Tải bản đầy đủ (.pdf) (143 trang)

Phổ biến, giáo dục pháp luật cho người lao động trong các doanh nghiệp tại địa bàn thành phố Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 143 trang )



4
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các bảng


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁC LOẠI
HÌNH DOANH NGHIỆP
10
1.1.
Khái quát chung về phổ biến, giáo dục pháp luật cho người lao
động trong các loại hình doanh nghiệp


10
1.2.
Mục đích
13
1.3.
Chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật cho người lao động
18
1.3.1.
Sở Lao động-Thương binh và Xã hội thành phố
20
1.3.2.
Liên đoàn Lao động thành phố Đà Nẵng
21
1.3.3.
Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật
23
1.4.
Đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật là người lao động trong
các doanh nghiệp
24
1.5.
Nội dung và nhận thức quyền con người trong phổ biến, giáo dục
pháp luật cho người lao động ở các loại hình doanh nghiệp
30
1.5.1.
Nội dung
30
1.5.2.
Nhận thức quyền con người trong phổ biến, giáo dục pháp luật
cho người lao động ở các loại hình doanh nghiệp

35
1.6.
Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật
37
1.7.
Phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật
42
1.8.
Các yếu tố tác động đến phổ biến, giáo dục pháp luật, ý thức pháp
luật của người lao động trong các loại hình doanh nghiệp
44
1.9.
Đặc điểm cơ bản của phổ biến, giáo dục pháp luật cho người lao
55


5
động trong các loại hình doanh nghiệp
1.9.1.
Khác với các đối tượng khác
55
1.9.2.
Nét đặc thù của phổ biến, giáo dục pháp luật khác tương đối với
các dạng giáo dục khác ở chỗ
60

Chương 2: THỰC TRẠNG PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG Ở CÁC LOẠI HÌNH DOANH
NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
62

2.1.
Đặc điểm tình hình người lao động của thành phố Đà Nẵng
62
2.2.
Tình hình về hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật
thành phố và đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật
64
2.2.1.
Về hoạt động của Hội đồng phổ biến, giáo dục pháp luật
64
2.2.2.
Tình hình đội ngũ báo cáo viên và Hội đồng hòa giải cơ sở
66
2.3.
Tiêu chí đánh giá hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật cho người
lao động trong các doanh nghiệp
69
2.4.
Dự báo số lao động
71
2.5.
Thực trạng phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung, phổ biến, giáo
dục pháp luật cho người lao động nói riêng
72
2.5.1.
Thực trạng phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn thành phố
nói chung
72
2.5.2.
Thực trạng phổ biến, giáo dục pháp luật cho người lao động trong

các loại hình doanh nghiệp
78
2.5.3.
Kết quả việc thụ hưởng qua phổ biến, giáo dục pháp luật cho
người lao động trong các loại hình doanh nghiệp
96
2.6.
Một số vấn đề đặt ra
98

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO
NGƯỜI LAO ĐỘNG Ở DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
100
3.1.
Các quan điểm của đảng, các cơ sở pháp lý về phổ biến, giáo dục
pháp luật cho người lao động trong các doanh nghiệp
100
3.2.
Nhu cầu tìm hiểu pháp luật của người lao động trong tình hình
102


6
hiện nay
3.2.1.
Về nhận thức chung
103
3.2.2.

Nhu cầu được tìm hiểu từng ngành luật
104
3.2.3.
Hình thức tiếp cận tốt nhất
104
3.2.4.
Nhu cầu được cung cấp tài liệu
105
3.2.5.
Nhận xét chung
106
3.3.
Phương hướng hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho người
lao động trong tình hình hiện nay
106
3.4.
Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật cho người lao động trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
109
3.4.1.
Nâng cao nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền, doanh
nghiệp; liên kết, phối hợp trong hệ thống chính trị để tập trung
cao nhất vào công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho người lao
động trong các doanh nghiệp ở thành phố Đà Nẵng
109
3.4.2.
Xây dựng một đội ngũ cán bộ và báo cáo viên, tuyên truyền viên
pháp luật giỏi về nghiệp vụ; huy động các lực lượng cộng tác viên
khác vào phổ biến, giáo dục pháp luật cho người lao động trong
các loại hình doanh nghiệp trên địa bàn thành phố

111
3.4.3.
Đổi mới nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật cho người lao động
114
3.4.4.
Đổi mới các hình thức, phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật
cho người lao động trong các doanh nghiệp ở thành phố Đà Nẵng
116
3.4.5.
Phát huy vai trò của công đoàn và cơ chế phối hợp công đoàn và chủ
doanh nghiệp trong phổ biến, giáo dục pháp luật cho người lao động
124
3.4.6.
Nâng cao trình độ học vấn cho người lao động tại các doanh
nghiệp trên địa bàn thành phố
126
3.4.7.
Tăng cường đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất cho công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật
127
3.4.8.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật
tại các doanh nghiệp
127
3.4.9.
Nâng cao trách nhiệm của chủ doanh nghiệp trong phổ biến, giáo
dục pháp luật và hiệu quả hoạt động của Công đoàn cơ sở
128



7
3.4.10.
Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật
130

KẾT LUẬN
132

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
134


8



DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Trình độ đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật
thuộc Liên đoàn Lao động thành phố
68
2.2
Số lượng doanh nghiệp và người lao động phân bổ theo khu
vực và thành phần kinh tế tại Đà Nẵng đến cuối năm 2011
72

2.3
Số lượng tài liệu phổ biến, giáo dục pháp luật được phát hành
những năm qua
83
3.1
Nhận thức chung của người lao động và cán bộ công đoàn
104
3.2
Nhu cầu tìm hiểu các ngành luật cụ thể
104
3.3
Các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật được người lao
động, cán bộ Công đoàn lựa chọn
105
3.4
Nhu cầu cung cấp tài liệu phổ biến, giáo dục pháp luật
105





9
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong những năm qua, giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã
hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm
công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp,
hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp. Quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giai cấp công nhân đã có những chuyển biến quan
trọng, tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu, chất lượng được nâng lên, đã hình
thành ngày càng đông đảo bộ phận công nhân trí thức; đang tiếp tục phát huy vai trò
là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Ðảng Cộng sản Việt
Nam, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi
đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc
tế; có nhiều cố gắng để phát huy vai trò là lực lượng nòng cốt trong liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Ðảng.
Với yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền theo tinh thần Nghị quyết Đại
hội XI của Đảng là:
Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo; thực hiện tốt chức năng
quản lý kinh tế, quản lý xã hội; giải quyết đúng mối quan hệ giữa Nhà
nước với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, với nhân dân, với thị
trường. Nâng cao năng lực quản lý và điều hành của Nhà nước theo pháp
luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật, kỷ cương. Nhà
nước chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của
mọi người dân. Nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận
hành cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý


10
kinh tế của Nhà nước phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ
chế, chính sách để vận hành có hiệu quả nền kinh tế và thực hiện tốt các
cam kết quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc [20, tr. 246].

