Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Phân cấp quản lý nhà nước về xây dựng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.6 MB, 130 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
***




ĐỖ THỊ HỒNG MAI



PHÂN CẤP
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XÂY DỰNG





Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nước và Pháp luật
Mã số : 60 38 01




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC





Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. PHẠM HỒNG THÁI



Hà Nội- Năm 2007

Lêi cam ®oan



MỤC LỤC


TRA
NG
LỜI NÓI ĐẦU
1
Chương 1. Quản lý nhà nước và phân cấp quản lý nhà nước
về xây dựng
7
1.1. Quản lý nhà nước về xây dựng
7
1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về xây dựng
7
1.1.2. Nội dung cơ bản của quản lý nhà nước về xây dựng
9
1.2. Phân cấp quản lý nhà nước và phân cấp quản lý nhà nước về
xây dựng
12
1.2.1. Khái niệm phân cấp quản lý nhà nước

12
1.2.2. Khái niệm phân cấp quản lý nhà nước về xây dựng
26
1.2.3. Mục tiêu, quan điểm, nguyên tắc phân cấp quản lý nhà
nước về xây dựng
32
1.2.3.1. Mục tiêu phân cấp
32
1.2.3.2. Các quan điểm, nguyên tắc phân cấp
33
Chương 2. Thực trạng phân cấp quản lý nhà nước về xây
dựng
35
2.1. Quá trình phân cấp quản lý giữa Chính phủ và Uỷ ban nhân
dân cấp tỉnh trong từng thời kỳ là một tất yếu khách quan
35
2.2. Thực trạng phân cấp quản lý nhà nước giữa trung ương và địa phương
37
2.3. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan quản lý
nhà nước về xây dựng
40
2.3.1. Chính phủ
40
2.3.2. Bộ Xây dựng
40
2.3.3. Cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nh©n d©n
cÊp tØnh
45
2.3.4. Cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp
huyện

47
2.3.5. Cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã
48
2.4. Thực trạng thực hiện phân cấp quản lý nhà nước về xây dựng
49
2.4.1. Thực trạng phân cấp quản lý nhà nước trong lĩnh vực
Đầu tư xây dựng
49
2.4.2. Thực trạng phân cấp quản lý nhà nước trong lĩnh vực Vật
liệu xây dựng
59
2.4.3. Thực trạng phân cấp quản lý nhà nước trong lĩnh vực Nhà
ở và Công sở
62
2.4.4. Thực trạng phân cấp quản lý nhà nước trong lĩnh vực
Kiến trúc, quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng nông
thôn
67
2.4.5. Thực trạng phân cấp quản lý nhà nước trong lĩnh vực
Hạ tầng kỹ thuật đô thị
74
2.5. Đánh giá thực trạng phân cấp quản lý nhà nước về xây dựng
77
2.5.1. Về ưu điểm trong quá trình phân cấp
77
2.5.2. Những vấn đề còn bất cập, tồn tại trong quá trình phân cấp
78
2.5.3. Nguyên nhân
83
2.5.4. Phương hướng khắc phục

85
Chương 3. Phương hướng, giải pháp, lộ trình thực hiện phân
cấp quản lý nhà nước về xây dựng
87
3.1. Phương hướng thực hiện phân cấp quản lý nhà nước về xây
dựng
87
3.1.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về xây dựng
87
3.1.2. Hoàn thiện quy trình phân cấp quản lý nhà nước về xây
dựng
88
3.1.3. Đổi mới tổ chức bộ máy quản lý về xây dựng ở địa
phương
88
3.1.4. Đổi mới công tác về tài chính công và xã hội hóa một số
hoạt động trong xây dựng
90
3.1.5. Tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ thông
tin trong quản lý xây dựng
90
3.2. Giải pháp đổi mới, tăng cường phân cấp quản lý nhà nước
về xây dựng
90
3.2.1. Về thể chế
91
3.2.2. Về tổ chức bộ máy
100
3.2.3. Về đội ngũ cán bộ công chức
101

3.2.4. Tổ chức thực hiện
102
3.3. Dự báo lộ trình thực hiện phân cấp quản lý nhà nước về xây
dựng đến năm 2010
103
3.3.1. Nhận định những khó khăn khi thực hiện phân cấp
103
3.3.2. Dự báo lộ trình thực hiện
104
Kết luận và kiến nghị
Danh mục công trình khoa học của tác giả liên quan đến
luận văn
106
109
Tài liệu tham khảo
110









LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xu thế chung của thế giới ngày nay là chuyển từ nền hành chính
truyền thống (trung ương tập trung quản lý quá nhiều, địa phương phụ thuộc
một cách bị động vào Trung ương, làm hạn chế tính tích cực của địa phương)

