Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Pháp luật và luật tục, những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 87 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




TRẦN THỊ PHƢỢNG






PHÁP LUẬT VÀ LUẬT TỤC:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









HÀ NỘI - 2011



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



TRẦN THỊ PHƢỢNG




PHÁP LUẬT VÀ LUẬT TỤC:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số : 60 38 01



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Hoàng Thị Kim Quế




HÀ NỘI - 2011



1
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ
PHÁP LUẬT VÀ LUẬT TỤC
5
1.1.
Khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò của pháp luật và luật tục

5
1.1.1.
Khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò của pháp luật
5
1.1.1.1.
Khái niệm
5
1.1.1.2.
Đặc điểm
6
1.1.1.3.
Vị trí, vai trò của pháp luật
8
1.1.2.
Khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò của luật tục
8
1.1.2.1.
Khái niệm
8
1.1.2.2.
Đặc điểm
10
1.1.2.3.
Nội dung cơ bản của luật tục
11
1.1.2.4.
Vị trí, vai trò của luật tục trong đời sống của đồng bào dân
tộc thiểu số
14
1.2.

Những điểm tương đồng và khác biệt giữa pháp luật và
luật tục
16
1.2.1.
Điểm tương đồng giữa pháp luật và luật tục
16
1.2.2.
Sự khác biệt giữa pháp luật và luật tục
20
1.3.
Sự tác động qua lại giữa pháp luật và luật tục
26

2
1.3.1.
Sự tác động của luật tục đến pháp luật
26
1.3.2.
Sự tác động của pháp luật đến luật tục
30

Chương 2: THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ PHÁP LUẬT VÀ
LUẬT TỤC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
34
2.1.
Thực trạng mối quan hệ pháp luật và luật tục trong hoạt
động thực hiện pháp luật
34
2.1.1.
Những ưu điểm

34
2.1.2.
Những hạn chế
38
2.2.
Thực trạng mối quan hệ pháp luật và luật tục trong hoạt
động áp dụng luật tục
40
2.2.1
Những ưu điểm
40
2.2.2.
Những hạn chế
43
2.3.
Thực trạng chung mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục
hiện nay
45
2.3.1.
Ưu điểm của mối quan hệ
45
2.3.2.
Những hạn chế của mối quan hệ
53

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƢỢNG, HIỆU QUẢ VIỆC KẾT HỢP PHÁP LUẬT
VÀ LUẬT TỤC HIỆN NAY
59
3.1.

Giải quyết tốt mối quan hệ pháp luật và luật tục là yêu cầu
cần thiết hiện nay
59
3.1.1.
Yêu cầu của công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền
59
3.1.2.
Yêu cầu của công cuộc hội nhập kinh tế, quốc tế
62
3.2.
Những giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả việc kết
hợp pháp luật và luật tục ở Việt Nam hiện nay
66
3.2.1.
Nhận thức đúng vị trí, vai trò của pháp luật, luật tục và mối
quan hệ giữa chúng
66

3
3.2.2.
Khắc phục những hạn chế và phát huy những ưu điểm trong
mối quan hệ pháp luật và luật tục trong thời gian qua
67
3.2.2.1.
Khắc phục những hạn chế trong mối quan hệ pháp luật và
luật tục
67
3.2.2.2.
Phát huy những ưu điểm trong mối quan hệ giữa pháp luật
và luật tục

71
3.2.3.
Cần xem xét tới vấn đề tổ chức xây dựng và đổi mới luật tục
75
3.2.4.
Nâng cao vai trò của những người đứng đầu trong cộng
đồng người dân tộc thiểu số trong quá trình phát huy mối
quan hệ pháp luật và luật tục hiện nay
76

KẾT LUẬN
78

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
80














4

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, hệ thống pháp luật của nước ta không
ngừng được tăng cường và hoàn thiện, thực hiện ngày càng tốt hơn vai trò
điều chỉnh các quan hệ xã hội. Bên cạnh hệ thống pháp luật đang tồn tại, ở các
buôn, bản, làng dân tộc ít người, luật tục vẫn tồn tại và là công cụ phổ biến để
điều chỉnh các quan hệ trong cộng đồng.
Thực tế cho thấy, đồng bào các dân tộc thiểu số vẫn sống và điều
chỉnh hành vi bằng luật tục của dân tộc mình và ít quan tâm đến pháp luật của
Nhà nước. Do vậy, đã có không ít những phong tục, tập quán lạc hậu đã cản
trở sự phát triển lành mạnh về mọi mặt của đồng bào các dân tộc thiểu số.
Mặt khác, có những phong tục, tập quán tiến bộ là kết tinh từ lâu đời của đồng
bào các dân tộc thiểu số lại chưa được pháp luật của Nhà nước ta ghi nhận. Vì
vậy, pháp luật đi vào cuộc sống của đồng bào các dân tộc thiểu số còn chưa
hiệu quả, phần nào tạo nên sự cách biệt không đáng có giữa pháp luật và luật
tục của đồng bào các dân tộc thiểu số.
Trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và
vì dân của Nhà nước ta hiện nay, pháp luật được xác định là công cụ quan
trọng nhất để Nhà nước quản lý xã hội. Nhà nước ta đã sử dụng nhiều phương
pháp để đưa pháp luật vào cuộc sống của đồng bào các dân tộc thiểu số; bên
cạnh đó, vai trò của luật tục cũng được nâng lên. Pháp luật nước ta đã quy
định các tiền đề cho việc áp dụng và phát huy những mặt tích cực của tập
quán, phong tục truyền thống mà trong đó có luật tục.
Tuy nhiên, về mặt lý luận, mối quan hệ giữa pháp luật với luật tục vẫn
chưa được giải quyết một cách triệt để. Việc tồn tại song song trong thực tế
hai hệ thống pháp luật Nhà nước và luật tục của đồng bào dân tộc thiểu số đặt

