Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Giải pháp tạo việc làm cho người lao động bị thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.55 KB, 64 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
MỤC LỤC
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
LỜI MỞ ĐẦU
Việc làm cho người lao động là một vấn đề xã hội có tính chất toàn cầu, là
mối quan tâm lớn của nhiều quốc gia. Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh
tế, hướng tới tăng tỷ trọng ngành công nghiệp – xây dựng, dịch vụ, giảm tỷ trọng
ngành nông nghiệp như hiện nay, Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng đã đạt
được những kết quả khả quan trong việc phát triển kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh đó,
nguy cơ tỷ lệ thất nghiệp cao, nhu cầu về việc làm cho người lao động ngày càng trở
thành một sức ép không nhỏ trong nền kinh tế.
Đặc biệt, tiến hành cơ cấu lại nền kinh tế, không thể thiếu việc quy hoạch lại
thành phố cho phù hợp, nhằm tăng nhanh sự phát triển. Do đó, sau khi thu hồi đất để
thực hiện các dự án, nhiều người lao động bị rơi vào tình trạng mất việc làm, tạo sự
trì hoãn cho việc phát triển cũng như chuyển dịch nền kinh tế. Chính vì vậy, tạo việc
làm cho người lao động, nhất là lao động bị thu hồi đất trở thành chủ trương lớn của
thành phố Hà Nội nói riêng và là một vấn đề kinh tế - xã hội của đất nước nói chung,
nhằm đáp ứng được nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước mà còn góp
phần nâng cao được vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Chính vì vậy, tôi xin chọn đề tài: “Giải pháp tạo việc làm cho người lao
động bị thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội.” mong muốn góp một phần
nhỏ bé cho việc giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất tại Hà Nội nói
riêng và Việt Nam nói chung.
Kết cấu bài viết bao gồm 3 chương:
Chương 1: Sự cần thiết phải giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi
đất.
Chương 2: Thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi


đất trên địa bàn Hà Nội.
Chương 3: Các giải pháp tạo việc làm cho người lao động bị thu hồi đất trên
địa bàn Hà Nội.
Qua đây, tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy PGS.TS
Nguyễn Ngọc Sơn và tập thể các bác, các cô chú tại sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội
đã đóng góp ý kiến và giúp đỡ trong quá trình thực tập để tôi có thể hoàn thành tốt
được bản báo cáo chuyên đề này.
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc Lớp: Kế hoạch 48A
1
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
CHƯƠNG 1
SỰ CẦN THIẾT PHẢI GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG
BỊ THU HỒI ĐẤT
1.1. Cơ sở lý luận về lao động.
a. Khái niệm chung về lao động.
Lao động là một trong những hình thức hoạt động của con người vào thực tiễn
nhằm biến đổi và tạo ra các của cải vật chất nhằm phục vụ cho lợi ích đời sống của
con người. Hoạt động lao động giúp con người tồn tại, hình thành và phát triển nhân
cách thông qua quá trình xã hội hóa cá nhân, từ đó, thể hiện được giá trị của mình
trong xã hội. Lao động là điều kiện chủ yếu cho sự tồn tại của loài người, là cơ sở
tiền đề tạo động lực cho sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Chính vì vai trò của
con người vô cùng quan trọng, nên chúng ta cần tìm cách khai thác được tối đa sức
lao động của con người, nâng cao tri thức và khả năng sáng tạo của con người, nhằm
tạo sự phát triển cho nền kinh tế của đất.
Sức lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một
cơ thể, trong một con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi
sản xuất ra một giá trị thặng dư nào đó. Sức lao động là khả năng lao động của con
người, là điều kiện tiên quyết của mọi quá trình sản xuất và là lực lượng sản xuất
sáng tạo chủ yếu của xã hội. Nhưng sức lao động mới chỉ là khả năng lao động, còn
lao động là sự tiêu dùng sức lao động trong hiện thực.

Nguồn lao động là bao gồm những người trong độ tuổi lao động có khả năng
lao động, theo quy định của Bộ luật lao động Việt Nam (nam đủ 15 đến hết 60 tuổi,
nữ đến hết 55 tuổi).
Lực lượng lao động của một quốc gia hay một địa phương là bộ phận dân số
trong tuổi lao động, có khả năng tham gia lao động, có mong muốn lao động, đang có
việc làm hoặc đang tìm việc làm. Lực lượng lao động bao gồm những người có việc
làm và những người chưa có việc làm nhưng đang tìm việc làm (gọi là người thất
nghiệp).
b. Các yếu tố ảnh hưởng tới lực lượng lao động.
• Dân số.
Dân số của một quốc gia bao gồm dân số trong độ tuổi lao động và dân số ngoài
độ tuổi lao động. Dân số trong độ tuổi lao động được chia ra làm hai bộ phận gồm
dân số hoạt động kinh tế và dân số không hoạt động kinh tế. Dân số hoạt động kinh tế
là những người trong độ tuổi lao động, đang làm việc hoặc không có việc làm nhưng
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc Lớp: Kế hoạch 48A
2
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
có nhu cầu làm việc. Đây chính là lực lượng lao động. Chính vì vậy mà dân số là yếu
tố cơ bản quyết định đến lực lượng lao động . Qui mô và cơ cấu dân số cũng ảnh
hưởng đến qui mô và cơ cấu của lực lượng lao động.
Có nhiều yếu tố tác động đến sự biến động của dân số như các phong tục, tập
quán, trình độ phát triển kinh tế,xã hội của từng nước, các cơ chế chính sách của từng
nước về việc khuyến khích hoặc hạn chế việc sinh đẻ đối với từng hộ gia đình.
Thông thường, ở các nước phát triển, người dân có đời sống cao, trình độ giáo
dục cao,họ có ý thức về những ràng buộc khi có con như ảnh hưởng đến việc làm,
kinh tế, phải chăm sóc con cái, nên họ thường không muốn có con. Hơn nữa họ cũng
không phải chú trọng đến việc nối dõi tông đường như một số nước đang phát triển.
Chính vì vậy những nước này thường có mức độ tăng dân số thấp.
Ngược lại, đối với các nước đang phát triển, mức độ tăng dân số thường ở mức
độ cao. Các nước này thường được thừa hưởng các thành tựu của nên khoa học kỹ