sang nền hành chính mới (phân quyền rộng rãi, mạnh mẽ, chuyển giao cho
chính quyền địa phương quyền tự quản, tự quyết các công việc của mình
theo luật định, cấp trên chỉ thực hiện sự kiểm tra, giám sát về mặt pháp luật
đối với những công việc đã phân giao cho địa phương). Việt Nam cũng như
nhiều nước trên thế giới coi việc tăng cường phân cấp trung ương- địa
phương là một trong những nhiệm vụ then chốt của công cuộc cải cách nền
hành chính nhà nước hiện nay.
Quan điểm về phân cấp ở nước ta đã được thể hiện trong các văn kiện
của Đảng. Hội nghị Trung ương 8 khóa VII đã khẳng định: "Chính phủ và cơ
quan hành chính các cấp tập trung quản lý vĩ mô "; "Xác định rành mạch cụ
thể trách nhiệm và thẩm quyền quản lý của Bộ và chính quyền địa phương
phù hợp với tính chất, đặc điểm của từng ngành, từng lĩnh vực ". Hội nghị
Trung ương 3 khóa VIII tiếp tục khẳng định: "Chính phủ và bộ máy hành
chính nhà nước thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị,
kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng an ninh và đối ngoại theo đúng chức
năng phù hợp với cơ chế mới"; "phân định trách nhiệm, thẩm quyền giữa các
cấp chính quyền theo hướng phân cấp rõ hơn cho địa phương, kết hợp chặt
chẽ quản lý ngành và quản lý lãnh thổ". Tại Đại hội Đảng lần thứ IX, quan
điểm về phân cấp được đặt trong bối cảnh “đẩy mạnh cải cách tổ chức và
hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế, quản lý xã
hội bằng pháp luật” [42]. Nghị quyết cũng xác định “phân cấp mạnh và toàn
diện giữa các cấp trong hệ thống hành chính nhà nước” là một trong những
định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm “đẩy mạnh cải cách hành chính” là
công việc quan trọng quyết định thành công của công cuộc đổi mới, chương
trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001- 2010 khái quát
hóa mục tiêu phân cấp quản lý trung ương- địa phương. Điều 16 của Luật Tổ
chức Chính phủ năm 2001 giao Chính phủ nhiệm vụ “quyết định và chỉ đạo
thực hiện phân công, phân cấp quản lý ngành và lĩnh vực trong hệ thống
hành chính nhà nước” [2]. Trong khi Luật chưa lường hết các tình huống
phân cấp thì việc giao Chính phủ quy định về phân cấp cho từng ngành, lĩnh

vực là một giải pháp phù hợp với nguyên tắc “Nhà nước quản lý xã hội bằng
pháp luật” đã được quy định trong Hiến pháp. Phân cấp với mục đích tạo
quyền tự chủ, sáng tạo, phát huy tính năng động của địa phương, khai thác
thế mạnh và tiềm năng của chính quyền cơ sở là biểu hiện rõ nét của dân chủ
và phù hợp với xu thế hiện nay là tăng cường tính tự quản của địa phương
trong việc quyết định những vấn đề của địa bàn lãnh thổ.
Phân cấp quản lý nhà nước nói chung và trong xây dựng nói riêng
luôn là mối quan tâm của Chính phủ. Trong những năm qua, kể từ khi ban
hành Điều lệ quản lý xây dựng cơ bản theo Nghị định 232/CP của Chính phủ
năm 1981, Chính phủ đã liên tục 7 lần sửa đổi, bổ sung ban hành Quy chế
quản lý đầu tư và xây dựng theo các nghị định của Chính phủ cho phù hợp
với tình hình đổi mới, chuyển dần từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền
kinh tế thị trường trong xu thế hội nhập khu vực và thế giới. Tháng 11/2003,
Quốc hội đã thông qua Luật Xây dựng. Tháng 9/2006, Quốc hội thông qua
Luật Nhà ở, và tiếp theo, Chính phủ đã ban hành các Nghị định hướng dẫn
thực hiện, vấn đề phân cấp trong các văn bản pháp luật tiếp tục được coi
trọng, theo hướng phân cấp mạnh hơn cho cấp dưới phù hợp với mỗi địa
phương, mỗi cơ sở. Tuy nhiên, thực tế ở một số địa phương cho thấy việc
phân cấp đã có những tiến bộ nhưng chưa triệt để, vẫn còn “dè dặt”, còn tập
trung ở các cơ quan trung ương và các tỉnh, mặc dầu đã phân cấp cho cấp
huyện, cấp xã trong một số khâu, nhưng vẫn còn bó hẹp, mang tính áp đặt,
chưa tạo quyền chủ động cho cơ sở, chưa phù hợp với tính chất, đặc điểm
cũng như năng lực của mỗi vùng, miền, chưa phân biệt rõ sự khác nhau giữa
đô thị và nông thôn. Vì vậy, trong thực tế nhiều địa phương có tổ chức bộ
máy đủ điều kiện năng lực đảm nhận những công việc theo phân cấp, có địa
phương năng lực vượt quá mức như đã được phân cấp, trong khi đó nhiều
địa phương chưa có tổ chức riêng biệt hoặc có tổ chức bộ máy không ổn
định, thiếu cả về số lượng và chất lượng, trình độ quản lý yếu kém nhưng
vẫn được phân cấp như các địa phương khác, dẫn đến vai trò quản lý nhà
nước chưa được phát huy, chưa kiểm soát được trật tự xây dựng trên địa bàn,

chất lượng và hiệu quả của các dự án đầu tư xây dựng chưa đạt yêu cầu, tình
hình xây dựng vẫn diễn ra lộn xộn, vi phạm trật xây dựng như xây nhà không
có giấy phép xây dựng hoặc sai giấy phép xây dựng diễn ra phổ biến trên các
thành phố lớn mà không được giải quyết triệt để, đùn đẩy trách nhiệm giữa
các cơ quan quản lý nhà nước.
Thực hiện Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP ngày 30/6/2004 của Chính
phủ về việc tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và
chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là Nghị
quyết 08/2004/NQ-CP), ngành xây dựng đã thực hiện việc phân cấp cho cấp
dưới trong các lĩnh vực thuộc chức năng quản lý của ngành, góp phần vào
công cuộc cải cách hành chính chung của quốc gia, tạo điều kiện thuận lợi
cho việc hội nhập với thế giới. Nếu phân cấp mạnh hơn nữa, đổi mới, cải
cách hành chính hơn nữa sẽ góp phần thúc đẩy công tác đầu tư trong nước,
thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đưa trật tự xây dựng vào nề nếp,
cải thiện cơ bản kiến trúc đô thị. Việc phân cấp trong xây dựng sẽ tạo điều
kiện cho môi trường đầu tư phát triển, tạo quyền chủ động cũng như tăng
cường thẩm quyền, vai trò và trách nhiệm cho cấp dưới, góp phần vào công
tác quản lý trật tự xây dựng trên địa bàn, tạo thuận lợi cho các chủ đầu tư
nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư và chất lượng các công trình xây dựng, tăng
cường quản lý trật tự xây dựng ở từng địa phương.
Phân cấp quản lý nhà nước tuy không phải là vấn đề hoàn toàn mới về
lý luận và thực tiễn nhưng vẫn còn là vấn đề bức thiết của nhà nước và xã
hội mà chúng ta phải tiếp tục thực hiện. Trong xây dựng, phân cấp cũng trở
thành một vấn đề có tính thời sự, bức xúc, cần được nghiên cứu một cách cơ
bản, có hệ thống. Do vậy, tác giả đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Phân cấp
quản lý nhà nước về xây dựng”.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Từ năm 1985, nước ta đã thực hiện đổi mới về phân cấp quản lý trung
ương - địa phương. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đều bị chi phối bởi
cơ chế cũ, tuy có các nghiên cứu đề xuất thực hiện phân cấp nhưng thực chất