5
ra vấn đề là: xác định vị trí của các hệ thống này, đồng thời làm rõ mối quan

hệ giữa chúng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Từ đó cho thấy cần
thiết phải nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc mối quan hệ giữa pháp
luật và luật tục nhằm chỉ rõ những điểm tương đồng, điểm khác biệt đồng thời
nêu những mặt tích cực cũng như những hạn chế của từng yếu tố trong quản
lý xã hội, chỉ rõ sự tác động qua lại, hỗ trợ, bổ sung cho nhau giữa chúng;
đánh giá một cách khách quan, toàn diện thực trạng mối quan hệ giữa pháp
luật và luật tục trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện
nay. Từ đó có cơ sở đưa ra một số giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả
việc kết hợp mối quan hệ giữa pháp luật với luật tục sao cho cả pháp luật và
luật tục được sử dụng một cách có hiệu quả nhất trong việc quản lý cộng đồng
người dân tộc thiểu số trong thời gian tới.
Với lý do trên, tác giả chọn đề tài: "Pháp luật và luật tục: Những vấn
đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay" để nghiên cứu và viết luận văn
thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu về đề tài cho thấy đã có một số
công trình khoa học liên quan đến vấn đề này, cụ thể:
Kỷ yếu hội thảo: Luật tục và phát triển nông thôn hiện nay ở Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2000.
Ngô Đức Thịnh và Chu Thái Sơn: Luật tục Êđê (Tập quán pháp ca),
Nxb Chính trị quốc gia, năm 1996.
GS.TS Hoàng Thị Kim Quế: "Luật tục Tây Nguyên - giá trị văn hóa
pháp lý, quản lý cộng đồng và mối quan hệ với pháp luật", Tạp chí Khoa học
(kinh tế - Luật), số 1, năm 2005.
Nguyễn Việt Hương: "Giá trị của luật tục từ góc nhìn pháp lý", Tạp
chí Nhà nước và pháp luật, số 4 năm 2000.

6
Ngoài ra còn một số bài đăng trên các báo, tạp chí chuyên ngành khác.
Mỗi công trình có cách tiếp cận vấn đề pháp luật và luật tục riêng, nhưng

chưa làm rõ mối quan hệ pháp luật và luật tục trong quá trình điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh ở đồng bào các dân tộc thiểu số ở nước ta. Do vậy,
có thể thấy việc nghiên cứu làm rõ mối quan hệ pháp luật và luật tục về cả
mặt lý luận và thực tiễn là yêu cầu cần thiết trong quá trình xây dựng Nhà
nước pháp quyền hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích
Mục đích của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận,
đi sâu vào phân tích mối quan hệ thực tế giữa pháp luật và luật tục hiện nay ở
Việt Nam từ đó đưa ra một số giải pháp vận dụng tốt mối quan hệ này trong
quá trình quản lý xã hội đối với đồng bào dân tộc thiểu số hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Với mục đích nghiên cứu trên, luận văn đặt ra nhiệm vụ cụ thể là:
- Xác định được vị trí, vai trò của pháp luật và luật tục đối với đồng
bào dân tộc thiểu số hiện nay.
- Phân tích những nét tương đồng và khác biệt giữa pháp luật và luật
tục và mối quan hệ giữa chúng đối với đồng bào dân tộc thiểu số hiện nay.
- Nêu được thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục trong
thực tế đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số hiện nay. Trên cơ sở phân tích
lý luận và thực tiễn mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục hiện nay rút ra mặt
ưu điểm và hạn chế của mối quan hệ, nêu được nguyên nhân những hạn chế.
- Đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc
kết hợp mối quan hệ pháp luật và luật tục trong việc điều chỉnh xã hội hiện
nay của đồng bào dân tộc thiểu số.

7
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Pháp luật và luật tục là một vấn đề tương đối rộng, trong phạm vi
luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực
tiễn cơ bản trong mối quan hệ pháp luật và luật tục ở Việt Nam hiện nay. Và

phạm vi nghiên cứu chính là nhóm luật tục của một số đồng bào dân tộc trên
địa bàn Tây Nguyên, tiêu biểu như: dân tộc Êđê, Mnông…
5. Đóng góp khoa học của đề tài
Luận văn là công trình nghiên cứu một cách khái quát và hệ thống về
mối quan hệ pháp luật và luật tục, do đó có những đóng góp mới sau đây:
- Phân tích rõ những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật và luật tục.
- Nêu được thực trạng về mối quan hệ pháp luật và luật tục hiện nay.
- Đề xuất những quan điểm và giải pháp góp phần nâng cao chất
lượng, hiệu quả của việc kết hợp mối quan hệ pháp luật và luật tục trong việc
điều chỉnh xã hội hiện nay của đồng bào dân tộc thiểu số.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu dựa trên tư tưởng của triết học Mác - Lênin về chủ
nghĩa duy vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền và chính sách dân tộc.
Luận văn được thực hiện bởi những phương pháp: phân tích - tổng
hợp, lịch sử - cụ thể; kết hợp phương pháp điều tra xã hội học…
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật và luật tục.
Chương 2: Thực trạng mối quan hệ pháp luật và luật tục ở Việt
Nam hiện nay.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả việc
kết hợp pháp luật và luật tục hiện nay.

8
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ MỐI QUAN HỆ PHÁP LUẬT VÀ LUẬT TỤC


1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT VÀ
LUẬT TỤC
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò của pháp luật
1.1.1.1. Khái niệm
Vào giai đoạn cuối của xã hội nguyên thủy, do sự phát triển của lực
lượng sản xuất đã lần lượt đưa đến ba lần phân công lao động xã hội lớn, chế
độ tư hữu được hình thành và cùng với nó là sự phân chia xã hội thành các
giai cấp đối lập nhau về quyền lợi. Các tập quan, quy tắc xã hội nguyên thủy
vẫn còn tồn tại song rất nhiều trong số đó đã không còn đủ sức điều chỉnh các
quan hệ xã hội trong giai đoạn xuất hiện những điều kiện mới này.
Trước tình hình đó, xuất hiện nhu cầu bức xúc là phải hình thành một
hệ thống quy tắc xử sự mới thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống
trị. Pháp luật ra đời chính là để đáp ứng nhu cầu đó. Tuy nhiên, pháp luật ra
đời không chỉ thuần túy từ nhu cầu giai trị của nhà nước, không chỉ là công cụ
bảo vệ giai cấp thống trị; pháp luật xuất hiện còn để đáp ứng nhu cầu điều
chỉnh các quan hệ xã hội của con người, củng cố, xác lập trật tự xã hội, thiếu
trật tự đó, không một cộng đồng, một xã hội nào có thể tồn tại được.
Pháp luật là một hiện tượng xã hội khách quan, đặc biệt quan trọng
nhưng cũng vô cùng phức tạp; chính vì vậy có không ít những quan niệm,
nhận thức khác nhau về pháp luật. Trên quan điểm truyền thống, căn bản nhất
có thể nêu khái niệm pháp luật như sau:
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung
do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí nhà nước của giai