Vì vậy, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa là một nguyên tắc hiến định
thể hiện trong Hiến pháp của nước ta, nhằm thiết lập một nền pháp chế thống nhất
và vững chắc trên phạm vi cả nước, để thiết lập trật tự xã hội, kỷ cương phép nước
được nghiêm minh, dân chủ và công bằng, bằng nhiều giải pháp, nhiều con đường
khác nhau, nhưng giải pháp không kém phần quan trọng để đảm bảo việc thực hiện
pháp luật trở thành lối sống, thói quen trong đời sống xã hội đó là đẩy mạnh công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho Nhà nước và nhân
dân nói chung, người lao động trong các thành phần kinh tế nói riêng.
Nhằm thể chế hóa quan điểm của Đảng, nhiều văn bản pháp luật về công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân nói chung, phổ biến pháp luật cho
người lao động nói riêng được Nhà nước ban hành. Chỉ thị số 32-CT/TW của Ban
bí thư về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân". Ngày 12/3/2008
Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 37/2008/QĐ-TTg phê duyệt chương
trình hành động quốc gia về tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2008
đến 2012. Ngày 24/2/2009 Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số
31/2009/QĐ-TTg về việc phê duyệt "Đề án Tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp
luật cho người lao động và người sử dụng lao động trong các loại hình doanh
nghiệp giai đoạn 2009-2012". Đặc biệt, đã có Luật phổ biến, giáo dục pháp luật
được Quốc hội thông qua.
Trên cơ sở đó, thời gian qua cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế
đất nước, kinh tế Đà Nẵng cũng có sự phát triển đáng kể, đặc biệt từ khi Đà Nẵng
được công nhận là đô thị loại 1 cấp quốc gia và Bộ Chính trị đã có Nghị quyết 33 về
phát triển Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa- hiện đại hóa vào năm 2003.
Song song với sự phát triển kinh tế-xã hội của thành phố thì giai cấp công nhân
không ngừng lớn mạnh về số lượng và chất lượng để đáp ứng nhu cầu phát triển


11
kinh tế của thành phố, những năm qua cả hệ thống chính trị của thành phố đã vào cuộc,

tập trung các nguồn lực để nâng cao kiến thức pháp luật cho người lao động, với nhiều
hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đa dạng, phong phú, dễ tiếp
thu. Tuy nhiên, qua khảo sát đa phần công nhân xuất thân từ nông thôn có sức lao
động, nhưng trình độ học vấn thấp, chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống, giác
ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị của công nhân không đồng đều, đặc biệt là sự hiểu
biết về các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước còn nhiều hạn
chế, không tự bảo vệ được bản thân của mình trong các quan hệ lao động, trong các
quan hệ xã hội, chất lượng, phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật và số lượng
người lao động hiểu biết pháp luật còn là vấn đề bức xúc. Vì vậy, nâng cao kiến
thức pháp luật cho người lao động trong các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố là
yêu cầu cấp thiết cần có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị thành phố Đà Nẵng.
Câu hỏi đặt ra là: thực trạng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho
người lao động như thế nào?. Phương hướng, giải pháp nào để nâng cao trình độ
hiểu biết, sử dụng pháp luật cho người lao động trong các doanh nghiệp trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng?. Đây là những câu hỏi mà bản thân đặt ra để nghiên cứu trong
đề tài luận văn tốt nghiệp chuyên ngành lý luận Nhà nước và pháp luật.
Qua hai năm học tập, nghiên cứu tại Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội
và Đại học Huế, kết hợp giữa lý luận đã học và thực tiễn tại thành phố Đà Nẵng
cũng như thực tiễn thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho công nhân
viên chức lao động tại Liên đoàn Lao động thành phố Đà Nẵng, tôi chọn đề tài:
"Phổ biến, giáo dục pháp luật cho người lao động tại các doanh nghiệp trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng" để làm đề tài luận văn tốt nghiệp. Tôi hy vọng sẽ góp
phần nhỏ bé vào công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung và phổ biến, giáo
dục pháp luật cho người lao động trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Đánh giá đúng thực trạng và xác định được phương hướng, giải pháp nhằm
bổ sung, hoàn thiện phổ biến, giáo dục pháp luật cho người lao động trong các loại
hình doanh nghiệp của hệ thống chính trị thành phố Đà Nẵng.



12
2.2. Mục tiêu cụ thể
Để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu tổng quát của vấn đề nghiên cứu, thì
mục tiêu cụ thể cần hướng đến 3 vấn đề sau:
Thứ nhất: Đề tài sẽ phân tích làm rõ cơ sở lý luận chung về phổ biến, giáo
dục pháp luật nói chung và phổ biến, giáo dục pháp luật cho người lao động ở các
loại hình doanh nghiệp nói riêng;
Thứ hai: Sẽ phân tích, đánh giá đúng thực trạng phổ biến, giáo dục pháp luật
cho người lao động ở các loại hình doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng;
Thứ ba: Từ phân tích, đánh giá đúng thực trạng đó, đề ra các phương
hướng, giải pháp nhằm tăng cường, nâng cao chất lượng, hiệu quả phổ biến, giáo
dục pháp luật cho người lao động ở các loại hình doanh nghiệp ở thành phố Đà
Nẵng trong giai đoạn hiện nay.
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
- Đây là đề tài chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu có hệ thống những vấn đề
thuộc về lý luận và thực tiễn phổ biến, giáo dục pháp luật cho người lao động trong
các doanh nghiệp ở một thành phố có tốc độ phát triển nhanh, lực lượng công nhân
lao động đông như thành phố Đà Nẵng.
- Phân tích, đánh giá một cách cụ thể về thực trạng phổ biến, giáo dục pháp
luật cho người lao động trong các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
- Nghiên cứu, đề xuất các phương hướng, giải pháp cụ thể nhằm tăng cường
và nâng cao hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật cho người lao động ở các loại
hình doanh nghiệp ở thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay.
- Luận văn góp phần vào việc nhận thức một cách khách quan, đúng đắn,
tính đặc thù và thực trạng phổ biến, giáo dục pháp luật cho người lao động trong các
doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, từ đó chỉ ra được tầm quan trọng,
cũng như trách nhiệm của hệ thống chính trị thành phố trong công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật cho người lao động trong các thành phần kinh tế ở thành phố Đà Nẵng;
- Các phương hướng, giải pháp đề ra trong luận văn có thể áp dụng trong

