Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Pháp luật về phòng, chống mua bán người qua thực tiễn ở tỉnh Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (830.48 KB, 129 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




LÊ THỊ LAN ANH



PH¸P LUËT VÒ PHßNG, CHèNG MUA B¸N NG¦êI
QUA THùC TIÔN ë TØNH THANH HãA

Chuyên nga
̀
nh: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
M s: 60 38 01 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. VŨ CÔNG GIAO




HÀ NỘI - 2014




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN


Lê Thị Lan Anh











MỤC LỤC
Trang

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KHUNG PHÁP LUẬT QUỐC
TẾ, PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ PHÕNG, CHỐNG
MUA BÁN NGƢỜI 7
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC PHÕNG, CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI 7
1.1.1. Khái niệm buôn bán ngƣời; mua bán ngƣời; phòng, chống mua
bán ngƣời; pháp luật về phòng, chống mua bán ngƣời 7
1.1.2. Sự cần thiết, ý nghĩa của việc phòng, chống mua bán ngƣời 17
1.1.3. Đặc điểm, nội dung, yêu cầu của pháp luật về phòng, chống
mua bán ngƣời 20
1.2. KHUNG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ PHÕNG, CHỐNG MUA
BÁN NGƢỜI 28
1.3. KHUNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ PHÕNG, CHỐNG
MUA BÁN NGƢỜI 29
1.3.1. Hệ thống văn bản pháp luật trong nƣớc 29
1.3.2. Các điều ƣớc quốc tế 33
1.3.3. Luật phòng, chống mua bán ngƣời 33
Tiểu kết chƣơng 1 34
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÕNG,
CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI Ở TỈNH THANH HÓA 35

2.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA
CỦA TỈNH THANH HÓA ẢNH HƢỞNG ĐẾN VIỆC THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÕNG. CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI 35
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên 35
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội và văn hóa 36

2.2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT PHÕNG, CHỐNG
MUA BÁN NGƢỜI Ở TỈNH THANH HÓA 41
2.2.1. Tình hình có liên quan đến hoạt động mua bán ngƣời và công
tác triển khai thực hiện 41
2.2.2. Kết quả đạt đƣợc 47
2.2.3. Những tồn tại, hạn chế trong việc phòng ngừa mua bán ngƣời
ở tỉnh Thanh Hóa 58
2.3. PHÁT HIỆN, XỬ LÝ HÀNH VI MUA BÁN NGƢỜI Ở TỈNH
THANH HÓA 60
2.3.1. Kết quả phát hiện, xử lý hành vi mua bán ngƣời ở tỉnh Thanh Hóa 60
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế trong việc phát hiện, xử lý mua bán
ngƣời ở tỉnh Thanh Hóa 70
2.4. BẢO VỆ, HỖ TRỢ HÕA NHẬP CỘNG ĐỒNG CHO NẠN
NHÂN BỊ BUÔN BÁN Ở TỈNH THANH HÓA 72
2.4.1. Kết quả tiếp nhận, xác minh, hỗ trợ ban đầu cho nạn nhân 72
2.4.2. Kết quả giải cứu, bảo vệ nạn nhân 75
2.4.3. Kết quả hỗ trợ nạn nhân tái hòa nhập cộng đồng 77
2.4.4. Kết quả bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân và nhân chứng trong hoạt
động tố tụng 79
2.4.5. Những tồn tại, hạn chế trong việc bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bị
mua bán ở tỉnh Thanh Hóa 84
Tiểu kết chƣơng 2 87

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÕNG, CHỐNG
MUA BÁN NGƢỜI Ở TỈNH THANH HÓA 89
3.1. YÊU CẦU KHÁCH QUAN CỦA VIỆC NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÕNG, CHỐNG MUA BÁN
NGƢỜI Ở TỈNH THANH HÓA 89
3.1.1. Yêu cầu đƣa các chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách của Đảng

và pháp luật Nhà nƣớc về phòng, chống mua bán ngƣời vào
thực tiễn đời sống của tỉnh Thanh Hóa 90
3.1.2. Yêu cầu bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân trong thời
kỳ CNH, HĐH của tỉnh Thanh Hóa 91
3.1.3. Yêu cầu về khắc phục hạn chế của việc thực hiện pháp luật
phòng, chống mua bán ngƣời ở tỉnh Thanh Hóa 93
3.2. QUAN ĐIỂM VỀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ PHÕNG, CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI TỈNH
THANH HÓA 94
3.2.1. Phòng, chống mua bán ngƣời là một trong những nhiệm vụ cơ
bản của Đảng bộ, chính quyền và các tổ chức chính trị xã hội
của tỉnh Thanh Hóa 94
3.2.2. Tuyên truyền, phổ biến, nâng cao ý thức pháp luật về phòng,
chống mua bán ngƣời cho nhân dân góp phần giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa 95
3.2.3. Phòng, chống mua bán ngƣời luôn gắn với mục tiêu, nhiệm vụ
phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh Thanh Hóa trong thời kỳ mới 97
3.3. GIẢI PHÁP NẦNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ PHÕNG, CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI TỪ THỰC
TIỄN Ở TỈNH THANH HÓA 98

3.3.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về phòng, chống mua bán ngƣời 98
3.3.2. Hoàn thiện cơ chế xã hội đấu tranh phòng, chống tội phạm về
mua bán ngƣời 101
3.3.3. Nguồn lực đảm bảo cho việc thực hiện pháp luật phòng, chống
mua bán ngƣời 104
3.3.4. Tăng cƣờng vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, trách nhiệm
của các cơ quan trong hệ thống chính trị của tỉnh Thanh Hóa
để thực hiện tốt pháp luật phòng, chống mua bán ngƣời 106
3.3.5. Tăng cƣờng hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục

pháp luật về phòng, chống mua bán ngƣời, nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật về phòng, chống mua bán ngƣời trong các
tầng lớp cán bộ, nhân dân ở tỉnh Thanh Hóa 107
3.3.6. Xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về
phòng, chống mua bán ngƣời 109
3.3.7. Tăng cƣờng công tác thanh tra, giám sát của các cơ quan có
thẩm quyền trong quá trình thực hiện pháp luật về phòng,
chống mua bán ngƣời 110
Tiểu kết chƣơng 3 112
KẾT LUẬN 113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 115






DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT


BBN: Buôn bán ngƣời
BLDS: Bộ luật dân sự
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CTXH: Công tác xã hội
MBN: Mua bán ngƣời
PCMBN: Phòng, chống mua bán ngƣời
UBND: Ủy ban nhân dân





1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của luận văn
Trong những năm gần đây, mua bán ngƣời (MBN) đã trở thành một vấn
nạn, gây nhiều bức xúc trong xã hội ở nƣớc ta. Tình hình tội phạm MBN diễn
biến ngày càng nghiêm trọng, tính chất và thủ đoạn hoạt động của bọn tội
phạm ngày càng phức tạp, tinh vi. Tội phạm MBN hoạt động dƣới nhiều hình
thức ngày càng đa dạng, nhiều trƣờng hợp có tổ chức chặt chẽ, có sự móc nối
với các tổ chức tội phạm ở nƣớc ngoài (mang tính chất xuyên quốc gia).
Nhận thức rõ sự nguy hiểm của tội phạm MBN, Đảng và Nhà nƣớc ta
rất quan tâm đến việc phòng, chống loại tội phạm này. Nhiều chính sách,
pháp luật đã đƣợc Đảng và Nhà nƣớc ban hành nhằm phòng ngừa, ngăn chặn,
trừng trị tội phạm MBN. Một bộ máy tổ chức có sự tham gia của cả hệ thống
chính trị từ trung ƣơng đến địa phƣơng cũng đã đƣợc thiết lập cho công tác
này. Bên cạnh đó, Nhà nƣớc đã triển khai thực hiện nhiều biện pháp tuyên
truyền, giáo dục trong nhân dân về các hành vi, thủ đoạn của những kẻ MBN,
đồng thời có các biện pháp giúp đỡ những nạn nhân bị mua bán phục hồi, hoà
nhập cộng đồng. Nhà nƣớc cũng đã phối hợp với các tổ chức quốc tế và các
quốc gia, đặc biệt là các nƣớc trong khu vực, để triển khai nhiều dự án hợp tác
về phòng, chống buôn bán ngƣời.
Nhờ những nỗ lực nêu trên, trong những năm gần đây, công tác phòng,
chống mua bán ngƣời (PCMBN) ở Việt Nam đã có những chuyển biến tích
cực, tệ nạn MBN đã từng bƣớc đƣợc ngăn chặn. Tuy nhiên, trên thực tế tình
trạng MBN ở nƣớc ta vẫn đang diễn biến nghiêm trọng và phức tạp, đòi hỏi
cần phải tiếp tục hoàn thiện hơn nữa các cơ chế pháp lý về phòng chống tệ
nạn này ở tất cả các cấp, đặc biệt là ở cấp địa phƣơng.

Thanh Hoá là một tỉnh nằm ở phía Bắc Miền Trung, diện tích tự nhiên
11.116,34km vuông, chiếm 3,25 % tổng diện tích tự nhiên của cả nƣớc. Địa

2
hình Thanh Hoá rất phức tạp, thấp dần từ phía Tây sang phía Đông, vùng
miền núi, trung du chiếm phần lớn diện tích của tỉnh. Đồng bằng Thanh Hoá
lớn nhất khu vực miền Trung và lớn thứ 3 của cả nƣớc. Thanh Hoá có 27 đơn
vị hành chính trực thuộc, gồm một thành phố trực thuộc tỉnh, 2 thị xã và 24
huyện; có 639 đơn vị hành chính cấp xã. Theo kết quả điều tra dân số năm
2013, Thanh Hoá có 3,62 triệu ngƣời, đứng thứ 3 trong cả nƣớc, chỉ sau
Thành phố Hồ Chí Minh và Thành phố Hà Nội. Tỉnh Thanh Hóa có 7 dân tộc
chủ yếu là Kinh, Mƣờng, Thái, Thổ, Dao, Mông, Khơ Mú, dân cƣ phân bố
không đều giữa các vùng miền.
Trong những năm qua, công tác PCMBN luôn đƣợc các cấp ủy Đảng,
chính quyền tỉnh Thanh Hóa quan tâm, chỉ đạo thực hiện nên đã đạt đƣợc
nhiều kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, do nhận thức pháp luật của ngƣời
dân còn hạn chế cùng với những khó khăn về kinh tế và công tác tổ chức thực
hiện pháp luật về PCMBN còn chƣa đồng nhất; nên Thanh Hóa hiện vẫn là
một trong những “điểm nóng” về tình trạng MBN trên cả nƣớc.
Là một cán bộ công tác và sinh sống trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, tác
giả nhận thấy có nhiều bất cập, hạn chế trong công tác PCMBN ở địa phƣơng
và luôn trăn trở với các câu hỏi: Làm thế nào để thực hiện tốt pháp luật về
phòng, chống mua bán người? Liệu có giải pháp nào để thực hiện pháp luật
về phòng, chống mua bán người có hiệu quả hơn ở tỉnh Thanh Hóa? Vì vậy,
tác giả đã chọn đề tài "Pháp luật về phòng, chng mua bán người qua thực
tiễn ở tỉnh Thanh Hóa" để làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
MBN là một vấn đề xã hội bức xúc nên trong thời gian qua việc phòng,
chống tệ nạn này ở nƣớc ta đã đƣợc nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân quan tâm
nghiên cứu. Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về PCMBN từ nhiều

góc độ và lĩnh vực khác nhau đƣợc công bố ở nƣớc ta, trong đó tiêu biểu nhƣ:

3
- Lê Thị Quý, Phòng chống buôn bán phụ nữ các tỉnh phía Bắc Việt
Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 1999.
- Lê Thị Quý: Vấn đề ngăn chặn nạn buôn bán phụ nữ ở Việt Nam,
Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội, 2000.
- Lê Thị Quý, „Phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ em qua biên giới‟,
Nxb Phụ nữ, HN, 2005.
- Vũ Ngọc Bình: "Phòng, chống buôn bán và mại dâm trẻ em", Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội, 2002.
- Chu Thị Thoa, "Hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ,
trẻ em ở Việt Nam hiện nay", Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, 2002.
- Nguyễn Quang Dũng: "Tình hình tội phạm mua bán phụ nữ qua biên
giới nƣớc ta và hoạt động phòng ngừa của bộ đội biên phòng", Tạp chí Công
an nhân dân, số 7, 2003.
- Đặng Xuân Khang: "Tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em qua biên giới
Việt Nam - thực trạng và giải pháp", Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Bộ
Công an, 2004.
- Nguyễn Thị Lan: “Bàn về tội mua bán ngƣời trong dự thảo Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự 1999”, Tạp chí Khoa học, Luật
học, ĐHQGHN, số 25, 2009.
Các công trình nêu trên đã cung cấp một khối lƣợng kiến thức, thông
tin lớn về PCMBN ở các góc độ, cấp độ khác nhau. Tuy nhiên, cho đến nay
vẫn chƣa có công trình nào tập trung đề cập đến thực trạng pháp luật về
PCMBN ở cấp địa phƣơng nói chung, cũng nhƣ ở tỉnh Thanh Hóa nói riêng.
Thêm vào đó, hầu hết các công trình nghiên cứu nói trên đều đƣợc thực hiện
và công bố trƣớc khi Luật PCMBN đƣợc thông qua và có hiệu lực (năm 2011)
nên có nhiều thông tin, kiến thức và nhận định không còn phù hợp. Vì vậy,


4
vẫn cần có thêm những công trình nghiên cứu nữa về PCMBN ở nƣớc ta, đặc
biệt là những nghiên cứu tiếp cận, khảo sát thực trạng vấn đề ở cấp địa
phƣơng. Đề tài “Pháp luật về phòng, chng mua bán người qua thực tiễn ở
tỉnh Thanh Hóa” đƣợc thực hiện nhằm góp phần khỏa lấp khoảng trống đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Mục đích của luận văn là cung cấp một cái nhìn tổng thể và chi tiết về
thực trạng công tác PCMBN ở tỉnh Thanh Hóa, qua đó đề xuất những quan
điểm và giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện có hiệu quả pháp luật về PCMBN
của tỉnh, đồng thời cũng là những gợi ý cho việc nâng cao hiệu quả công tác
PCMBN ở các địa phƣơng khác trên cả nƣớc.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt đƣợc mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau đây:
- Phân tích làm rõ những cơ sở lý luận của công tác PCMBN, cũng nhƣ
khuôn khổ pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về vấn đề này.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về PCMBN ở tỉnh
Thanh Hóa; làm rõ không chỉ những thành tựu mà cả những tồn tại, hạn chế
trong công tác này; đồng thời phân tích chỉ ra nguyên nhân của những thành
tựu và tồn tại, hạn chế đó.
- Trên cơ sở những điểm nêu trên, đề xuất những quan điểm và giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về PCMBN ở tỉnh Thanh
Hóa trong những năm tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đi tượng
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là thực trạng thực hiện pháp luật về
PCMBN ở tỉnh Thanh Hóa, cụ thể là cơ sở lý luận, pháp lý và những biện
pháp mà các cơ quan, ban ngành trong tỉnh đã áp dụng để ngăn ngừa và xử lý


5
tội phạm MBN, kết quả đã đạt đƣợc trong công tác này, những tồn tại, hạn
chế, nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế và giải pháp khắc phục.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phù hợp với những yêu cầu của một luận văn thạc sĩ, tác giả đặt ra
những giới hạn cho nghiên cứu này nhƣ sau:
- Về nội dung, luận văn tập trung nghiên cứu các biện pháp thực hiện
pháp luật về PCMBN ở tỉnh Thanh Hóa. Vì thế, luận văn không phân tích chi
tiết mà chỉ đề cập khái quát đến khuôn khổ pháp luật quốc tế và quốc gia về
PCMBN để làm nền tảng cho việc nghiên cứu việc thực hiện khuôn khổ đó ở
tỉnh Thanh Hóa.
- Về địa lý, luận văn chỉ nghiên cứu thực trạng thực hiện pháp luật về
PCMBN ở tỉnh Thanh Hóa mà không mở rộng đến công tác PCMBN trên
phạm vi cả nƣớc hoặc ở các địa phƣơng khác.
- Về thời gian, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng thực hiện
pháp luật về PCMBN ở tỉnh Thanh Hóa từ năm 2008 đến nay mà không mở
rộng đến việc thực hiện công tác này ở tỉnh những năm trƣớc đó. Đây là
khoảng thời gian chuyển tiếp trong đó có một sự thay đổi lớn về khuôn khổ
pháp lý của nƣớc ta về PCMBN, với sự ra đời của Luật PCMBN năm 2011.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn áp dụng phƣơng pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác- Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, những quan điểm cơ
bản của Đảng và nhà nƣớc ta về Nhà nƣớc, pháp luật và về PCMBN.
Cơ sở lý luận nêu trên là nền tảng để nghiên cứu thực tiễn thực hiện
pháp luật về PCMBN ở tỉnh Thanh Hóa.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn áp dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể nhƣ: thống kê,
tổng hợp, phân tích, so sánh… để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đề ra.