không thoát ra được khỏi cơ chế tập trung quyền lực ở các cơ quan Trung
ương tạo ra cơ chế ảo về “xin - cho” trong hoạt động kinh tế, tài chính, biên
chế hành chính, đầu tư dự án đùn đẩy nhiệm vụ và trách nhiệm cho Uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh.
Trong những năm gần đây, công cuộc cải cách hành chính ở nước ta
đã có những chuyển biến tích cực nhưng vẫn còn bộc lộ nhiều bất cập. Đã có
một số công trình khoa học nghiên cứu về lý luận và thực tiễn của phân cấp
đã được công bố như: “Đề án phân cấp quản lý nhà nước trung ương- địa
phương” của Bộ Nội Vụ (năm 2003); “Đề án Phân cấp quản lý nhà nước
ngành xây dựng”

của Bộ Xây dựng (năm 2005); “Phân cấp quản lý nhà nước
lý luận và thực tiễn” của TS. Võ Kim Sơn (năm 2004). Các bài viết trong các
tạp chí chuyên ngành khoa học pháp lý như: “Phân cấp quản lý trung ương
và địa phương- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Trương Đắc Linh
(năm 2002); “Một số vấn đề lý luận về phân cấp quản lý nhà nước” của TS.
Uông Chu Lưu (năm 2005) Tất cả các nghiên cứu này tuy đã đề cập đến
vấn đề phân cấp quản lý nhà nước nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu
một cách có hệ thống, hoàn chỉnh về phân cấp quản lý nhà nước về xây dựng
dưới dạng một luận văn khoa học.
3. Mục đích, nhiệm vụ, giới hạn và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn của phân cấp quản lý nhà
nước về xây dựng.
- Đánh giá thực trạng phân cấp quản lý nhà nước ở trung ương và địa
phương về xây dựng.
- Tổng hợp những nhược điểm, tồn tại đồng thời tìm ra nguyên nhân
để kiến nghị các biện pháp đổi mới nhằm phân định rõ ràng, cụ thể nhiệm
vụ, trách nhiệm, thẩm quyền của mỗi cấp thuộc hệ thống hành chính nhà
nước trong lĩnh vực quản lý nhà nước về xây dựng, phát huy tính sáng tạo, tự

chủ và tự chịu trách nhiệm của mỗi cấp chính quyền, nâng cao chất lượng
giải quyết công việc quản lý nhà nước về xây dựng, phục vụ tốt hơn nhu cầu
và lợi ích của các tổ chức, cá nhân trong xã hội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận về phân cấp quản lý nhà nước.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng phân cấp quản lý nhà nước trong 5 lĩnh
vực: đầu tư xây dựng; vật liệu xây dựng; nhà ở và công sở; kiến trúc, quy
hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng nông thôn; hạ tầng kỹ thuật đô thị.
- Kiến nghị một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước về xây dựng.
3.3. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ luận văn, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu phân cấp
quản lý nhà nước về xây dựng giữa Bộ Xây dựng với Uỷ ban nhân dân các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Sở Xây dựng, Sở Kiến trúc Quy
hoạch, Bộ Xây dựng với một số Bộ ngành liên quan theo chức năng, nhiệm vụ
được giao.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Thu thập các tài liệu văn bản có liên quan đến nội dung nghiên cứu phân cấp.
- Khảo sát, thu thập các thông tin, dữ liệu liên quan để phân tích, đánh
giá thực trạng vấn đề cần nghiên cứu.
- Sử dụng phương pháp phân tích, so sánh và đánh giá một cách
nghiêm túc đầy đủ về thực trạng phân cấp và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của các cấp quản lý nhà nước về xây dựng.
- Phương pháp nghiên cứu bổ trợ như dự báo, thống kê để tổng hợp
và phân tích các kết quả nghiên cứu.
5. Đóng góp mới của Luận văn
- Làm rõ một số khái niệm liên quan như: phân cấp, trao quyền, tản
quyền, uỷ quyền trong quản lý hành chính.
- Luận chứng được sự cần thiết phải tăng cường và đẩy mạnh việc
thực hiện phân cấp quản lý nhà nước về xây dựng ở nước ta.

