Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Nguyên tắc thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 93 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





HOÀNG HỒNG PHƢƠNG






NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN, HỘI THẨM NHÂN DÂN
ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









HÀ NỘI - 2011



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




HOÀNG HỒNG PHƢƠNG





NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN, HỘI THẨM NHÂN DÂN
ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số : 60 38 01



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Phạm Hồng Thái





HÀ NỘI - 2011



MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC THẨM
PHÁN, HỘI THẨM NHÂN DÂN ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN
THEO PHÁP LUẬT
5
1.1.

Khái niệm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật
5
1.2.
Nội dung nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật
12
1.2.1.
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập khi xét xử
12
1.2.2.
Thẩm phán và Hội thẩm xét xử chỉ tuân theo pháp luật
23
1.2.3.
Mối quan hệ giữa tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
trong hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm
28
1.3.
Ý nghĩa của nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật
30

Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN,
HỘI THẨM NHÂN DÂN ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO
PHÁP LUẬT
33
2.1.
Thực tiễn áp dụng nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật và nguyên nhân

33
2.1.1.
Một số biểu hiện của việc không độc lập và tuân theo pháp
luật của Thẩm phán và Hội thẩm
33
2.1.2.
Nguyên nhân của thực trạng
47
2.2.
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực hiện
nguyên tắc "Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật"
67
2.2.1.
Về hoàn thiện hệ thống pháp luật
68
2.2.2.
Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ
72
2.2.3.
Về đạo đức Thẩm phán và Hội thẩm
74
2.2.4.
Về tổ chức và hoạt động của cơ quan Tòa án
76
2.2.5.
Về các giải pháp khác
80

KẾT LUẬN

83

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
86















1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tòa án là cơ quan có chức năng đặc biệt trong bộ máy nhà nước Nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan duy nhất có quyền xét xử và
chỉ Tòa án mới có quyền phán quyết một người có tội hay không có tội. Tòa
án xét xử và giải quyết những vụ án hình sự, dân sự, dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh thương mại, hành chính và giải quyết những việc khác theo
quy định của pháp luật.

Trong phạm vi chức năng của mình, Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp
chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của
nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản,
tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Bằng chính hoạt động của mình,
Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, chấp hành
nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những nguyên tắc của cuộc sống xã hội, ý
thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp
luật khác. Để đảm bảo cho Tòa án thực hiện đúng chức năng của mình, Hiến
pháp cùng nhiều văn bản luật có quy định những nguyên tắc cơ bản cho cơ
quan đặc biệt này.
Nguyên tắc "Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật" là một trong những nguyên tắc cơ bản để Tòa án thực hiện nhiệm
vụ xét xử, thể hiện quan điểm của Nhà nước trong hoạt động xét xử, Hội thẩm
và Thẩm phán có quyền đưa ra phán quyết trên cơ sở quyết định của pháp luật
để giải quyết vụ án một cách khách quan và chính xác mà không phải phụ
thuộc vào bất cứ sự tác động nào khác. Đây là một nguyên tắc Hiến định được
ghi nhận từ rất sớm và phát triển cùng Hiến pháp và pháp luật. Mặc dù được
quy định trong hiến pháp và nhiều văn bản luật khác nhưng trên thực tế việc
2

áp dụng nguyên tắc này còn nhiều bất cập, chưa thực sự đem lại hiệu quả thiết
thực trong quá trình Tòa án giải quyết các vụ việc. Đặc biệt theo tinh thần
Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 02/06/2005 về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 thì việc đi sâu nghiên cứu "Nguyên tắc Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" là vấn đề có ý
nghĩa thiết thực phục vụ cho quá trình nghiên cứu về mặt lý luận cũng như
thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
"Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật" không còn là vấn đề là mới, trong thời gian qua đã có rất nhiều

những bài viết, những công trình nghiên cứu tìm hiểu về vấn đề này, như:
Khóa luận tốt nghiệp: "Khi xét xử thẩm phán, hội thẩm độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật", của Hàn Mạnh Thắng, Trường Đại học Luật Hà Nội, 1997;
Luận văn "Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật trong tố tụng dân sự", của Trần Thị Nhung San, Trường Đại
học Luật Hà Nội, 1995; "Bảo đảm nguyên tắc khi xét xử thẩm phán và hội
thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật", của Trần Văn Kiểm, Tạp
chí Nghiên cứu lập pháp, Số 1(186), 2011; "Nguyên tắc Thẩm phán và Hội
thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật và chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của tòa án", của Đỗ Thị Phương,
Đề tài nghiên cứu khoa học, Viện Khoa học xét xử - Tòa án nhân dân tối cao;
cùng nhiều những bài viết được đăng trên các tạp chí chuyên ngành khác.
Trên cơ sở tiếp thu, tổng hợp những đề tài, bài viết trước, cùng với sự
tìm tòi, và quá trình nghiên cứu của mình, tác giả đi vào phân tích nguyên tắc
"Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật", để thấy
rằng, việc áp dụng nguyên tắc này thực tế vẫn còn nhiều bất cập và đưa ra
những giải pháp thích hợp để nguyên tắc được thực thi có hiệu quả hơn. Đề
tài lựa chọn của tác giả cũng nhằm mục đích khẳng định đường lối chủ trương
3

của Đảng trong cải cách tư pháp là đúng đắn, kịp thời và nên được thống nhất
thực hiện.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về nguyên tắc "Thẩm phán,
Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" trong hoạt động xét xử
nhằm làm rõ khái niệm, nội dung và ý nghĩa;
- Trên cơ sở các quan điểm lý luận, bài viết nêu lên những vấn đề
mang tính thực tế của Việt Nam trong lịnh sử cũng như hiện tại về vấn đề
"Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật", quan
điểm chỉ đạo của Đảng hiện nay và việc áp dụng nguyên tắc trên trong thời

