1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHAN THỊ HỒNG HÀ
PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO CÔNG CHỨC CẤP XÃ -
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hµ néi – 2010
5
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO CÔNG CHỨC CẤP XÃ
7
1.1.
Mục đích và yêu cầu phổ biến, giáo dục pháp luật cho công
chức cấp xã
7
1.1.1.
Những nguyên lý chung về phổ biến, giáo dục pháp luật áp
dụng đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho công
chức cấp xã
8
1.1.2.
Đặc điểm của đội ngũ công chức cấp xã và công tác phổ
biến, giáo dục cho công chức cấp xã
12
1.1.2.1.
Khái niệm công chức cấp xã và công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật cho công chức cấp xã
12
1.1.2.2.
Mục đích của phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức
cấp xã
19
1.1.2.3.
Chủ thể và đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật cho công
chức cấp xã
21
1.1.2.4.
Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã
25
1.1.2.5.
Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã
27
1.2.
Đặc điểm phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã
29
1.2.1.
Những thuận lợi và trở ngại trong phổ biến, giáo dục pháp
luật cho công chức cấp xã
29
1.2.2.
Những yêu cầu phổ biến, giáo dục pháp luật đặt ra đối với
33
6
công chức cấp xã
1.2.2.1.
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã đòi hỏi
tính chuyên ngành
33
1.2.2.2.
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã phải gắn
với giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức
34
1.2.2.3.
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã là phổ
biến, giáo dục cho các chủ thể thực hiện phổ biến, giáo dục
pháp luật cho đối tượng khác
35
Chương 2: THỰC TRẠNG PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO CÔNG CHỨC CẤP XÃ
37
2.1.
Thực trạng đội ngũ công chức cấp xã và thể chế về phổ biến,
giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã
37
2.1.1.
Thực trạng đội ngũ công chức cấp xã
37
2.1.2.
Thể chế về phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã
43
2.2.
Tình hình phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã
48
2.2.1.
Chính quyền cấp xã với nhiệm vụ phổ biến, giáo dục pháp
luật cho công chức cấp xã
48
2.2.2.
Cơ quan và công chức chuyên trách phổ biến, giáo dục pháp
luật cho công chức cấp xã
49
2.2.3.
Đội ngũ những người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật cho công chức cấp xã
51
2.2.4.
Cơ sở vật chất và việc sử dụng các nguồn lực cho công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã
52
2.2.5.
Cơ chế phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức
cấp xã
53
2.2.6.
Nội dung, hình thức và phương pháp phổ biến, giáo dục
pháp luật cho công chức cấp xã
55
7
2.3.
Những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân
61
2.3.1.
Những hạn chế, tồn tại
61
2.3.2.
Nguyên nhân
64
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG
TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG
CHỨC CẤP XÃ
67
3.1.
Yêu cầu khách quan của việc nâng cao hiệu quả công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã trong giai
đoạn hiện nay
67
3.2.
Các giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã hiện nay
72
3.2.1.
Giải pháp về nâng cao năng lực của chủ thể phổ biến, giáo
dục pháp luật cho công chức cấp xã
72
3.2.1.1.
Nâng cao chất lượng của chủ thể phổ biến, giáo dục pháp
luật cho công chức cấp xã
72
3.2.1.2.
Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật đối với công chức cấp xã
73
3.2.1.3.
Đầu tư cần thiết và thỏa đáng hơn cho công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật đối với công chức cấp xã
76
3.2.2.
Giải pháp về nâng cao năng lực tiếp cận pháp luật của công
chức cấp xã
77
3.2.2.1.
Nâng cao nhận thức cho công chức cấp xã về vai trò của
pháp luật trong đời sống xã hội và đối với chính quyền cơ sở
77
3.2.2.2.
Nâng cao chất lượng, trình độ pháp luật cho công chức cấp
xã và thu hút sự tham gia của đối tượng này vào hoạt động
xây dựng, thực hiện pháp luật
78
KẾT LUẬN
80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
83
8
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong hệ thống chính quyền bốn cấp hoàn chỉnh của Nhà nước ta,
chính quyền cấp xã có một vị trí quan trọng, là "cầu nối" giữa nhân dân với
Đảng và Nhà nước. Chính quyền cấp xã mạnh hay yếu, việc làm của chính
quyền tốt hay không tốt, đúng hay sai đều có tác động trực tiếp đến hiệu lực,
hiệu quả của việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước ảnh hưởng đến sự vững mạnh của chính quyền. Do đó, ở bất cứ
thời kỳ lịch sử nào của công cuộc xây dựng đất nước, Việt Nam đã, đang và
sẽ quan tâm đến việc xây dựng chính quyền cơ sở cấp xã vững mạnh.
Các công việc của chính quyền cấp xã thực hiện chủ yếu thông qua
đội ngũ công chức cấp xã. Công chức cấp xã là những người thường xuyên,
trực tiếp quan hệ với nhân dân, trực tiếp tổ chức triển khai thực hiện các chủ
trương, chính sách của Đảng và thi hành pháp luật của Nhà nước tại cơ sở, là
tấm gương để nhân dân học tập, làm theo và có tác động trực tiếp đến lòng tin
của nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Công cuộc đổi mới đất nước ta trong gần 25 năm qua đã đạt được
những thành tựu quan trọng cả về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh,
quốc phòng, nhất là ở cơ sở. Trong những thành tựu đó có sự đóng góp tích
cực của đội ngũ công chức cấp xã (trước đây là đội ngũ cán bộ chuyên trách
cấp xã). Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế,
đặc biệt là yêu cầu tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa đòi hỏi đội ngũ công chức nói chung, trong đó có đội
ngũ công chức cấp xã phải thường xuyên tìm hiểu kịp thời cập nhật văn bản
pháp luật, từ đó có sự hiểu biết, nắm vững và thực thi công vụ đúng pháp luật,
đồng thời, vận động, tuyên truyền, hướng dẫn nhân dân chấp hành nghiêm
chỉnh pháp luật.