việc hoàn thiện pháp luật về phổ biến, giáo dục pháp luật; trong việc xây dựng các


13
chương trình, kế hoạch, các đề án về phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung và phổ
biến, giáo dục pháp luật cho người lao động trong các doanh nghiệp nói riêng tại
thành phố Đà Nẵng.
- Luận văn sẽ nghiên cứu lồng ghép vấn đề nhân quyền (quyền con người)
trong phổ biến, giáo dục pháp luật cho người lao động.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy, tập huấn cho các
Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật, cho cán bộ công đoàn, người sử
dụng lao động trong các thành phần kinh tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu phổ biến, giáo dục pháp luật cho người lao động ở các
thành phần kinh tế trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay. Tập
trung vào nghiên cứu thực trạng và phương hướng, giải pháp tăng cường và nâng
cao hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật cho người lao động ở các doanh nghiệp
ngoài nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp Nhà
nước, các chi nhánh, các nghiệp đoàn, hợp tác xã trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn từ năm 2003 đến nay, từ khi Bộ Chính trị
có Nghị quyết 33 về phát triển Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và có Quyết định phê duyệt đề án tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2003- 2007.
5. Tổng quan tài liệu
Phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung là một phạm trù pháp lý, là một
dạng hoạt động của nhà nước trong tổ chức và thực hiện pháp luật, là biện pháp
tăng cường pháp chế, do đó vấn đề này là vấn đề đã và đang được các nhà khoa học
pháp lý quan tâm. Đặc biệt trong thời kỳ đổi mới đất nước, hoàn thiện và xây dựng
nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, thì công tác này còn được quan tâm
hơn với nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này đã được công bố.

- Các công trình nghiên cứu ở ngoài nước như:
+ "Giáo dục ý thức pháp luật với việc tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa", Luận án Tiến sĩ của Trần Ngọc Đường.


14
+ "Ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa và giáo dục pháp luật cho nhân dân
lao động ở Việt Nam", Luận án Tiến sĩ luật của Nguyễn Đình Lộc.
- Ở trong nước việc nghiên cứu về phổ biến, giáo dục pháp luật được nhiều tác
giả đề cập đến với những khía cạnh, đối tượng nghiên cứu khác nhau thể hiện thông
qua các công trình nghiên cứu, các đề tài luận án, luận văn luật, các bài báo, tạp chí như:
+ "Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật", Đào Trí Úc chủ biên, Hà
Nội, 1995;
+ "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong công cuộc
đổi mới", của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Hà Nội, 1995;
+ "Cơ sở khoa học của việc xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật", Đề
tài khoa học cấp Nhà nước, do Viện Nhà nước-Pháp luật thuộc Trung tâm Khoa học
xã hội và nhân văn chủ trì;
+ "Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam", Luận án Phó
Tiến sĩ của Dương Thị Thanh Mai;
+ "Một số vấn đề về phổ biến giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay",
Luận văn thạc sĩ của Đặng Ngọc Hoàng.
+ " Giáo dục pháp luật cho nhân dân các dân tộc ít người ở tỉnh Đăk Lăk-
Thực trạng và giải pháp", luận văn thạc sĩ của Phạm Hàn Lâm, năm 2001;
+ "Tìm kiếm mô hình phổ biến, giáo dục pháp luật có hiệu quả trong một số
dân tộc ít người", đề tài khoa học cấp Bộ của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý -
Bộ tư pháp, 1995.
+ "Đổi mới giáo dục pháp luật trong hệ thống các Trường chính trị ở nước
ta hiện nay", đề tài cấp Bộ của khoa Nhà nước và Pháp luật Học viện chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, 2000.

+ "Giáo dục pháp luật cho cán bộ và công chức trên địa bàn tỉnh Bình Định
thực trạng và giải pháp", luận văn thạc sĩ luật học của Trần Văn Trầm, 2002.
+ "Giáo dục pháp luật cho cán bộ chính quyền cấp xã ở tỉnh Quảng Trị
hiện nay", luận văn thạc sĩ luật học của Cao Thị Hà, 2003.


15
+ "Nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật trong đào tạo sĩ quan hậu cần
hiện nay", luận văn thạc sĩ luật học của Lê Hồng Sơn, 2004.
+ "Giáo dục pháp luật cho đồng bào người Chăm ở tỉnh Ninh Thuận hiện
nay", Luận văn thạc sĩ của Đinh Thị Hoa, năm 2005.
+ "Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức của Đài truyền hình Việt Nam
hiện nay", luận văn thạc sĩ luật học của Lại Tự Hùng, 2007.
+ "Giáo dục pháp luật trong các trường chính trị tỉnh ở Miền Tây Nam Bộ
hiện nay", Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thái Vinh, năm 2008.
+ "Giáo dục pháp luật cho phụ nữ nông thôn trên địa bàn tỉnh Hưng Yên",
luận văn thạc sĩ luật học của Đinh Thị Hương, 2008.
+ "Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở tỉnh
Điện Biên", luận văn thạc sĩ luật học của Hoàng Thị Ngọc Anh, 2009.
+ "Giáo dục pháp luật cho cán bộ, chiến sĩ thuộc bộ chỉ huy quân sự tỉnh
Nghệ An", luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Duy Lĩnh, 2010.
- Một số bài viết trên các báo, tạp chí thời gian gần đây.
+ "Tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng trong công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật", đăng ngày 26/4/2011 của báo Nhân dân online.
+ "Xã hội hóa công tác phổ biến giáo dục pháp luật trong tình hình mới"
của Hồ Viết Hiệp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 9/2000.
+ "Phổ biến, giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên, quan trọng nhất đưa
pháp luật vào cuộc sống", ngày 16/2/2011 trên trang thông tin Viện Nhà nước -
Pháp luật.
+ "Vai trò của các cấp Công đoàn trong công tác tư vấn pháp luật cho

người lao động tại các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay", của Trần Thị Thanh
Hà, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5/2009.
+ "Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động phổ biến, giáo dục pháp
luật của Công đoàn trong giai đoạn hiện nay", Lê Thị Châu, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, số 7/2009.