gian tới tại Việt Nam, những khó khăn và thuận lợi tác động tới việc áp dụng
nguyên tắc "Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật" tại Việt Nam, từ đó đưa ra một số đề xuất nhằm góp phần vào quá trình
nghiên cứu cũng như trên thực tế áp dụng.
4. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Luận văn đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của
nguyên tắc "Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật" trong hoạt động xét xử. Nguyên tắc được ghi nhận trong Hiến pháp và
được cụ thể hóa trong rất nhiều các văn bản luật: Luật tổ chức tòa án, Luật tố
tụng dân sự, tố tụng hình sự, Pháp lệnh thẩm phán và hội thẩm nhân dân…
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của triết học
Mác - Lênin mà cụ thể là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng
thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học chủ yếu: phân tích, tổng
hợp, so sánh, logic biện chứng, hệ thống.
5. Điểm mới của đề tài
Do nghiên cứu đề tài ở phạm vi hẹp nên luận văn có điều kiện đi sâu
xem xét nguyên tắc "Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo
4

pháp luật" ở Việt Nam, đồng thời nêu lên thực tế áp dụng nguyên tắc này của
ngành tư pháp nói chung và trong hoạt động xét xử của Tòa án nói riêng. Trên
cơ sở đó luận văn đưa ra một số giải pháp, kiến nghị mang tính xây dựng
nhằm hoàn thiện hơn quy định của pháp luật về vấn đề này góp phần vào quá
trình cải cách tư pháp trong thời gian tới tại Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về nguyên tắc "thẩm phán, hội thẩm
nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật".
Chương 2: Thực tiễn áp dụng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả

áp dụng nguyên tắc "thẩm phán, hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật".

5

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN,
HỘI THẨM NHÂN DÂN ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT

1.1. Khái niệm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật
Để tìm hiểu nguyên tắc này, trước hết chúng ta phải biết vị trí, vai trò
của Tòa án nhân dân trong trong bộ máy nhà nước của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Theo quy định tại Điều 127 Hiến pháp năm 1992 (đã sửa
đồi, bổ sung năm 2001); Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 (Điều 2) và
một số văn bản quy phạm pháp luật khác của Việt Nam.
Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bộ máy nhà nước được
tổ chức theo nguyên tắc tập trung quyền lực, có sự phân công giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: Lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Thực hiện quyền tư pháp mà chủ yếu là quyền xét xử là một trong những
chức năng rất quan trọng của nhà nước Việt Nam được giao cho Tòa án
nhân dân. Do vậy, Tòa án nhân dân có một vị trí rất quan trọng trong bộ máy
nhà nước.
Tòa án có vị trí trung tâm trong các cơ quan tư pháp, Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020 đã khẳng định: "Tổ chức các cơ quan tư pháp, các chế định bổ
trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu và điều kiện, phương tiện
làm việc; trong đó, xác định Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động
trọng tâm" [9]. Theo Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự

và các Tòa khác do luật định là các cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
6

Tòa án nhân dân có vai trò quan trọng trong việc giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh
tế, xã hội, chủ động hội nhập kinh tế và khu vực, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Tòa án nhân dân là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý,
quyền của con người và đồng thời là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và
pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm.
Tòa án xét xử những vụ án hình sự; những vụ án dân sự (bao gồm
những tranh chấp về dân sự, những tranh chấp về hôn nhân và gia đình;
những tranh chấp về kinh doanh, thương mại; những tranh chấp về lao động);
giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, xem xét và kết luận việc
đình công hợp pháp hay không hợp pháp. Tòa án giải quyết những việc khác
theo quy định của pháp luật (giảm hình phạt, miễn hình phạt, ra quyết định thi
hành án hình sự, ra quyết định xóa án tích…).
Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vị trí, vai trò của Tòa án
lại càng được khẳng định. Vì Tòa án chính là cơ quan thực thi quyền tư pháp
trong bộ máy nhà nước và việc thực thi này ảnh hưởng trực tiếp tới mục tiêu
và các giá trị của công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, Tòa
án là cơ quan duy nhất có quyền xét xử và tuyên có tội hay không có tội,
quyết định mức hình phạt và các vấn đề khác liên quan đến các quyền của
công dân như bồi thường, biện pháp ngăn chặn, án phí,… Chủ thể được nhà
nước trao quyền nhân danh nhà nước để thực hiện việc xét xử đó là Thẩm
phán và Hội thẩm. Do tính chất quan trọng của hoạt động xét xử nên pháp
luật quy định xét xử phải tuân theo những trình tự thủ tục và những nguyên
tắc nhất định. Một trong những nguyên tắc đó là "Thẩm phán, Hội thẩm nhân
dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật". Nguyên tắc này được ghi nhận rất
sớm trong các văn bản pháp luật dù không giống nhau hoàn toàn về mặt câu

chữ. Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 về tổ chức Tòa án và các ngạch
Thẩm phán có quy định:
7