9
Trong những năm qua, hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho
công chức cấp xã đã được Đảng và Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và
coi đó là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công cuộc quản lý xã hội
bằng pháp luật. Ngày 09 tháng 12 năm 2003, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã
ban hành Chỉ thị số 32-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật
của cán bộ, nhân dân. Ngày 17 tháng 01 năm 2003, Thủ tướng Chính phủ đã
có Quyết định số 13/2003/QĐ-TTg ban hành kèm theo Chương trình phổ
biến, giáo dục pháp luật từ năm 2003 đến năm 2007. Ngày 16 tháng 12 năm
2004, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 212/2004/QĐ-TTg phê duyệt
Chương trình hành động quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật và nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ năm
2005 đến năm 2010. Tiếp đó, ngày 12 tháng 3 năm 2008, Thủ tướng Chính
phủ đã có Quyết định số 37/2008/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phổ biến,
giáo dục pháp luật từ năm 2008 đến năm 2012 với mục tiêu là tạo sự chuyển
biến mạnh mẽ về ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân
dân. Với sự nỗ lực và cố gắng của các cấp, các ngành, hoạt động phổ biến,
giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã đã đạt được những kết quả tích cực.
Tuy nhiên, hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã thời
gian qua vẫn còn một số hạn chế, bất cập như việc phổ biến, giáo dục pháp
luật chưa được thường xuyên, còn dàn trải, thiếu trọng tâm trọng điểm, chưa
đảm bảo chiều sâu và chưa hướng mạnh về cơ sở; nội dung, hình thức, biện
pháp tuyên truyền chưa phù hợp với trình độ của người được tuyên truyền và
đặc thù của địa bàn… dẫn đến trình độ hiểu biết pháp luật của một bộ phận
công chức cấp xã vẫn còn thấp, vẫn còn công chức cấp xã làm sai quy định
của pháp luật trong khi thi hành công vụ….
Trước tình hình đó, việc tìm hiểu, nghiên cứu về hoạt động phổ biến,
giáo dục pháp luật cho công chức xã là việc làm thiết thực, hết sức cần thiết,
10
nhằm tìm ra những hình thức, biện pháp, nội dung phổ biến, giáo dục pháp
luật phù hợp với đội ngũ công chức này, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động của chính quyền cấp xã.
Từ thực trạng tình hình nêu trên, việc nghiên cứu vấn đề phổ biến,
giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã có ý nghĩa quan trọng, góp phần đưa
công tác này có những chuyển biến tích cực trong thời gian tới, tác giả đã
chọn đề tài: "Phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã - Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn" để làm luận văn tốt nghiệp Cao học luật.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Phổ biến, giáo dục pháp luật là một trong những vấn đề từ lâu được Đảng
và Nhà nước quan tâm, nhất là từ năm 1986, khi đất nước ta tiến hành công
cuộc đổi mới toàn diện thì hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật luôn được
đặt ở tầm cao mới, là một trong những vấn đề được các nhà khoa học pháp lý
quan tâm. Nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này đã được công bố như:
- Giáo dục pháp luật với việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa,
Luận án Phó Tiến sĩ luật học (nay là Tiến sĩ) của tác giả Trần Ngọc Đường
(bảo vệ tại Liên Xô cũ);
- Giáo dục pháp luật qua hoạt động nhà trường phổ thông ở nước ta
hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học của Lê Đình Quý, 1992;
- Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động Tư pháp ở Việt Nam, Luận
án tiến sĩ luật học của Dương Thị Thanh Mai, 1996;
- Giáo dục pháp luật trong các trường đại học, trung học chuyên
nghiệp và dạy nghề (không chuyên luật) ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ
luật học của Đinh Xuân Thảo, 1996;
- Đổi mới giáo dục pháp luật trong hệ thống các trường chính trị ở
nước ta hiện nay, Đề tài khoa học cấp bộ của Khoa Nhà nước và Pháp luật -
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1999;
11
- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong công
cuộc đổi mới, Đề tài khoa học cấp Bộ của Bộ Tư pháp, 1994;
- Giáo dục pháp luật cho cán bộ chính quyền cấp xã ở tỉnh Đắc Lắc
hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật học của Đỗ Văn Dương, 2002;
- Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh Bình Định-
thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ luật học của Trần Văn Trầm, 2002;
- Giáo dục pháp luật cho cán bộ chính quyền cấp xã ở tỉnh Quảng Trị
hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật học của Cao Thị Hà, 2003;
- Giáo dục pháp luật cho nông dân tỉnh Thái Bình trong giai đoạn
hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật học của Hoàng Trung Thành, 2004;
- Thực hiện chương trình giáo dục pháp luật cho cán bộ chính quyền
cấp xã ở các trường chính trị tỉnh, Luận văn thạc sĩ luật học của Ngô Quốc
Dụng, 2005;
Các công trình khoa học trên đã nêu ra những vấn đề cơ bản về lý luận
và thực tiễn trong hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật với nhiều đối tượng,
dưới nhiều góc độ khác nhau. Song do phạm vi, giới hạn và nhiệm vụ nghiên
cứu nên chưa có công trình nào nghiên cứu về công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật cho công chức cấp xã trong phạm vi toàn quốc. Luận văn này kế
thừa các kết quả nghiên cứu về phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung trong
các công trình nêu trên, đồng thời nghiên cứu thêm đặc điểm, yêu cầu trong
nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật cũng như những giải
pháp tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp với đối tượng là công
chức cấp xã hiện nay.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài "Phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức
cấp xã - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" nhằm làm rõ cơ sở lý luận và
12
trên cơ sở thực tiễn phổ biến, giáo dục pháp luật đề xuất các giải pháp đổi mới
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho đối tượng là công chức cấp xã.