16
+ "Nâng cao hiệu quả lồng ghép phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua
hoạt động tư vấn pháp luật", của Hà Phương, Tạp chí Dân chủ và pháp luật.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu khoa học của các tập thể, cá nhân,
cũng như các bài viết của các tác giả từ trước đến nay về công tác giáo dục pháp
luật nói chung, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nói riêng đã đóng góp rất
nhiều vào nghiên cứu lý luận và thực tiễn ở nhiều góc độ, nhiều đối tượng, địa
phương, lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, có thể nói rằng cho đến nay chưa có một
công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, cụ thể và có hệ thống về phổ biến, giáo
dục pháp luật cho người lao động ở các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng. Vì vậy, đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu có hệ thống về công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật cho người lao động trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
6. Nội dung và phương pháp nghiên cứu
6.1. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu phân tích làm rõ cơ sở lý luận chung về phổ biến, giáo dục
pháp luật cho người lao động trong các loại hình doanh nghiệp;
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng phổ biến, giáo dục pháp luật cho
người lao động ở các loại hình doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng;
- Đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường, nâng cao hiệu
quả phổ biến, giáo dục pháp luật cho người lao động ở các loại hình doanh nghiệp ở
thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng về xây dựng
Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam; các quan điểm của Đảng, các văn bản pháp luật
quy định về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung và đối tượng là người
lao động trong các thành phần kinh tế nói riêng.
- Để hoàn thành luận văn này, phương pháp nghiên cứu được bản thân sử
dụng đó là phương pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng và các phương pháp khác


17
như: phương pháp lịch sử- cụ thể, phương pháp khảo sát thực tế, phương pháp phân
tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, điều tra xã hội học,…
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và fanh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phổ biến, giáo dục pháp luật cho người lao động
trong các loại hình doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng phổ biến, giáo dục pháp luật cho người lao động ở
các loại hình doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phổ biến,
giáo dục pháp luật cho người lao động ở doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng trong giai đoạn hiện nay.


18
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP

1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO
NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP

Có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm phổ biến, giáo dục pháp luật,
đó là việc phân biệt các khái niệm: phổ biến pháp luật và giáo dục pháp luật.
Theo Từ điển Tiếng Việt, "phổ biến" là hoạt động làm cho đông đảo người
biết đến bằng cách truyền đạt trực tiếp hoặc thông qua hình thức nào đó. Đối tượng
của phổ biến pháp luật rộng rãi, tính rộng rãi về đối tượng tác động của phổ biến
pháp luật có ý nghĩa xã hội và nhân văn sâu sắc bởi trong lịch sử đã có lúc pháp luật
được ban hành nhưng không được phổ biến công khai mà chỉ được nhà nước dùng
để trị dân. Phổ biến pháp luật mang tính tác nghiệp, truyền đạt nội dung pháp luật
cho đối tượng xác định, làm cho đối tượng hiểu thấu đáo các quy định của pháp luật
để thực hiện pháp luật trên thực tế. Về khái niệm phổ biến pháp luật là hoạt động
cung cấp nội dung, tinh thần các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật
một cách rộng rãi, thường xuyên để các chủ thể pháp luật nắm bắt, hiểu rõ các quy
định của pháp luật.
Còn "giáo dục" là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự
phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần có
được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra (Đại Từ điển Tiếng Việt
1998, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin - Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt
Nam). Giáo dục pháp luật nhằm nâng cao nhận thức, tình cảm nhưng phương thức
tiến hành chặt chẽ hơn, đối tượng xác định hơn, mục đích rõ ràng hơn phổ biến
pháp luật. Xét ở một góc độ nhất định thì phổ biến chính là các phương thức giáo
dục cụ thể. Về khái niệm giáo dục pháp luật là hoạt động tác động có tổ chức của
người dạy đến người học nhằm cung cấp, trang bị những kiến thức pháp lý, hình
thành ở người học hệ thống tri thức hiểu biết về pháp luật, tình cảm pháp luật và
định hướng hành vi xử sự phù hợp với quy định của pháp luật.


19
Trên thực tế chúng ta không phân tách hai khái niệm này riêng ra mà phổ
biến, giáo dục pháp luật có mối liên hệ mật thiết với nhau, trong phổ biến có giáo
dục, trong giáo dục có phổ biến. Giáo dục pháp luật bao trùm phổ biến pháp luật,