thuật nên cuộc sống của người dân được chăm lo đến sức khỏe, khả năng phòng
chống và kháng bệnh cao, sức khỏe sinh sản được đảm bảo. Do vậy, trẻ em được sinh
ra có khả năng sống sót cao, tỉ lệ tử vong giảm nên sự gia tăng tự nhiên cao.Mặt
khác, các nước đang phát triển còn có nền sản xuất lạc hậu, hệ thống máy móc lạc
hậu, còn dùng nhiều đến sức người nên đòi hỏi cần có nhu cầu lao động rất lớn trong
việc phát triển kinh tế. Ở các nước nghèo, tỉ lệ sinh đẻ cao, do việc kế hoạch hóa gia
đình chưa được tuyên truyền rộng rãi, đồng thời người dân còn chịu nhiều quan niệm,
hủ tục lạc hậu dẫn đến tỉ lệ sinh đẻ ở các quốc gia này cao.
Hiện nay, tỷ lệ tăng dân số của thế giới là 1,8%, ở các nước châu Á là 2 – 3%
và các nước châu Phi là 3 – 4%. Còn ở Việt nam là 1,44%. Hiện có 3/4 dân số trên
thế giới sống ở các nước đang phát triển, ở đó dân số tăng nhanh trong khi nền kinh
tế tăng chậm, làm mức sống của người dân thấp, tạo áp lực lớn trong việc giải quyết
việc làm. Do đó vấn đề kế hoạch hóa dân số đi đôi với việc phát triển kinh tế là một
trong những vấn đề quan trọng cần được quan tâm đối với các nước phát triển nói
chung và Việt Nam nói riêng.
• Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động.
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là tỷ lệ phần trăm của lực lượng lao động và
dân số trong độ tuổi làm việc (những người đủ 15 tuổi trở lên). Tỷ lệ tham gia lực
lượng lao động xác định quy mô lao động của một đất nước tham gia hoạt động kinh
tế. Tỷ lệ này là một chỉ tiêu đánh giá quy mô của nguồn cung lao động sẵn có phục
vụ cho việc sản xuất hàng hóa và dịch vụ của nền kinh tế. Chỉ tiêu tỷ lệ tham gia lực
lượng lao động là trung tâm trong việc nghiên cứu các nhân tố xác định quy mô, kết
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc Lớp: Kế hoạch 48A
3
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
cấu các nguồn nhân lực trong nền kinh tế và dự đoán được nguồn cung lao động
trong tương lai, giúp đánh giá mức độ hoạt động của thị trường lao động trong nền
kinh tế. Bên cạnh đó, chỉ tiêu cũng giúp cho việc hoạch định các chính sách việc
làm, đánh giá nhu cầu đào tạo và xác định thời gian lao động và tính toán được số
lượng lao động tham gia trên thị trường lao động. Hiện nay tỷ lệ tham gia lực lượng

lao động của Việt Nam có xu hướng giảm, nhưng vẫn đang còn ở mức cao (trên dưới
71%) so với các nước trên thế giới.
• Thất nghiệp và tỷ lệ thất nghiệp.
Thất nghiệp là hiện tượng những người trong độ tuổi lao động tại thời điểm
điều tra ở trong tình trạng không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc. Nhu cầu
này thể hiện thông qua các hoạt động tích cực tìm việc. Thất nghiệp là vấn đề đặc
trưng mà quốc gia nào cũng gặp phải. Nó không chỉ tác động về mặt kinh tế mà còn
ảnh hưởng đến các vấn đề mang tính xã hội.
Tỷ lệ thất nghiệp là tỷ lệ % số người lao động không có việc làm trên tổng số
lực lượng lao động của xã hội.Thông thường, nếu tỷ lệ thất nghiệp của một quốc gia
cao, đồng nghĩa với việc các nguồn lực con người không được sử dụng, bỏ phí đi các
cơ hội sản xuất tham sản phẩm, dịch vụ, làm giảm hiệu quả sản xuất theo quy mô.
Một tỷ lệ thất nghiệp vừa phải sẽ giúp cho cả người lao động và chủ sử dụng lao
động. Khi đó, người lao động có thể tìm được những công việc khác phù hợp với khả
năng, mong muốn và điều kiện cư trú. Còn với những người chủ, tình trạng thất
nghiệp giúp cho họ tìm được những người lao động phù hợp, nâng cao sự trung thành
đối với người lao động. Ở một khía cạnh nào đó, thất nghiệp giúp các doanh nghiệp
tăng năng suất lao động và tăng lợi nhuận.
Tuy nhiên, đối với các nước đang phát triển, tỷ lệ thất nghiệp không hoàn toàn
phản ánh được đúng sự thực về nguồn lao động chưa được sử dụng hết. Nguyên nhân
là do số người nghèo chiếm tỷ lệ nhỏ, khi gặp thất nghiệp họ thường cố gắng không
để tình trạng này kéo dài, vì họ không có nguồn lực dự trữ nên họ buộc phải chấp
nhận mọi việc nếu có. Tình trạng này xảy ra phổ biến ở các nước đang phát triển nói
chung và Việt Nam nói riêng.
• Thời gian lao động.
Khi người lao động tham gia vào quá trình lao động, ngoài việc hao phí nguồn
lực, còn hao phí về mặt thời gian lao động. Qua việc xem xét thời gian lao động, làm
việc của mỗi người lao động, ta có thể đánh giá được hiệu quả sử dụng và chất lượng
của lực lượng lao động. Nếu hiệu quả sử dụng cao, doanh nghiệp sẽ tiếp tục thuê lao
động và đề ra các phương án phù hợp để giữ chân người lao động. Ngược lại, nếu

Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc Lớp: Kế hoạch 48A
4
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
hiệu quả sử dụng lao động thấp, doanh nghiệp có thể sẽ sa thải người lao động, dẫn
đến tình trạng thất nghiệp cho người lao động.
c. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng lực lượng lao động.
Số lượng lao động mới phản ảnh được một mặt sự đóng góp của lao động vào
phát triển kinh tế. Mặt khác, cần được xem xét đến chất lượng nguồn lao động, đó là
yếu tố làm cho lao động có năng suất cao hơn. Chất lượng lao động có thể được nâng
cao nhờ giáo dục, đào tạo, sức khỏe của người lao động, nhờ bố trí điều kiện lao
động tốt hơn.
Giáo dục được coi là một trong những yếu tố quan trọng giúp cho sự phát triển
tiềm năng của con người. Yêu cầu chung đối với giáo dục là rất lớn, nhất là đối với
giáo dục phổ thông, con người ở mọi nơi đều tin rằng giáo dục rất có ích cho bản
thân mình và con cháu họ. Bằng trực giác, mọi người có thể thấy mối quan hệ giữa
giáo dục và mức thu nhập. Mặc dù không phải là tất cả, nhưng thông thường những
người có học thức cao thường có mức thu nhập cao hơn rất nhiều so với những người
có học thức thấp. Nhưng để đạt được trình độ giáo dục nhất định cần phải chi phí khá
nhiều, kể cả chi phí của gia đình và của quốc gia. Đó chính là khoản đầu tư cho con
người. Ở các nước đang phát triển giáo dục được thực hiện dưới nhiều hình thức
nhằm không ngừng nâng cao trình độ văn hóa và chuyên môn kỹ thuật cho mọi
người. Kết quả giáo dục làm tăng lực lượng lao động có trình độ tạo khả năng thúc
đẩy đổi mới công nghệ. Công nghệ càng thay đổi nhanh càng thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế. Vai trò của giáo dục còn được đánh giá qua tác động của nó đối với việc tăng
năng suất lao động của mỗi cá nhân nhờ có nâng cao trình độ và tích lũy kiến thức.
Giống như giáo dục, sức khỏe làm tăng chất lượng cả nguồn nhân lực cả hiện
tại và tương lai. Người lao động có sức khỏe tốt có thể mang lại những lợi nhuận trực
tiếp từ việc nâng cao sức lao động, khả năng tập trung cao khi làm việc. Việc nuôi
dưỡng và chăm sóc sức khỏe tốt cho trẻ em sẽ là yếu tốt làm tăng năng suất lao động
trong tương lai, giúp trẻ em phát triển thành những người khỏe về thể chất, lành