Luận văn sẽ nghiên cứu đối tượng công chức cấp xã trên phạm vi toàn
quốc. Trong phạm vi đề tài này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu dưới giác độ
phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã trong giai đoạn hiện nay.
Do vậy, giới hạn của luận văn chỉ nghiên cứu phổ biến, giáo dục pháp luật
cho công chức cấp xã, tức là chỉ đi sâu nghiên cứu đối tượng được tuyển dụng
giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, mà
không đi sâu nghiên cứu các đối tượng là cán bộ cấp xã. Như vậy, giới hạn
công chức cấp xã luận văn đề cập tới là 07 chức danh chuyên môn của Ủy ban
nhân dân cấp xã: Trưởng công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính
quy), Chỉ huy trưởng quân sự, Văn phòng - Thống kê, Địa chính - Xây dựng,
Tài chính - Kế toán, Tư pháp - Hộ tịch và Văn hóa - Xã hội.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; quan điểm, chủ trương đường lối,
chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể như phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê, điều tra, khảo sát
5. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn thực hiện
các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Khái quát, hệ thống các vấn đề lý luận về phổ biến, giáo dục pháp
luật nói chung và phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã nói
13
riêng, đồng thời làm rõ yêu cầu khách quan của việc phổ biến, giáo dục pháp
luật cho công chức cấp xã;
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động phổ biến, giáo dục pháp
luật cho công chức cấp xã trong thời gian qua;
- Đề xuất các giải pháp nhằm đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động
phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã trong giai đoạn hiện nay
và kiến giải việc hoàn thiện pháp luật trong vấn đề này.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Nghiên cứu đặc điểm về phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức
cấp xã và những yêu cầu khách quan của việc phổ biến, giáo dục pháp luật
cho đội ngũ công chức này.
- Đánh giá có hệ thống và toàn diện công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật cho công chức cấp xã.
- Đề xuất được các quan điểm, giải pháp nhằm đổi mới, nâng cao hiệu
lực, hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức
cấp xã.
Chương 2: Thực trạng phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức
cấp xã.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả phổ biến, giáo dục
pháp luật cho công chức cấp xã.
14
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO CÔNG CHỨC CẤP XÃ
1.1. MỤC ĐÍCH VÀ YÊU CẦU PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO CÔNG CHỨC CẤP XÃ
Quản lý xã hội bằng pháp luật là một nguyên tắc quan trọng của quản
lý ở nhà nước ta đã được quy định tại Điều 12 Hiến pháp nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001). Muốn
thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, trước hết cần phải có một hệ thống
pháp luật đầy đủ, hoàn chỉnh, đồng bộ và phù hợp, điều chỉnh kịp thời và toàn
diện các mối quan hệ xã hội phát sinh trong đời sống xã hội. Vì vậy, việc ban
hành pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật là công việc rất quan trọng
của nhà nước ta. Tuy nhiên, một trong những vấn đề quan trọng không kém là
làm thế nào để pháp luật đi vào cuộc sống, được thực thi trong đời sống, phát
huy tác dụng trong tiến trình đổi mới của đất nước. Việc thực thi pháp luật
phụ thuộc rất nhiều vào ý thức, thói quen chấp hành pháp luật của công dân,
mà trước hết là cán bộ, công chức. Pháp luật được ban hành ra là để điều
chỉnh các quan hệ xã hội theo hướng phục vụ quyền và lợi ích hợp pháp của
toàn thể nhân dân lao động, một công cụ hữu hiệu để nhà nước quản lý xã hội
và là công cụ để mỗi cá nhân - công dân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình, của Nhà nước và các chủ thể khác trong xã hội.
Mục đích của pháp luật được thực hiện thông qua hành vi xử sự cụ thể
của mỗi cá nhân. Hành vi xử sự của các chủ thể phù hợp với các quy định của
pháp luật sẽ giữ cho các quan hệ xã hội được ổn định, ngược lại nếu hành vi
xử sự không phù hợp với các quy định của pháp luật thì các quan hệ xã hội sẽ
mất ổn định, mục đích của sự ban hành pháp luật không đạt được, pháp luật
15
không phát huy được hiệu quả trong cuộc sống. Hành vi pháp luật của cá
nhân phụ thuộc vào ý thức pháp luật của họ. Ý thức pháp luật càng cao thì sự
tôn trọng, tuân thủ pháp luật càng cao. Chính vì vậy, công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật có ý nghĩa rất lớn trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước, tăng cường pháp chế và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân. Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg ngày
07 tháng 01 năm 1998 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay nêu rõ: "Công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật luôn giữ vị trí quan trọng trong đời sống xã hội. Trong
công cuộc đổi mới của đất nước ta hiện nay, công tác này càng có vai trò quan
trọng về nhiều mặt" [7].