phổ biến pháp luật tốt thì cũng là trực tiếp đạt được mục đích của giáo dục pháp
luật. Tính bao trùm của giáo dục pháp luật thể hiện ở chỗ giáo dục pháp luật vừa có
tính định hướng rõ ràng, vừa có tính hệ thống để đảm bảo đối tượng giáo dục được
nâng cao cả về kiến thức pháp luật, kỹ năng áp dụng pháp luật, thái độ tôn trọng
pháp luật, giáo dục pháp luật phải nâng cao cả về tri thức, hiểu biết pháp luật và về
tâm lý pháp lý của đối tượng giáo dục. Giáo dục pháp luật phải nhằm đạt tới sự hình
thành ý thức tự giác trên cơ sở hiểu biết đầy đủ về pháp luật và các vấn đề liên quan.
Qua các tài liệu nghiên cứu như báo cáo, đề tài, sách nghiệp vụ về công tác
này từ trước đến nay thì phổ biến, giáo dục pháp luật - một khâu của hoạt động tổ chức
thực hiện pháp luật - được hiểu theo nghĩa chung nhất là hoạt động định hướng có tổ
chức, có chủ định nhằm mục đích hình thành ở đối tượng được tác động tri thức pháp
lý, tình cảm và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành.
Về khái niệm phổ biến, giáo dục pháp luật, theo "Sổ tay hướng dẫn nghiệp
vụ phổ biến, giáo dục pháp luật" (Kỷ yếu Dự án VIE/98/001 về Tăng cường năng
lực pháp luật tại Việt Nam - giai đoạn II", Hà Nội, 2002), phổ biến, giáo dục pháp
luật là một từ ghép hai từ phổ biến pháp luật và giáo dục pháp luật.
Về khái niệm hoạt động phổ biến pháp luật có hai nghĩa:
Nghĩa hẹp: Là giới thiệu tinh thần văn bản pháp luật cho đối tượng của nó.
Nghĩa rộng: Là truyền bá pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân trên cả nước.
Về khái niệm giáo dục pháp luật được hiểu là một khái niệm rộng, bao gồm cả
quá trình nâng cao tri thức pháp luật cho đối tượng và bằng mọi cách (thuyết phục,
nêu gương, ám thị…) hình thành tình cảm, niềm tin pháp luật cho đối tượng, từ đó
nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của đối tượng.
Cả cụm từ phổ biến, giáo dục pháp luật có hai nghĩa:
Nghĩa hẹp: Là việc truyền bá pháp luật cho đối tượng nhằm nâng cao tri
thức, tình cảm, niềm tin pháp luật cho đối tượng, từ đó nâng cao ý thức tôn trọng
pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của đối tượng.


20

Nghĩa rộng: Là công tác, lĩnh vực, ngạch (theo nghĩa thông thường mà
không phải nghĩa trong pháp luật về cán bộ, công chức) phổ biến, giáo dục pháp
luật bao gồm tất cả các công đoạn phục vụ cho công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật: Định hướng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; lập chương trình, kế hoạch
phổ biến, giáo dục pháp luật; Áp dụng các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật;
Triển khai chương trình kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật; Kiểm tra, đôn đốc,
sơ kết, tổng kết công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, rút kinh nghiệm, nghiên cứu
khoa học, nâng cao trình độ lý luận…về phổ biến, giáo dục pháp luật.
Xét trên mối quan hệ thực tiễn cũng như yêu cầu, mục đích chung của công
tác này, có thể thấy hai khái niệm phổ biến pháp luật và giáo dục pháp luật có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Xét về bản chất của từng hoạt động, thì mục đích của
hoạt động phổ biến là để giáo dục pháp luật. Như vậy, có thể coi đây là các mức độ,
công đoạn tiếp nối nhau, gắn liền với nhau trong quá trình truyền đạt nội dung pháp
luật đến các đối tượng cụ thể nhằm nâng cao nhận thức, ý thức pháp luật cho họ.
Khi phân tách hai khái niệm này, việc xác định các chủ thể thực hiện, cách thức
thực hiện các hoạt động sẽ khó tách bạch mà có sự trùng lắp, vì hoạt động giáo dục
pháp luật không giới hạn chỉ là việc giáo dục pháp luật trong nhà trường với các chủ
thể và đối tượng cụ thể là nhà giáo và người học.
Từ những phân tích đó, khái niệm phổ biến, giáo dục pháp luật được hiểu
như sau: Phổ biến giáo dục pháp luật là hoạt động do tổ chức, cá nhân thực hiện
thông qua các hình thức nhất định nhằm nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức chấp
hành pháp luật cho tổ chức, cá nhân được phổ biến giáo dục pháp luật, góp phần nâng
cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Qua khái niệm phổ biến, giáo dục pháp luật chung đó có thể hiểu: Phổ biến,
giáo dục pháp luật cho người lao động ở các loại hình doanh nghiệp là hoạt động
do các tổ chức, cá nhân thực hiện thông qua các hình thức nhất định nhằm trang bị,
nâng cao hiểu biết pháp luật, nhận thức về quyền, nghĩa vụ, ý thức pháp luật, hình
thành văn hóa pháp luật đối với người lao động trong các loại hình doanh nghiệp.
Với khái niệm phổ biến, giáo dục pháp luật như đã nêu trên, trong điều kiện
hiện nay ở nước ta, việc trang bị tri thức pháp luật, hiểu biết pháp luật về quyền và



21
nghĩa vụ, xây dựng tình cảm, thói quen pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật cho
người lao động trong các loại hình doanh nghiệp là trách nhiệm của cơ quan nhà
nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội. Trong đó trước hết thuộc về hệ
thống các cơ quan có chức năng giáo dục đào tạo, tuyên truyền vận động nói chung
và các cơ quan có chức năng giáo dục pháp luật của Nhà nước nói riêng.
Phổ biến, giáo dục pháp luật là một trong những mắt xích quan trọng trong
việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bởi vì, phổ biến, giáo dục pháp luật là
nhằm nâng cao hiểu biết pháp luật, hình thành ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật
cho người lao động, nhằm giúp người lao động tự bảo vệ mình trong các quan hệ
lao động và quan hệ xã hội phát sinh, góp phần phát huy vai trò và hiệu lực của
pháp luật và đảm bảo quyền con người trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta đang từng bước phấn đấu nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý xã hội
bằng pháp luật. Trong phương hướng đó, phổ biến, giáo dục pháp luật giữ một vai
trò đặc biệt quan trọng, vì đó là khâu đầu tiên để tạo ra tiền đề ý thức cho phương
hướng có khả năng trở thành hiện thực trong đời sống xã hội.
Thực tế trong thời gian qua cho thấy, sự coi nhẹ và thiếu năng động trong
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình
trạng hiểu biết pháp luật và ý thức pháp luật của cán bộ công chức và nhân dân còn
thấp, "pháp luật và kỷ cương của Nhà nước bị vi phạm ngày càng phổ biến". Điều
đó đặt ra cho chúng ta sự cần thiết phải nhận thức ý nghĩa mang tầm chiến lược của
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong suốt cả quá trình xây dựng nhà nước
pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Nó là một bộ phận đặc biệt quan trọng trong
chiến lược con người của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
1.2. MỤC ĐÍCH
Phổ biến, giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên của hoạt động thực thi pháp
luật, là cầu nối để chuyển tải pháp luật vào cuộc sống. Phổ biến, giáo dục pháp luật

là nhằm hình thành ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật cho mọi công dân, nhằm
phát huy vai trò và hiệu lực pháp luật trong đời sống xã hội. Do vậy công tác phổ
biến giáo dục pháp luật cho người dân có vị trí, vai trò rất quan trọng.