9
cấp thống trị trên cơ sở ghi nhận các nhu cầu về lợi ích của toàn xã
hội, được đảm bảo thực hiện bằng nhà nước nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội với mục đích trật tự và ổn định xã hội vì sự phát triển
bền vững của xã hội [17].
Trong lý luận pháp lý hiện đại còn có nhiều đề xuất khác nhau về khái

niệm pháp luật theo hướng mở rộng và phù hợp với tư duy pháp lý quốc tế
hơn. Mỗi cách tiếp cận pháp luật đều có tính hợp lý nhất định, nhưng dù có
được tiếp cận dưới góc độ nào, thì pháp luật vẫn là phương tiện để xác định,
thiết lập trật tự xã hội có hiệu lực bắt buộc và được đảm bảo, kiểm soát, bảo
vệ bởi quyền lực nhà nước. Điều cốt lõi nhất trong quan niệm về pháp luật đó
chính là hệ thống các quy phạm pháp luật do nhà nước xây dựng, ban hành.
1.1.1.2. Đặc điểm
Từ khái niệm trên, chúng ta có thể nhận biết pháp luật qua những dấu
hiệu, đặc điểm riêng có của pháp luật, là tiêu chí để phân biệt pháp luật với
các hiện tượng xã hội khác.
Thứ nhất, pháp luật có tình quy phạm phổ biến, bắt buộc chung. Pháp
luật trước hết được thể hiện dưới dạng các quy phạm pháp luật điều chỉnh
quan hệ xã hội trong các lĩnh vực đời sống xã hội. Quy phạm pháp luật là quy
tắc hành vi, có giá trị như những khuôn mẫu xử sự, hướng dẫn, kiểm tra, đánh
giá hành vi của các cá nhân, các quá trình xã hội. Không chỉ mình pháp luật
có thuộc tính quy phạm, luật tục và các loại công cụ điều chỉnh xã hội khác
cũng có tính quy phạm. Nhưng nếu tính quy phạm của luật tục chỉ có giá trị
áp dụng bắt buộc trong từng địa phương, với phạm vi không gian nhỏ hẹp đối
với cộng đồng người trong địa phương đó; thì tính quy phạm của pháp luật có
đặc trưng riêng là tính phổ biến, bắt buộc chung đối với mọi cá nhân, mọi tổ
chức trong xã hội. Các quy phạm pháp luật được áp dụng nhiều lần trong không
gian và thời gian. Việc áp dụng những quy phạm này chỉ bị đình chỉ khi cơ quan
nhà nước có thẩm quyền hủy bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc thời hạn đã hết.

10
Thuộc tính trên của pháp luật xuất phát từ quyền lực nhà nước, nhà
nước là người đại diện chính thức cho toàn xã hội. Mọi cá nhân, tổ chức sống
trên lãnh thổ của nhà nước đều phải tuân thủ pháp luật.
Thứ hai, pháp luật có tính xác định chặt chẽ về hình thức: Nếu như
luật tục được thể hiện dưới dạng văn vần, truyền miệng từ đời này qua đời khác,

ngôn ngữ được sử dụng có thể có những hình tượng nghệ thuật, ví von, ẩn dụ thì
pháp luật được thể hiện ở dạng thành văn. Các quy phạm pháp luật được thể hiện
trong văn bản pháp luật với những tên gọi, cách thức ban hành và giá trị pháp lý
khác nhau nhất định. Ngôn ngữ của pháp luật trong các quy phạm pháp luật
phải ngắn gọn, rõ ràng, trực tiếp, mang tính phổ thông và dễ hiểu. So với
nhiều loại quy phạm xã hội khác, pháp luật có tính chính xác cao, được thể hiện
ở các quy định của pháp luật về các quyền, nghĩa vụ pháp lý và các chế tài pháp
luật. Tính chính xác cao của pháp luật cho phép các chủ thể hiểu rõ những gì
được phép làm, những gì phải làm và những gì bị cấm và trên cơ sở đó, các chủ
thể có thể lựa chọn hành động, lựa chọn cách thức xử sự, kể cả dự liệu được
những biện pháp xử lý khi có hành vi không đúng với yêu cầu của pháp luật.
Thứ ba, pháp luật được đảm bảo thực hiện bằng nhà nước. Pháp luật
xuất phát từ nhà nước, do nhà nước trực tiếp xây dựng, ban hành hoặc thừa
nhận nên pháp luật được nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các công cụ, biện
pháp của nhà nước. Các biện pháp mà nhà nước sử dụng để đảm bảo thực
hiện các quy phạm pháp luật rất đa dạng, bao gồm các biện pháp tổ chức
cưỡng chế, thuyết phục, giáo dục…
Các loại quy phạm xã hội khác như luật tục cũng được đảm bảo thực
hiện bằng những biện pháp, cách thức nhất định như: sự tự giác thực hiện của
cá nhân, sự lên án của dư luận trong cộng đồng xã hội, sự day dứt của lương
tâm… nhưng không có sự đảm bảo thực hiện của nhà nước.
Trên đây là ba đặc điểm cơ bản, tiêu biểu của pháp luật. Tuy vậy, nếu
xét rộng hơn thì còn phải kể đến một số thuộc tính khác của pháp luật như

11
tính hệ thống, tính ổn định, tính dự báo… Khi nghiêm cứu đặc điểm của pháp
luật cần có hướng nhìn một cách tổng thể để phân biệt rõ các quy phạm pháp
luật với các quy phạm xã hội khác.
1.1.1.3. Vị trí, vai trò của pháp luật
Pháp luật ra đời như một tất yếu khách quan, là công cụ bảo vệ giai

