hay tư pháp; Thụy Sỹ- quy định TNBTCNN đối với hầu hết các hoạt
động công vụ của Nhà nước. Ngược lại, có quốc gia lại hạn chế phạm vi
TNBTCNN như Hoa Kỳ - chỉ bồi thường đối với lĩnh vực hành pháp, Đức -

14
có phạm vi BTNN chỉ bao gồm hai lĩnh vực là hành pháp và tư pháp, không
bao gồm lập pháp, Trung Quốc “quy định phạm vi bồi thường tư pháp theo
phương pháp vừa kết hợp vừa khẳng định, vừa phủ định” [7, tr.59], theo đó,
xác định lĩnh vực được bồi thường và liệt kê cụ thể trường hợp nào là trường
hợp được bồi thường trong hành chính và tố tụng hình sự “bao gồm cả những

sự việc tích cực và tiêu cực” [7, tr.59].
- Về thủ tục giải quyết bồi thường được quy định rất khác nhau, trong
đó, có nhiều loại hình thủ tục như thủ tục tố tụng, thủ tục thương lượng bắt
buộc, trong đó, Canada quy định “Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền
giải quyết bồi thường và thủ tục giải quyết bồi thường là thủ tục tố tụng dân
sự” [60, tr.176]. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật Canada chưa có văn bản nào
quy định cụ thể về vấn đề đền bù thiệt hại cho người buộc tội oan mà chủ yếu
thực hiện thông qua án lệ. Giống như Canada, Hàn Quốc cũng quy định thủ
tục giải quyết bồi thường là TTDS. Hoa Kỳ quy định thủ tục giải quyết bồi
thường tại cơ quan có TNBT, nếu không được thụ lý giải quyết bồi thường thì
người bị thiệt hại “có thể khởi kiện ra Toà án liên bang cấp quận với thời
hiệu không giới hạn” [48, tr.11] để yêu cầu giải quyết bồi thường. Ngược lại
với các quốc gia trên, Pháp quy định “người bị hại có quyền lựa chọn một
trong hai khả năng: khởi kiện công chức ra Tòa án tư pháp để yêu cầu bồi
thường theo thủ tục dân sự, hoặc khởi kiện CQNN ra trước Tòa án hành
chính để yêu cầu bồi thường theo thủ tục BTNN” [57, tr.116]. Ngoài ra, Nhật
Bản, do có hai cơ chế là bồi thường thiệt hại và đền bù tổn thất, do đó, đối với
TNBT thiệt hại thì đây là nghĩa vụ bắt buộc của Nhà nước nên cơ chế thực
hiện trách nhiệm là cơ chế dân sự, “bên bị thiệt hại có quyền yêu cầu Nhà
nước bồi thường thông qua thương lượng hoặc khởi yêu cầu Nhà nước bồi
thường theo pháp luật tố tụng dân sự” [35, tr.125]. Đối với trách nhiệm đền
bù tổn thất là một chính sách của Nhà nước nhằm bù đắp một phần thiệt hại,

15
vì vậy, “trong quá trình giải quyết vụ việc, khi cơ quan có thẩm quyền giải
quyết vụ việc sẽ quyết định luôn việc đền bù theo mức cố định đã được pháp
luật quy định” [35, tr.125].
- Về trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ, hầu hết pháp luật
của tất cả các nước đều có quy định về TNHT của người thi hành công vụ,
được coi là một chế tài không thể thiếu mang tính răn đe, giáo dục đối với cán

bộ, công chức thừa hành công vụ. Trách nhiệm này được quy định dưới hai
dạng: là nghĩa vụ tự thân của người thi hành công vụ hoặc là hoàn trả khi Nhà
nước yêu cầu. Ví dụ: Canada coi nghĩa vụ hoàn trả là nghĩa vụ tự thân, công
chức“phải bồi hoàn cho Nhà nước một phần hoặc toàn bộ khoản tiền mà Nhà
nước đã trả và sẽ được khấu trừ dần vào tiền lương. Việc khấu trừ tiền lương
sẽ không được thực hiện một cách tùy tiện nếu chưa được sự chấp nhận của
công chức đó phải được sự phê chuẩn của Trưởng cơ quan thuế” [60, tr.175].
Nhật Bản chỉ quy định người thi hành công phải hoàn trả nếu họ “có lỗi cố ý
hoặc vô ý nghiêm trọng” [35, tr.130]. Thụy Sỹ lại coi việc hoàn trả là do
quyền của Nhà nước yêu cầu công chức đó phải thực hiện “nếu công chức
gây thiệt hại do cố ý hoặc sơ suất nghiêm trọng, ngay cả sau khi quan hệ
công vụ đã chấm dứt” [1, tr.21].
1.2.2. Đánh giá
Nói chung, hầu hết các quốc gia trên thế giới dù thuộc nhóm các
quốc gia có đạo luật riêng về TNBTCNN hay thuộc nhóm các quốc gia
không có đạo luật riêng về TNBTCNN nhưng hầu hết các quốc gia đều ghi
nhận vấn đề BTNN trong Hiến pháp của họ. Bên cạnh việc quy định trong
Hiến pháp, không phải tất cả các quốc gia đều ban hành luật riêng để điều
chỉnh về bồi thường nhà nước mà có thể quy định rải rác ở BLDS và các
luật liên quan.
Có thể nói, đa số các quốc gia đều coi trách nhiệm bồi