6
6. Tính mới và những đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận các quy định của pháp
luật về phòng, chống mua bán ngƣời ở Việt Nam. Hơn nữa, đây là nghiên cứu
đầu tiên phân tích một cách toàn diện và hệ thống thực trạng thực hiện pháp
luật về PCMBN ở tỉnh Thanh Hóa, đồng thời nêu ra những quan điểm và giải
pháp nhằm tăng cƣờng hiệu quả thực hiện pháp luật về PCMBN ở trong tỉnh.
Những phân tích, đánh giá của luận văn đƣợc thực hiện sau khi Luật PCMBN
năm 2011 đƣợc thông qua và có hiệu lực pháp luật, bởi vậy cập nhật đƣợc
những sự phát triển mới nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam về vấn đề này.
Với đóng góp nhƣ trên, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
cho các cơ quan, ban ngành của tỉnh Thanh Hóa và các địa phƣơng khác trong
việc thực thi pháp luật về PCMBN. Ngoài ra, luận văn còn có thể dùng làm tài
liệu tham khảo cho hoạt động giảng dạy, nghiên cứu ở Khoa Luật Đại học
quốc gia Hà Nội và các cơ sở đào tạo khác của Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Cơ sở lý luận và khung pháp luật quốc tế, pháp luật Việt
Nam về phòng, chống mua bán ngƣời
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về phòng, chống mua bán
ngƣời ở tỉnh Thanh Hóa
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về phòng, chống mua bán ngƣời ở tỉnh Thanh Hóa





7

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KHUNG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ, PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VỀ PHÕNG, CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI

1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC PHÕNG, CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI
1.1.1. Khái niệm buôn bán ngƣời; mua bán ngƣời; phòng, chống
mua bán ngƣời; pháp luật về phòng, chống mua bán ngƣời
1.1.1.1. Khái niệm buôn bán người
Buôn bán ngƣời (BBN) là một hiện tƣợng xã hội đã xuất hiện từ khi xã
hội loài ngƣời bƣớc vào giai đoạn phát triển hình thái kinh tế xã hội chiếm
hữu nô lệ. Ban đầu BBN là việc mua bán nô lệ trong các cuộc chiến tranh, sau
đó là các cuộc trao đổi phụ nữ vì lợi ích chính trị, kinh tế giữa các quốc gia
thời phong kiến. Cho đến nay tệ nạn BBN mà chủ yếu là mua bán phụ nữ, trẻ
em vẫn tồn tại và có chiều hƣớng gia tăng trên phạm vi toàn thế giới, với các
mục đích phi nhân đạo nhƣ: bóc lột tình dục, bóc lột sức lao động, kết hôn trái
ý muốn, lấy đi các bộ phận của cơ thể
Theo số liệu thống kê của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), ở thời điểm
năm 2009, trên thế giới có khoảng hơn 2,4 triệu ngƣời bị buôn bán [2, tr.9]. Ở
Việt Nam, tình trạng BBN trong những năm gần đây không ngừng gia tăng và
mang tính xuyên quốc gia, trong đó qua Trung Quốc chiếm 65%, Campuchia
chiếm 11%, Lào chiếm 6,5%, số còn lại mua bán trong nƣớc và một một số
quốc gia, vùng lãnh thổ khác nhƣ: Thái Lan, Ma-lai-xi-a, Xinh-ga-po, Đài
Loan, Hồng Công, Ma Cao (Trung Quốc). Từ năm 2005 đến cuối năm 2012,
Việt Nam phát hiện đƣợc hơn 3.000 vụ với hơn 5.000 đối tƣợng, lừa bán trên
6.500 nạn nhân, trong đó riêng năm 2012 có gần 500 vụ, với hơn 800 đối
tƣợng, lừa bán trên 850 nạn nhân. Các cơ quan có thẩm quyền trong nƣớc và
một số tổ chức quốc tế hoạt động PCMBN đều nhận định rằng, thủ đoạn

8
MBN ở Việt Nam ngày càng phức tạp, tinh vi, trong đó có nhiều hình thức

mới nảy sinh nhƣ mua bán trẻ sơ sinh, mua bán bào thai, nội tạng, đẻ thuê,
tuyển dụng đƣa ngƣời lao động ra nƣớc ngoài trái phép sau đó thu giữ giấy tờ,
hộ chiếu và bắt lao động cƣỡng bức, lạm dụng tình dục [46, tr.9]. Do đó, việc
đấu tranh với hình thức tội phạm này đang là vấn đề cấp bách không chỉ đặt ra
đối với mỗi quốc gia mà còn là một vấn đề mang tính toàn cầu.
Theo Điều 3 Nghị định thƣ về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị hành vi
BBN đặc biệt là buôn bán phụ nữ, trẻ em bổ sung Công ƣớc về chống tội
phạm có tổ chức xuyên quốc gia của Liên hợp quốc, đƣợc Đại Hội đồng Liên
hợp quốc thông qua ngày 15/11/2000, có hiệu lực ngày 25/12/2003 (gọi tắt là
Nghị định thƣ Palermo).
Buôn bán ngƣời có nghĩa là việc mua bán, vận chuyển, chuyển
giao, chứa chấp và nhận ngƣời nhằm mục đích bóc lột bằng cách sử
dụng hay đe dọa dùng vũ lực hay bằng các hình thức ép buộc, bắt
cóc, lừa gạt, man trá, lạm dụng quyền lực hoặc vị thế hay lợi nhuận
để đạt đƣợc đƣợc sự đồng ý của một ngƣời có quyền kiểm soát đối
với những ngƣời khác. Hành vi bóc lột sẽ bao gồm ít nhất là bóc lột
vì mục đích mại dâm hay những hình thức bóc lột tình dục khác, các
hình thức lao động hay dịch vụ cƣỡng bức, nô lệ hay các hình thức
tƣơng tự nô lệ, khổ sai hay lấy các bộ phận cơ thể [56. tr.2].
Các dấu hiệu cơ bản của tội BBN đƣợc thể hiện nhƣ sau:
Về mặt khách quan: BBN là việc thực hiện một trong các hành vi:
tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hoặc nhận ngƣời (đối tƣợng bị
buôn bán) và bóc lột nạn nhân. Ngƣời phạm tội có thể sử dụng các thủ đoạn
nhƣ lừa dối, hứa hẹn, man trá, đe dọa dùng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực, ép
buộc, bắt cóc, lừa gạt… nạn nhân.
Về mặt chủ quan: Ngƣời thực hiện hành vi BBN phải có mục đích tƣ