cấp thống trị, củng cố, xác lập trật tự xã hội. Trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền, hội nhập quốc tế hiện
nay, pháp luật ngày càng thể hiện vai trò to lớn, là công cụ điều chỉnh hàng đầu
các quan hệ xã hội. Pháp luật là công cụ hữu hiệu của nhà nước để quản lý xã
hội, công cụ hướng dẫn và bảo đảm, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng
của cá nhân. Như vậy, pháp luật có vị trí, vai trò to lớn trong đời sống xã hội.
Nhưng cần nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò của pháp luật để phát huy
hiệu quả điều chỉnh quan hệ xã hội của pháp luật là điều không đơn giản. Một
trong những biểu hiện sai lệch là quá cường điệu hóa, tuyệt đối hóa vai trò
của pháp luật, hoặc hạ thấp vai trò của pháp luật. Trong điều kiện xây dựng
nhà nước pháp quyền, tuy có vai trò là công cụ điều chỉnh hàng đầu các quan
hệ xã hội, song pháp luật chỉ có thể phát huy được sức mạnh của mình khi kết
hợp với các công cụ điều chỉnh khác như: Luật tục, đạo đức… Nhận thức, vận
dụng đúng đắn, khách quan về vai trò của pháp luật có tầm quan trọng đặc
biệt trong quản lý xã hộ ở nước ta hiện nay.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò của Luật tục
1.1.2.1. Khái niệm
Luật tục của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên với nhiều tên gọi khác
nhau như Phạtkđi hay Biđuê của người Êđê, Phạtkđuôi của người MNông,
Tơlơidjuat hay Tơlơiphian của người Gia Rai, Dâytơrônkđi của người Mạ…
Luật tục thuộc phạm trù tập quán. Theo các quan điểm phổ biến hiện
nay, luật tục được hiểu là những tập quán, phong tục tồn tại dưới dạng truyền

12
khẩu và thành văn, là hệ thống những quy tắc xử sự điều chỉnh mọi mặt của
đời sống cộng đồng. Điều khác biệt giữa luật tục với những tập quán, phong
tục bình thường là luật tục không phải là tổng hợp mọi phong tục, tập quán mà
chỉ bao gồm những phong tục, tập quán, quy lệ tác động đến những hành vi cá
nhân trong cộng đồng hay giữa các cộng đồng với nhau như là những quy tắc xử
sự mang tính bắt buộc, gắn với những hình thức xử phạt và khen thưởng.

Luật tục và tập quán là những khuôn mẫu ứng xử được đặt ra trong
một cộng đồng. Luật tục và tập quán có những điểm giống nhau nhưng cũng
có điểm khác biệt. Tập quán và luật tục được hình thành từ những thói quen,
khuôn mầu ứng xử được mọi người tuân theo. Tập quán được mọi người tự
giác tuân theo, theo dư luận điều chỉnh, còn luật tục có tính cưỡng chế cao, gây áp
lực bắt buộc mọi cá nhân tuân theo. Luật tục thường bắt nguồn từ tập quán. Trong
quá trình tuyển chọn một số tập quán có tính hướng đích cao, đáp ứng những nhu
cầu cần thiết cho lợi ích của một cộng đồng sẽ trở thành luật tục.
Luật tục vừa chứa đựng các quy định - các điều khoản về luật nội
dung và luật tố tụng - luật hình thức theo ngôn ngữ pháp lý hiện đại. Trong
quá trình tuyển chọn, một số tập quán được coi là cần thiết cho cộng đồng, ai
cũng phải tuân theo nên nó trở thành luật tục. Như vậy, luật tục chính là những
hành động, những khuôn mẫu ứng xử đã tuân theo những chuẩn mực về luân lý,
chính trị và thẩm mỹ của một cộng đồng. Đặc biệt luật tục có tính cưỡng chế
cao, nó quy định rõ những điều được phép làm và những điều ngăn cấm.
Có thể dùng khái niệm của PGS.TS Ngô Đức Thịnh (Viện trưởng viện
nghiên cứu văn hóa dân gian) đã khái quát về luật tục như sau:
Luật tục là một hình thức của tri thức bản địa, được hình thành
trong lịch sử lâu dài qua kinh nghiệm ứng xử với môi trường và xã
hội, được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau và truyền từ đời
này sang đời khác bằng trí nhớ qua thực hành sản xuất và thực hành
xã hội. Nó hướng đến việc hướng dẫn quan hệ xã hội, quan hệ con người

13
với thiên nhiên. Những chuẩn mực ấy được cả cộng đồng thừa nhận và
thực hiện, nhờ đó đã tạo ra sự thống nhất và cân bằng trong mỗi cộng
đồng [32].
1.1.2.2. Đặc điểm
Từ những phân tích trên, có thể thấy luật tục có những đặc điểm:
Thứ nhất, Luật tục là một công trình lập tục tập thể của cả cộng đồng

và được chọn lọc, lưu truyền qua nhiều thế hệ. Mỗi điều luật trong luật tục
thường sử dụng cách thể hiện "quy tắc xử sự" theo công thức phổ biến: Nêu
sự kiện, hành vi - dẫn giải tác hại của hành vi vi phạm (hoặc không vi phạm) -
yêu cầu xử lý chung hoặc đưa ra chế tài cụ thể. Các hành vi vi phạm thường
được nêu cụ thể, chi tiết. Thậm xưng là cách so sánh được dùng rất phổ biến
trong toàn bộ luật tục, bởi đây là cách diễn đạt gần gũi nhất với người dân,
phù hợp với trình độ tư duy nhận thức của họ. Phần yêu cầu xử lý thường nêu
chế tài với người vi phạm, song cũng có nhiều điều không nêu chế tài cụ thể,
mà có khi chỉ nhắc nhở, răn đe để con người tránh không vi phạm.
Luật tục phản ánh ý chí chung của cộng đồng, là hệ thống các quy
phạm trên cơ sở quan niệm đạo đức xã hội. Tinh thần của luật tục là đưa ra
quy phạm để giải quyết có lý, có tình những mâu thuẫn, để răn đe, giáo dục.
Luật tục hướng thiện cho con người, đã làm người phải làm người thật thà,
không gian dối, không làm điều ác, mang tính khuyên răn.
Thứ hai, luật tục có phạm vi điều chỉnh rộng, bao quát toàn bộ các lĩnh
vực quan hệ xã hội trong cộng đồng người. Với tính chất như một khuôn mẫu
về ứng xử được cả cộng đồng thừa nhận, phạm vi điều chỉnh của luật tục phải
đảm bảo được tính rộng dãi, hầu như bao quát tất cả những quan hệ xã hội
nảy sinh trong cộng đồng người, để khi xảy ra hành vi cần áp dụng, luật tục
có sẵn như một thước đo cho sụ ứng xử đó của con người. Căn cứ vào tính
chất, đặc điểm của những quan hệ xã hội được điều chỉnh, có thể phân thành

14
những nhóm lĩnh vực được luật tục điều chỉnh như: lĩnh vực tổ chức và quản
lý cộng đồng, lĩnh vực ổn định trật tự an ninh và đảm bảo lợi ích cộng đồng,
lĩnh vực tôn trọng. tuân thủ, bảo vệ phong tục, tập quán; lĩnh vực quan hệ dân
sự, hôn nhân và gia đình; lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai; bảo vệ sản xuất,
môi trường; lĩnh vực duy trì và giáo dục nếp sống văn hóa, tín ngưỡng.
Thứ ba, luật tục được đảm bảo thực hiện bẳng sức mạnh của dư luận
cộng đồng, bằng chính sự tự giác của mỗi cá nhân, có khi như một thói quen.