Phổ biến, giáo dục pháp luật vừa mang tính thực tiễn vừa mang tính
khoa học, do đó trước tiên phải nghiên cứu khái niệm phổ biến, giáo dục pháp
luật dưới góc độ lý luận, khoa học để đối chiếu vào thực hiện và tổ chức thực
hiện tốt trong thực tiễn.
1.1.1. Những nguyên lý chung về phổ biến, giáo dục pháp luật áp
dụng đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã
Trong khoa học pháp lý hiện nay chưa có khái niệm chính thức, thống
nhất về thuật ngữ "phổ biến, giáo dục pháp luật", còn có nhiều quan niệm, cách
hiểu khác nhau về khái niệm này. Trên thực tế, phổ biến, giáo dục pháp luật hầu
như chưa được nhắc đến ở khía cạnh học thuật mà chủ yếu được biết đến với
khái niệm giáo dục pháp luật. Tuy nhiên, trong đa số các văn bản của Đảng và
Nhà nước, phổ biến, giáo dục pháp luật được đề cập phổ biến và thường xuyên.
Nghiên cứu nguyên lý về phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức
cấp xã, trước hết phải tìm hiểu phổ biến, giáo dục pháp luật. Trong khoa học
pháp lý, có quan niệm cho rằng nên hiểu giáo dục pháp luật theo cả hai nghĩa
rộng và hẹp: Giáo dục pháp luật là quá trình ảnh hưởng của những nhân tố
16
khách quan và sự tác động có mục đích, hệ thống và thường xuyên của chủ
thể giáo dục tới đối tượng giáo dục nhằm cung cấp tri thức pháp luật, trang bị
cho đối tượng kiến thức pháp lý để họ có ý thức đúng đắn về pháp luật, tôn
trọng và xử sự theo yêu cầu của pháp luật.
Với quan niệm này, sự tác động của các nhân tố chủ quan đóng vai trò
quan trọng, là yếu tố quyết định đến hiệu quả của công tác giáo dục pháp luật,
song quá trình giáo dục không tách rời những điều kiện tồn tại của xã hội như
chế độ kinh tế, chính trị trong từng giai đoạn cụ thể của sự phát triển xã hội.
Những thay đổi về điều kiện khách quan trong từng giai đoạn phát triển xã hội
sẽ có tác động quan trọng, tạo khả năng biến động trong đời sống tinh thần
của con người và sẽ ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục. Tuy nhiên, nếu theo
quan niệm này thì sẽ dẫn đến sự đồng nhất phạm trù giáo dục pháp luật với
phạm trù hình thành ý thức pháp luật, việc xác định nội dung, phương hướng,
hình thức, phương pháp, phương tiện giáo dục pháp luật sẽ gặp khó khăn.
Thực tiễn chỉ ra rằng kết quả của giáo dục chỉ đạt được khi xác định
đúng đắn nội dung, hình thức, phương tiện và phương pháp giáo dục, đồng
thời có nghệ thuật khéo léo định hướng các yếu tố đó phù hợp với từng giai
đoạn, từng thời kỳ và đối với từng loại khách thể giáo dục khác nhau. Ngược
lại, nếu buông trôi, thả lỏng thì các ảnh hưởng tiêu cực khách quan sẽ có điều
kiện lan rộng.
Có quan điểm cho rằng nên hiểu giáo dục pháp luật theo nghĩa rộng,
đó là ảnh hưởng của các nhân tố chủ quan và khách quan. "Giáo dục pháp luật
được quan niệm là tổng thể các tác động, ảnh hưởng của nhân tố chủ quan và
khách quan đến sự hình thành ý thức, hành vi và kỹ năng xử sự theo các giá
trị, chuẩn mực pháp luật của con người" [25].
Có quan điểm cho rằng, nên hiểu pháp luật theo nghĩa hẹp để phân
biệt phạm trù giáo dục pháp luật với phạm trù hình thành ý thức pháp luật:
17
Giáo dục pháp luật là hoạt động có định hướng, có tổ chức,
có chủ định của chủ thể giáo dục để cung cấp tri thức pháp luật, bồi
dưỡng tình cảm và hành vi hợp pháp cho đối tượng giáo dục nhằm
mục đích hình thành ở họ ý thức pháp luật đúng đắn và thói quen
hành động phù hợp với các quy định của pháp luật và đòi hỏi của
nền pháp chế hiện hành [29].
Theo quan niệm này, giáo dục pháp luật là một nhân tố chủ quan quan
trọng, chủ đạo trong quá trình hình thành ý thức của con người bên cạnh nhân
tố khách quan là các điều kiện tồn tại của xã hội như chế độ kinh tế, chính trị
với những giai đoạn cụ thể của sự phát triển xã hội ấy, như C.Mác đã viết:
"Con người vốn là sản phẩm của hoàn cảnh và giáo dục. Và do đó, con người
thay đổi vốn là sản phẩm của hoàn cảnh và giáo dục đã thay đổi" [28, tr. 20].
Với những quan niệm về phổ biến, giáo dục pháp luật nêu trên,
nguyên lý chung của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là những nguyên
tắc chung, phương pháp và cách thức nhằm đưa pháp luật vào cuộc sống.