Tòa án tư pháp sẽ độc lập với cơ quan hành chính, các vị
Thẩm phán sẽ chỉ trong pháp luật và công lý, các cơ quan khác
không được can thiệp vào tư pháp. Mỗi Thẩm phán quyết định theo
pháp luật và lương tâm của mình. Không quyền lực nào được can
thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào công việc xử án [42].
Mặt khác, Sắc lệnh số 13 còn quy định: "Các Phụ thẩm nhân dân có
bổn phận lấy lý trí sáng suốt và lương tâm ngay thẳng ra xét mọi việc rồi phát
biểu ý kiến một cách công bằng, không vì nể, vì sợ một thế lực nào, vì lợi ích
riêng hay tư thù mà bênh vực hay làm hại ai" [42]. Nguyên tắc này được tiếp
tục ghi nhận trong hiến pháp nước ta qua các thời kỳ, cụ thể là: Điều 69 Hiến
pháp năm 1946: "Trong khi xét xử, các viên Thẩm phán chỉ tuân theo pháp
luật, các cơ quan khác không được can thiệp" [23]; Điều 100 Hiến pháp 1959:
"Khi xét xử, Tòa án nhân dân có quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" [24];
Điều 131 Hiến pháp năm 1980: " Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân
dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" [25], và Điều 130 Hiến pháp 1992:
"Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" [26].
Trong Sắc lệnh và các bản Hiến pháp, nội dung câu chữ và phạm vi điều
chỉnh của nguyên tắc có khác nhau nhưng đều thể hiện tính độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm. Sự
khác nhau đó phản ánh quá trình phát triển của hoạt động lập Hiến pháp và
lập pháp, từ chưa hoàn thiện đến việc hoàn thiện và ngày càng chính xác.
Tinh thần của nguyên tắc này được cụ thể hóa trong các Luật tổ chức Tòa án,
pháp luật tố tụng qua các giai đoạn hình thành, sửa đổi, bổ sung. Nội dung được
cụ thể hóa một cách đầy đủ nhất tại Điều 16 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
"Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo quy định của
pháp luật" [30]; đồng thời nguyên tắc này cũng quy định cụ thể, rõ ràng trong

Điều 12 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005. Như vậy, "Thẩm phán, Hội thẩm
nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" là nguyên tắc cơ bản và quan
trọng trong hoạt động xét xử của Tòa án.
8

Vậy cần hiểu nguyên tắc trên như thế nào?
Nguyên tắc được hiểu là "những quy định, phép tắc, tiêu chuẩn làm cơ
sở, chỗ dựa để xem xét, làm việc" [54, tr. 1217]. Đó thực chất là những tư
tưởng, quan điểm được rút ra từ những tri thức thức khoa học có ý nghĩa chỉ
đạo, bao trùm, xuyên suốt đảm bảo cho quá trình tiếp cận, nhận thức hay giải
quyết đúng đắn các vấn đề cụ thể. Bởi thế, nguyên tắc không thể thiếu trong
các hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người, chính việc
thực hiện theo nguyên tắc sẽ tạo điều kiện để những hoạt động đó đi đúng
hướng và đạt hiệu quả. Pháp luật về tố tụng với tư cách là hoạt động pháp luật
của các cơ quan nhà nước được giao nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội
phạm phải tuân theo những nguyên tắc nhất định là tất yếu. Trong khoa học
pháp luật tố tụng, điển hình là luật tố tụng hình sự, nguyên tắc được định
nghĩa: "Những phương châm, định hướng, chi phối toàn bộ hay một số hoạt
động tố tụng hình sự, được ghi nhận trong Hiến pháp, Bộ luật tố tụng hình sự
và các văn bản pháp luật khác liên quan" [37, tr. 5]. Trong hoạt động tư pháp,
hoạt động xét xử được coi là khâu trọng tâm vì ở đây biểu hiện sự tập trung và
thể hiện đầy đủ quyền tư pháp, là hoạt động trên cơ sở kết quả điều tra, truy tố và
xét xử, Tòa án nhân danh Nhà nước đưa ra phán xét một người là có tội hay
không có tội. Tính chính xác, khách quan, hợp pháp của sự phán xét, cũng
như sự bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân phụ thuộc rất nhiều
vào quá trình điều tra, truy tố và xét xử từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng.
Vì thế, việc đưa ra các nguyên tắc tố tụng là thực sự cần thiết, đặc biệt là nguyên
tắc "Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật".
Hiện nay, khái niệm "xét xử" vẫn chưa được hiểu một cách thống
nhất. Xét xử hiểu theo nghĩa rộng là chức năng của Tòa án. Cũng như bất kỳ

cơ quan nhà nước nào khác, Tòa án đều phải quản lý cán bộ, quản lý ngân
sách và cơ sở vật chất của đơn vị; Tòa án phối hợp với các cơ quan nhà nước,
các tổ chức xã hội trong việc tuyên truyền và bảo vệ pháp luật. Tuy nhiên,
9

hoạt động chủ yếu của Tòa án vẫn là xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế,
lao động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật.
Đó chính là sự tổng hợp một chuỗi hoạt động của Tòa án kể từ thời điểm thụ
lý vụ án cho đến khi ra bản án, ra quyết định thi hành án (đối với vụ án hình
sự) hoặc ra quyết định nhằm giải quyết vụ án. Như vậy, hoạt động xét xử là
xem xét và giải quyết vụ án.
Hiểu theo nghĩa hẹp thì xét xử là hoạt động của Thẩm phán và Hội
thẩm tại phiên tòa mà kết quả của hoạt động này, là ra bản án hoặc quyết định
để giải quyết vụ án. Với cách hiểu này, có ý kiến cho rằng: "Độc lập xét xử là
một nguyên tắc có tính đặc thù, chỉ có thể được áp dụng đối với Thẩm phán
và Hội thẩm trong khi xét xử" [34, tr. 1-2].
"Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập với nhau và chỉ tuân theo
pháp luật" là nguyên tắc được đề cao trong hoạt động xét xử. Tuy nhiên, " xét
xử" trong nguyên tắc trên hiểu theo nghĩa thứ nhất hoặc thứ hai đều chưa
chuẩn xác, bởi lẽ:
Theo nghĩa thứ nhất, hoạt động xét xử kể từ thời điểm thụ lý, khi đó mới
phát sinh vị trí pháp lý của Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, vị trí
pháp lý của Hội thẩm lại xuất hiện muộn hơn, đó là thời điểm có quyết định
phân công xét xử của Chánh án và Thẩm phán ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Nếu theo nghĩa thứ hai, hoạt động xét xử chỉ diễn ra tại phiên tòa,
trong khi đó vị trí pháp lý của Thẩm phán và Hội thẩm lại xuất hiện sớm hơn.
Hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm chủ yếu diễn ra tại phiên tòa,
song trước khi mở phiên tòa, Thẩm phán và Hội thẩm cũng có những hoạt
động tác nghiệp khác bổ trợ cho hoạt động xét xử tại phiên tòa như nghiên
cứu hồ sơ, xác minh, thu thập chứng cứ và các công việc cần thiết khác.