Dư luận cộng đồng là lực lượng hướng dẫn và cưỡng chế các thành viên ứng
xử theo đúng chuẩn mực của quy ước và luật tục. Dư luận cộng đồng góp
phần cổ vũ, khích lệ các thành viên chấp hành các quy định của luật tục, làm
tốt các điều phải làm, có tác dụng răn đe, ngăn ngừa những người có hành
động vi phạm luật tục. Mặt khác, tín ngưỡng, thần linh cũng chi phối ý thức
tuân thủ luật tục của của cả cộng đồng. Các vi phạm phong tục sẽ xúc phạm
đến các vị thẩn và họ sẽ không che chở bảo vệ cho người dân. Vì vậy, việc xét
xử công minh, ý thức coi trọng luật tục còn do yếu tố thần linh trong đời sống
chi phối buộc họ tự giác thực hiện. Cơ chế thần linh chính là một sức mạnh hỗ
trợ cho cơ chế cộng đồng dựa trên nền tảng luật tục được duy trì và tôn trọng
trong cộng đồng.
1.1.2.3. Nội dung cơ bản của luật tục
Như phần trên đã nêu, luật tục có phạm vi điều chỉnh rộng, bao quát
toàn bộ các quan hệ xã hội phát sinh trong cộng đồng đồng bào dân tộc thiểu
số. Có thể thấy được nội dung cơ bản của luật tục thông qua việc khái quát
những nhóm quy định trong từng lĩnh vực.
Các quy định trong lĩnh vực tổ chức và quản lý cộng đồng: điều chỉnh
về mối quan hệ giữa người đứng đầu làng, bản là trưởng buôn, trưởng làng và
các thành viên trong buôn làng. Quyền và nghĩa vụ được đặt ra đối với hai
loại chủ thể này. Người đứng đầu buôn làng được coi như "Cây sung đầu
suối, cây đa đầu làng" [33, Điều 26]. Người đứng đầu buôn được hưởng quy

15
chế bất khả xâm phạm về danh dự, thân thể, có nghĩa vụ: chăm lo lợi ích cho
dân làng, bảo đảm quyền lợi cho họ, không được lộng hành, tùy tiện lạm
quyền. Luật tục quy định rất cụ thể những tội do người đứng đầu buôn thực
hiện, bao gồm: tội giấu người, tội che giấu các vụ việc trong làng, tội chiếm
của dân làng, tội không chăm lo chu đáo dân làng; tội bắt bớ giam cầm oan
sai… Về cơ bản, các quy định này còn phù hợp với các quan hệ cộng đồng và
xử lý các mối quan hệ cộng đồng hiện nay.

Các quy định mô tả hành vi được coi là phạm tội: Trong luật tục
không đưa ra khái niệm hành vi vi phạm và tội phạm, mà chỉ thông qua việc
mô tả hành vi vi phạm trong một điều luật cụ thể để kết luận một người bị coi
là có tội và phải bị đưa ra xét xử, khi các hành vi của người đó thực hiện thỏa
mãn những yếu tố của điều luật đã dự liệu trước. Điều đặc biệt là, trong các
yếu tố cấu thành vi phạm luật tục để bị đưa ra xét xử thì dấu hiệu lỗi cố ý có
mặt ở tất cả cá điều luật về vi phạm luật tục. Theo quan niệm của người Êđê
và M Nông, một hành vi có hại cho lợi ích cộng đồng, bị coi là vi phạm luật
tục phải là hành vi được thực hiện một cách cố ý, chủ tâm của chủ thể vi
phạm. Ví dụ như mô tả hành vi lừa đảo trong Điều 20 luật tục Ê đê "Hắn biến
mủ cây đa thành mủ cây sung, biến voi đực thành voi cái, biến người này
thành người kia, vì vậy có việc phải đưa hắn ra xét xử" [33].
Nhóm quan hệ hôn nhân và gia đình chiếm vị trí cơ bản trong luật tục,
đặc biệt là dân tộc Ê đê và M Nông ở Tây Nguyên. Nét nổi bật trong nguyên
tắc hôn nhân của người Ê đê là tục nối nòi, đồng bào quan niệm "Rầm nhà
gãy thì phải thay, dát nhà nát thì phải thế. Chết người này thì phải thay bằng
người khác" [33, Điều 97]. Luật tục cũng quy định vợ chồng không nên ngăn
cản công việc của nhau, nếu người chồng lười biếng không chăm sóc vợ con
thì người vợ được đi lấy người khác. Người chồng vũ phu, đánh vợ thương
tích thì phải khuyên răn, hòa giải để thương yêu như cũ. Kẻ xúi giục để vợ
chồng người ta xung khắc phải chuộc lỗi, đền tội. Cha mẹ, con cái phải có

16
nghĩa vụ chăm sóc, nuôi nấng, nếu làm trái với đạo lý ấy, luật tục M Nông
đều khép vào tội. Trong quan hệ hôn nhân, luật tục cũng có những quy định
hạn chế, chẳng hạn trong việc xử tội quan hệ bất chính. Theo quy định, nếu
người phụ nữ đã khai, thì dù có hay không, người đàn ông cũng bị quy tội là
có quan hệ bất chính với chị ta. Phụ nữ khai người đàn ông có tội là anh ta
phải có tội, dù sự thật là không có. Sau đó, người đàn ông đó nếu có vợ thì sẽ
bị vợ phạt, tức anh ta bị phạt hai lần.