Nguyên lý công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đối với công chức cấp xã
vừa có những đặc điểm của nguyên lý chung, vừa có những đặc điểm đặc
thù. Điểm đặc thù này xuất phát trên cơ sở đặc điểm của đội ngũ công chức
cấp xã. Chính vì lý do đó, trong thực tiễn triển khai công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật đối với công chức cấp xã phải bàn tới mặt kỹ thuật (nghiệp
vụ) với tính chất là một hoạt động thực tiễn, nó bao gồm các bước, các công
đoạn phục vụ cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật như: Định hướng
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; lập chương trình, kế hoạch phổ biến,
giáo dục pháp luật; áp dụng các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật; triển
khai chương trình, kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật; kiểm tra đôn đốc,
uốn nắn, sơ kết, tổng kết công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, rút kinh
nghiệm, nghiên cứu khoa học, nâng cao trình độ lý luận về phổ biến, giáo dục
pháp luật…
18
Qua thực tiễn cho thấy, những yếu tố mang tính nguyên lý không thể
thiếu trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đối với công chức cấp xã là:
- Về mục đích, phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã
nhằm cung cấp tri thức pháp luật và xây dựng ý thức pháp luật cho đối tượng
này. Phổ biến, giáo dục pháp luật có sự tác động của các chủ thể đến công
chức cấp xã nhằm hình thành tri thức, tình cảm và thói quen xử sự phù hợp
với quy định của pháp luật, làm cho đối tượng này tự giác tuân thủ pháp luật,
có ý thức pháp luật, thực hiện đúng quy định của pháp luật trong phạm vi
chức trách, nhiệm vụ được giao và làm tốt công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật cho các đối tượng khác và nhân dân trên địa bàn.
- Về nội dung, phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã các
tri thức về pháp luật và nhà nước, đặc biệt là những quy định của pháp luật
thực định, khoa học pháp lý và kinh nghiệm, nghiệp vụ trong quá trình tổ
chức thực hiện pháp luật tại cơ sở.
- Về chủ thể, đối tượng, hình thức và phương pháp phổ biến, giáo dục
pháp luật cho công chức cấp xã cần đa dạng, phong phú. Phổ biến, giáo dục
pháp luật cho những đối tượng của đội ngũ công chức cấp xã có sự tham gia
của nhiều chủ thể với những vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền
khác nhau cùng thực hiện tác động giáo dục tới các đối tượng công chức cấp
xã nhằm đạt được mục đích đã đề ra.
Đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật tương đối phong phú, đa dạng
bởi vì trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và
quản lý xã hội bằng pháp luật, các chủ thể công chức cấp xã đều cần phải có
sự hiểu biết pháp luật để có thể tham gia vào những quan hệ xã hội tùy theo
lĩnh vực hoạt động và địa vị pháp lý của mình.
Phổ biến, giáo dục pháp luật có sự tác động một cách thường xuyên,
liên tục và lâu dài chứ không phải chỉ là sự tác động nhất thời của chủ thể đến
19
đối tượng. Đó là một quá trình đưa pháp luật vào cuộc sống gắn liền với hoạt
động quản lý nhà nước. Đối tượng công chức cấp xã sẽ chịu sự tác động có tổ
chức, định hướng của các thông tin pháp luật, do vậy, chủ thể giáo dục pháp
luật phải hiểu biết được trình độ, nhân thân, đặc điểm của đội ngũ công chức
này để có những phương thức, định hướng truyền tải thông tin đến đối tượng
sao cho hiệu quả nhất. Đồng thời, phổ biến, giáo dục pháp luật phải được thực
hiện ngay trong quá trình xây dựng pháp luật như cung cấp thông tin, phản
ánh, tập hợp các ý kiến đóng góp của các cơ quan, các địa phương Trong
quá trình thực hiện pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật không chỉ dừng lại
ở mức độ thông tin, giáo dục phòng ngừa chung mà còn tác động lên ý thức,
khả năng phát hiện, đề xuất của các đối tượng thi hành nhằm đổi mới, hoàn
thiện hệ thống pháp luật, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ công
chức cấp xã và yêu cầu phát triển toàn xã hội.
1.1.2. Đặc điểm của đội ngũ công chức cấp xã và công tác phổ biến,
giáo dục cho công chức cấp xã
1.1.2.1. Khái niệm công chức cấp xã và công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật cho công chức cấp xã
Để hiểu rõ về công chức cấp xã, trước hết cần làm rõ khái niệm và vai
trò của chính quyền cấp xã. Hiện đang có nhiều cách hiểu khác nhau về chính
quyền cấp xã. Trong các văn bản chính trị, pháp lý hiện nay đang tồn tại nhiều
khái niệm và cách hiểu về chính quyền cấp xã: chính quyền cấp xã, chính
quyền cơ sở, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp xã.
Theo từ điển tiếng Việt thông dụng, chính quyền được hiểu là: "1. Bộ
máy điều hành, quản lý công việc nhà nước ở các cấp. 2. Quyền quản lý, điều
khiển bộ máy nhà nước ở các cấp" [44]. Chính quyền theo nghĩa này gắn với
từ "địa phương", là chính quyền địa phương - bộ máy quản lý, điều hành các
công việc nhà nước ở địa phương. Từ điển Oxford Advanced Learner’s
20
Dictionary thì cho rằng: Chính quyền địa phương là một nhóm người chịu
trách nhiệm đối với việc quản lý hành chính một vùng lãnh thổ [45].