22
Phổ biến pháp luật luôn nhằm những mục đích nhất định là đưa pháp luật
vào cuộc sống, xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật. Phổ biến pháp luật cho
người lao động cũng có nghĩa là việc giải thích rộng rãi các thông tin pháp luật cho
người lao động ở các loại hình doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng để
thuyết phục họ ủng hộ và thực hiện theo pháp luật, để họ thấy rõ quyền và nghĩa vụ
của mình trong thực hiện pháp luật. Phổ biến pháp luật ở đây là làm cho người lao
động biết các văn bản pháp luật mà Nhà nước ban hành bằng cách truyền đạt trực
tiếp (như mở lớp tập huấn pháp luật) hay thông qua các hình thức khác (như thông
qua các phương tiện thông tin đại chúng, thông qua loa truyền thanh xã, phường,
thông qua các tài liệu tờ rơi, ).
Phổ biến, giáo dục pháp luật là quá trình hoàn thiện nhân tố xã hội - pháp lý
của con người, nâng cao khả năng sáng tạo của con người trước đời sống thực tiễn.
Đây là một quá trình không những phụ thuộc vào năng lực các loại chủ thể, nội
dung, hình thức phổ biến, giáo dục, mà còn chịu chi phối đa chiều của nhiều yếu tố
như: mặt bằng kinh tế, xã hội, dân trí và dân trí pháp lý, phong tục, tập quán Mục
đích của phổ biến, giáo dục pháp luật được xem xét trên nhiều góc độ tùy thuộc vào
đối tượng phổ biến, giáo dục, cấp độ phổ biến, giáo dục cũng như hình thức phổ
biến, giáo dục. Nhìn chung, mục đích phổ biến, giáo dục có thể mang tính lâu dài
hoặc trước mắt nhưng đều hướng tới ba vấn đề cơ bản:
Một là, phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao khả năng nhận thức
pháp lý, sự hiểu biết pháp luật, hình thành một tri thức pháp luật cần thiết, nâng cao
nhận thức quyền con người cho các chủ thể (với tính cách là đối tượng nhận thức
hay là đối tượng của phổ biến, giáo dục).
Hai là, phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm khơi dậy tình cảm, lòng tin và

thái độ đúng đắn đối với pháp luật.
Ba là, phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm hình thành thói quen xử sự theo
pháp luật với động cơ tích cực.
Khi tiến hành công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cần lưu ý một số vấn đề
có tính nguyên tắc cơ bản sau:


23
Phổ biến, giáo dục pháp luật cần được đặt trên cơ sở, nền tảng của quá trình
giáo dục toàn diện đối với con người, đặc biệt coi trọng sự kết hợp với giáo dục đạo
đức, giáo dục pháp luật quốc gia liên hệ với pháp luật nước ngoài và pháp luật quốc
tế nhằm phục vụ cho tiến trình hội nhập và phát triển của đất nước. Phổ biến, giáo
dục pháp luật gắng với giáo dục quyền con người, quyền công dân và nghĩa vụ của
công dân.
Cần xác lập một chiến lược phổ biến, giáo dục pháp luật quốc gia mang tính
tổng thể, cụ thể và khả thi. Tránh tình trạng phổ biến, giáo dục mang tính hình thức,
phong trào không đem lại hiệu quả thực tế.
Phổ biến, giáo dục pháp luật không chỉ đơn thuần là cung cấp những kiến
thức lý luận, nội dung pháp luật cần nhận thức cho đối tượng, mà về mặt thực tiễn
cần coi trọng việc mở rộng dân chủ, nhân quyền, minh bạch hóa các hoạt động nhà
nước, đề cao trách nhiệm cá nhân trước các hoạt động pháp lý. Đồng thời, tăng
cường đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật, xử lý kịp thời, nghiêm minh và
công bằng đối với mọi vi phạm.
Phát triển hệ thống khoa học pháp lý; mở rộng, đi sâu nghiên cứu đầy đủ
hơn về khoa học phổ biến, giáo dục pháp luật.
Phổ biến, giáo dục pháp luật là một hoạt động cơ bản, có tầm quan trọng
đặc biệt đối với quá trình nâng cao ý thức pháp luật. Nếu học tập, hiểu biết pháp
luật được xác định là quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mọi công dân thì phổ
biến, giáo dục, tuyên truyền, giải thích pháp luật là những nhiệm vụ không thể thiếu
của mọi nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân và giám sát lại hoạt động

của nhà nước. Trên thực tế, xử sự hợp pháp của mọi chủ thể, sự hiểu biết pháp luật
và ý thức sống theo pháp luật của mọi công dân chính là thước đo chất lượng, hiệu
quả của hoạt động giáo dục pháp luật.
Mục đích của phổ biến, giáo dục pháp luật là nhằm truyền tải tri thức, nội
dung, quy định của pháp luật đến với các chủ thể pháp luật nhằm nâng cao nhận
thức pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật, tạo lập và hình thành thói quen, lối
sống làm việc theo Hiến pháp, pháp luật của các chủ thể pháp luật.


24
Mục đích của phổ biến, giáo dục pháp luật là một trong những yếu tố tạo
nên cấu trúc bên trong của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Việc xác định
đúng đắn các mục đích xã hội cần phải đạt được trong quá trình phổ biến, giáo dục
pháp luật, có vai trò quan trọng trong lý luận và thực tiễn công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật. Bởi vì, các phạm trù, nội dung, hình thức, phương pháp phổ biến,
giáo dục pháp luật phần lớn phụ thuộc vào việc xác định những mục đích xã hội nào
được đặt ra trước quá trình phổ biến, giáo dục. Mục đích của phổ biến, giáo dục
pháp luật phải đáp ứng được các yêu cầu cụ thể của xã hội đối với phổ biến, giáo
dục pháp luật ở từng giai đoạn, trong các điều kiện lịch sử cụ thể. Theo quan điểm
chung của nhiều nhà khoa học, phổ biến, giáo dục pháp luật cho người lao động bao
gồm các mục đích cơ bản sau đây:
Mục đích thứ nhất, hình thành, làm sâu sắc và từng bước mở rộng hệ thống
tri thức pháp luật của người lao động (mục đích nhận thức). Đây là mục đích hàng
đầu, bởi vì, chính sự am hiểu pháp luật, sự nhận thức đúng đắn về giá trị xã hội và
vai trò điều chỉnh của pháp luật sẽ là điều kiện cần thiết để hình thành tình cảm và
lòng tin vào pháp luật của người lao động. Hơn nữa, tri thức pháp luật còn giúp cho
người lao động tổ chức một cách có ý thức hoạt động của mình và tự đánh giá kiểm
tra, đối chiếu hành vi với các chuẩn mực pháp luật. Mục đích này đặc biệt quan
trọng trong điều kiện như nước ta hiện nay, khi mà hiểu biết pháp luật của người lao
động còn thấp, còn chịu ảnh hưởng tư tưởng và nếp sống của người sản xuất nhỏ, tư