Trong lĩnh vực dân sự, xuất phát từ phương thức sản xuất tiền giai
cấp, chế độ mẫu hệ và tín ngưỡng là ba đặc thù xuyên suốt, chi phối quan
hệ xã hội nói chung và quan hệ dân sự nói riêng. Các quan hệ nhiều lúc
phải qua cơ chế trung gian là thần linh. Hành vi trái tục lệ làm cho thần
linh nổi giận, dẫn đến thần linh giáng tai họa đến cho bên bị thiệt hại.
Luật tục quy định nghĩa vụ loan báo cho người khác biết khi nhặt được
của cải và sau 3 năm mà không có người đến nhận thì tài sản thuộc sở hữu
người bắt được, việc cố tình giấu giếm tài sản mà bắt được, ngoài việc
phải trả lại, người vi phạm phải nộp phạt thêm "hai cái nữa".
Quan hệ về thừa kế dân sự cũng rất được quan tâm. Luật tục Ê đê thừa
nhận quan hệ thừa kế theo di chúc. Nội dung thừa kế được luật tục đề cập như
sau: việc thừa kế phải theo dòng họ mẹ. Người quản lý di sản là người trưởng
nữ của dòng họ, gia đình. Tài sản tổ tiên để lại cho cả dòng họ thừa kế và
không được bản, đổi. Chỉ có người nữ gia trưởng này mới có quyền quản ý.
Người được thừa kế là con cái nhưng phải là người con có hiếu, có chăm sóc
cha mẹ. Con nuôi cũng được hưởng thừa kế của cha mẹ nuôi nếu hiếu thảo
với cha mẹ nuôi.
Luật tục không có khái niệm thế nào là giao dịch dân sự nhưng từ hợp
đồng đến hành vi pháp lý đơn phương đều được luật tục đề cập đến. Luật tục
đã quy định rất tiến bộ hành vi mua tài sản của trẻ vị thành niên thì việc mua
bán coi như vô hiệu. Lừa dối khi mua bán tức sự tự nguyện của bên kia là sai

17
lầm do hành vi cố ý lừa dối của một bên sẽ bị xét xử. Khi cam kết đã hứa thì
phải thực hiện, nếu vi phạm cam kết thì sẽ bị xử phạt. Luật tục cũng quy định
cha mẹ phải bồi thường cho trẻ con, người điên gây ra do họ đã không giáo
dục, quản lý tốt những người này.
Đối với những quan niệm về quyền sở hữu đất của luật tục. Đất đai
thuộc sở hữu chung hay riêng đều không thể tùy tiện sử dụng mà phải theo
các quy định nhất định. Quyền sở hữu đất đai của mỗi gia đình được hiểu là

quyền chiếm hữu, quyền định đoạt và quyền sử dụng. Xuất phát từ mục đích
phát triển và bảo vệ sản xuất, luật tục còn quy định nhiều điều luật nhằm yêu
cầu người dân trong cộng đồng phải có ý thức bảo vệ sản xuất, bảo vệ môi
trường chung bên cạnh việc bảo vệ đất đai.
1.1.2.4. Vị trí, vai trò của luật tục trong đời sống của đồng bào dân
tộc thiểu số
Luật tục là một kho tàng trí thức dân gian được tích lũy từ thực tế đời
sống của nhiều thế hệ các đồng bào dân tộc thiểu số. Nội dung của nó đề cập
đến hầu hết các lĩnh vực khác nhau trong đời sống của đồng bào dân tộc thiểu
số, từ sản xuất, tổ chức xã hội, quan hệ cộng đồng, quan hệ gia đình, lễ nghi
tôn giáo… Ở từng lĩnh vực, các tri thức dân gian được tích lũy trong luật tục
đều đã được định hình và trở thành những nguyên tắc ứng xử nhằm giáo dục,
răn đe mọi người, ngăn chặn những hành vi làm thương tổn lợi ích của cá
nhân và của cộng đồng, phù hợp với nhận thức và trình độ xã hội chung của
đồng bào các dân tộc thiểu số.
Trong xã hội hiện đại ngày nay, luật tục vẫn phát huy vai trò điều chỉnh
mọi mối quan hệ xã hội ở các buôn, làng, bản của đồn bào các dân tộc thiểu số.
Đối với họ, luật tục của cộng đồng mình vẫn được coi là chuẩn mực trong hành
vi ứng xử hàng ngày. Trong mọi hoạt động giao tiếp với cá nhân, cộng đồng, khi
gặp phải tình huống cần lựa chọn hành vi ứng xử, đồng bào các dân tộc thiểu số
thường nghĩ ngay đến những câu trong luật tục mang đậm chất dân gian, ví von,

18
thơ ca để tìm định hướng cho hành vi ứng xử của mình không vượt ra ngoài
những quy định của luật tục. Đối với những người được cộng đồng giao cho
trọng trách xử kiện (Khoa Pin Ea - luật tục Ê đê) thì họ gần như thuộc lòng
các quy định của luật tục để có thể dẫn giải từng câu, từng đoạn thích hợp với
hoàn cảnh để phục vụ cho việc xét xử của mình, phân tích hành vi nào là phải,
trái và theo quy định của luật tục hành vi đó có bị luận tội hay không. Sự phân
xử của người được giao trọng trách xét xử này thường chính xác và được cộng

đồng người dân tộc thiểu số đó coi trọng, đảm bảo quyền lợi cho cá nhân cũng
như cả cộng đồng mình. Chính điều này cho thấy sức sống mãnh liệt của luật
tục và chứng minh cho sự hợp lý, sự cần thiết của nó trong việc điều chỉnh các
mối quan hệ xã hội ở các buôn làng của đồng bào dân tộc thiểu số hiện nay.
Đi sâu nghiên cứu luật tục cho thấy, đây là một hình thái pháp luật sơ
khai đã được đồng bào dân tộc thiểu số sáng tạo nên và được hoàn thiện qua
nhiều thế hệ. Nội dung của luật tục đã xác lập vị trí của mỗi cá nhân trong
cộng đồng, hình thành nên mối quan hệ giữa từng thành viên với nhau và giữa
cá nhân với cộng đồng mình đang sinh sống, góp phần quản lý cộng đồng một
cách chặt chẽ, hiệu quả không chỉ trong giai đoạn trước mà vẫn tiếp tục giữ
vai trò đáng kể trong cuộc sống hiện đại, nhất là trong giai đoạn xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay.
Hiện nay với xu thế hội nhập toàn cầu đang diễn ra mạnh mẽ, là xu
hướng phù hợp với sự phát triển của quy luật tự nhiên. Cùng chung với xu thế
đó, đồng bào các dân tộc thiểu số ở nước ta không phải là những thực thể xã
hội biệt lập và không thể thu hẹp những quy cách ứng xử của mình trong
phạm vi luật tục của buôn làng. Đồng bào các dân tộc thiểu số phải cùng với
54 dân tộc anh em trong cả nước có cuộc sống trong cùng một hành lang pháp
lý chung đó là pháp luật của nhà nước.
Tuy vậy, luật tục với những quy định mang tính chất tiến bộ, phù hợp
với quy định của pháp luật hiện hành sẽ đóng vai trò tích cực trong việc cùng