9
lợi, bóc lột; có thể là bóc lột về tình dục, lao động cƣỡng bức, làm nô lệ hoặc
lấy các bộ phận của cơ thể… Suy cho cùng thì mục đích của những ngƣời

thực hiện hành vi BBN là vì lợi nhuận, vì thế đó là lỗi cố ý trực tiếp.
Trong khái niệm nêu trên, Nghị định thƣ Palermo không đề cập đến
khách thể và chủ thể của tội phạm BBN mà chỉ mô tả về mặt chủ quan và
khách quan của hành vi phạm tội. Tuy nhiên, theo lý luận chung về tội phạm
thì hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thừa nhận 4 yếu tố cấu thành tội
phạm là khách thể, mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ quan. Đối với ngƣời
bị hại (nạn nhân) trong các vụ buôn bán không phân biệt giới tính, còn trẻ em
có nghĩa là bất kỳ ngƣời nào dƣới 18 tuổi.
Nghị định thƣ Palermo đã đƣợc Liên hợp quốc thông qua trong bối
cảnh vấn đề BBN, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em đang gia tăng ở nhiều nơi trên
toàn thế giới. Nó tạo cơ sở pháp lý quốc tế cho việc xác định thế nào là BBN,
đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, trợ giúp nạn nhân của tệ BBN và phòng ngừa tội
phạm BBN. Văn kiện này này đã đƣợc hầu hết quốc gia trên thế giới và chấp
nhận làm khuôn khổ pháp lý quốc tế cho việc đấu tranh phòng, chống tệ nạn
BBN hiện nay.
1.1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của hành vi mua bán người ở Việt Nam
- Khái niệm mua bán người:
Trong pháp luật quốc tế hiện nay, các văn bản thƣờng sử dụng khái
niệm buôn bán người; buôn bán phụ nữ và trẻ em. Ở Việt Nam, các văn bản
pháp luật hiện hành không sử dụng khái niệm buôn bán người mà sử dụng
cụm từ "mua bán phụ nữ và trẻ em" hoặc "mua bán người", cụ thể là trong Bộ
luật hình sự (BLHS) năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) tại các Điều 119
và 120, Luật PCMBN năm 2011.
Tuy nhiên, trong cả hai điều luật nêu trên của BLHS và Luật PCMBN
đều chƣa đƣa ra định nghĩa về MBN. Vì vậy, khái niệm “Mua bán ngƣời”

10
hiện đƣợc hiểu tại Thông tƣ liên 01/2013/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BCA-
BQP-BTP ngày 23/7/2013 hƣớng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với ngƣời có hành vi MBN; mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em. Điều

1 Thông tƣ quy định:
Mua bán ngƣời là hành vi dùng tiền, tài sản hoặc các lợi ích
vật chất khác để trao đổi ngƣời (từ đủ 16 tuổi trở lên) nhƣ một loại
hàng hóa; cụ thể là một trong các hành vi: 1. Bán ngƣời cho ngƣời
khác, không phụ thuộc vào mục đích của ngƣời mua; 2. Mua ngƣời
để bán lại ngƣời cho ngƣời khác, không phân biệt bán lại cho ai và
mục đích của ngƣời mua sau này nhƣ thế nào; 3. Dùng ngƣời nhƣ là
tài sản để trao đổi, thanh toán; 4. Mua ngƣời để bóc lột, cƣỡng bức
lao động hoặc vì các mục đích trái pháp luật khác; 5. Ngƣời tổ chức,
ngƣời xúi giục, ngƣời giúp sức cho ngƣời thực hiện một trong các
hành vi mua bán ngƣời hƣớng dẫn tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều
này đều bị truy cứu trách nhiệm về tội mua bán ngƣời [20, tr.1].
Khoản 1 Điều 4 Thông tƣ cũng xác định:
1.Mua bán trẻ em là hành vi dùng tiền, tài sản hoặc lợi ích vật
chất khác để trao đổi trẻ em (ngƣời dƣới 16 tuổi) nhƣ một loại hàng
hóa cụ thể là một trong các hành vi: a) Bán trẻ em cho ngƣời khác,
không phụ thuộc vào mục đích của ngƣời mua; b) Mua trẻ em để
bán lại cho ngƣời khác, không phân biệt bán lại cho ai và mục đích
của ngƣời mua sau này nhƣ thế nào; c) Dùng trẻ em làm phƣơng
tiện để trao đổi, thanh toán; d) Mua trẻ em để bóc lột, cƣỡng bức
lao động hoặc vì mục đích trái pháp luật khác [20, tr.3].
Đối với Luật PCMBN năm 2011, mặc dù không đƣa ra định nghĩa về
“mua bán ngƣời‟ nhƣng tại Điều 3 đã quy định 05 hành vi cụ thể có thể coi là
MBN, bao gồm:

11
(1) Mua bán ngƣời theo quy định tại Điều 119 và Điều 120
Bộ luật hình sự; (2) Chuyển giao, tiếp nhận ngƣời để bóc lột tình
dục, cƣỡng bức lao động, lấy các bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích
vô nhân đạo khác; (3) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp ngƣời để

bóc lột tình dục, cƣỡng bức lao động, lấy các bộ phận cơ thể hoặc vì
mục đích vô nhân đạo khác hoặc để thực hiện hành vi (1) hoặc (2)
kể trên; (4) Cƣỡng bức ngƣời khác thực hiện hành vi (1) hoặc (2)
hoặc (3) kể trên; (5) Môi giới để ngƣời khác thực hiện hành vi (1)
hoặc (2) hoặc (3) kể trên [65, tr. 1, 2].
Về mua bán trẻ em, Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội
đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hƣớng dẫn áp dụng một số quy định
trong phần các tội phạm của BLHS 1985 quy định, "mua bán trẻ em" đƣợc hiểu
là "Việc mua hoặc bán trẻ em vì mục đích tư lợi, dù là mua của kẻ bắt trộm hay
mua của chính người có con đem bán. Hành vi mua trẻ em khi biết rõ là đứa trẻ
bị bắt trộm cũng bị xử lý về tội mua bán trẻ em…" [48, tr.1]; Bên cạnh việc sử
dụng thuật ngữ "mua bán phụ nữ, trẻ em", thì thuật ngữ "buôn bán phụ nữ, trẻ
em", cũng đƣợc một số văn bản quy phạm pháp luật sử dụng. Ví dụ, tại khoản 2
Điều 103 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: "Nghiêm cấm lợi dụng
việc kết hôn có yếu tố nước ngoài để buôn bán phụ nữ, xâm phạm tình dục đối
với phụ nữ hoặc vì mục đích trục lợi khác" [61, tr. 54] hoặc theo Khoản 2 Điều
24 Pháp lệnh phòng chống mại dâm thì: "Người nào môi giới mại dâm, chứa
mại dâm, cưỡng bức mại dâm, tổ chức mại dâm, mua bán phụ nữ, trẻ em để
phục vụ hoạt động mại dâm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự" [77, tr.15].
Nhƣ vậy, tổng hợp các định nghĩa, khái niệm nêu trên trong pháp luật
Việt Nam, có thể hiểu “mua bán ngƣời” là hành vi của một ngƣời hoặc một
nhóm ngƣời vì tƣ lợi, đã lừa dối, ép buộc, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng vũ
lực, nhằm tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp ngƣời để bóc lột tình dục, cƣỡng