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, chính quyền được chia thành
4 cấp: Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Chính quyền cấp xã, còn
gọi là cấp cơ sở, là cấp thấp nhất trong các cấp chính quyền, được tổ chức tại
các đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn. Chính quyền cấp xã có một vị trí
đặc biệt trong các cấp chính quyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: "Cấp
xã là gần gũi nhân dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được
việc thì mọi việc đều xong xuôi" [30].
Qua các thời đại, chính quyền làng - xã vẫn giữ được vị trí quan trọng
của nó trong tổ chức hành chính Việt Nam. Chế độ xã, thôn tự quản được áp
dụng ở nước ta ngay từ thời xa xưa, theo đó xã thôn Việt Nam được hưởng
một nền tự trị rộng rãi về các phương diện: hành chính, tài chính Mối quan
hệ giữa Nhà nước và xã thông thường thể hiện bằng câu ngạn ngữ được
truyền tụng trong nhận thức của tất cả mọi người: "Phép Vua thua lệ làng", là
một bằng chứng xác đáng nói lên nhận định đó [13, tr. 23].
Khác với các bộ phận khác trong hệ thống chính trị ở cơ sở, chính
quyền cấp xã được nhà nước trao quyền lực đặc biệt, được áp dụng các biện
pháp cưỡng chế nhà nước trong khuôn khổ pháp luật và có nguồn lực để thực
hiện quản lý nhà nước ở cơ sở. Đường lối, chủ trương của tổ chức cơ sở đảng -
hạt nhân chính trị, lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị ở cơ sở chỉ có thể đi
vào đời sống của nhân dân thông qua hoạt động của chính quyền cấp xã.
Chính quyền cấp xã thể chế hoá và hiện thực hoá các chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng trong cuộc sống.
Có đưa cuộc sống vào pháp luật thì mới có thể đưa pháp
luật vào cuộc sống được bởi vì pháp luật khi phù hợp cuộc sống,
được người dân chấp nhận, tin tưởng thì mới có thể "trở thành hành
vi thực tế" của họ. Đành rằng, nếu chỉ có người dân tin tưởng, tôn
21
trọng và tuân thủ không thôi thì cũng chưa đủ để có thể đưa pháp
luật vào cuộc sống một cách toàn diện được, mà nó còn đòi hỏi từ
phía nhà nước, nơi đề ra và tổ chức thực thi pháp luật [34, tr. 43].
Chính quyền cấp xã tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức chính trị -
xã hội và các đoàn thể nhân dân thực hiện có hiệu quả quyền làm chủ của
nhân dân trong quản lý mọi mặt của đời sống xã hội ở cơ sở, tiếp thu các kiến
nghị của các tổ chức chính trị - xã hội về những vấn đề liên quan đến quyền
và lợi ích hợp pháp của nhân dân địa phương.
Để tổ chức thực hiện tốt các nhiệm vụ của chính quyền cấp xã chính là
đội ngũ công chức cấp xã. Hiệu quả hoạt động của chính quyền cấp xã phụ
thuộc rất nhiều vào năng lực, trình độ, phẩm chất của đội ngũ công chức này.
Vấn đề đặt ra là công chức cấp xã là ai?
Các nhà lý luận và thực tiễn ở nước ta đã đưa ra nhiều quan niệm về
cán bộ, công chức, viên chức và khái niệm người lao động với tính chất chung
là người làm công ăn lương. Việc quan niệm thế nào là cán bộ, thế nào là
công chức, viên chức phụ thuộc vào từng giai đoạn, từng thời kỳ phát triển
của nền hành chính công vụ. Tuy nhiên, quan niệm phổ biến cho rằng: "Công
chức là người đại diện cho nhà nước để thực thi quyền hành pháp" [38].
Đến năm 1998, pháp luật nước ta cũng không đưa ra định nghĩa thế
nào là cán bộ, thế nào là công chức, mà chỉ đưa ra một khái niệm chung về
cán bộ, công chức. Theo đó, tại Điều 1 Pháp lệnh Cán bộ, công chức ngày 26
tháng 02 năm 1998 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (sửa đổi, bổ sung năm
2003) quy định:
Cán bộ, công chức quy định tại Pháp lệnh này là công dân
Việt Nam trong biên chế, bao gồm:
a- Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm
kỳ trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị -
22
xã hội ở trung ương; ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau
đây gọi chung là cấp tỉnh); ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện);
b- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao
nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
c- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch
công chức hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên trong các cơ
quan nhà nước ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
d- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch
viên chức hoặc giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị
sự nghiệp của nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội
đ- Thẩm phán tòa án nhân dân; kiểm sát viên viện kiểm sát
nhân dân;
e- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao
nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc
quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên
nghiệp, công nhân quốc phòng; làm việc trong các cơ quan đơn vị
thuộc công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan
chuyên nghiệp.
g- Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo
nhiệm kỳ trong thường trực hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân; Bí
thư, phó bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội
xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã);
h- Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh
chuyên môn nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã [40].
23
Cụ thể hóa các quy định của Pháp lệnh Cán bộ, công chức, ngày 10
tháng 10 năm 2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 114/2003/NĐ-CP
về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn, theo đó khoản 2 Điều 2 quy định:
Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh
chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã (gọi chung là
công chức cấp xã), gồm có các chức danh sau đây:
a- Trưởng công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy);
b- Chỉ huy trưởng quân sự;
c- Văn phòng - Thống kê;
d- Địa chính - Xây dựng;
đ- Tài chính - Kế toán;
e- Tư pháp - Hộ tịch;
g- Văn hoá - Xã hội [9].