tưởng của người làm nông nghiệp, nhận thức về quyền và nghĩa vụ của mình chưa
đầy đủ. Mặt khác, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật chưa được coi trọng dẫn
đến tình trạng pháp chế bị buông lỏng, làm giảm hiệu lực của pháp luật; dẫn đến
giảm lòng tin của người lao động đối với Đảng và Nhà nước. Do đó, từ Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật, tuyên truyền, giải thích pháp luật, Cán bộ quản lý
các cấp từ Trung ương đến đơn vị cơ sở phải có kiến thức về quản lý hành chính và
hiểu biết về pháp luật. Cần sử dụng nhiều hình thức và biện pháp để giáo dục, nâng
cao ý thức pháp luật và làm tư vấn pháp luật cho nhân dân, thường xuyên giáo dục
pháp luật, xây dựng ý thức sống và làm việc theo pháp luật, phát huy dân chủ, đi đôi


25
với giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp
luật, tuyên truyền, giáo dục toàn dân, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật.
Mục đích thứ hai, hình thành tình cảm và lòng tin đối với pháp luật (mục
đích cảm xúc). Mục đích này rất quan trọng, vì nếu có tri thức pháp luật mà không
có tình cảm tôn trọng và lòng tin vào pháp luật cũng như các cơ quan bảo vệ pháp
luật thì người lao động rất dễ hành động chệch khỏi các chuẩn mực pháp luật vì lợi
ích riêng tư. Nội hàm của mục đích cảm xúc đạt được thông qua việc: giáo dục tình
cảm công bằng, biết xác định các tiêu chuẩn đánh giá tính công bằng của pháp luật,
biết đối xử với người khác và với chính mình bằng các tiêu chuẩn công bằng, các
tiêu chuẩn về quyền và nghĩa vụ thể hiện qua các qui phạm pháp luật; giáo dục tình
cảm trách nhiệm, ý thức tuân thủ pháp luật ở mọi nơi mọi lúc. Phê phán, lên án những
biểu hiện coi thường pháp luật, các hành vi phạm pháp. Đồng thời ủng hộ và tích
cực tham gia bảo vệ sự nghiêm minh của pháp luật. Có được tình cảm trên, người lao
động sẽ có được lòng tin vững chắc vào sự cần thiết tuân theo những qui phạm pháp
luật. Khi đã có lòng tin vào pháp luật, người lao động sẽ có những hành vi hợp pháp.
Mục đích thứ ba, hình thành động cơ, hành vi và thói quen xử sự theo pháp
luật (mục đích hành vi). Động cơ và hành vi hợp pháp là kết quả cuối cùng của cả

quá trình nhận thức pháp luật, đấu tranh nội tâm dưới tác động của những yếu tố
tâm lý, tình cảm, lòng tin Thói quen xử sự hợp pháp được hiểu là thói quen tuân
thủ các quy phạm hướng dẫn của pháp luật, thói quen thực hiện đúng đắn, tận tâm
các quyền và nghĩa vụ pháp lý, thói quen sử dụng và áp dụng các tri thức pháp luật
và các quy phạm pháp luật cụ thể để bảo vệ các quyền và nghĩa vụ hợp pháp của
mình, của người khác, của Nhà nước và của xã hội.
Việc phân chia các mục đích phổ biến, giáo dục pháp luật cho người lao
động trên đây chỉ mang tính tương đối, giữa chúng có mối quan hệ đan xem qua lại
trong mối liên hệ hữu cơ thống nhất. Từ tri thức pháp luật đến tính tự giác; từ tính
tự giác đến tính tích cực; từ tính tích cực đến thói quen xử sự theo pháp luật. Ngược
lại, khi có thói quen xử sự theo pháp luật thì lòng tin, tình cảm pháp luật lại được
củng cố. Do đó, khi tiến hành phổ biến, giáo dục pháp luật đều phải hướng hoạt
động vào cả ba mục đích của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.


26
Việc xác định mục đích của phổ biến, giáo dục pháp luật trong quá trình
phổ biến, giáo dục pháp luật có ý nghĩa hết sức quan trọng cả trong lý luận lẫn thực
tiễn phổ biến, giáo dục pháp luật. Việc xác định đúng hay không đúng mục đích của
phổ biến, giáo dục pháp luật sẽ dẫn đến chất lượng tốt hay không tốt tới phổ biến,
giáo dục pháp luật.
1.3. CHỦ THỂ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG
Theo lý luận giáo dục học thì chủ thể giáo dục là thầy cô giáo và tất cả
những người làm công tác giáo dục khác. Vận dụng vào phổ biến, giáo dục pháp
luật, có thể hiểu: chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật là tất cả những người mà theo
chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội phải tham gia vào việc thực hiện các
mục đích phổ biến, giáo dục pháp luật.
Chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật cho người lao động được hiểu là tất cả
những người mà theo chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội đã tham gia góp
phần thực hiện mục tiêu phổ biến, giáo dục pháp luật cho người lao động. Các