mạnh về tinh thần. Hơn nữa, điều đó còn giúp trẻ em nhanh chóng đạt được những kỹ
năng, kỹ xảo cần thiết cho sản xuất thông qua giáo dục ở nhà trường. Những khoản
chi cho sức khỏe còn làm tăng nguồn nhân lực về mặt số lượng bằng việc kéo dài
tuổi lao động. Ngoài yếu tố giáo dục và sức khỏe, động lực lao động cũng là 1 yếu tố
ảnh hưởng đến năng suất lao động. Đây là yếu tố quan trọng trong việc nâng cao
năng suất lao động.
1.2. Cơ sở lý luận về việc làm.
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc Lớp: Kế hoạch 48A
5
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
a. Khái niệm về việc làm.
Việc làm là một phạm trù tồn tại khách quan trong nền sản xuất xã hội, phụ
thuộc vào các điều kiện hiện có của nền sản xuất. Một người lao động có việc làm
khi có một vị trí nhất định trong hệ thống sản xuất của xã hội. Thông qua việc làm,
người lao động thực hiện được quá trình lao động tạo ra sản phẩm và thu nhập. Ở
mỗi một giai đoạn phát triển kinh tế xã hội, khái niệm việc làm lại được hiểu theo
nhiều khía cạnh khác nhau.
Trước đây, trong nền cơ chế kế hoạch hóa tập trung, những người lao động làm
việc trong khu vực thể chế kinh tế, khu vực nhà nước, khu vực tập thể là những
người được coi là có việc làm.
Hiện nay, sau khi nền kinh tế nước ta chuyển sang nên nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, quan niệm việc làm đã được thay đổi. Theo điều 13 chương 3 Bộ
luật lao động nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam năm 1994 đã ban hành:
“Mọi hoạt động lao động tạo ra thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa
nhận là việc làm”.
Tuy nhiên, quan niệm của người lao động về việc làm trong giai đoạn này cũng
có thay đổi. Trước đây, nhiều người quan niệm rằng chỉ làm việc trong các xí nghiệp
quốc doanh và nằm trong biên chế nhà nước thì mới được coi là có công việc ổn
định, còn việc làm trong các thành phần kinh tế khác thì bị coi là không có công việc
ổn định. Vì vậy, nhiều người cố gắng xin vào làm việc trong nhà nước. Hiện nay, đối

với nhiều người quan niệm này không còn mang nặng. Với họ, chỉ cần tìm được công
việc phù hợp, có thu nhập cao và được nhà nước khuyến khích thì họ sẵn sàng làm.
Có thể nói yếu tố việc làm và yếu tố lao động có liên quan đến nhau, cùng phản
ánh đến lợi ích của một con người. Tuy nhiên, hai phạm trù này không giống nhau,
bởi có việc làm thì chắc chắn có lao động, nhưng ngược lại có lao động chưa chắc đã
có việc làm, bởi nó còn phụ thuộc vào mức độ ổn định của công việc mà người lao
động đang làm.
b. Phân loại việc làm.
• Phân theo mức độ sử dụng thời gian lao động.
- Việc làm đầy đủ: là sự thỏa mãn nhu cầu việc làm của bất cứ ai có khả năng
lao động trong nền kinh tế quốc dân. Hay nói cách khác việc làm đầy đủ là trạng thái
mà mỗi người có khả năng lao động, muốn làm việc thì đều có thể tìm được việc làm
trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, việc xác định số người có việc làm theo khái niệm
này vẫn chưa phản ánh được chính xác trình độ sử dụng lao động xã hội vì không đề
cập đến chất lượng của công việc làm. Thực tế, nhiều người lao động đang có việc
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc Lớp: Kế hoạch 48A
6
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
làm nhưng chỉ làm nửa ngày hoặc việc có năng suất, thu nhập thấp. Việc làm đầy đủ
căn cứ trên hai khía cạnh : mức độ sử dụng thời gian lao động, năng suất lao động và
thu nhập. Mọi việc làm đầy đủ đòi hỏi người lao động phải sử dụng đủ thời gian lao
động theo luật định (8 tiếng/ngày), đồng thời, việc này phải mang lại thu nhập không
thấp hơn mức lương tối thiểu của người lao động (hiện nay nước ta quy định mức
lương tối thiểu chung là 650.000 đồng một người một tháng).
Vậy những người làm việc đủ thời gian quy định và có thu nhập lớn hơn mức
thu nhập tối thiểu hiện hành là những người có việc làm đầy đủ.
- Thiếu việc làm: là những việc làm không tạo điều kiện cho người lao động sử
dụng hết thời gian lao động của mình, tạo thu nhập cho người lao động thấp hơn mức
lương tối thiểu.
Theo quan niệm của tổ chức lao động thế giới ( viết tắt : ILO), thiếu việc làm

được chia ra làm 2 dạng :
Thiếu việc làm vô hình: là những người có đầy đủ việc làm, làm đủ thời gian,
thậm chí còn quá thời gian qui định nhưng lại có thu nhập thấp do tay nghề kém, điều
kiện lao động xấu, tổ chức lao động kém khiến năng suất thấp, thường có nhu cầu tìm
công việc khác có mức thu nhập cao hơn.
Thiếu việc làm hữu hình: là những người lao động làm việc với thời gian ít hơn
quỹ thời gian qui định, không đủ việc làm và đang có mong muốn kiếm thêm việc và
luôn sẵn sàng để làm việc.
- Thất nghiệp: là hiện tượng những người trong độ tuổi lao động tại thời điểm
điều tra ở trong tình trạng không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc. Nhu cầu
này thể hiện thông qua các hoạt động tích cực tìm việc.
Thất nghiệp được chia thành nhiều loại :
Thất nghiệp tự nhiên: tỷ lệ thất nghiệp đương nhiên bởi luôn có một số người
trong giải đoạn chuyển từ chỗ làm này qua chỗ làm khác.
Thất nghiệp cơ cấu: là sự mất việc kéo dài trong các ngành hoặc vùng có sử
giảm sút kéo dài về nhu cầu lao động do thay đổi cơ cấu nền kinh tế.
Thất nghiệp chu kỳ: khi tổng cầu lao động thấp hơn tổng cung lao động ở giai
đoạn suy thoái của chu kỳ kinh tế.
Thất nghiệp kỹ thuật: Do việc thay thế công nhân bằng máy móc hoặc công
nghệ tiên tiến hơn.
Thất nghiệp thông thường: khi thu nhập thực tế xuống dưới mức chấp nhận
được.
Thất nghiệp theo học thuyết Mark: là mức cần thiết để thúc đẩy công nhân làm
việc và giữ mức lương thấp.
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc Lớp: Kế hoạch 48A
7
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
Thất nghiệp theo mùa: khi công việc phụ thuộc vào nhu cầu theo thời tiết.
• Phân theo vị trí lao động của người lao động.
- Việc làm chính: là công việc mà người lao động thực hiện dành nhiều thời