12
bức lao động, lấy các bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác để
đƣợc lấy tiền hoặc lợi ích vật chất.
- Đặc điểm của hành vi mua bán người:
Trƣớc hết, hành vi đƣợc hiểu là những phản ứng, cách ứng xử đƣợc
biểu hiện ra bên ngoài của con ngƣời trong những hoàn cảnh, điều kiện nhất

định. Những hành vi nào của con ngƣời đƣợc pháp luật quy định, điều chỉnh
thì đƣợc xem là hành vi pháp luật. Hành vi pháp luật đƣợc thực hiện phù hợp
với yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật (chủ thể tiến hành những xử sự mà pháp
luật yêu cầu nhƣ thực hiện quyền, nghĩa vụ pháp lý của mình; không đƣợc
làm những gì mà pháp luật cấm; hoạt động trong phạm vi pháp luật cho phép)
là hành vi hợp pháp. Hành vi đƣợc thực hiện trái với những quy định của
pháp luật nhƣ không làm những việc mà pháp luật yêu cầu, làm những việc
mà pháp luật cấm, hoạt động vƣợt quá phạm vi cho phép của pháp luật là
hành vi không hợp pháp (trái pháp luật) [73, tr.491, 494, 495].
Nhƣ vậy, hành vi "mua bán ngƣời" cũng đƣợc hiểu là những phản ứng,
cách ứng xử đƣợc biểu hiện ra bên ngoài của những ngƣời có đủ năng lực
(năng lực pháp lý và năng lực hành vi) thực hiện việc "mua bán ngƣời". Hành
vi "mua bán ngƣời" là hành vi bất hợp pháp (vi phạm các Điều 119, 120
BLHS năm 1999 và Luật PCMBN) và các yếu tố cấu thành hành vi "mua bán
ngƣời" sẽ bao gồm:
Một là, chủ thể thực hiện hành vi "mua bán ngƣời" phải là ngƣời có đủ
năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
Hai là, những biểu hiện trong thế giới khách quan thông qua những
thao tác hành động hoặc không hành động của chủ thể thực hiện hành vi "mua
bán ngƣời" mà các chủ thể khác có thể nhận biết đƣợc điều đó.
So sánh các biểu hiện hành vi MBN (đƣợc pháp luật xác định) theo các
quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam cho thấy:

13
- Với Nghị định thƣ Palermo, hoạt động BBN (mà đƣợc hiểu tƣơng đƣơng
ở Việt Nam là MBN) sẽ bao gồm những hành vi sau: tuyển mộ, vận chuyển,
chuyển giao, chứa chấp và nhận ngƣời nhằm mục đích bóc lột bao gồm bóc lột
thông qua hoạt động mại dâm, bóc lột tình dục lao động cƣỡng bức, nô lệ hay
hành vi tƣơng tự nhƣ nô lệ, khổ sai hoặc bị lấy đi các bộ phận cơ thể.
- Theo pháp luật Việt Nam thì hoạt động MBN là hành vi chuyển giao,

tiếp nhận, tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp ngƣời để bóc lột tình dục, cƣỡng
bức lao động, lấy các bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác.
Trong thực tế, Việt Nam đã có những nỗ lực rất lớn để thực hiện một số quy
định trong Nghị định thƣ Palermo. Đặc biệt, những hƣớng dẫn xác định các hành vi
MBN, mua bán trẻ em trong Thông tƣ liên tịch 01/2013/TTLT/TANDTC-
VKSNDTC-BCA-BQP-BTP đã làm rõ và mở rộng các dấu hiệu khách quan
của hai hành vi “mua” và “bán” quan trọng này, qua đó đã khắc phục cách
hiểu hạn hẹp trƣớc đây xem “mua bán ngƣời/trẻ em” chỉ bao gồm hai loại
hành vi “mua” và “bán” chứ không bao gồm cả những hành vi tuyển mộ, vận
chuyển, chuyển giao, chứa chấp và nhận ngƣời nhƣ trong định nghĩa về BBN
ở Điều 3 Nghị định thƣ Palermo.
Tuy nhiên, để phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế về
PCMBN, Việt Nam cần phải hoàn thiện hơn nữa trong các quy định theo hƣớng
nêu rõ các phƣơng thức, thủ đoạn và mục đích MBN và sửa đổi quy định “Trẻ
em là công dân Việt Nam dƣới 16 tuổi” thành “Trẻ em là công dân Việt Nam
dƣới 18 tuổi” tƣơng tự nhƣ quy định tại Điều 3 Nghị định thƣ Palermo.
1.1.1.3. Khái niệm phòng, chng mua bán người
PCMBN là nhiệm vụ phức tạp liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành,
đòi hỏi phải đƣợc tiến hành đồng bộ bằng nhiều biện pháp nhằm huy động
sức mạnh của cả hệ thống chính trị mới có hiệu quả. Thực tiễn đấu tranh
PCMBN ngƣời cho thấy, việc phát hiện, bắt giữ, xử lý đối tƣợng thực hiện