19
với pháp luật điều chỉnh thống nhất các mối quan hệ xã hội. Luật tục sẽ góp
phần làm mềm dẻo các quy định được mặc định là có phần cứng nhắc của
pháp luật, bổ sung, bù đắp những quy định có tính khái quát cao của pháp luật
trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội ở các buôn làng đồng bào dân
tộc thiểu số. Đặc biệt hơn nữa, luật tục sẽ chuyển đổi các ngôn ngữ hiện đại
của pháp luật thành ngôn ngữ dân gian, gần gũi với cuộc sống của đồng bào
dân tộc thiểu số, từ đó đưa pháp luật đi vào đời sống của đồng bào một cách

tự nhiên và hiệu quả.
Bên cạnh đó, sự tiếp cận pháp luật của đồng bào dân tộc thiểu số thời
gian qua đã có nhiều thay đổi đáng kể. Một số thủ tục lạc hậu như đánh đuổi
người bị coi là ma lai ra khỏi buôn làng, con đã thành niên vi phạm luật tục
nhưng buộc cha mẹ vẫn phải bổi thường … nay đã được loại bỏ. Hiện nay, sự
tiếp cận pháp luật của đồng bào dân tộc thiểu số trên diện rộng hơn sẽ làm cho
luật tục ngày càng được sàng lọc và hoàn thiện, trở thành những quy tắc ứng
xử tiến bộ, hướng hành vi của đồng bào dân tộc thiểu số vừa đáp ứng những
quy định chung của pháp luật nhà nước, vừa không làm trái những tập quán
vốn có lâu đời được quy định trong luật tục của buôn làng.
1.2. NHỮNG ĐIỂM TƢƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA PHÁP LUẬT
VÀ LUẬT TỤC
1.2.1. Điểm tƣơng đồng giữa pháp luật và luật tục
Pháp luật và luật tục đều là những phương tiện để điều chỉnh các
quan hệ xã hội: Mỗi thực thể tồn tại trong xã hội đều có những nhu cầu, mục
đích nhất định. Để thỏa mãn nhu cầu lợi ích đó của mình, mỗi chủ thể lựa
chọn những cách thức riêng. Trong mỗi điều kiện nhất định, có những chủ thể
lại lựa chọn thực hiện những hành vi làm tổn hại đến lợi ích của các chủ thể
khác, tổn hại lợi ích của cả cộng đồng xã hội. Để ngăn chặn tình trạng đó, xã
hội cần phải có những chuẩn mực nhất định, theo những khuôn mẫu định sẵn

20
để các chủ thể có thể biết cách lựa chọn hành vi phù hợp đảm bảo cho lợi ích
của bản thân mình và không làm ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ thể khác
cũng như lợi ích chung của toàn xã hội.
Điều chỉnh các quan hệ xã hội là đưa ra những cách xử sự chung nhất
cho các chủ thể để họ lựa chọn cách thức thực hiện trong những điều kiện,
hoàn cảnh vụ thể, hay chính là xác định cho các chủ thể những quyền, nghĩa
vụ nhất định khi tham gia vào những quan hệ xã hội cụ thể. Điều chỉnh quan
hệ xã hội có nhiều công cụ, phương tiện khác nhau trong đó có pháp luật và

luật tục (nhưng luật tục chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong cộng
đồng buôn làng người dân tộc thiểu số). Để điều chỉnh các quan hệ xã hội,
pháp luật và luật tục đều tác động vào nhận thức của chủ thể nhằm hình thành
ở chủ thể ý thức lựa chọn cách thức xử sự phù hợp, kiềm chế không thực hiện
những hành vi bị ngăn cấm, đồng thời khuyến khích họ thực hiện những hành
vi tích cực, phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của nhà nước hay của cộng đồng dân
tộc mình.
Điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật và luật tục đều mang tính
quy phạm. Cả hai đều là những mô hình chuẩn mực cho hành vi của con
người. Về bản chất, pháp luật và luật tục đều có sự thống nhất về mục đích
điều chỉnh nhằm bảo vệ và định hướng cho sự phát triển của xã hội, hạn chế
và loại bỏ những quan hệ xã hội không phù hợp với lợi ích của giai cấp thống
trị và lợi ích chung của cả cộng đồng, đảm bảo cho xã hội phát triển trong ổn
định và trật tự.
Khi điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật và luật tục đều có sự
đồng nhất về tính bắt buộc thực hiện đối với chủ thể bị điều chỉnh, nếu pháp
luật có tính bắt buộc thực hiện đối với toàn xã hội thì luật tục chỉ có giá trị bắt
buộc thực hiện đối với các thành viên trong một cộng đồng nhất định.
Pháp luật và luật tục đều thuộc kiến trúc thượng tầng: Cả pháp luật và
luật tục chỉ có thể tồn tại trên những cơ sở hạ tầng, những nền tảng kinh tế xã

21
hội phù hợp nhưng có sự tác động trở lại cơ sở hạ tầng. Pháp luật và luật tục
đều là hiện tượng xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng do cơ sở hạ tầng quyết
định. Luật tục truyền thống của các dân tộc thiểu số ở nước ta được hình
thành trên nền tảng sản xuất có dáng dấp của kinh tế nguyên thủy, mang tính
chất khép kín, tự cung, tự cấp với trình độ sản xuất lạc hậu, sự phân công lao
động thấp. Cũng tương tự như vậy, tương ứng mỗi hình thái kinh tế - xã hội
trong xã hội có giai cấp là một kiểu pháp luật, về cơ bản pháp luật quy định
vấn đề gì, quy định như thế nào, điều đó trước tiên phụ thuộc vào thực trạng