gian nhất và đòi hỏi yêu cầu của công việc cần trình độ chuyên môn kỹ thuật.
- Việc làm phụ: là công việc mà người lao động thực hiện dành nhiều thời gian
sau công việc chính.
c. Một số mô hình lý thuyết tạo việc làm.
• Mô hình Lewis
Lewis đưa ra mô hình giải thích mối quan hệ giữa nông nghiệp và công nghiệp
trong quá trình tăng trưởng, còn gọi là “Mô hình hai khu vực cổ điển”. Mô hình
nghiên cứu sự di chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp.
Sự phát triển của ngành công nghiệp quyết định tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào
khả năng thu hút lao động dư thừa của ngành nông nghiệp. Lượng lao động ngày
càng tăng khiến số lượng lao động dư thừa trong xã hội ngày càng lớn. Khi lao động
dư thừa, tiền lương lao động trong nông nghiệp luôn ở mức tối thiểu, không đảm bảo
được đời sống của người lao động. Chính vì khu vực nông nghiệp mang tính trì trệ
nên cần giảm dần quy mô và tỷ trọng đầu tư, thay vào đó, cần xây dựng và đầu tư vào
các khu công nghiệp để thu hút người lao động. Mô hình được đề ra dựa trên các giả
định:
- Tỷ lệ lao động thu hút sang khu vực công nghiệp tương ứng với tỷ lệ vốn tích
lũy ở khu vực này ( thâm dụng vốn, hoặc đầu tư nơi khác).
- Khu vực thành thị không có thất nghiệp.
- Nông thôn có thể giải quyết việc làm mà không cần phải chuyển ra thành phố.
- Tiền lương công nghiệp không tăng(thực tế vẫn tăng do nhu cầu về lao động
tay nghề và công đoàn).
• Mô hình tân cổ điển
Mô hình tân cổ điển coi công nghệ (T) là yếu tố trực tiếp quyết định tăng
trưởng. Việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ giúp tối đa hóa lợi
nhuận.Đối với khu vực nông nghiệp, nếu áp dụng các tiến bộ công nghệ, lao động có
thể cải thiện, nâng cao chất lượng ruộng đất, giúp tăng về cả chất lượng và số lượng
sản phẩm.Đối với khu vực công nghiệp, các sản phẩm do lao động làm ra ngày càng
tăng. Vì vậy, các chủ lao động phải trả tiền công cho người lao động cao hơn. Điều
này buộc các nhà sản xuất phải lựa chọn sản xuất công nghệ phù hợp (công nghệ sử

dụng nhiều vốn hay công nghệ sử dụng nhiều lao động).
Trong đó, quan điểm đầu tư:
- Tránh bất lợi công nghiệp nên đầu tư cả nông nghiệp ngay từ đầu.
- Đầu tư là tăng năng suất nông nghiệp khiên viện lao động dịch chuyển khỏi
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc Lớp: Kế hoạch 48A
8
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
nông nghiệp không làm tăng giá nông sản.
• Mô hình Harry T. Oshima
Oshima đã đưa ra các biện pháp hỗ trợ vạo việc làm cho người lao động, từ đó
giúp kinh tế ngày càng tăng trưởng. Theo mô hình, cần tạo việc làm cho lao động
nhàn rỗi theo hướng tăng cường đầu tư phát triển nông nghiệp. Đa dạng hóa sản xuất
nông nghiệp, xen canh, tăng vụ trông thêm rau quả, cây lấy củ, mở rộng chăn nuôi,
trồng cây lâm nghiệp. Bên cạnh đó, nhà nước cũng cần hỗ trợ để nâng cao năng suất:
hệ thống tưới, vận tải nông thôn, giáo dục và điện khí hóa nông thôn; cải tiến các tổ
chức: tổ chức dịch vụ, tổ chức tín dụng; tăng xuất khẩu nông sản thu ngoại tệ (nhập
khẩu máy móc cho công nghiệp nhiều lao động). Sau đó, cần hướng tới tạo việc làm
đầy đủ cho lao động bằng cách đầu tư phát triển đồng thời nông nghiệp và công
nghiệp (theo chiều rộng): đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp; Phát triển ngành công
nghiệp chế biến nông sản hàng hóa; Phát triển ngành tiểu thủ công nghiệp ( nông cụ
cải tiến); Phát triển ngành sản xuất phân bốn, gióng, các yếu tố đầu vào; Hoạt động
đồng bộ từ sản xuất vận chuyển bán hàng, tín dụng; Phát triển nông nghiệp tạo nhu
cầu tăng quy mô công nghiệp và dịch vụ. Các biện pháp này hướng tới tăng trưởng
việc làm nhanh hơn tăng trưởng lao động, khiến thu nhập thực tế của người lao động
tăng lên.
d. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc làm.
• Điều kiện tự nhiên.
Mỗi quốc gia có một ưu thế riêng về điều kiện tự nhiên như các yếu tố về đất
đai, khí hậu, địa hình,… Đất đai màu mỡ hay khô cằn, khí hậu ôn đới hay nhiệt đới,
địa hình đồng bằng, vùng núi hay vùng biển, các nguồn tài nguyên khoáng sản nhiều

hay ít, … Từ các yếu tố trên, mỗi quốc gia có thể lựa chọn được các phương thức sản
xuất, các ngành nghề kinh doanh khác nhau, sao cho có thể tạo ra năng suất cao nhất
trong quá trình sản xuất. Từ đó, người lao động trên mỗi quốc gia có thể lựa chọn
được việc làm phù hợp với trình độ và trạng thái sức khỏe của bản thân.
• Dân số.
Dân số vừa là yếu tố sản xuất, vừa là yếu tố tiêu dùng. Quy mô dân số tăng thì
cầu hàng hóa và dịch vụ tăng. Khi đó, nguồn cung sản xuất cũng tăng lên, đa dạng
hóa các ngành nghề hoạt động do cung và cầu luôn có mối quan hệ tác động qua lại
lẫn nhau. Đồng thời, cơ cấu dân số cũng quyết định tiêu dùng. Tùy thuộc vào sở
thích, giới tính, tâm lý, dân tộc, nhu cầu tiêu dùng của mỗi người là khác nhau. Để
lượng hàng hóa sản xuất bán ra có người mua, các doanh nghiệp buộc phải quan tâm
đến nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng. Nếu lượng hàng hóa bán ra nhiều, các nhà
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc Lớp: Kế hoạch 48A
9
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
sản xuất phải tăng thêm coogn lao động, ngược lại, nếu không có người mua, các
doanh nghiệp buộc phải sa thải một số lượng lao động để cân bằng chi phí sản xuất
nhằm tránh tình trạng lỗ vốn.Quá trình di dân cũng làm cho dân số ở từng nơi thay
đổi. Khi cơ cấu dân số thay đổi sẽ dẫn đến nhu cầu tiêu dùng sản xuất hàng hóa ở
từng nơi thay đổi. Những vùng người dân di cư đến buộc phải tăng thêm lượng sản
xuất để đáp ứng đủ nhu cầu của người dân, từ đó tăng thêm nhiều ngành nghề mới,
góp phần tạo ra nhiều chỗ làm mới. Trong khi những vùng dân di cư đi lại phải giảm
số lượng sản xuất xuống dẫn đến tình trạng lao động bị thất nghiệp.
Ngoài ra, chất lượng lao động cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tạo
việc làm cho người lao động. Trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa, các
doanh nghiệp ngày càng phát triển, việc đòi hỏi lao động có sức khỏe, trình độ
chuyên môn tay nghề cao để đáp ứng được yêu cầu của công việc đề ra là điều vô
cùng cần thiết. Người lao động có trình độ mới có nhiều cơ hội tìm kiếm được việc
làm theo đúng nguyện vọng, mới có thể có được thu nhập cao đáp ứng được nhu cầu
cuộc sống. Người lao động cần tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mình,