16
thường nhà nước là một loại trách nhiệm dân sự về bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng. Chỉ một số ít quốc gia coi quan hệ pháp luật
này là quan hệ hành chính hoặc nửa hành chính nửa dân sự. Một số
nước còn có sự phân biệt rạch rồi giữa hai loại trách nhiệm bồi
thường thiệt hại và đền bù tổn thất [36, tr 4].
Từ những nghiên cứu về TNBTCNN của các quốc gia trên thế giới, cho
thấy, việc quy định TNBTCNN dựa trên văn bản luật, văn bản dưới luật hay

án lệ thì vấn đề cốt lõi những quy định đó của pháp luật mỗi quốc gia cùng
hướng tới mục tiêu bảo vệ quyền con người khi bị gây ra thiệt hại của người
thi hành công vụ của cơ quan công quyền. Do đó, việc vận dụng các quy định
của pháp luật cũng như từ thực tiễn thi hành của các quốc gia trên thế giới
liên quan đến TNBTCNN là điều vô cùng quan trọng để xây dựng một hệ
thống pháp luật về BTNN ở Việt Nam, mang tinh thần thượng tôn trong việc
bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực BTNN. Điển hình, việc ghi nhận các
quy định liên quan đến phạm vi bồi thường, các yếu tố lỗi để xác định TNBT
của người thi hành công vụ và các thiệt hại thực tế xảy ra là kim chỉ nam cho
việc xây dựng một đạo luật riêng, linh hoạt, có tính bền vững và hiệu quả áp
dụng cho Việt Nam. Qua đó, trên tinh thần pháp luật về BTNN trên thế giới,
học viên khẳng định Việt Nam cũng đã tiếp thu, chọn lọc, rút ra được kinh
nghiệm trong việc xây dựng Luật TNBTCNN ở Việt Nam, cụ thể là:
Thứ nhất, pháp luật về TNBTCNN của Việt Nam tiếp thu trên tinh thần
không quy định quyền khởi kiện ra Tòa án yêu cầu giải quyết bồi thường
ngay mà quy định việc giải quyết bồi thường phải được thực hiện tại cơ quan
có TNBT thông qua việc thương lượng giữa người bị thiệt hại và cơ quan có
TNBT. Người bị thiệt hại không đồng ý với quyết định giải quyết bồi thường
do cơ quan có TNBT ban hành thì trong thời hạn Luật định, người đó mới có
quyền yêu cầu Tòa án giải quyết bồi thường theo thủ tục TTDS.
Thứ hai, Luật TNBTCNN của Việt Nam tiếp thu một phần kinh nghiệm

17
xây dựng cơ quan có TNBT theo mô hình phân tán giống một số nước trên
thế giới, trong đó, xác định đối với từng vụ việc cụ thể thì cơ quan có TNBT
sẽ là cơ quan giải quyết bồi thường thông qua thương lượng và nếu người bị
thiệt hại khởi kiện sau thì Tòa án sẽ giải quyết bồi thường.
Thứ ba, Việt Nam tiếp thu tinh thần xây dựng luật theo hướng quy định
rõ lĩnh vực được bồi thường và liệt kê cụ thể từng trường hợp được bồi thường.
Thứ tư, Việt Nam ghi nhận và tiếp thu quan điểm về nghĩa vụ hoàn trả

của các quốc gia trên thế giới dưới góc độ coi TNHT là một nghĩa vụ tự thân và
người thi hành công vụ chỉ phải hoàn trả nếu có lỗi vô ý hoặc cố ý. Riêng trong
lĩnh vực TTHS, người thi hành công vụ chỉ phải hoàn trả nếu có lỗi cố ý. Ngoài
ra, mức hoàn trả cũng được xác định là quy định ở mức cao nhất đối với 3
trường hợp lỗi: lỗi vô ý, lỗi cố ý nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm
hình sự và lỗi cố ý và người thi hành công vụ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
1.3. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền con ngƣời trong pháp luật về
TNBTCNN ở Việt Nam
1.3.1. Việc xây dựng chế định TNBTCNN là phù hợp với yêu cầu của
việc bảo đảm các quyền con người cũng như phù hợp với xu thế chung của
thế giới
“Các điều ước quốc tế về quyền con người là cơ sở pháp lý quốc tế
quan trọng, góp phần xác lập các tiêu chuẩn chung và tối thiểu về quyền con
người” [25, tr.92], do đó, trong những năm qua, Việt Nam đã tham gia nhiều
Công ước quốc tế về quyền con người bao gồm Công ước quốc tế về quyền
dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR) ngày 24/9/1982; Công ước quốc tế về
quyền kinh tế, văn hóa, xã hội năm 1966 (ICESCR); Công ước quốc tế xóa bỏ
mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ năm 1979 (CEDAW); Công
ước quốc tế về quyền trẻ em 1989 (CRC) Theo các Công ước này, quyền
con người trong mọi lĩnh vực phải được tôn trọng và bảo vệ gồm cả các