Vì vậy, có thể hiểu, xét xử của Hội thẩm và Thẩm phán là các hoạt
động kể từ thời điểm họ được giao nhiệm vụ xét xử vụ án khi có quyết định
đưa vụ án ra xét xử cho đến khi kết thúc phiên tòa (đối với vụ án hình sự,
10

Chánh áncòn phải ra quyết định thi hành án hình sự) bao gồm hoạt động xem
xét đánh giá chứng cứ tại phiên tòa và các hoạt động bổ trợ khác để đưa ra
quyết định, bản án giải quyết vụ án.
Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật nghĩa là phải tự mình đưa ra kết
luận giải quyết vấn đề trên cơ sở quy định của pháp luật mà không phụ thuộc
vào bất kỳ yếu tố nào khác. Đó là những tư tưởng chủ đạo, định hướng trở
thành xử sự bắt buộc chung đối với Thẩm phán và Hội thẩm khi được phân
công xét xử vụ án.
Từ những vấn đề nêu trên, có thể đưa ra khái niệm nguyên tắc như
sau: Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật là những tư tưởng chủ đạo có tính bắt buộc thể hiện quan điểm của
nhà nước trong hoạt động xét xử, được quy định trong pháp luật tố tụng, theo
đó chỉ có Thẩm phán và Hội thẩm (Hội đồng xét xử) mới có quyền đưa ra phán
quyết trên cơ sở quy định của pháp luật để giải quyết vụ án một cách khách
quan, chính xác (mà không chịu chi phối bởi bất kỳ một sự tác động nào).
Vấn đề "Độc lập xét xử" thường được trực tiếp hoặc gián tiếp ghi
nhận một cách rộng rãi trong Hiến pháp và pháp luật phần lớn các nước trên
thế giới, như:
- Điều 76 Hiến pháp Nhật Bản quy định: Tư pháp do tòa án tối cao và
các Tòa án cấp dưới sử dụng. Không thể thiết lập tòa án đặc biệt và không có
cơ quan nào của ngành hành pháp được sử dụng quyền Tư pháp chung thẩm.
Các Thẩm phán xét xử theo lương tâm và phải tôn trọng Hiến pháp, pháp luật
một cách triệt để.
- Điều 97 Hiến pháp Liên bang Đức năm 1959 quy định: "Thẩm phán
xét xử độc lập và chỉ tuân thủ theo pháp luật…".

- Điều 64 Hiến pháp đệ ngũ Cộng hòa Pháp năm 1958 quy định:
"Tổng thống bảo đảm sự độc lập của cơ quan tư pháp. Tổng thống được Hội
11

đồng tối cao Thẩm phán phụ tá. Một đạo luật biên chế ấn định quy chế của
Thẩm phán".
- Nguyên tắc độc lập xét xử và tuân theo pháp luật cũng được ghi
nhận khá cụ thể trong Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga: Khoản 4 Điều 7
quy định về đảm bảo tính pháp chế trong hoạt động tố tụng: Các quyết định
của Tòa án, quyết định của Thẩm phán, Kiểm sát viên, Dự thẩm viên, nhân
viên điều tra ban đầu phải hợp pháp, có căn cứ và nêu rõ lý do. Ngoài ra,
nguyên tắc còn được thể hiện ở Điều 17 quy định về tự do đánh giá chứng cứ:
Thẩm phán, thành viên Bồi thẩm đoàn cũng như Kiểm sát
viên, Dự thẩm viên, nhân viên điều tra ban đầu đánh giá chứng cứ
theo niềm tin nội tâm dựa trên những chứng cứ có trong vụ án, căn
cứ vào pháp luật và lương tâm của mình. Không có chứng cứ nào
có hiệu lực được xác nhận trước đó [53].
- Chúng ta cũng có thể tìm thấy nguyên tắc này trong Hiến pháp nước
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Điều 126 Hiến pháp nước Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa quy định: "Tòa án nhân dân có quyền độc lập xét xử". Nguyên
tắc được cụ thể hóa trong luật tố tụng dân sự tại Điều 6 và Điều 7 như sau:
"Tòa án nhân dân dựa vào quy định của pháp luật xét xử độc lập những vụ án
Dân sự, không chịu can thiệp của bất cứ cơ quan hành chính, đoàn thể xã hội
và cá nhân nào khác. Tòa án nhân dân lấy sự thật làm căn cứ, lấy pháp luật
làm chuẩn mực".
- Điều 125 Hiến pháp Cuba ghi nhận: "Trong khi thực hiện chức năng
xét xử, các Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo quy định của pháp luật".
Như vậy, không chỉ ở nước ta mà nhiều nước trên thế giới đều xem
trọng vấn đề "độc lập xét xử" của các Thẩm phán và Hội thẩm, do đó, nó
thường được ghi nhận trong Hiến pháp và các đạo luật với tư cách là một

nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tố tụng.
12

1.2. Nội dung nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật
1.2.1. Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập khi xét xử
Độc lập nghĩa là tự đưa ra quyết định dựa trên những chứng cứ và quy
định của pháp luật để đưa ra quyết định về vụ án mà không phụ thuộc vào bất
cứ sự tác động nào khác. Lấy chủ thể của hoạt động xét xử để nghiên cứu thì
sự độc lập được biểu hiện trên hai khía cạnh: Độc lập với các yếu tố khách
quan và độc lập với yếu tố chủ quan.
 Độc lập với các yếu tố khách quan:
- Độc lập với các chủ thể khác của Tòa án.
Tại sao lại đặt vấn đề Thẩm phán, Hội thẩm độc lập với các chủ thể
khác của Tòa án? Phải chăng giữa họ có hình thành một mối quan hệ nào hạn
chế hoặc ảnh hưởng đến tính độc lập trong xét xử?
Điều kiện để trở thành Thẩm phán, Hội thẩm Tòa án nhân dân:
Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân 2002, được sửa
đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân
dân năm 2011 quy định: Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến
pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt,
liêm khiết, trung thực, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa, có trình độ Cử nhân luật và được đào tạo nghiệp vụ xét xử, có thời gian
làm công tác thực tiễn theo quy định của pháp luật, có năng lực làm công tác
xét xử, có sức khỏe để đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao thì có thể
được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán. Người có đủ tiêu chuẩn quy
định tại khoản 1 Điều 5 Pháp lệnh Thẩm phán và hội Thẩm Tòa án nhân dân
có thời gian làm công tác pháp luật từ bốn năm trở lên, có năng lực xét xử
những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo
quy định của pháp luật tố tụng, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm

13

Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa án nhân dân; nếu người đó là sĩ quan quân đội
tại ngũ thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán sơ cấp thuộc
Tòa án quân sự. Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 5 Pháp
lệnh Thẩm phán và hội Thẩm Tòa án nhân dân đã là Thẩm phán sơ cấp ít nhất
là năm năm, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác
thuộc thẩm quyền của Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng, thì có thể
được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán trung cấp thuộc Tòa án nhân
dân; nếu người đó là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn và
bổ nhiệm làm Thẩm phán trung cấp thuộc Tòa án quân sự. Người có đủ tiêu
chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 5 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án
nhân dân đã là Thẩm phán trung cấp ít nhất là năm năm, có năng lực xét xử
những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án
nhân dân tối cao, Tòa án quân sự trung ương thì có thể được tuyển chọn và bổ
nhiệm làm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; nếu người đó là sĩ quan quân
đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án
quân sự trung ương. Việc bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án nhân dân phải
được Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán lựa chọn và đề nghị. Thẩm phán Tòa
án nhân dân ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm có: Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp, Thẩm
phán Tòa án quân sự bao gồm Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương đồng
thời là Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán
sơ cấp.
Hội thẩm là người được bầu hoặc cử theo quy định của pháp luật để
làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án. Hội thẩm
Tòa án nhân dân ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm có: Hội
thẩm nhân dân Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân
cấp huyện (gọi chung là Hội thẩm nhân dân), Hội thẩm quân nhân Tòa án
quân khu và tương đương, Hội thẩm quân nhân Tòa án quân sự khu vực (gọi

chung là Hội thẩm quân nhân).
14

Hội thẩm nhân dân địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu theo
sự giới thiệu của Ủy ban mặt trận Tổ quốc cùng cấp và do Hội đồng nhân dân
cùng cấp miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân
cùng cấp sau khi thống nhất với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp.
Về chuyên môn nghiệp vụ:
Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ hướng dẫn các Tòa án cấp dưới
áp dụng thống nhất pháp luật, tổng kết kinh nghiệm xét xử của các Tòa án cấp
dưới; Giám đốc việc xét xử của tòa án các cấp, tòa án đặc biệt và các Tòa án
khác; Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án quyết định đã có hiệu
lực pháp luật bị kháng nghị, phúc thẩm những vụ án mà bản án quyết định
chưa có hiệu lực của tòa án cấp dưới trực tiếp bị kháng cáo, kháng nghị.
Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền:
Sơ thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng; Phúc thẩm những
vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án cấp dưới bị kháng cáo,
kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng; Giám đốc thẩm, tái thẩm
những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án cấp dưới bị
kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng. Hội đồng xét xử phúc thẩm
có quyền sửa án sơ thẩm, hủy án sơ thẩm, chuyển hồ sơ cho cấp sơ thẩm điều
tra xét xử lại; Hủy án sơ thẩm và đình chỉ vụ án; Hội đồng giám đốc thẩm và
Hội đồng tái thẩm có thẩm quyền hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực
pháp luật và đình chỉ vụ án, hủy bản án quyết định đã có hiệu lực pháp luật để
điều tra xét xử lại. Ngoài ra, theo Điều 38 Bộ luật tố tụng hình sự quy định
nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Chánh án, Phó Chánh án Tòa án:
Chánh án Tòa án có nhiệm vụ và quyền hạn tổ chức công tác xét xử của Tòa
án, Quyết định phân công cho Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm
giải quyết xét xử án hình sự…, Quyết định thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm …
trước khi mở phiên Tòa.