tranh thủ tham gia các hoạt động giáo dục, đào tạo, nâng cao tay nghề để có thêm
kinh nghiệm, kiến thức và nhận thức. Điều đó mới có thể nâng cao vị thế bản thân
mỗi người lao động.
• Cơ chế chính sách
Cơ chế chính sách là một yếu tố quan trọng góp phần tạo việc làm cho người
lao động. Nhà nước dùng các công cụ chính sách pháp luật để đảm bảo được quyền
lợi của người dân, đồng thời buộc người dân phải tuân theo những chủ trương đúng
đắn của đảng và nhà nước đề ra, nhằm hướng tới một xã hội ngày càng phát triển,
cuộc sống của người dân được ấm no. Chính vì vậy, trong mỗi thời kỳ khác nhau,
Nhà nước lại đề ra các chính sách cụ thể, các hành lang pháp lý phù hợp hướng tới
phát triển sản xuất, nâng cao đời sống, tạo thêm nhiều cơ hội việc làm cho người lao
động. Trong Bộ luật lao động của nước ta quy định: “Người lao động có quyền làm
việc cho bất kỳ người sử dụng lao động nào và bất kỳ chỗ nào mà pháp luật không
cấm” (khoảng 1, điều 16) và điều 13 cũng ghi rõ: “Giải quyết việc làm, bảo đảm cho
mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của nhà
nước, của các doanh nghiệp và toàn xã hội.”
e. Ảnh hưởng của tạo việc làm đến việc sử dụng nguồn nhân lực.
• Ảnh hưởng của tạo việc làm đến việc sử dụng nguồn nhân lực.
Sự phát triển của nền kinh tế phụ thuộc rất lớn vào vấn đề sử dụng có hiệu quả
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc Lớp: Kế hoạch 48A
10
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực và vốn. Trong đó, việc sử dụng nguồn
nhân lực có vai trò quan trọng và quyết định đến sự phát triển đó, tạo việc làm nhằm
nâng cao hiệu quả nguồn nhân lực thông qua các hướng:
Tạo việc làm và giải quyết việc làm nhằm phân bổ lao động một cách hợp lý,
góp phần hoàn thiện hệ thống quản lý đưa đến một hệ thống lao động phù hợp với cơ
cấu hệ thống ngành nghề có sự phối hợp hài hòa giữa các bộ phận tổ chức, bố trí lao
động phù hợp với đặc điểm tính chất của công việc sẽ nâng cao năng suất lao động cá
nhân, giúp họ phát triển khả năng và sự sáng tạo của mình cho quá trình sản xuất phát

triển.
Tạo ra nhiều chỗ làm việc mới sẽ thu hút được nhiều lao động tham gia vào quá
trình sản xuất xã hội và sẽ giải quyết các vấn đề mang tính xã hội như : nâng cao, cải
thiện đời sống, hạn chế các hiện tượng tiêu cực trong xã hội.
Tạo việc làm là một trong những động lực thúc đẩy nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực vì khi các công việc được tạo mới bao giờ cũng đòi hỏi một chuyên môn kỹ
thuật cao ở người lao động mà theo quy luật của quá trình tuyển dụng thì người ứng
cử viên cũng phải có một trình độ tương đương bởi thế cho nên con người luôn có xu
hướng tích lũy kiến thức trình độ lành nghề cho mình để có thêm nhiều cơ hội tham
gia vào các hoạt động kinh tế.
• Sự cần thiết phải tạo việc làm cho người lao động.
Tạo việc làm là quá trình tạo ra những điều kiện cần thiết cho sự kết hợp giữa tư
liệu sản xuất, công cụ và sức lao động. Tạo việc làm cho người lao động giúp phát
huy tiềm lực sẵn có của từng đơn vị, địa phương, từng người lao động nhằm tạo ra
những công việc hợp lý và đầy đủ, đồng thời đem lại được thu nhập đảm bảo thỏa
mãn nhu cầu đời sống hàng ngày cho người lao động. Có thể nói tạo việc làm luôn là
vấn đề quan trọng, mang tính xã hội, có ý nghĩa lớn lao đối với từng người lao động
và toàn xã hội.
Tạo việc làm giúp khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, tiềm năng kinh
tế, nhằm tránh lãng phí nguồn lực xã hội. Về mặt xã hội, tạo việc làm giúp con người
nâng cao vai trò của mình trong quá trình phát triển kinh tế, giảm thiểu được tình
trạng thất nghiệp trong xã hội. Đồng thời, người lao động có việc làm sẽ giúp giảm
các tệ nạn xã hội như : trộm cắp, lừa đảo, nghiện hút, … và hạn chế được những phát
sinh tiêu cực do thiếu việc làm gây ra. Về mặt kinh tế, việc làm giúp con người thỏa
mãn được các nhu cầu về vật chất và tinh thần, giúp ổn định và nâng cao đời sống
của người lao động.
Tạo việc làm đáp ứng nhu cầu tìm việc, nhu cầu lao động của con người vì lao
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc Lớp: Kế hoạch 48A
11
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn

động là phương tiện dể tồn tại chính của con người. Có thể nói, giải quyết và tạo việc
làm cho người lao động giúp cho họ tham gia được vào quá trình sản xuất của xã hội,
cũng là tiền đề giúp cho sự tồn tại và phát triển của đất nước.
Do đó, mọi chủ trương chính sách đúng đắn là phải phát huy cao độ khả năng
nguồn lực con người, nếu có sai p hạm thì nguồn lao động sẽ trở thành gánh nặng,
thậm chí gây trở ngại, tổn thất lớn cho nền kinh tế cũng như xã hội. Vì vậy một quốc
gia giải quyết tốt vấn đề việc làm cho người lao động là thành công lớn trong sự
nghiệp phát triển kinh tế xã hội chính trị của mình.
1.3. Sự cần thiết phải giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất.
1.3.1. Đặc điểm của lao động bị thu hồi đất do quá trình CNH – HĐH.
Đặc điểm của người lao động bị thu hồi đất là một yếu tố khiến cho việc giải
quyết việc làm trở nên cần thiết. Với những người lao động bị thu hồi đất, đất đai
chính là tư liệu sản xuất, đã nơi giúp họ tạo ra được thu nhập, là điều kiện cần để họ
có thể sinh tồn . Người lao động khi bị thu hồi đất, không còn đất để tham gia vào
hoạt động sản xuất cũng tựa như họ mất đi quyền lợi của chính mình.
Ngoài ra, những lao động sau khi bị thu hồi đất họ rất khó chuyển đổi nghề
nghiệp. Một phần vì với phần lớn người lao động bị thu hồi đất quen với nghề nông.
Mất đất canh tác đồng nghĩa với việc họ mất nơi lao động hoạt động sản xuất. Những
lao động này thường quen với việc thuần nông, không có tay nghề, không có trình độ.
Để kiếm được việc làm, họ cần phải cạnh tranh với số lượng lao động được đào tạo
bởi các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề khá nhiều. Biết được sự bất lợi của mình
thế nhưng nhiều lao động lại không cố gắng khắc phục những yếu kém, mà trở nên
buông xuôi, không muốn nỗ lực trong việc nâng cao trình độ kiến thức với mong
muốn tìm được công việc mới tốt hơn. Ngoài ra, một phần lao động bị thu hồi đất đã
quá tuổi để có thể dễ dàng làm quen với công việc mới (khoảng 35 tuổi). Cùng với
tâm lý lo sợ rủi ro, thất bại, lối tư duy “ăn chắc, mặc bền”, sản xuất nhỏ lẻ manh mún
càng làm cho cơ hội tìm việc của họ trở nên khó khăn hơn.
Phần lớn người lao động bị thu hồi đất là những người làm nghề nông. Một số
người sau khi bị thu hồi đất tuy diện tích đất bị thu hẹp, nhưng đa số vẫn cố gắng tìm
cách bám trụ với nghề nông như trồng lúa, chăm sóc hoa màu, chăn nuôi trâu, bò,

lợn, gà để kiếm sống. Tuy nhiên, họ chỉ biết lao động theo những phương thức đơn
giản, chưa biết áp dụng những tiến bộ công nghệ mới, họ vẫn dựa nhiều vào những
kinh nghiệm lâu năm của mình đã sản xuất. Vì vậy, thu nhập của những người lao
động này sau khi bị thu hồi đất trở nên rất thấp, không đủ sống.
Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều người lao động sống ỷ lại vào những khoản tiền trợ
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc Lớp: Kế hoạch 48A
12
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
cấp đền bù đất. Phần lớn số tiền đền bù được người dân sử dụng vào việc sửa sang,
xây dựng nhà ở, mua sắm phương tiện đi lại, việc học tập của con cháu. Tuy nhiên,
rất ít gia đình dành tiền đền bù đầu tư cho việc học nghề của con cháu, cũng như số
gia đình đầu tư vào việc mở rộng sản xuất kinh doanh không nhiều.Nhiều người biết
ăn tiêu chứ không biết cách tạo việc làm như thế nào. Một số người chỉ thích tìm
những công việc nhàn hạ, ít bận rộn, không phải chịu nhiều áp lực.Vì vậy, cần có
những chính sách tạo việc làm và hỗ trợ cho người lao động.
Ngoài ra, việc thu hồi đất có một số ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của người
dân như ô nhiễm môi trường gây bất bình, lo lắng về sức khỏe của bản thân, gia đình
và cộng đồng. Đồng thời, nó tác phần không nhỏ đến sự du nhập của các tệ nạn xã
hội như ma túy, mại dâm, cờ bạc... Bởi với những người lao động bị thu hồi đất sau
khi bị mất việc làm trở nên vô công rỗi nghề. Hàng ngày, họ chỉ biết tìm cách để
hưởng thụ khoản tiền lớn đền bù đất mà Nhà nước đã giao cho. Chính vì vậy, họ là
những người dễ bị lôi kéo vào các vấn đề của xã hội, là một trong các tác nhân gây
nên những bất ổn của xã hội.
Ngoài ra, phần lớn nông dân bị thu hồi đất cảm thấy chưa thật hài lòng với
chính sách đền bù giải tỏa mặt bằng và hỗ trợ chuyển đổi việc làm, nguyên nhân là do
việc thu hồi đất kéo dài nhiều đợt dẫn đến việc tiền đền bù nhận được lẻ tẻ gây khó
khăn cho việc đầu tư, ổn định, phát triển sản xuất. Nhưng lý do cơ bản nhất là tồn tại
tình trạng thiếu công bằng trong công tác đền bù. Hiện nay, đứng giữa các quy định
chính sách cũ và mới, mức giá đền bù đã chênh nhau đáng kể. Nhiều người dân bị thu
hồi đất trước trở nên thiệt thòi.

1.3.2. Sự cần thiết phải giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất.
Tạo việc làm cho người dân bị thu hồi đất là một nhân tố quan trọng cho sự
phát triển kinh tế của đất nước. Sự phát triển này phụ thuộc vào nhiều nhân tố như tài
nguyên, vốn, lao động, công nghệ, trong đó việc sử dụng lao động là một nhân tố
quan trọng, nhất là đối với một nước nông nghiệp đang phát triển như Việt Nam.
Hiện nay, chúng ta đang có nhiều dự án phát triển, dẫn đến việc tồn tại một lượng lớn
người lao động sau khi bị thu hồi đất không có việc làm. Việc để không một lực
lượng lớn lao động không sử dụng đến gây lãng phí tổn thất lớn cho xã hội, nhất là
đối với một đất nước đang trên đà phát triển như Việt Nam. Chính vì vậy, tạo việc
làm cho người lao động bị thu hồi đất là hoạt động đóng vai trò quan trọng đối với xã
hội, doanh nghiệp và bản thân chính người lao động.
a. Đối với xã hội.
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc Lớp: Kế hoạch 48A
13
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
Trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, quốc gia nào cũng muốn
thoát ra khỏi tình trạng kinh tế nông nghiệp lạc hậu để chuyển sang nền kinh tế công
nghiệp, nhằm có được năng suất sản xuất tăng, đời sống của con người nâng cao, từ
đó mới có thể đưa được nền kinh tế của xã hội phát triển. Sự chuyển dịch cơ cấu nền
kinh tế tác động không nhỏ đến sự chuyển dịch cơ cấu lao động. Khi đất nước càng
ngày càng áp dụng nhiều công nghệ khoa học kỹ thuật mới nhằm tạo ra các hoạt
động sản xuất mới, máy móc thay thế cho lao động, khi đó tình trạng thất nghiệp sẽ
xảy ra. Việc tạo việc làm là một yếu tố cần thiết nhằm giảm tình trạng thất nghiệp,
giúp giảm gánh nặng cho xã hội trong việc ổn định cuộc sống cho người lao động.
Đồng thời, tạo việc làm còn giúp cho chất lượng cuộc sống của người dân được nâng
cao, hạn chế được những vấn đề tiêu cực do những người lao động dư thừa trong xã
hội gây nên, đồng thời góp phần xóa đói giảm nghèo và giúp giải quyết được các vấn
đề về kinh tế, chính trị, xã hội.
b. Tác động đối với các doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, tạo việc làm cho người lao động bị thu hồi đất còn giúp duy trì sự