- Những định hướng có tính dự báo về lộ trình thực hiện phân cấp
quản lý nhà nước về xây dựng đến năm 2010.
- Đề xuất được một số giải pháp khả thi trong việc thực hiện phân
cấp trong thời gian tới.
- Việc nghiên cứu Luận văn này mang tính thời sự, trong bối cảnh
Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương đang tập trung chỉ đạo cải cách hành
chính. Các giải pháp đề ra sẽ được tiếp thu để nâng cao hiệu quả hoạt động
quản lý nhà nước giữa chính quyền các cấp trong xây dựng.
6. Bố cục của Luận văn
Bố cục của Luận văn ngoài mục lục, lời nói đầu, kết luận thì nội dung
Luận văn gồm ba chương sau:
Chương 1: Quản lý nhà nƣớc và phân cấp quản lý nhà nƣớc về xây
dựng
Chương 2: Thực trạng phân cấp quản lý nhà nƣớc về xây dựng.
Chương 3: Phƣơng hƣớng, giải pháp, lộ trình thực hiện phân cấp
quản lý nhà nƣớc về xây dựng



Chƣơng 1
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VÀ PHÂN CẤP
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ XÂY DỰNG

1.1. Quản lý nhà nƣớc về xây dựng
1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về xây dựng
Quản lý nhà nước là một lĩnh vực quản lý đặc biệt, gắn liền với sự
xuất hiện của Nhà nước, theo nghĩa rộng thì quản lý nhà nước được thực
hiện bởi tất cả các cơ quan nhà nước, theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước là
hoạt động chấp hành và điều hành được đặc trưng bởi các yếu tố có tính tổ
chức, được thực hiện trên cơ sở pháp luật và thi hành pháp luật, được bảo

đảm thực hiện bởi hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước.
Xây dựng là một ngành kinh tế- kỹ thuật có vai trò quan trọng trong
nền kinh tế quốc dân, có những đặc điểm khác biệt so với các ngành, lĩnh
vực khác bởi nó luôn gắn liền với đất đai, vốn đầu tư chiếm tỷ trọng lớn, có
ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của Nhà nước, quyền, nghĩa vụ của mọi
người dân trong xã hội. Các chính sách về phát triển đô thị, quản lý quy
hoạch xây dựng, kiến trúc đô thị, đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng kỹ
thuật, khu đô thị mới, cấp giấy phép xây dựng… được triển khai sâu rộng
trong cuộc sống góp phần thay đổi diện mạo đô thị và nông thôn Việt Nam.
Nhiều lĩnh vực hoạt động xây dựng như khảo sát, thiết kế công trình, thi
công xây dựng đã có bước trưởng thành lớn, có thể thiết kế được những công
trình có quy lớn, hiện đại, nhanh chóng tham gia vào quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế.
Hoạt động xây dựng là hoạt động lập quy hoạch xây dựng, lập và quản
lý dự án đầu tư xây dựng công trình, khảo sát xây dựng, thiết kế xây dựng
công trình, thi công xây dựng công trình, giám sát thi công xây dựng công
trình, lựa chọn nhà thầu trong hoạt động xây dựng và các hoạt động khác có
liên quan đến xây dựng công trình nhằm tạo lập môi trường sống thích hợp
cho người dân sống tại các vùng lãnh thổ, bảo đảm kết hợp hài hòa giữa lợi
ích quốc gia với lợi ích cộng đồng, đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế-
xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường.
Xây dựng có liên quan đến lợi ích Nhà nước và lợi ích công cộng nên
bất cứ một quốc gia nào từ các nước đang phát triển đến các nước phát triển
cũng phải chú trọng, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước. Qua đó mới phân
định rõ được quản lý nhà nước và quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh,
bảo đảm công trình được xây dựng có chất lượng, an toàn, phù hợp với quy
hoạch, kiến trúc và tiết kiệm, góp phần thúc đẩy cải cách hành chính trong
quản lý xây dựng. Luật Xây dựng và những cơ chế, chính sách về hoạt động
xây dựng đã được ban hành, tách bạch chức năng quản lý của Nhà nước và
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như: phân cấp mạnh và quy định rõ

trách nhiệm của các chủ thể, quy định về điều kiện, năng lực, trình độ
chuyên môn, nghề nghiệp của tổ chức và cá nhân hoạt động xây dựng.
Mục tiêu của quản lý nhà nước về xây dựng là bảo đảm trật tự kỷ
cương, phát huy tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
của chính quyền địa phương, bảo đảm sự quản lý tập trung, thống nhất và
thông suốt của Chính phủ, tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính để nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước phục vụ tốt hơn nhu cầu và lợi ích
của nhân dân, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương trong
điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã chỉ rõ: “Xây dựng đồng bộ và
từng bước hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, điện lực, thông
tin, thuỷ lợi, cấp thoát nước… Phát triển mạng lưới đô thị phân bố hợp lý
trên các vùng. Hiện đại hóa dần các thành phố lớn, thúc đẩy quá trình đô thị
hoá nông thôn. Không tập trung quá nhiều cơ sở công nghiệp và dân cư vào
các đô thị lớn… Tăng cường công tác lập quy hoạch và quản lý đô thị, nâng
cao thẩm mỹ kiến trúc”[42].
Luật Xây dựng được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ tư thông qua ngày
26/11/2003 đã quy định tại Điều 112 như sau: “Chính phủ thống nhất quản lý
nhà nước về xây dựng trong phạm vi cả nước” [6, tr.105].
Theo Điều 146 của Luật Nhà ở được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 8
thông qua ngày 29/11/2005 thì: “Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về
nhà ở” và “cơ quan quản lý nhà nước về nhà ở ở trung ương chịu trách
nhiệm trước Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về nhà ở” [4,
tr. 99].
Như vậy, khái niệm quản lý nhà nước về xây dựng có thể được hiểu
như sau: Quản lý nhà nước về xây dựng là hoạt động quản lý của các cơ
quan nhà nước từ trung ương đến địa phương tiến hành trên các lĩnh vực:
Đầu tư xây dựng; vật liệu xây dựng; nhà ở và công sở; kiến trúc, quy hoạch
xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng nông thôn; hạ tầng kỹ thuật đô thị để
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ do Nhà nước trao quyền nhằm quản lý