của nền kinh tế. Khi cơ sở hạ tầng biến đổi, thì cả pháp luật và luật tục cũng
sẽ bị biến đổi.
Bên cạnh đó, pháp luật và luật tục đều có tính độc lập tương đối và
đều có sự tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng theo những mức độ nhất định.
Sự tác động này có thể diễn ra theo hai hướng tích cực hoặc tiêu cực. Khi
pháp luật và luật tục phát triển theo đúng quy luật phát triển của đời sống xã
hội, phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, phù hợp với lợi ích chung
của toàn xã hội, phản ánh đúng thực trạng của nền kinh tế, xã hội thì chúng có
tác động tích cực. Pháp luật và luật tục lúc này sẽ củng cố, tạo môi trường
pháp lý thuận lợi cho các quan hệ kinh tế, xã hội tồn tại và phát triển, theo đó,
cả hai đều góp phần loại bỏ những quan hệ kinh tế, xã hội không phù hợp với
xã hội, đi ngược lại lợi ích chung của giai cấp thống trị và của cả cộng đồng.
Ngược lại, khi pháp luật và luật tục không phù hợp với sự phát triển
của cơ sở hạ tầng, không phản ánh đúng thực trạng của nền kinh tế chúng sẽ
có tác động tiêu cực, kìm hãm sự phát triển của xã hội, làm cho đời sống xã
hội mất ổn định. Sự tác động của pháp luật và luật tục đối với cơ sở hạ tầng là
mạnh mẽ và rất dễ nhận thấy.
Pháp luật và luật tục vừa mang tính giai cấp vừa mang tính xã hội.
Tính giai cấp của pháp luật được thể hiện ở sự phản ánh ý chí nhà nước của
giai cấp thống trị xã hội trong hệ thống các văn bản của pháp luật, các hoạt

22
động áp dụng pháp luật của nhà nước. Thông qua nhà nước, ý chí của giai
cấp thống trị được tập trung thành ý chí của nhà nước và nâng lên thành
pháp luật.
Luật tục được hình thành vào thời kỳ tiền giai cấp nhưng ít nhiều
mang tính giai cấp. Nghiên cứu luật tục, chúng ta có thể thấy các tù trưởng
nhà giàu, người đứng đầu mỗi cộng đồng đều được bảo vệ khắt khe hơn
thường dân, những ông chủ vẫn được luật tục quy định bảo vệ cao hơn nô lệ.
Tuy vậy, xuất phát từ đặc trưng lối sống cộng đồng mang tính huyết thống và

những lợi ích đối lập nhau của đồng bào dân tộc thiểu số mà luật tục có tính
xã hội cao hơn tính giai cấp. Luật tục còn là công trình luật tục tập thể, thể
hiện ý chí chung của cả cộng đồng người dân tộc thiểu số có sự phân hóa kinh
tế thấp, nên sự hình thành của luật tục không thông qua nhà nước, không
mang ý chí đại diện cho bất cứ giai cấp riêng biệt nào.
Trong nhà nước xã hội chủ nghĩa hiện nay, lợi ích của các giai cấp
trên quan điểm là công bằng, nhưng thực tế vẫn chưa thống nhất, vẫn xuất
hiện một số lực lượng chống đối. Với điều kiện đó, pháp luật vẫn được xác
định là công cụ hữu hiệu nhất để bảo vệ và củng cố các quyền, lợi ích cơ bản
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Như vậy trong xã hội xã hội
chủ nghĩa, pháp luật vẫn mang tính giai cấp.
Pháp luật và luật tục còn mang tính xã hội. Tính xã hội của pháp luật
và luật tục thể hiện ở việc chúng đều là công cụ ghi nhận, bảo vệ lợi ích
chung của toàn xã hội. Cả pháp luật và luật tục đều phản ánh rõ nét những
điều kiện chung của xã hội như: điều kiện lịch sử, văn hóa, truyền thống,
điều kiện tự nhiên; do đó, cả hai đều là những chuẩn mực chung của xã hội.
Cùng với đó, pháp luật và luật tục đều trải qua quá trình chọn lọc, chuyển
giao qua nhiều thế hệ một cách tự nhiên các cách xử sự trong xã hội để giữ
lại cách xử sự hợp lý nhất, phù hợp với lợi ích chung của toàn thể xã hội,
dân tộc.

23
1.2.2. Sự khác biệt giữa pháp luật và luật tục
Bên cạnh những điểm tương đồng đã nêu, pháp luật và luật tục còn có
những điểm khác biệt rõ ràng.
Khác biệt về con đường hình thành: Như chúng ta đã biết, pháp luật
xuất hiện như một tất yếu khách quan và là sản phẩm của sự phát triển xã hội.
Trong xã hội tiền giai cấp, để tổ chức và quản lý đời sống xã hội thì những
quy phạm đạo đức, phong tục, tập quán và tín ngưỡng tôn giáo được sử dụng
rất hiệu quả. Khi nền kinh tế có sự phân hóa cao, xã hội xuất hiện các giai cấp

với những lợi ích khác nhau thì những quy phạm này đều đã trở lên lạc hậu.
Lúc đó, nhà nước xuất hiện và thông qua nhà nước, một quy tắc xử sự mới
được hình thành đó là pháp luật. Pháp luật được hình thành từ ba con đường:
thứ nhất, nhà nước thừa nhận những quy tắc xử sự đang tồn tại trong xã hộ
còn phù hợp với xã hội, không mâu thuẫn với lợi ích của giai cấp thống trị và
dùng quyền lực để đảm bảo cho nó được thực hiện trên thực tế. Thứ hai, nhà
nước thừa nhận những cách giải quyết vụ việc trên thực tế của các cơ quan
nhà nước, dùng nó làm khuôn mẫu để giải quyết các vụ việc có nội dung
tương tự về sau. Thứ ba, nhà nước ban hành những văn bản chứa đựng những
quy phạm pháp luật, là những văn bản quy phạm pháp luật. Như vậy, pháp
luật ra đời là hoạt động tự giác và tư duy tích cực của nhà nước - tổ chức đại
diện chính thức cho toàn xã hội. Khi mới ra đời, pháp luật cũng có nhiều dạng
tồn tại, mà chủ yếu là dạng không thành văn, cùng với sự phát triển của xã
hội, pháp luật được hoàn thiện và tồn tại dưới dạng các văn bản quy phạm
pháp luật.
Luật tục xuất hiện do nhu cầu điều chỉnh của đời sống cộng đồng
người dân tộc thiểu số. Nó được hình thành qua con đường tự phát và không
qua một thiết chế xã hôi nào và được cả cộng đồng người thừa nhận, tuân thủ
thực hiện một cách tự giác. Luật tục là kết quả hoạt động nhận thức và sáng
tạo thực tiễn của cả một cộng đồng. Như vậy, nó là sản phẩm kết tinh trí tuệ

×