tồn tại và phát triển cho các doanh nghiệp. Lao động là một yếu tố quan trọng góp
phần thúc đẩy sản xuất , càng nhiều lao động thì lượng sản phẩm được tạo ra càng
tăng, từ đó giúp các doanh nghiệp có thể phát triển và lớn mạnh. Nhất là đối với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn ít, quá trình sản xuất chủ yếu sử dụng nhiều lao động
hơn máy móc. Đồng thời, dù công nghệ có ngày càng tiến bộ, nhưng máy móc cũng
không thể tự hoạt động, mà phải dựa trên sự điều khiển của con người. Vì vậy, trên
thực tế, đối với các nước đang phát triển, các doanh nghiệp luôn luôn cần tuyển các
lao động có tay nghề, trình độ cao. Tuy nhiên, hiện nay, số lượng lao động tuy đông,
nhưng không đáp ứng được đủ yêu cầu do các nhà tuyển dụng đề ra. Do đó, vẫn còn
tồn tại việc các doanh nghiệp luôn trong tình trạng thiếu người, nhưng lượng lao
động dư thừa vẫn tiếp tục tăng.
c. Đối với người lao động bị thu hồi đất.
Tạo việc làm cho người lao động bị thu đất chính là biện pháp cải thiện giúp
người lao động sớm ổn định được đời sống cũng như góp phần nâng cao thu nhập
cho bản thân cũng như gia đình của lao động. Khi đó, ý thức của người lao động
trong việc nâng cao trình độ, nhận thức tăng lên, biết đầu tư nhiều hơn vào đào tạo
cho tầng lớp con em. Đồng thời, điều này cũng giúp giảm sự phân cách giàu nghèo
giữa các tầng lớp trong xã hội.
Hiện nay, đất nước đang ngày càng phát triển, rất cần đến sự đóng góp không
nhỏ của lực lượng lao động. Vì vậy, việc tạo việc làm cho người lao động bị thu hồi
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc Lớp: Kế hoạch 48A
14
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
đất là rất cần thiết. Người lao động bị thu hồi đất chủ yếu là nông dân bị thu hồi đất
canh tác. Đối với một nước vẫn thuần nông như nước ta, nếu người dân bị thu hồi đất
canh tác, trở nên thất nghiệp, sự phát triển kinh tế có thể bị chững lại, mọi bước đi
đều trở nên chông chênh. Nhà nước cần tạo ra các chính sách giáo dục đào tạo, đặc
biệt hướng vào đối tượng thành niên, bởi đây chính là lực lượng nòng cốt,là xương
sống để phát triển nền kinh tế hiện nay. Nếu đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa mà không gắn liền với quyền lợi và việc làm của người lao động bị thu

hồi đất thì sẽ tạo ra sự mất ổn định trong xã hội, làm chậm tiến trình công nghiệp hóa.
Việc dựa lao động dư thừa sau khi bị thu hồi đất, sử dụng đúng chỗ, đúng sách giúp
chúng ta có thể tăng năng suất sản xuất, tạo sự đi lên về kinh tế.
1.4. Kinh nghiệm tạo việc làm cho người lao động bị thu hồi đất ở một số địa
phương.
a. Thành phố Hồ Chí Minh.
Kể từ cuối năm 1993, thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành thực hiện triển khai
nhiều dự án xây dựng các khu công nghiệp, chế xuất để nhằm mục đích thu hút các
nguồn đầu tư, di dời các cơ sở sản xuất ra khỏi khu dân cư đông đúc nhằm tránh tình
trạng ô nhiễm, cải thiện lại hệ thống giao thông ,… Tính từ năm 1998, thành phố đã
triển khai bồi thường và giải phóng mặt bằng 721 dự án, tổng diện tích thu hồi hơn
201,8 triệu m
2
. Quá trình thu hồi đất đã ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của người dân
bị thu hồi đất. Thành phố đã có nhiều chính sách đền bù và hỗ trợ cho người dân, tuy
nhiên vẫn còn nhiều bất cập như giá đền bù thấp, không thỏa đáng,, gây nhiều xáo
trộn, bức xúc đến đại bộ phận người dân có đất bị thu hồi. Trước tình hình này, thành
phố đã thực hiện một số giải pháp, trong đó tập trung vào công tác bồi thường, hỗ trợ
đào tạo và giải quyết việc làm cho người dân bị thu hồi đất. Bên cạnh công tác bồi
thường đất đai, thành phố còn thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ cho người dân.
Đối với các hộ nông dân sau khi bị thu hồi đất nhưng vẫn còn đất canh tác,
thành phố hỗ trợ cho vay vốn để phát triển sản xuất với mức vay lãi theo chương
trình 419 (hộ dân thường được hỗ trợ 4% lãi suất vay/năm; hộ diện xoá đói giảm
nghèo được hỗ trợ 7% lãi suất/năm). Đối với hộ bị thu hồi dưới 30% diện tích, thành
phố hỗ trợ kinh phí học nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn với mức 300.000
đồng/người/tháng và không quá 1,5 triệu đồng trong một khoá đào tạo. Những hộ dân
không còn đất sản xuất phải chuyển sang ngành nghề khác thì được hỗ trợ cho vay tín
dụng từ 1 triệu đến 20 triệu đồng/hộ, lãi vay 6%/năm. Hỗ trợ, khoanh nợ lãi vay ngân
hàng cho những hộ bị thu hồi hết đất, không thể tiếp tục sản xuất để trả nợ ngân
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc Lớp: Kế hoạch 48A

15
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
hàng. Thành phố cũng đang xây dựng đề án thành lập công ty với sự góp vốn bằng
tiền bồi thường của nông dân bị thu hồi đất. Xây dựng đề án nhà ở xã hội trên địa bàn
giai đoạn 2006 – 2010. Thành phố cũng lập ra quỹ hỗ trợ đào tạo và giải quyết việc
làm cho ngưòi dân có đất bị thu hồi (chương trình 156) với nguồn vốn ban đầu 50 tỉ
đồng. Nguồn vốn gồm: nguồn ngân sách thành phố, đóng góp của chủ đầu tư sử dựng
đất của người dân, đóng góp tự nguyện của các cá nhân, tổ chức, kể cả tổ chức phi
chính phủ và các nguồn tín dụng khác được ngân sách thành phố cấp bù lãi suất.
Người bị thu hồi đất sẽ được quỹ hỗ trợ để theo học văn hoá, học nghề, đầu tư sản
xuất, kinh doanh, đi xuất khẩu lao động… Theo đó, học sinh học phổ thông và đại
học sẽ được hỗ trợ học phí và tiền đóng góp xây dựng cơ sở vật chất trường học, thời
gian hỗ trợ không quá 3 năm. Học sinh học nghề được hỗ trợ tối đa 3 triệu
đồng/người đối với khoá đào tạo trung hạn và không quá 250 nghìn
đồng/người/tháng đối với khoá ngắn hạn. Đối với vay vốn để sản xuất, kinh doanh,
mỗi lao động được vay không quá 10 triệu đồng, mỗi hộ không quá 30 triệu đồng.
Riêng đối với trường hợp đi xuất khẩu lao động thì được vay không quá 50 triệu
đồng/hộ. Lãi suất cho vay ưu đãi là 2%/năm (0,17%/tháng).
Tuy nhiên, trong thời đại hiện nay, tốc độ phát triển các khu công nghiệp, khu
dân cư tại nông thôn sẽ càng ngày càng tăng. Vì vậy, để đảm bảo được quyền lợi của
những người lao động bị thu hồi đất, mất việc làm cũng như phương án sản xuất, nhà
nước cần đưa ra nhiều hình thức hỗ trợ phù hợp hơn cho người dân được lựa chọn.
b. Thành phố Đà Nẵng.
Trong thời đại công nghiệp hóa, Đà Nẵng đã tiến hành triển khai quy hoạch, giải
phóng mặt bằng đối với một số nơi trong thành phố. Đây là thành phố có diện tích
đất nông nghiệp giảm rất nhanh do quá trình đô thị hóa. Nhiều người dân mất đất sản
xuất nhưng chưa tìm được việc làm, hoặc không thể chuyển đổi ngành nghề đã khiến
lực lượng lao động trong thành phố trở nên dư thừa. Nhiều người dân phải vào tận
Quảng Nam để thuê đất trồng trọt. Để giải quyết vấn đề này, UBND thành phố đã
triển khai đề án: “Hỗ trợ chuyển đổi ngành nghề, giải quyết việc làm, ổn định đời