hoạt động xây dựng của tất cả các tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá
nhân nước ngoài thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam.
1.1.2. Nội dung cơ bản của quản lý nhà nước về xây dựng
Theo Điều 111 của Luật Xây dựng, nội dung quản lý nhà nước về xây
dựng bao gồm:
1. Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, kế hoạch phát triển các
hoạt động xây dựng.
2. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt
động xây dựng.
3. Ban hành quy chuẩn, tiêu chuẩn xây dựng.
4. Quản lý chất lượng, lưu trữ hồ sơ công trình xây dựng.
5. Cấp, thu hồi các loại giấy phép trong hoạt động xây dựng theo quy
định của pháp luật.
6. Hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý
vi phạm trong hoạt động xây dựng.
7. Tổ chức chỉ đạo nghiên cứu khoa học và công nghệ trong hoạt động xây
dựng.
8. Đào tạo nguồn nhân lực cho hoạt động xây dựng.
9. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực hoạt động xây dựng [6, tr.104].
Theo Điều 134 của Luật Nhà ở thì nội dung quản lý nhà nước về nhà ở bao
gồm:
1. Xây dựng và chỉ đạo thực hiện định hướng, chương trình, quy
hoạch và kế hoạch phát triển nhà ở.
2. Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về nhà ở và tổ chức thực
hiện các văn bản đó.
3. Ban hành tiêu chuẩn nhà ở và quản lý chất lượng nhà ở theo tiêu chuẩn
nhà ở.
4. Công nhận quyền sở hữu nhà ở.
5. Cho phép hoặc đình chỉ việc xây dựng, cải tạo nhà ở.
6. Quản lý hồ sơ nhà ở.

7. Điều tra, thống kê, xây dựng dữ liệu về nhà ở.
8. Nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ và hợp tác quốc tế trong
lĩnh vực nhà ở.
9. Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ yêu cầu phát triển và quản lý nhà
ở.
10. Quản lý hoạt động môi giới nhà ở.
11. Quản lý các hoạt động dịch vụ công về nhà ở.
12. Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm
trong lĩnh vực nhà ở [4, tr.93].
Như vậy, quản lý nhà nước về xây dựng gồm 4 nội dung chủ yếu sau:
- Hoạch định chính sách, ban hành văn bản quy phạm pháp luật;
- Tổ chức bộ máy quản lý, công tác cán bộ và chính sách đào tạo
nguồn nhân lực phục vụ cho công tác quản lý;
- Quản lý các hoạt động cấp, thu hồi giấy phép;
- Kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm, quản lý trật tự xây dựng giữ
vững kỷ cương phép nước, đưa hoạt động xây dựng vào nề nếp.
Tuy các nội dung về quản lý nhà nước đã thể hiện rõ trong Luật Xây
dựng, Luật Nhà ở nhưng ở mỗi cấp quản lý khác nhau thì cấn nhấn mạnh các
nội dung khác nhau. Cụ thể:
Bộ Xây dựng được Chính phủ giao thay mặt Chính phủ thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về xây dựng, trong đó cần tập trung vào công tác xây
dựng và hoạch định chính sách phát triển ngành; soạn thảo văn bản quy phạm
pháp luật trình Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ ban hành, ban hành Quyết định, chỉ thị, thông tư; kiểm tra, thanh
tra và thẩm định một số dự án theo thẩm quyền.
Sở Xây dựng là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương giúp Uỷ ban nhân dân thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về các lĩnh vực xây dựng trên địa bàn tỉnh, thành phố cần
tập trung vào các nội dung quản lý chủ yếu sau:
- Xây dựng quy hoạch phát triển, kế hoạch dài hạn, 5 năm và hàng

năm, các chương trình, dự án, công trình xây dựng quan trọng thuộc các lĩnh
vực quản lý của Sở phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã
hội của địa phương, quy hoạch vùng và quy hoạch phát triển ngành, chuyên
ngành cả nước;
- Trình Ủy ban nhân dân tỉnh quy định việc phân công, phân cấp và ủy
quyền quản lý đầu tư xây dựng, phân cấp quản lý chất lượng công trình,
quản lý quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông
thôn thuộc thẩm quyền quản lý của tỉnh.
- Cấp, thu hồi các loại chứng chỉ, giấy phép xây dựng theo ủy quyền;
hướng dẫn Ủy ban nhân dân cấp huyện, xã trong việc cấp, thu hồi giấy phép
xây dựng thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện, xã.
- Thực hiện kiểm tra, thanh tra xây dựng.
Riêng Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh có Sở Quy hoạch–
Kiến trúc thì cần tập trung vào các nội dung quản lý nhà nước chủ yếu sau:
- Soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật pháp luật về quy hoạch xây
dựng và kiến trúc, cảnh quan.
- Xây dựng kế hoạch phân cấp quản lý, tổ chức thực hiện quy hoạch
xây dựng và phát triển đô thị.
- Lập, thẩm định các đồ án quy hoạch xây dựng theo thẩm quyền.
- Cung cấp thông tin quy hoạch, bồi dưỡng kiến thức về quy hoạch
xây dựng và quản lý đô thị cho tổ chức, cá nhân có liên quan.
- Theo dõi, kiểm tra việc xây dựng tuân thủ theo quy hoạch được duyệt.
Các Sở trên chịu sự quản lý toàn diện và trực tiếp của Uỷ ban nhân
dân thành phố, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra về chuyên
môn, kỹ thuật nghiệp vụ của Bộ Xây dựng. Nếu như ở cấp độ Trung ương,
cần chú trọng đến việc xây dựng cơ chế, chính sách, kế hoạch phát triển
ngành thì ở cấp độ địa phương, nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ được
uỷ quyền cần chú trọng việc triển khai tổ chức thực hiện những quy định của
cơ quan quản lý nhà nước cấp trên.
1.2. Phân cấp quản lý nhà nước và phân cấp quản lý nhà nước về