14
hành vi MBN chỉ là một trong những biện pháp nhằm ngăn chặn kịp thời
hành vi MBN, biện pháp này chỉ giải quyết đƣợc phần “ngọn”, chƣa giải
quyết đƣợc “gốc rễ” của vấn đề; đó là làm giảm tiến tới loại trừ nguyên nhân,
điều kiện làm phát sinh hành vi MBN. Để công tác phòng ngừa đạt hiệu quả
cần áp dụng những biện pháp phòng ngừa xã hội, phòng ngừa nghiệp vụ;
trong đó cần tăng cƣờng công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật để nâng
cao nhận thức của nhân dân, giúp ngƣời dân nhận thức đƣợc nguy cơ, mối

hiểm họa của hoạt động MBN để họ có ý thức phòng ngừa nâng cao cảnh giác
không trở thành đối tƣợng bị mua bán. Đấu tranh PCMBN chỉ đạt hiệu quả
khi thực hiện tốt nguyên tắc phòng ngừa, đồng thời đẩy mạnh công tác phát
hiện, xử lý các hành vi MBN, hành vi liên quan đến MBN cũng nhƣ những
hành vi vi phạm pháp luật khác.
Vậy, PCMBN có thể hiểu là những biện pháp phòng tránh, ngăn ngừa
và xử lý các hành vi MBN mà Luật PCMBN và các văn bản pháp lý có liên
quan quy định.
Trên cơ sở thực hiện nguyên tắc phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi
MBN, Luật PCMBN năm 2011 đã thể hiện rõ yếu tố “phòng” và “chống”
MBN. Ở yếu tố “phòng”, Luật chú trọng nhóm các biện pháp phòng ngừa
chung nhƣ: tuyên truyền, giáo dục, tƣ vấn về phòng, ngừa MBN, hoạt động
quản lý an ninh trật tự, kiểm soát an ninh biên giới cũng nhƣ nhóm các biện
pháp phòng ngừa thông qua hoạt động của một số cơ quan, tổ chức và sự
tham gia của cá nhân, gia đình trong việc phòng ngừa MBN. Mục đích chính
của yếu tố này là nhằm nâng cao nhận thức về trách nhiệm của cá nhân, gia
đình, cơ quan, tổ chức và cộng đồng đối với công tác phòng ngừa MBN, về
mối hiểm họa của MBN, làm cho mọi ngƣời đề cao cảnh giác, tích cực tham
gia phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh chống MBN, chống kỳ thị, phân biệt
đối xử với nạn nhân bị mua bán.

15
Luật cu
̃
ng xác định rõ trọng tâm , trọng điểm của công tác thông tin,
tuyên truyền, giáo dục về phòng ngừa MBN là hƣớng tới mô
̣
t số đối tƣợng cu
̣


thê
̉
nhƣ: phụ nữ, thanh niên, thiếu niên, học sinh, sinh viên và những ngƣời cƣ
trú tại khu vực biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh
tế - xã hội khó khăn và những địa bàn xảy ra nhiều vụ việc MBN. Đây là
những đối tƣợng có thể gọi là "có nguy cơ cao" dễ trở thành nạn nhân bị mua
bán. Đặc biệt, để bảo đảm sự chủ động trong công tác thông tin, giáo dục,
truyền thông ở cơ sở, Luật PCMBN năm 2011 quy định việc xây dựng mạng
lƣới tuyên truyền viên về PCMBN ở cơ sở; huy động sự tham gia tích cực của
các đoàn thể xã hội.
Bên cạnh đó yếu tố “chống” cũng đƣợc Luật PCMBN quy định cụ thể
tại Điều 4: mọi hành vi vi phạm pháp luật về PCMBN phải đƣợc ngăn chặn,
phát hiện và xử lý nghiêm minh, kịp thời, chính xác. Để quy định về việc phát
hiện, xử lý hành vi vi phạm pháp luật về PCMBN nội dung chủ yếu cần tập
trung vào 03 vấn đề: mô
̣
t la
̀
, nghĩa vụ của cá nhân tố giác , tố cáo ha
̀
nh vi vi
phạm pháp luật về PCMBN; hai la
̀
, trách nhiê
̣
m cu
̉
a cơ quan , tô
̉
chƣ

́
c trong
viê
̣
c pha
́
t hiê
̣
n va
̀

̉
ly
́
vi pha
̣
m theo thâ
̉
m quyền ; ba la
̀
, nhƣ
̃
ng nguyên tắc xƣ
̉

lý vi phạm pháp luật về PCMBN.
Do đó, việc kết hợp chặt chẽ giữa hai yếu tố “phòng” và “chống” MBN
cũng nhƣ các hành vi liên quan đến MBN đƣợc xem là yêu cầu đầu tiên, quan
trọng nhất trong công tác đấu tranh PCMBN ở nƣớc ta hiện nay.
1.1.1.4. Khái niệm pháp luật phòng, chng mua bán người

- Khái niệm pháp luật
Theo Giáo trình Lý luận chung về nhà nƣớc và pháp luật của Trƣờng
Đại học Luật Hà Nội thì: “Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà
nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị
trong toàn xã hội, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội” [73, tr. 66].

16
Giáo trình Lý luận chung về nhà nƣớc và pháp luật của Viện nhà nƣớc
và pháp luật - Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chi Minh định
nghĩa: “Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành
hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và được đảm bảo thực
hiện bằng sắc mạnh cưỡng chế của nhà nước, là yếu tố đảm bảo sự ổn định
và trật tự xã hội” [47, tr.161].
Giáo trình Lý luận chung về nhà nƣớc và pháp luật của Khoa Luật -
Trƣờng Đại học Quốc gia Hà Nội định nghĩa:
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc
chung do nhà nƣớc đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí nhà nƣớc
của giai cấp thống trị trên cơ sở ghi nhận các nhu cầu về lợi ích của
toàn xã hội, đƣợc đảm bảo thực hiện bằng nhà nƣớc nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích trật tự và ổn định xã hội vì
sự phát triển vững mạnh của xã hội [74, tr.288]
Nhƣ vậy, các định nghĩa nêu trên đều có quan điểm đồng nhất về nội
dung đó là: Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc do nhà
nƣớc đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị đƣợc nhà
nƣớc bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích
đảm bảo trật tự và ổn định xã hội.
Trong các định nghĩa nêu trên đều thể hiện đƣợc những thuộc tính đặc
trƣng nhất của pháp luật và mục đích điều chỉnh của pháp luật. Ngoài ra,
trong lý luận pháp luật hiện đại nhiều ngƣời còn đề xuất những cách định
nghĩa, cách tiếp cận khác về pháp luật theo hƣớng mở rộng và phù hợp hơn

với tƣ duy pháp lý quốc tế. Mỗi cách tiếp cận đều có tính hợp lý nhất định,
nhƣng dù có đƣợc tiếp cận dƣới góc độ nào, thì pháp luật vẫn là phƣơng tiện
để xác định, thiết lập trật tự xã hội, có hiệu lực bắt buộc và đƣợc kiểm soát,
đảm bảo, bảo vệ bởi quyền lực nhà nƣớc.