Mới đây nhất, khái niệm công chức và cán bộ, công chức cấp xã đã
được ghi nhận tại Điều 4 Luật Cán bộ, công chức năm 2008, cụ thể là:
2. Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ
nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng
sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương,
cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân
mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân
quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà
không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy
lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung
là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản
24
lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ
lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
3. Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã)
là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ
trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư,
Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội;
công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một
chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã,
trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước [37].
Công chức cấp xã là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính
quyền cơ sở nói riêng, tổ chức bộ máy Nhà nước ta nói chung, do vậy, họ là
một trong những đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật đặc biệt, bởi lẽ họ
vừa là đối tượng được phổ biến, giáo dục pháp luật nhưng đồng thời cũng là
chủ thể hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật. Vì thế cần phải coi trọng việc
phổ biến, giáo dục, bồi dưỡng tri thức lý luận về pháp luật cho đội ngũ công
chức này. Trong điều kiện nước ta thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
chủ động hội nhập quốc tế, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho công
chức cấp xã càng trở lên cần thiết, điều đó bắt nguồn từ những lý do sau:
Thứ nhất, xuất phát từ yêu cầu cải cách hành chính, xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, đội
ngũ công chức cấp xã cần nâng cao hiểu biết pháp luật, trước hết để phục vụ
Nhà nước, phục vụ nhân dân và sau đó là lực lượng nòng cốt tiên phong thực
hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân trên địa
bàn góp phần nâng cao dân trí pháp luật trong nhân dân.
Thứ hai, phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã là một
trong những hình thức thực hiện các chủ trương, chính sách hướng về cơ sở
của Đảng và Nhà nước ta, là hoạt động nhằm đáp ứng yêu cầu tăng cường
25
quản lý xã hội bằng pháp luật, góp phần nâng cao hiểu biết và ý thức tôn
trọng pháp luật đối với cơ sở.
Thứ ba, xuất phát từ thực trạng tổ chức và hoạt động của chính quyền
và công chức cấp xã ở nước ta trong những năm qua còn bộc lộ nhiều hạn
chế, bất cập. Mặc dù Đảng và Nhà nước ta có nhiều quan tâm củng cố, kiện
toàn chính quyền và đội ngũ công chức cấp xã, nhưng những kết quả phổ
biến, giáo dục pháp luật ở địa phương còn chưa đạt như mong muốn, vẫn còn
hiện tượng vi phạm pháp luật, thậm chí có nơi vẫn còn tình trạng "mù luật".
Điều đó là vấn đề mà toàn xã hội quan tâm, nhất là tệ quan liêu, tham nhũng
trong bộ máy chính quyền và công chức cấp xã, làm ảnh hưởng nghiêm trọng
đến các quan hệ và chuẩn mực xã hội.
Những vấn đề nêu trên đặt ra yêu cầu phải cung cấp và nâng cao kiến
thức pháp luật cho công chức cấp xã. Đội ngũ công chức này khi tham gia vào
các quan hệ pháp luật để thực thi nhiệm vụ, họ là những người đại diện cho
đơn vị Ủy ban nhân dân cấp xã để thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý.
Hành vi xử sự của họ là tấm gương tuân thủ pháp luật không những của cá
nhân họ mà còn của cơ quan công quyền ở địa phương mà họ đại diện. Trước
con mắt của quần chúng nhân dân thì mỗi sai sót hoặc vi phạm của cơ quan
nhà nước, của mỗi công chức đều gây một ấn tượng không tốt đẹp, vì thế phổ
biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã nhằm hình thành, nâng cao tình
cảm về quyền và nghĩa vụ pháp lý trong các quan hệ pháp luật để họ có hành
vi, thái độ xử sự phù hợp, tạo ra nếp sống văn hoá pháp lý nơi công sở và
trong quá trình thi hành công vụ.
Kế thừa những khái niệm về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và
trên cơ sở những đặc điểm, các nội dung phân tích nêu trên có thể đưa ra khái
niệm phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã như sau:
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã là hoạt động có
định hướng, có tổ chức, có chủ định dưới nhiều hình thức khác nhau trong
26
việc cung cấp cho công chức cấp xã những hiểu biết về những vấn đề pháp
luật nói chung và những vấn đề pháp luật cụ thể liên quan đến hoạt động công
vụ đang được tiến hành nhằm mục đích hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình
cảm và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành.
1.1.2.2. Mục đích của phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức
cấp xã
Mục đích phổ biến, giáo dục pháp luật là hoạt động mang tính định
hướng nhằm trang bị, cung cấp, bồi dưỡng và nâng cao tri thức pháp luật,
hình thành lòng tin vào pháp luật và xây dựng thói quen vững chắc xử sự theo
những đòi hỏi của pháp luật, ý thức tự giác chấp hành pháp luật của đối tượng
giáo dục.
Nghiên cứu mục đích của phổ biến, giáo dục pháp luật để phân biệt
phổ biến, giáo dục pháp luật với các dạng phổ biến, giáo dục khác, đồng thời
căn cứ vào mục đích đó để xác định nội dung, hình thức, phương pháp phổ
biến, giáo dục pháp luật phù hợp với từng chủ thể và đối tượng. Mục đích của
phổ biến, giáo dục pháp luật phải đáp ứng được các nhu cầu cụ thể của xã hội
đối với phổ biến, giáo dục pháp luật ở từng giai đoạn trong điều kiện lịch sử
cụ thể. Theo quan điểm chung của nhiều nhà khoa học, mục đích phổ biến,
giáo dục pháp luật nhằm: (1). Hình thành, làm sâu sắc và từng bước mở rộng
hệ thống tri thức pháp luật của công dân (mục đích nhận thức); (2). Hình
thành tình cảm và lòng tin đối với pháp luật (mục đích cảm xúc); (3). Hình
thành động cơ, hành vi và thói quen xử sự theo pháp luật (mục đích hành vi).