xây dựng
1.2.1. Khái niệm phân cấp quản lý nhà nước
Trên thế giới hiện nay có hai mô hình cấu trúc nhà nước, đó là Nhà
nước liên bang và nhà nước đơn nhất.
Với cấu trúc nhà nước liên bang, quan hệ giữa nhà nước liên bang và
các chủ thể liên bang được thiết lập trên cơ sở nguyên tắc tản quyền. Khi
mới thành lập các nhà nước liên bang áp dụng học thuyết "Chủ nghĩa liên
bang nhị nguyên". Nội dung của chủ thuyết này là cân bằng quyền lực giữa
nhà nước liên bang và các chủ thể thuộc liên bang bằng cách phân định rõ
thẩm quyền của liên bang và thẩm quyền của từng bang. Nhà nước liên bang
và các nhà nước là chủ thể liên bang độc lập thực hiện các quyền hạn của
mình, không can thiệp vào công việc thuộc quyền hạn của chủ thể khác.
Hiến pháp Hợp chủng quốc Hoa kỳ năm 1787 áp dụng mô hình này. Về sau,
đa số các nhà nước liên bang áp dụng chủ thuyết "Chủ nghĩa liên bang hợp
tác" làm cơ sở cho việc thiết lập quan hệ giữa liên bang và các chủ thể liên
bang. Nội dung của chủ thuyết này là nhà nước liên bang phối hợp, hợp tác,
giúp đỡ các bang trong quá trình phát triển.
Việc phân định thẩm quyền giữa liên bang và các bang được tiến
hành trên cơ sở:
- Hiến pháp liên bang liệt kê những vấn đề thuộc thẩm quyền liên
bang và những vấn đề thuộc thẩm quyền của các chủ thể liên bang
(Achentina, Canada, Thụy sỹ, Vênêduêla).
- Hiến pháp liên bang liệt kê những vấn đề thuộc thẩm quyền liên
bang và những vấn đề thuộc thẩm quyền của các chủ thể liên bang, và những
vấn đề thuộc thẩm quyền giải quyết chung của liên bang và của các chủ thể
liên bang (Ấn Độ, Liên bang Đức, Malaixia)
Hiến pháp liên bang quy định những vấn đề thuộc thẩm quyền liên
bang, thuộc thẩm quyền chung của liên bang với các chủ thể thuộc liên bang,
ngoài những phạm vi đó những vấn đề còn lại thuộc thẩm quyền của các chủ
thể liên bang.

Nhà nước đơn nhất cũng có nhiều mô hình về phân cấp, phân quyền :
- Nhà nước đơn nhất tập quyền: Mô hình này được áp dụng ở các nước
xã hội chủ nghĩa và một số nước khác. Với mô hình này chính quyền địa
phương vừa phải chấp hành Hiến pháp, luật, các quyết định, văn bản của
chính quyền cấp trên, mặt khác khi thực hiện những vấn đề thuộc thẩm quyền của
mình do pháp luật quy định nhưng vẫn phải xin ý kiến chỉ đạo của cấp trên.
- Nhà nước đơn nhất tản quyền: Theo mô hình này mối quan hệ giữa
chính quyền trung ương với chính quyền địa phương được xây dựng trên cơ
sở nguyên tắc tản quyền. Theo nguyên tắc này chính quyền nhà nước trung
ương chuyển giao cho chính quyền địa phương cấp cao nhất (tỉnh, vùng) độc
lập thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định, chẳng hạn như việc: ban
hành văn bản quy phạm pháp luật quy định về tổ chức bộ máy hành chính
quyền địa phương mình, điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính thuộc
tỉnh, phát triển giáo dục, y tế, thành lập các đơn vị cảnh sát địa phương
Chính quyền cấp tỉnh lại tiến hành phân cấp cho chính quyền cấp dưới.
- Nhà nước đơn nhất phân quyền: Đây là mô hình nhà nươc đơn nhất
tản quyền tương đối. Theo mô hình này chính quyền trung ương giao cho
chính quyền địa phương quyền tự quản ở một mức độ nhất định. Chính
quyền địa phương do nhân dân địa phương bầu ra có nhiệm vụ, quyền hạn
quản lý các vấn đề thuộc phạm vi địa phương. Chính quyền địa phương có tư
cách pháp nhân, có ngân sách và đội ngũ công chức địa phương riêng- không
gọi là công chức nhà nước, mà là công chức địa phương.
Như vậy cấu trúc của nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp đến phân cấp,
phân quyền trong một quốc gia.
Việt Nam áp dụng theo mô hình nhà nước đơn nhất tập quyền, đặc
trưng của mô hình này là quyền lực nhà nước được tập trung, thống nhất.
Nhà nước là chủ thể duy nhất mang chủ quyền quốc gia và các cơ quan nhà
nước được tổ chức theo thứ bậc và hoạt động trật tự hiến định, luật định, tập
trung hóa quyền lực nhà nước để bảo đảm chủ quyền quốc gia và dân chủ
vốn là đặc trưng của chế độ nhà nước xã hội chủ nghĩa, tập trung quyền lực