15

Từ những quy định pháp lý trên có thể khái quát mối quan hệ giữa
Thẩm phán, Hội thẩm và nội bộ ngành Tòa án được thể hiện ở quan hệ giữa
Thẩm phán với Chánh án và các đồng nghiệp cùng trong cùng đơn vị Tòa án;
quan hệ giữa Thẩm phán và Tòa án cấp trên; quan hệ giữa Thẩm phán với
Chánh án tòa án nhân dân cấp trên, quan hệ giữa Thẩm phán với Chánh án tòa
án nhân dân tối cao; Hội thẩm có quan hệ giữa Hội thẩm và Chánh án Tòa án
nơi Hội thẩm tham gia xét xử. Những mối quan hệ này không đơn thuần là
quan hệ về tổ chức hành chính, càng không đơn thuần là quan hệ tố tụng.
Trong quan hệ hành chính có quan hệ tố tụng và trong quan hệ tố tụng có mối
quan hệ hành chính nhất định, không có sự tách bạch rõ ràng. Tiêu chí để có
thể được tuyển chọn bổ nhiệm Thẩm phán là người được lựa chọn phải có
phẩm chất đạo đức, năng lực, liêm khiết, do cơ quan nơi người được tuyển
chọn đánh giá thông qua việc bỏ phiếu tín nhiệm. Chánh án là người đứng đầu
cơ quan vừa sử dụng cán bộ nhưng đồng thời cũng là người quản lý cán bộ
trong đơn vị mình, ngoài việc bỏ một phiếu tín nhiệm như cán bộ công chức
khác, Chánh án còn có tiếng nói quan trọng trong việc lựa chọn, định hướng
công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ như trong việc bổ nhiệm Thẩm phán, sau
khi có phiếu tín nhiệm, người được lựa chọn phải qua Hội đồng tuyển chọn
Thẩm phán mà Chánh án cấp tỉnh là thành viên của Hội đồng tuyển chọn Thẩm
phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa án nhân dân, sau đó Hội đồng
tuyển chọn Thẩm phán làm tờ trình, danh sách trích ngang những người đề nghị
bổ nhiệm Thẩm phán và biên bản họp, đề nghị Chánh án tòa án nhân dân tối cao
bổ nhiệm làm Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp. Đối với việc bổ
nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì Chánh án tòa án nhân dân tối
cao còn làm chủ tịch Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao. Có thể nói Thẩm phán và Hội thẩm là người chịu sự quản lý của Chánh án
và Tòa án cùng và Chánh án và Tòa án cấp trên. Thông qua công tác tổ chức xét
xử như họp bàn án trước khi xét xử, phân công Thẩm phán, Hội thẩm xét xử

16

vụ án, Chánh án có thể tác động đến hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội
thẩm, định trước về điều khoản Bộ luật hình sự và hình phạt mà Tòa án cấp sơ
thẩm sẽ phải áp dụng nhưng việc "Tòa cấp trên" hủy án "Tòa cấp dưới" cũng
ảnh hưởng đến tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm. Chính vì vậy, Thẩm
phán và Hội thẩm phải có chính kiến, quan điểm của mình trong việc đánh giá
chứng cứ, xác định tội danh, mức hình phạt và giải quyết các vấn đề khác dựa
trên quy định của pháp luật. Mặc dù pháp luật đã quy định khi hủy bản án để
xét xử sơ thẩm lại, Tòa án cấp phúc thẩm không được quy định trước những
chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm cần phải chấp nhận hoặc bác bỏ cũng như
không quyết luật, đảm bảo việc xét xử công bằng, khách quan. Khi án bị hủy
để xét xử sơ thẩm lại, Hội đồng xét xử cũng cần phải tỉnh táo để xem xét lại
nguyên nhân mà Tòa án cấp trên hủy, xem xét toàn diện các chứng cứ, thông
tin có phù hợp với thực tế khách quan hay không để xét xử lại cho chính xác;
nếu cấp trên hủy sai thì phải bảo vệ chính kiến, quan điểm của Hội đồng xét
xử, miễn sao bản án, quyết định phải có căn cứ và đúng pháp luật.
Độc lập xét xử với Chánh án và Tòa án cấp trên không có nghĩa là
không lắng nghe, không học hỏi, chỉ đưa ra quyết định dựa trên những suy
nghĩ chủ quan của mình, việc tranh thủ ý kiến của tập thể Thẩm phán, của cấp
trên để áp dụng thống nhất pháp luật, củng cố niềm tin nội tâm sẽ hạn chế
được những sai sót có thể xảy ra do lỗi chủ quan của Thẩm phán, Hội thẩm.
Điều quan trọng là không được lạm dụng quá mức mối quan hệ này trong việc
xét xử, khi đưa ra một bản án hay thỉnh thị án.
- Độc lập với sự chỉ đạo của cấp ủy Đảng
Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Nhà nước công khai xác định nguyên tắc
Đảng lãnh đạo nhà nước, đó là: Đảng ra nghị quyết, chỉ thị, đề ra đường lối,
chủ trương chính sách; đào tạo và giới thiệu những đảng viên ưu tú vào cơ
17