18
quyền cần được bảo đảm bởi pháp luật hình sự, tố tụng hình sự như quyền
sống, quyền không bị tra tấn, đối xử một cách tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ
thấp nhân phẩm; quyền tự do và an toàn cá nhân; quyền không bị bắt giữ và
giam cầm vô cớ
Nhận thức được tầm quan trọng và sự cần thiết bảo đảm các quyền con
người trong tiến trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và xây dựng nhà nước
pháp quyền chủ nghĩa. Một trong những hoạt động trọng tâm của Đảng và
Nhà nước ta là hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người phù hợp với

các nguyên tắc và tiêu chuẩn quốc tế nêu trong các điều ước quốc tế về quyền
con người mà Việt Nam đã là thành viên, trong đó, từ những yêu cầu cơ bản
đối với việc bảo đảm các quyền con người, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại
do công chức nhà nước gây ra là một trong những quyền cơ bản về dân sự,
chính trị của con người. Tại khoản 5 Điều 9, ICCPR đã tuyên bố: "Bất cứ
người nào trở thành nạn nhân của việc bị bắt hoặc bị giam cầm bất hợp pháp
đều có quyền yêu cầu được bồi thường" [52, tr.503]. Bên cạnh đó, thực tiễn
pháp lý trên thế giới đã cho thấy càng ngày càng có nhiều quốc gia có luật về
TNBTCNN mặc dù nội dung cũng như truyền thống, tư duy pháp luật giữa
các nước có sự khác nhau nhưng có chung một quan điểm về việc Nhà nước
phải thừa nhận trách nhiệm đối với những hậu quả do cán bộ, công chức Nhà
nước gây ra trong quá trình thực thi công vụ. Đồng thời, việc bảo vệ và thúc
đẩy các quyền con người về dân sự, chính trị ngày càng được quan tâm, duy
trì một trật tự xã hội ổn định và công bằng là mục tiêu mà mọi quốc gia, dù ở
chế độ chính trị nào, dù trong hoàn cảnh nào, nền kinh tế ra sao, vẫn luôn
hướng đến và mong mỏi nguyện vọng đó, ý chí đó.
Như đã nêu ở mục trên, trong bối cảnh các quốc gia trên thế giới thể
hiện quyền lực của Nhà nước với nhân dân song song với việc bảo đảm tối ưu
nhất sự bình đẳng, bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người, đặc biệt, là quyền

19
con người trong pháp luật về BTNN như vậy, không chỉ hòa vào xu thế chung
của khu vực, của thế giới mà việc thừa nhận trách nhiệm của Nhà nước cũng
là phù hợp với nền dân chủ mà chúng ta đang tích cực xây dựng trong Nhà
nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
1.3.2. Quá trình ra đời Luật TNBTCNN 2010 với mục đích bảo vệ tối
đa các quyền con người về BTNN ở Việt Nam cho đến nay
Ở nước ta, quyền con người đã được khẳng định ngay từ những lời nói
đầu khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập của dân tộc Việt
Nam vào ngày 2 tháng 9 năm 1945. Chỉ một ngày sau đó, tức là ngày 3 tháng

9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ một trong những nhiệm vụ cấp
bách của Nhà nước Việt Nam mới là tổ chức tổng tuyển cử bầu Quốc hội lập
hiến, thông qua hiến pháp để khẳng định quyền làm chủ đất nước, phấn đấu
thúc đẩy quyền lợi của người dân ngay cả trong điều kiện đầy ngặt nghèo của
những năm tháng kháng chiến. Các quyền và tự do cơ bản của nhân dân được
thể chế hóa bằng Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm thực hiện bằng nhiều chủ
trương, chính sách và cơ chế. Với chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, trong thời gian qua, Nhà nước ta đã ban hành một hệ thống
pháp luật, bước đầu đáp ứng được những yêu cầu cơ bản của quản lý nhà
nước đối với mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có pháp luật về
TNBTCNN đối với các thiệt hại do cán bộ, công chức nhà nước gây ra trong
khi thi hành công vụ.
1.3.2.1. Những quy định của pháp luật về TNBTCNN qua các bản Hiến
pháp và các văn bản luật chuyên ngành
Việc tôn trọng và thúc đẩy quyền con người, quyền được bồi thường và
TNBTCNN được ghi nhận và quy định từ rất sớm trong pháp luật của Nhà
nước ta ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên cho đến bản Hiến pháp 2013.
Ban đầu, TNBTCNN được quy định tại Hiến pháp 1959 ghi nhận tại

×