nhà nước là một yếu tố nhằm bảo đảm tính thống nhất của quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân; vấn đề phân công, phân cấp trong hoạt động quản
lý nhà nước làm một chủ trương lớn, quan trọng được đề cập một cách có hệ
thống và nhất quán trong các văn kiện của Đảng. Đại hội Đảng lần thứ IX
cũng xác định phải phân công, phân cấp, nâng cao tính chủ động của chính
quyền địa phương. Đây là những định hướng nhằm cải cách thể chế và
phương thức hoạt động của Nhà nước.
Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về phân cấp như sau:
- Theo Từ điển Petit Larrousse thì phân cấp chính là hành động của
con người trong hoạt động tổ chức nhằm tạo nên các cơ quan cấp thứ bậc
khác nhau để phục vụ cho việc thực hiện một hay nhiều nhiệm vụ nào đó.
- Theo Đại Từ điển Tiếng Việt thì phân cấp (động từ) được hiểu là
“Phân ra, chia thành các cấp, các hạng” [52]. Như vậy, theo Đại từ điển
Tiếng Việt thì phân cấp được hiểu theo nghĩa rộng hơn so với giải thích
trong từ điển Petit Larrousse.
- Theo Từ điển Hành chính thì phân cấp là có sự chuyển giao quyền
lực quản lý xuống các cấp dưới để thực hiện cho sát dân và sát tình hình thực
tiễn, đồng thời để giảm bớt khối lượng cho cấp trên khỏi phải trực tiếp giải
quyết những việc sự vụ. Việc phân cấp phải gắn trách nhiệm với quyền hạn
rõ ràng và bảo đảm tính thống nhất từ Trung ương tới cơ sở [60].
- Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam- Nhà xuất bản Từ điển Bách
khoa Hà Nội (năm 2003) thì phân cấp quản lý được sử dụng trong luật hành
chính là giao công việc về quản lý nhà nước cho các cơ quan quản lý nhà
nước các cấp từ trung ương xuống địa phương, cơ sở. Phân cấp quản lý được
quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực quản lý
chung, quản lý ngành, quản lý địa phương. Nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi
cấp được quy định rõ ràng trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, kết hợp
quản lý theo ngành với quản lý theo lãnh thổ vừa bảo đảm sự điều hành tập
trung, vừa bảo đảm phát huy dân chủ, năng động của cơ sở địa phương, của
ngành.

Ngoài ra, theo một số tác giả thì phân cấp có thể theo hai hướng: một
hướng nằm ngang là sự phân chia căn cứ vào sự khác nhau của các công việc
của một cấp; hướng nằm dọc (thẳng đứng) là sự phân chia theo cơ cấu thứ
bậc công việc giữa các cấp khác nhau [62, tr.744] hoặc phân cấp chính là
phân quyền giữa trung ương và địa phương, là việc quy định nhiệm vụ cho
từng cấp chính quyền Như vậy, cho đến nay mặc dù được sử dụng một
cách rộng rãi trong khá nhiều văn bản pháp luật, song cách hiểu về phân cấp
vẫn còn chưa hoàn toàn thống nhất. Dưới góc độ ngôn ngữ, “cấp” là loại
hạng trong một hệ thống xếp theo trình độ cao thấp, trên dưới [61, tr. 119].
Từ đó, phân cấp quản lý được hiểu là giao bớt một phần quyền quản lý cho
cấp dưới, quy định nhiệm vụ và quyền hạn cho mỗi cấp. Như vậy, có hai nội
dung cần lưu ý là việc chuyển giao thẩm quyền cho cấp dưới và xác định
thẩm quyền của mỗi cấp đó.
Phân cấp quản lý hành chính được sử dụng là một thuật ngữ để chỉ sự
phân định các quyền, nhiệm vụ, trách nhiệm của các cơ quan quản lý hành
chính nhà nước theo các cấp chính quyền tương ứng với các cấp hành chính.
Sự phân định này hoàn toàn phụ thuộc vào thứ bậc của hệ thống các cơ quan
hành chính nhà nước (trung ương; tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; xã, phường, thị trấn). Tính phụ
thuộc trên dưới của hệ thống các cấp chính quyền hành chính (theo quy định
của pháp luật) là yếu tố chủ đạo và chi phối nghĩa sử dụng của từ phân cấp,
do đó, trong lĩnh vực pháp luật, phân cấp là thuật ngữ chỉ sự phân định
quyền, nhiệm vụ, trách nhiệm "bằng cách quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của mỗi cấp theo nguyên tắc tập trung dân chủ để vừa đảm bảo
việc điều hành tập trung, thống nhất của Chính phủ đồng thời phát huy dân
chủ, nâng cao tính năng động của mỗi địa phương, cơ sở" như đã được giải
thích trong Từ điển Luật học, hoặc “ là việc giao bớt một phần quyền quản
lý cho cấp dưới trong hệ thống quản lý chung” như đã giải thích trong Đại
Từ điển tiếng Việt.
Thuật ngữ phân cấp là một từ đa nghĩa, không có một từ điển nào đưa

ra định nghĩa chính xác, đầy đủ về từ này để có thể sử dụng chung trong các
trường hợp. Thông thường các loại từ điển cũng chỉ giải thích cách sử dụng
từ này trong từng trường hợp cụ thể hơn là định nghĩa. Thuật ngữ phân cấp
được sử dụng rất phổ biến trong nhiều tài liệu và được tiếp cận từ nhiều giác
độ khác nhau, phổ biến là:
Thứ nhất, phân cấp (decentralization) là việc chuyển giao trách nhiệm
lập kế hoạch, quản lý, tạo và phân bổ nguồn lực từ Chính phủ Trung ương
cho các Bộ, cơ quan ngang Bộ và cơ quan khác thuộc cơ cấu tổ chức bộ máy
Chính phủ Trung ương; các đơn vị cấp dưới hay chính quyền địa phương
trong hệ thống hành chính thứ bậc; cho các cơ quan bán tự quản (bán công)
hoặc các cơ quan chức năng, vùng và cũng có thể cho cả các tổ chức phi
Chính phủ và tư nhân [59, tr 32].
Chuyển giao trách nhiệm như vậy được hiểu là việc chuyển giao:
- Giữa các cơ quan quản lý hành chính nhà nước trong hệ thống các cơ
quan thực thi quyền hành pháp;
- Giữa các cơ quan hành chính nhà nước mang tính chất truyền thống
trước đây đảm nhận cho các tổ chức không thuộc bộ máy hành chính nhà
nước, phi chính phủ, tư nhân. Đây chính là việc chuyển giao một số chức năng,
nhiệm vụ của nhà nước cho các tổ chức không phải nhà nước, do đó có thể gọi là
phân cấp theo dạng phân cấp cho thị trường, chuyển giao cho thị trường.
Thứ hai, phân cấp là sự trao quyền quyết định, hành chính, tài chính
của chính quyền trung ương cho chính quyền địa phương. Nếu bộ máy hành
chính nhà nước tổ chức theo nguyên tắc tập trung, không có hệ thống các cơ
quan hành chính nhà nước theo thứ tự, không có hệ thống các cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương thì hình thức phân cấp đơn giản hơn và đó
chính là một sự phân công công việc trong nội bộ của một tổ chức. Đó là
hình thức tản quyền trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Do đó,
phân cấp trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước theo nghĩa trao quyền
cho cấp dưới trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước mang tính thứ
bậc đòi hỏi phải có hệ thống các tổ chức hành chính nhà nước được thành lập