quan nhà nước; Giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước thông qua các đảng
viên và tổ chức đảng trong cơ quan đó. Tòa án nhân dân cũng là một cơ quan
trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nên cũng đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Học thuyết Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa được công bố ngày 19/07/2007 tại phiên khai mạc kỳ
họp đầu tiên Quốc hội khóa XII có nhiều nội dung, trong đó có nội dung đề
cập đến hoạt động tư pháp: Hoạt động tư pháp kể cả việc đào tạo quản lý, sử
dụng đội ngũ cán bộ tư pháp do Đảng lãnh đạo thông qua vai trò của cấp ủy
và Ban cán sự Đảng ở các cơ quan Tư pháp căn cứ quy định của Đảng. Vì
quyền lực nhà nước tập trung và không phân lập nên Quốc hội và Tòa án chỉ
là hai bộ phận và hệ thống cơ quan nhà nước, không có sự phân quyền như ở
một số nước khác. Học thuyết nhà nước pháp quyền khẳng định quyền lực
Nhà nước thuộc về nhân dân trên cơ sở xác lập vai trò đại diện mặc nhiên của
Đảng đối với nhân dân nhằm thiết lập quyền lực đó. Toàn bộ hệ thống lập
pháp, hành pháp, tư pháp đảm bảo và củng cố vai trò lãnh đạo tuyệt đối của
Đảng đối với Nhà nước và xã hội.
Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 "về một số nhiệm
vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới" tại điểm 7 Mục B,
chương II ghi rõ:
Đảng lãnh đạo các cơ quan tư pháp chặt chẽ về chính trị, tổ
chức và cán bộ, đảm bảo hoạt động tư pháp theo đúng quan điểm
của Đảng, pháp luật Nhà nước. Tiếp tục hoàn thiện nội dung và
phương pháp lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp, khắc
phục tình trạng cấp ủy buông lỏng lãnh đạo hoặc cấp ủy Đảng can
thiệp không đúng vào hoạt động tư pháp [8].
Mục 1.4 Nghị quyết 49/NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02/06/2005 về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 tiếp tục nhấn mạnh đến sự lãnh đạo
18


của Đảng đối với cơ quan Tư pháp, trong đó xác định: "… Đổi mới và tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò giám sát của các cơ quan dân
cử, của công luận và của nhân dân đối với hoạt động tư pháp" [9].
Đảng lãnh đạo các cơ quan tư pháp, Tòa án chịu sự lãnh đạo của Đảng
thông qua cấp ủy địa phương. Đó là quan hệ chính trị giữa tổ chức Đảng với
cơ quan trong bộ máy nhà nước, Đảng không chỉ đạo xét xử từng vụ án cụ
thể, Đảng không cho phép bất cứ ai dựa vào quyền thế để làm trái pháp luật,
mọi vi phạm đều đưa ra xử lý theo pháp luật, không được giữ lại để xử lý nội
bộ, không làm theo kiểu phong kiến, dân thì phải chịu hình phạt, quan thì xử
theo "lễ"; phải nghiêm trị tất cả những kẻ phạm tội bất kỳ ở cương vị nào và
phải đảm bảo công bằng về nghĩa vụ và quyền lợi của công dân. Đảng ta xác
định: "Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập" [36]. Giữa tổ
chức đảng và Thẩm phán còn có mối quan hệ khác ngoài mối quan hệ giữa
đảng viên và tổ chức đảng qua thủ tục bổ nhiệm Thẩm phán.
Theo quy định hiện hành thì cùng với việc lấy phiếu tín nhiệm của cán
bộ công chức trong cơ quan người được đề nghị tuyển chọn còn phải có ý kiến
chấp thuận của cấp ủy địa phương nơi cán bộ được tuyển chọn làm Thẩm phán.
Với những mối quan hệ trên, Thẩm phán và Hội thẩm có xét xử độc
lập được hay không? Chúng ta phải hiểu rằng: Thẩm phán, Hội thẩm nhân
dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một trong những nguyên tắc bất di
bất dịch đối với hoạt động xét xử. Nguyên tắc này không chỉ được quy định
trong Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tổ chức Tòa án
nhân dân mà cao hơn là được ghi nhận trong các bản Hiến pháp nước ta qua
các thời kỳ. Trong phạm vi chức năng nhiệm vụ của mình, Đảng đề ra chủ
trương chính sách để lãnh đạo các cơ quan trong bộ máy nhà nước, không can
thiệp sâu vào hoạt động chuyên môn của các cơ quan đó. Đối với hoạt động
của Tòa án nhân dân, biểu hiện sự lãnh đạo của Đảng là chủ trương xét xử
đúng người đúng tội, đúng pháp luật; đối với những vụ án có ảnh hưởng
19


nghiêm trọng đến an ninh quốc gia hay những vụ án có ảnh hưởng lớn đến
việc thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước, ảnh hưởng lớn đến tình
hình an ninh, chính trị xã hội ở địa phương thì Đảng chỉ đề ra đường lối
chung là phải xét xử nghiêm minh, kịp thời, không được chỉ đạo là xét xử tội
gì, mức hình phạt cụ thể. Sự chỉ đạo để hoạt động xét xử đảm bảo tính nghiêm
minh là cần thiết, không ảnh hưởng đến việc xét xử độc lập của Thẩm phán và
Hội thẩm. Ý kiến của cấp ủy Đảng trong việc bổ nhiệm và bổ nhiệm lại Thẩm
phán cũng dựa trên những quy định về tiêu chuẩn bổ nhiệm, bố nhiệm lại
Thẩm phán khi hết nhiệm kỳ, chứ không phải là yếu tố quyết định. Nguyên
tắc lãnh đạo của Đảng không mâu thuẫn với sự độc lập xét xử của Thẩm phán
và Hội thẩm, song thực tế chế độ Đảng lãnh đạo nhà nước, trong đó có các cơ
quan, đơn vị, vị trí của cấp ủy Đảng trong việc tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm
phán rõ ràng sẽ ảnh hưởng đến sự độc lập của Thẩm phán khi có sự tác động
từ cấp ủy Đảng. Chính vì vậy, Thẩm phán và Hội thẩm phải nhận thức đúng
sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động tư pháp để đảm bảo sự độc lập xét
xử. Thẩm phán, Hội thầm cần phân biệt rõ giữa sự "lãnh đạo" của tổ chức
Đảng và sự " can thiệp" mang tính cá nhân của một số cán bộ lãnh đạo Đảng
viên. Bản lĩnh nghề nghiệp của Thẩm phán, Hội thẩm là một yếu tố cần thiết
để đảm bảo cho họ độc lập xét xử trước sự can thiệp không đúng pháp luật
của một số cá nhân, tổ chức.
- Độc lập với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án:
Đối với hồ sơ vụ án hình sự, sau khi có kết luận điều tra của Cơ quan
điều tra và Cáo trạng của Viện kiểm sát thì toàn bộ hồ sơ hình sự là tài liệu
đầu tiên để Thẩm phán và Hội thẩm tiến hành xem xét, đánh giá việc có hành
vi phạm tội hay không, phạm tội gì và được quy định ở khung hình phạt nào.
Việc xét xử của Tòa án dựa trên những thông tin cần thiết, đáng tin cậy, đó là
chứng cứ vụ án. Bản án, quyết định của Tòa án đưa ra trên cơ sở phân tích,
đánh giá các thông tin đã được cơ quan điều tra thu thập. Chính vì vậy, các
20