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã nhấn mạnh yêu cầu: "Cán bộ quản lý các cấp từ trung ương đến
đơn vị cơ sở phải có kiến thức về quản lý hành chính và hiểu biết pháp luật,
cần sử dụng nhiều hình thức và biện pháp để giáo dục, nâng cao ý thức pháp
luật và làm tư vấn pháp luật cho nhân dân" [14, tr. 121]. Nghị quyết Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục nhấn
27
mạnh yêu cầu "thường xuyên giáo dục pháp luật, xây dựng ý thức sống và
làm việc theo pháp luật" [15, tr. 92]. Trong nhiệm vụ xây dựng Đảng, Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cũng nhấn mạnh yêu cầu về trình độ
năng lực của cán bộ, đảng viên phải "có hiểu biết cơ bản về chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước" [24, tr. 300]. Với chủ trương của Đảng, mục đích phổ
biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã càng trở lên quan trọng nhằm:
- Trang bị cho đội ngũ công chức này những kiến thức pháp luật giúp
họ có trình độ nhận thức nhất định, thậm chí một bộ phận phải đảm bảo có
trình độ lý luận về pháp luật phục vụ nhiệm vụ được giao; Hình thành, làm
sâu sắc và từng bước mở rộng hệ thống tri thức pháp luật cho công chức cấp
xã, công dân trên địa bàn; làm cho mọi đối tượng có sự am hiểu về pháp luật,
nhận thức đúng đắn về giá trị xã hội, vai trò điều chỉnh của pháp luật; giúp
cho con người tổ chức một cách có ý thức hoạt động của mình và tự đánh giá
kiểm tra, đối chiếu hành vi với các chuẩn mực pháp luật, có tình cảm và lòng
tin vào pháp luật, có ý thức pháp luật cao, tự giác tuân thủ pháp luật, góp phần
bảo đảm cho pháp luật đi vào cuộc sống, phát huy được vai trò, hiệu quả điều
chỉnh các quan hệ xã hội.
- Tình cảm và lòng tin đối với pháp luật của mỗi đối tượng công chức
cấp xã không giống nhau, có những cấp độ khác nhau, nhưng phổ biến, giáo
dục pháp luật cho đội ngũ công chức này phải đạt được mục đích: Hình thành
tình cảm công bằng, tình cảm trách nhiệm, tình cảm không khoan nhượng và
tình cảm pháp chế của công chức cấp xã, công dân trên địa bàn; hình thành
động cơ, hành vi tích cực pháp luật, thói quen xử sự phù hợp với các quy định
của pháp luật, thực hiện đúng đắn, tận tâm các quyền và nghĩa vụ pháp lý,
thói quen sử dụng và áp dụng các tri thức pháp luật và các quy phạm pháp
luật cụ thể để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, của người khác,
của Nhà nước và của xã hội.
28
- Phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã nhằm xây dựng
cho họ thói quen thực hiện hành vi phù hợp với quy định của pháp luật, cụ thể
làđảm bảo cho họ có khả năng thực hiện tốt chuyên môn, giúp cấp có thẩm
quyền ra được những chủ trương, quyết sách đúng, thực hiện đầy đủ các quy
định của pháp luật trong thực thi nhiệm vụ, đồng thời, không vi phạm pháp
luật trong quan hệ với Nhà nước và với các đối tượng có liên quan trong
phạm vi thẩm quyền được giao.
Các mục đích của phổ biến, giáo dục cho công chức cấp xã có mối
đan xen, qua lại trong mối liên hệ hữu cơ thống nhất, từ tri thức pháp luật đến
tính tự giác; từ tính tự giác đến tính tích cực; từ tính tích cực đến thói quen xử
sự theo pháp luật. Ngược lại, khi có thói quen xử sự theo pháp luật thì lòng
tin, tình cảm pháp luật lại được củng cố. Do đó, khi tiến hành phổ biến, giáo
dục pháp luật đều phải hướng hoạt động vào tất cả các mục đích đã đề ra.
Do đặc điểm của các đối tượng công chức cấp xã là những người được
Nhà nước giao trọng trách thay mặt Nhà nước xử lý các công việc ở địa
phương thuộc thẩm quyền quản lý trong phạm vi sở tại, do vậy, họ là những
người trực tiếp tham gia hoạt động quản lý của chính quyền cơ sở. Chính vì lý
do đó, phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã phải tác động đến
hoạt động quản lý nhà nước trong phạm vi thẩm quyền của đội ngũ công chức
này. Hơn nữa, các đối tượng trong đội ngũ công chức cấp xã có trình độ nhận
thức, vị trí, vai trò khác nhau đối với hoạt động của chính quyền cơ sở, do
vậy, yêu cầu phổ biến, giáo dục pháp luật đối với từng đối tượng công chức
cấp xã cũng có sự khác nhau. Mục đích phổ biến, giáo dục pháp luật đối với
từng đối tượng công chức cấp xã trên cơ sở đó cũng có sự khác biệt.
1.1.2.3. Chủ thể và đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật cho công
chức cấp xã
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã đa dạng về chủ thể
với những vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm xã hội khác nhau