bởi các cộng đồng dân cư và chính quyền cấp trên chỉ có thể tham gia thành
lập các đơn vị hành chính tại địa phương bằng cách phê chuẩn. Nếu không
có các đơn vị này và thiếu hệ thống pháp luật hoàn chỉnh xác định rõ chức
năng, nhiệm vụ của các cấp chính quyền địa phương thì việc phân cấp trong
quản lý hành chính nhà nước sẽ bị hạn chế. Phân cấp gắn liền với dân chủ để
thành lập ra chính quyền địa phương.
Thứ ba, phân cấp là cách thức tổ chức lại hệ thống các cơ quan hành
chính nhà nước bao gồm Chính phủ, các cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương nhằm đáp ứng tốt nhất đòi hỏi và sự mong muốn hợp pháp của công
dân. Cách tổ chức này nhằm làm cho quá trình ra quyết định phải gắn liền
với điều kiện cụ thể của từng cấp, từng đơn vị lãnh thổ. Cách thức tổ chức
này nhằm mục tiêu trao quyền quyết định thực hiện các hoạt động quản lý
hành chính nhà nước nói chung và các quyết định liên quan đến cung cấp
dịch vụ công cho tất cả những người liên quan để tạo cơ hội cho họ có thể sử
dụng hết lợi thế của địa phương, cộng đồng và của từng cá nhân nhằm giải
quyết tốt nhất các hoạt động quản lý và cung cấp dịch vụ công. Để làm được
điều đó, cần mở rộng sự tham gia của nhân dân trong quá trình quyết định
nhằm làm cho mọi yêu cầu, đòi hỏi của công dân, cộng đồng được đưa vào
trong các quyết định quản lý hành chính nhà nước như lấy ý kiến của nhân
dân tham gia vào các dự án luật, các vấn đề quan trọng ảnh hưởng đến đời
sống của nhân dân. Đồng thời, tăng cường tính dân chủ cơ sở và sự tham gia
của nhân dân trong quá trình làm quyết định và ủng hộ quá trình phát triển
liên quan đến đòi hỏi của nhân dân.
Thứ tư, để hiểu về phân cấp trong quản lý cũng cần phân biệt sự khác
nhau giữa một số khái niệm: tập quyền, tản quyền, uỷ quyền, trao quyền.
- Tập quyền là phương thức quản lý đòi hỏi sự tập trung cao độ, việc
giải quyết mọi vấn đề nhà nước tập trung vào chính quyền Trung ương, ở đó
không có sự phân quyền, phân cấp. Mọi hoạt động của các thiết chế cộng
đồng địa phương đều căn cứ vào những quyết định, chỉ thị của chính quyền
trung ương, của cơ quan cấp trên. Chế độ quản lý này tạo thành một nền

hành chính cai trị, cai quản, một chế độ thư lại thứ bậc với nhiều đẳng cấp,
hàm chức khác nhau. Phương thức này được áp dụng ở mọi nhà nước phong
kiến và cả những nhà nước kiểu khác, trong những giai đoạn lịch sử nhất
định, đặc biệt trong điều kiện chiến tranh đòi hỏi phải tập trung cao độ sức
người sức của. Thực tiễn lịch sử đương đại có những quốc gia áp dụng với
những thành công nhất định. Trong phương thức này mọi cấp hành chính-
lãnh thổ đều phải chấp hành Luật, các mệnh lệnh, quyết định của cấp trên.
Nhưng mô hình này ngày càng trở nên lạc hậu không phù hợp với sự phát
triển của dân chủ, không phát huy được tính năng động, sáng tạo, quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương, tính cực chính trị của
dân chúng.
- Tản quyền về bản chất chỉ là sự biểu hiện của tập trung, nhưng để
hạn chế những nhược điểm của tập quyền, giảm mật độ tập trung của chính
quyền trung ương tại thủ phủ của nó, hạn chế tình trạng quan liêu của chính
quyền trung ương trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh tại các cộng
đồng lãnh thổ, để thực hiện các công việc của mình chính quyền Trung ương
đặt các bộ phận cơ cấu của mình tại các địa phương để giải quyết những vấn
đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của trung ương. Hiện nay ở nước ta các cơ
quan quản lý nhà nước trực thuộc theo ngành dọc có thể hiểu thuộc cơ cấu tổ
chức và quản lý theo kiểu này như: Hải quan, Thống kê, Kho bạc, Ngân hàng
nhà nước
- Uỷ quyền thực chất là việc trao cho cơ quan cấp dưới thực hiện
quyền của cơ quan cấp trên. Uỷ quyền thường được thực hiện theo từng vụ
việc cụ thể, khi uỷ quyền thì chính quyền cấp trên có thể trao cho cấp dưới
cả các phương tiện vật chất kỹ thuật, tài chính. Chính quyền cấp trên giữa
quyền kiểm tra, giám sát đối với cấp dưới nghiêm ngặt.

×