nghiên cứu lý luận và thực tiễn đã xác định và thừa nhận có hai loại chủ thể phổ
biến, giáo dục pháp luật: chủ thể chuyên nghiệp và chủ thể không chuyên nghiệp
với vị trí, nhiệm vụ, yêu cầu trình độ và kỹ năng phổ biến, giáo dục pháp luật khác
nhau. Từ đó, có các hình thức, phương thức và phương pháp tiến hành hoạt động
phổ biến, giáo dục pháp luật khác nhau.
Chủ thể chuyên nghiệp là những người mà nhiệm vụ chủ yếu, trực tiếp là thực
hiện các mục tiêu phổ biến, giáo dục pháp luật. Đây là các chủ thể nòng cốt của hoạt
động phổ biến, giáo dục pháp luật. Chủ thể chuyên nghiệp gồm có: Các báo cáo viên,
tuyên truyền viên về pháp luật ở các hệ thống Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức
chính trị-xã hội ở các cấp; các phóng viên, biên tập viên của các báo, đài phát thanh,
truyền hình phụ trách các nội dung liên quan đến pháp luật hoặc các chuyên mục
pháp luật; giáo viên dạy pháp luật trong các trường từ phổ thông đến đại học, trung
học chuyên nghiệp và dạy nghề, các trường Đảng, hành chính, đoàn thể; các cán bộ
chuyên gia làm công tác nghiên cứu và chỉ đạo phổ biến, giáo dục pháp luật tại các
cơ quan nhà nước, các tổ chức nghề nghiệp pháp luật, các tổ chức chính trị-xã hội.


27
Chủ thể không chuyên nghiệp là những người phải làm nhiều việc với những
mục tiêu khác nhau, nhưng trong đó có nhiệm vụ là thực hiện mục tiêu phổ biến,
giáo dục pháp luật. Chủ thể không chuyên nghiệp gồm có: Đại biểu Quốc hội: có
nhiệm vụ phổ biến, giáo dục pháp luật, động viên nhân dân chấp hành pháp luật và
tham gia quản lý nhà nước (Điều 38 Luật Tổ chức Quốc hội năm 1992) và đại biểu
Hội đồng nhân dân phải "gương mẫu chấp hành pháp luật, chính sách và tham gia
vào việc quản lý nhà nước"; cán bộ thuộc các cơ quan hành pháp, tư pháp có một
phần nhiệm vụ là phổ biến, giáo dục pháp luật; các cán bộ thành viên của các tổ
chức chính trị, xã hội như Đảng Cộng sản, đoàn thể thanh niên, Công đoàn, phụ
nữ ; các Luật gia đang hành nghề luật sư bào chữa, dịch vụ tư vấn pháp luật; các
cán bộ, nhân viên ở các ngành kinh tế, quản lý nhà nước về một lĩnh vực kinh tế nào
đó (thuế, đất đai, rừng, thủy lợi ) trong khi thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của

mình, có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến pháp luật chuyên ngành cho các đối
tượng bị quản lý nhân dân nói chung.
Chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật còn chính là các công dân - cá nhân
bằng sự gương mẫu trong ý thức và trách nhiệm thi hành pháp luật trong đời sống
đã có tác dụng ảnh hưởng giáo dục tích cực đến hiểu biết, nhận thức của các công
dân khác (bố mẹ, ông bà trong gia đình đối với con cái, thầy cô giáo chủ nhiệm và
bộ môn trong nhà trường, tổ trưởng dân phố, hòa giải viên, tuyên truyền viên ).
Từ những phân tích đó, thì chủ thể cụ thể của phổ biến, giáo dục pháp luật cho
người lao động ở các loại hình doanh nghiệp theo Quyết định số 37/2008/QĐ-TTg
ngày 12 tháng 03 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình phổ
biến giáo dục pháp luật năm 2008-2012 thì Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
là đơn vị "Chủ trì xây dựng và triển khai thực hiện có hiệu quả đề án: tuyên truyền,
phổ biến pháp luật cho người lao động và người sử dụng lao động trong các loại
hình doanh nghiệp" [11]. Trên cơ sở quyết định này, Chính phủ đã ban hành quyết
định số 31/2009/QĐ-TTg ngày 24 tháng 2 năm 2009 về phê duyệt Đề án tuyên
truyền, phổ biến pháp luật cho người lao động và người sử dụng lao động trong các
loại hình doanh nghiệp giai đoạn 2009 - 2012, theo đề án thì chủ thể chính trong
phổ biến giáo dục pháp luật cho người lao động đó là:


28
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan chủ trì Đề án,
tổ chức phối hợp, kiểm tra, đánh giá, tổng kết và báo cáo việc thực hiện
các hoạt động của Đề án trên phạm vi cả nước; chủ trì thực hiện Tiểu Đề
án 1 của Đề án gồm các hoạt động: khảo sát; biên soạn tài liệu nguồn; tập
huấn, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền, phổ biến
pháp luật cho các doanh nghiệp; tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật
cho người lao động và người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp
nhà nước; hoạt động truyền thông chung của Đề án; hoạt động chỉ đạo
điểm và nhân điển hình; giám sát, đánh giá Đề án

Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam chủ trì thực hiện Tiểu Đề án
3 về tuyên truyền, phổ biến pháp luật lao động, pháp luật công đoàn và
một số nội dung pháp luật liên quan tới hoạt động của doanh nghiệp cho
người lao động trong các doanh nghiệp dân doanh và doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài; tham gia các hoạt động chung của Đề án [12].
Do vậy, trong quyết định 03/2008/QĐ-UBND ngày 9 tháng 01 năm 2008
của Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng phê duyệt Đề án "Tăng cường công tác
tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn
2008 - 2012", thì việc phổ biến giáo dục pháp luật cho người lao động được phân công
cho Sở Lao động-Thương binh và Xã hội với đối tượng là công nhân lao động tại các
doanh nghiệp nhà nước; Liên đoàn Lao động thành phố phụ trách phổ biến, giáo dục
pháp luật cho người lao động trong các loại hình doanh nghiệp còn lại: công ty cổ phần,
công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân, có vốn đầu tư nước ngoài,…
Vì vậy, chủ thể của phổ biến giáo dục pháp luật cho người lao động trong
các loại hình doanh nghiệp có hai chủ thể cụ thể là Sở Lao động-Thương binh và Xã
hội và Liên đoàn Lao động thành phố.
1.3.1. Sở Lao động-Thương binh và Xã hội thành phố
Nghị định số 186/2007/NĐ-CP ngày 25/12/2007 của Chính phủ quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội thì Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có nhiệm vụ và quyền hạn
trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật theo khoản 4 Điều 2 Nghị định

×