thông tin ban đầu (nhất là Kết luận điều tra của Cơ quan điều tra và Cáo trạng
của Viện kiểm sát) có ảnh hưởng nhất định đến nhận thức của Hội đồng xét
xử. Độc lập đối với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án là việc Thẩm phán và Hội
thẩm trên cơ sở đánh giá tính chính xác của các thông tin, kiểm tra lại tính xác
thực, đúng đắn của kết quả điều tra, quyết định truy tố, từ đó đưa ra quan
điểm chứng minh tội phạm của Hội đồng xét xử, các tình tiết, thông tin thu
thập phải phù hợp với hiện thực khách quan. Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án
chỉ là mô hình để Hội đồng xét xử triển khai hoạt động xét xử tại phiên tòa
thông qua việc kiểm tra và đánh giá chứng cứ, đánh giá tính xác thực của các
thông tin tài liệu đó. Độc lập với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án không có
nghĩa là thoát ly khỏi các thông tin đó mà nhiệm vụ của Hội đồng xét xử là
nghiên cứu và đánh giá xem các thông tin đó đúng hay sai, giữa các tài liệu
trong hồ sơ có mối quan hệ với nhau như thế nào, có mô tả đúng những hành
vi đã xảy ra trên thực tế hay không để đưa ra kết luận chính xác. Nếu thoát ly
khỏi Kết luận điều tra và Cáo trạng, Hội đồng xét xử sẽ không tận dụng được
tối đa kết quả của quá trình điều tra và Viện kiểm sát tổng hợp đưa ra kết
luận. Tuy nhiên, khi nghiên cứu hồ sơ cũng như khi xét xử, Thẩm phán và
Hội thẩm nhân dân không bị phụ thuộc vào Kết luận điều tra của cơ quan điều
tra, không bị lệ thuộc vào Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát. Quá trình
nghiên cứu hồ sơ và tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phải xem xét, thẩm tra
đánh giá chứng cứ và các tình tiết khác của vụ án một cách thận trọng, tỉ mỉ,
khoa học, toàn diện, kể cả chứng cứ có trong hồ sơ và chứng cứ tại phiên tòa.
Bản án của Tòa án chỉ căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên
tòa. Khoản 3 Điều 222 Bộ luật tố tụng hình sự quy định "khi nghị án chỉ được
căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa" [30].
Tóm lại, độc lập với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án nghĩa là:
Thẩm phán và Hội thẩm phải trực tiếp xem xét các chứng cứ
của vụ án chứ không chỉ căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ
21


án hay các chứng cứ mà Viện kiểm sát đã đưa ra trong bản Cáo
trạng. Bản án của Tòa chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được
xem xét tại phiên tòa, đối chiếu với những quy định của pháp luật
để xử lý vụ án và có quyền kết luận khác với ý kiến của cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát [36].
- Độc lập với yêu cầu của những người tham gia tố tụng, với dư luận
và với cơ quan báo chí:
Phán quyết của Tòa án bao giờ cũng làm xuất hiện những nhóm mâu
thuẫn về lợi ích, đó là mâu thuẫn lợi ích giữa bị cáo và người bị hại, giữa
nguyên đơn dân sự và bị đơn dân sự, giữa nhà nước và người phạm tội. Ai
cũng mong muốn kết quả xét xử phải đưa lại quyền lợi tối ưu cho họ hoặc chí ít
ra cũng tước bỏ tối thiểu quyền và lợi ích của họ. Sau phán quyết của Tòa có rất
nhiều ý kiến khác nhau như từ dư luận quần chúng nhân dân, từ cơ quan báo chí,
rằng xử đúng, xử sai, công bằng hay không công bằng, nặng hay nhẹ, đặc biệt là
đối với các vụ án bị cấp trên hủy xử lại và những vụ án xét xử lưu động. Những
vấn đề này đều tác động khá mạnh mẽ đến tâm lý của Thẩm phán và Hội thẩm
khi thực hiện nhiệm vụ xét xử. Xử theo đúng pháp luật hay xử theo xu hướng
của dư luận, báo chí yêu cầu, hay xử vì lợi ích của người bị hại? Xử đúng chưa
chắc được dư luận đồng tình, lại có thể đảm bảo theo yêu cầu của một số
người tham gia tố tụng. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập với yêu cầu
của người tham gia tố tụng, với báo chí, với dư luận nghĩa là việc xét xử chỉ
dựa trên những chứng cứ, những quy định của pháp luật, không phụ thuộc vào
yêu cầu của những người nói trên. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc không ai
được phép tác động đến hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm.
 Độc lập với các yếu tố chủ quan (Độc lập giữa các thành viên của
Hội đồng xét xử):
Cơ sở pháp lý của việc độc lập xét xử giữa Thẩm phán và Hội thẩm
được ghi nhận hình thành những nguyên tắc của luật tố tụng, đó là: Việc xét

×