17
- Khái niệm pháp luật phòng, chống mua bán người
PCMBN là nhiệm vụ cấp thiết hiện nay của Nhà nƣớc ta. MBN là hành
vi xâm phạm trực tiếp đến quyền, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
và đời sống của con ngƣời. Để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh liên
quan đến hoạt động MBN, Nhà nƣớc phải ban hành các văn bản pháp luật,
những văn bản này chứa dựng đầy đủ các nguyên tắc, biện pháp phòng ngừa,
xử lý và hỗ trợ nạn nhân. Vậy, có thể hiểu pháp luật PCMBN là hệ thống các
quy tắc xử sự do nhà nước ban hành nhằm xác định, phòng ngừa, ngăn chặn,
xử lý những hành vi mua bán người và biện pháp bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân.
1.1.2. Sự cần thiết, ý nghĩa của việc phòng, chống mua bán ngƣời
1.1.2.1. Sự cần thiết của việc phòng, chng mua bán người
Qua gần 30 năm đổi mới, hội nhập quốc tế, bên cạnh những thành tựu to
lớn về kinh tế, xã hội, Việt Nam đồng thời phải đối mặt với những thử thách to
lớn trong nhiều vấn đề, trong đó có sự gia tăng của tội phạm, bao gồm tội phạm
MBN. Việt Nam hiện là một trong những nƣớc nguồn,

đồng thời là nƣớc trung
chuyển và đích đến của nạn MBN. Ở Việt Nam, MBN diễn ra cả trong nội địa
và xuyên biên giới. Nạn nhân của MBN có cả phụ nữ, nam giới và trẻ em trong
đó phụ nữ thƣờng bị mua bán để bóc lột mại dâm và cƣỡng bức kết hôn; trẻ em
thƣờng để bóc lột sức lao động hay ăn xin; còn nam giới thì thƣờng để bóc lột
sức lao động. Theo ghi nhận của các cơ quan chức năng, tình hình tội phạm ở
Việt Nam đang có diễn biến rất phức tạp với quy mô ngày càng gia tăng, nguy
hiểm nhất là hậu quả mà tội phạm gây ra; trong đó tội phạm MBN đƣợc đánh

giá là loại tội phạm có diễn biến phức tạp, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo
quyệt, có tổ chức chặt chẽ. Nạn nhân bị mua bán chủ yếu là phụ nữ và trẻ em
chiếm hơn 90%. Trong thực tế con số này còn có thể lớn hơn vì có căn cứ để
xác định đây là loại tội phạm có độ ẩn cao và theo Báo cáo tình hình BBN hàng
năm của Đại sứ quán Hợp chủng quốc Hoa kỳ tại Việt Nam vẫn xếp Việt Nam

18
là quốc gia nằm trong danh sách loại 2 - Những nƣớc xếp danh sách loại 2 là
những nƣớc mà chính phủ không tuân thủ đầy đủ những tiêu chuẩn của Đạo
luật bảo vệ nạn nhân của nạn buôn ngƣời (TVPA) nhƣng có nỗ lực đáng kể
nhằm tuân thủ những tiêu chuẩn đó [78].
Tội phạm MBN đã trực tiếp xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm và uy tín của con ngƣời đặc biệt đối với phụ nữ và trẻ em, ảnh
hƣởng đến sự phát triển của xã hội và tƣơng lai của đất nƣớc. Hầu hết nạn
nhân trong các vụ mua bán thƣờng có thái độ mặc cảm, sợ hãi, không muốn
tiết lộ hoặc để ngƣời khác biết đƣợc các bí mật về đời tƣ của mình, những hậu
quả mà họ phải gánh chịu trong thời gian bị mua bán, đặc biệt là các trƣờng
hợp mua bán để làm gái mại dâm. Họ rất dễ bị tổn thƣơng, luôn mặc cảm tự ti
coi mình là tội lỗi, là ngƣời không đƣợc xã hội tôn trọng. Do đó, PCMBN là
một yêu cầu cấp thiết của cả cộng đồng thế giới, Việt Nam và các nƣớc trên
thế giới cần có những biện pháp mạnh nhằm lên án và xử lý nghiêm khắc
hành vi MBN và các hành vi liên quan khác đến MBN. Bên cạnh đó, trong
quá trình hợp tác đa phƣơng và song phƣơng trong lĩnh vực này cần quy định
rõ quốc gia nào không chủ động tích cực hoặc dung túng cho tệ nạn MBN sẽ
phải chịu sự lên án, chỉ trích và trừng phạt của cộng đồng quốc tế.
Đối với Việt Nam, kể từ năm 2000 cho đến nay, khuôn khổ pháp luật
Việt Nam về phòng, chống MBN liên tục đƣợc sửa đổi và bổ sung, trong
đó sự kiện quan trọng gần đây nhất là việc thông qua Luật PCMBN năm
2011. Ngoài ra, một loạt văn bản pháp luật khác có liên quan đến PCMBN
trong các lĩnh vực hình sự, dân sự, lao động, xuất nhập cảnh, quản lý nhà

nƣớc trong các ngành nghề kinh doanh nhạy cảm, bảo vệ một số nhóm xã
hội dễ bị tổn thƣơng trƣớc nạn MBN gần đây cũng đƣợc củng cố. Tất cả
cho thấy nỗ lực và bƣớc tiến lớn trong việc hoàn thiện khuôn khổ pháp luật
về PCMBN của Nhà nƣớc Việt Nam. Những nỗ lực và bƣớc tiến này cần

×