sống đối với đối tượng bị thu hồi đất sản xuất, di dời giải toả trên địa bàn”.
Về chính sách học nghề, thành phố hỗ trợ triền ăn trưa cho 124 học sinh thuộc
diện này với mức 5000đ/học sinh/ngày thực học, mức hỗ trợ mỗi học sinh không quá
120.000 đ/tháng (hỗ trợ tối đa không quá 6 tháng); hỗ trợ kinh phí đào tạo cho doanh
nghiệp tiếp nhận lao động di dời giải toả là 1 tỷ 500 triệu đồng; trích từ ngân sách
hơn 1 tỷ 480 triệu đồng để dạy nghề ngăn hạn không thu học phí đối với 1.250 đối
tượng chính sách xã hội, trong đó có đối tượng bị hộ thu hồi đất; Chương trình mục
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc Lớp: Kế hoạch 48A
16
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
tiêu quốc gia về hỗ trợ dạy nghề cho nông dân của thành phố đã dành 700 triệu đồng
chi dạy nghề cho hơn 800 nông dân bị thu hồi đất.
Về chính sách hỗ trợ học phí, đến nay, thành phố đã thực hiện miễn giảm học
phí cho gần 2.000 em học sinh thuộc diện này. Thành phố Đà Nẵng đã trình HĐND
thành phố đề án: “Quỹ giải quyết việc làm từ ngân sách thành phố”, dự kiến 6 tỷ
đồng/năm uỷ thác cho Ngân hàng Chính sách xã hội cho vay ưu đãi để giải quyết v
iệc làm cho các đối tượng bị mất đất do di dời giải toả.Riêng quỹ quốc gia hỗ trợ việc
làm , trong 5 tháng dầu năm 2006, đã cho 19 hộ trong diện di dời, giải toả vay gần
350 triệu, giải quyết việc làm mới cho 29 lao động bị mất đất. Ngoài ra, thành phố
cũng tạo điều kiện và hỗ trợ cho nông dân bị mất đất, thật sự không có điều kiện
chuyển đổi nghề để hình thành vùng chuyên canh rau an toàn, với quy mô mỗi vùng
từ 30 - 50 ha tại huyện Hỏa Vang và các quận: Ngũ Hành Sơn, Liên Chiểu.
c. Thành phố Hải Phòng.
Hải Phòng là thành phố lớn thứ 3 trong cả nước, áp lực về nhu cầu việc làm của
người dân độ tuổi lao động cũng không ngừng tăng. Tuy nhiên, mỗi năm, thành phố
vẫn thực hiện chuyển đổi hàng nghìn hécta đất nông nghiệp cho công nghiệp và các
mục đích khác. Đồng nghĩa với việc đó, hàng vạn người lao động bị mất việc làm.
Ước tính trong vòng 10 năm trở lại đây, đã có hàng vạn ha đất nông nghiệp không thể
trồng cấy vì phải nhường chỗ cho các dự án mới được đầu tư chẳng liên quan gì đến
trồng lúa. Theo số liệu thống kê của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hải

Phòng, chỉ tính từ năm 2003 đến tháng 7/2008, địa phương đã thu hồi gần 5.000 ha
đất nông nghiệp cho 625 dự án công nghiệp, đô thị, thương mại, với tổng số hộ dân
phải di dời gần 49.000 hộ, bằng hơn 64.000 nhân khẩu. Các huyện An Dương, Kiến
Thụy (cũ), Thủy Nguyên có nhiều diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi, chuyển đổi
mục đích sử dụng nhất. Được biết, đi cùng với thu hút đầu tư, Hải Phòng cũng đã có
chiến lược về tạo việc làm cho người lao động. Theo đó khuyến khích, tạo cơ chế
"thoáng" về đất đai cũng như vay vốn cho những doanh nghiệp nào thu hút được
nhiều lao động.Tuy nhiên, đấy mới chỉ là một trong nhiều giải pháp quan trọng.
Nghĩa là, ngoài đào tạo nghề, còn nhiều giải pháp khác cần phải được kết hợp thực
hiện đồng bộ giữa chủ đầu tư với địa phương, thực hiện nghiêm túc quá trình tái định
cư và giải quyết việc làm cho người lao động.
d. Bài học rút ra cho Hà Nội.
Mặc dù hiện tại, Hà Nội có nhiều dự án cần thực hiện. Tuy nhiên, đứng trước
tình trạng người lao động sau khi bị thu hồi đất phần lớn không có việc làm, và đứng
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc Lớp: Kế hoạch 48A
17
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
trước khó khăn trong việc chuyển đổi nghề nghiệp, Hà Nội cần phải cân nhắc kĩ
trước khi tiến hành thu hồi đất của người lao động. Thành phố cần tránh tình trạng
sau khi thu hồi đất, các dự án vẫn chưa được thực hiện do chờ vốn từ trên chuyển
xuống, khiến tình trạng đất bỏ không lãng phí, trong khi người lao động sau khi bị
thu hồi đất rơi vào tình trạng gặp khó khăn khi kiếm việc làm, hoặc di cư sang các
tỉnh thành khác thuê đất để tiến hành sản xuất.
Nhà nước cần đề ra các chính sách hỗ trợ phù hợp cho người lao động bị thu
hồi đất. Bên cạnh đó, chính quyền địa phương cần phải quan tâm, giúp đỡ, hỗ trợ ổn
định cuộc sống và tạo việc làm cho người lao động bị thu hồi đất. Các cơ quan có
thẩm quyền cần tiến hành sát sao công tác hỗ trợ cho người lao động sau khi bị thu
hồi đất trong việc đào tạo, nâng cao trình độ cũng như tay nghề của người lao động,
giúp họ có thể đáp ứng được các yêu cầu của doanh nghiệp đề ra.Mức tăng thêm,
phải tính toán đến sự cân đối của ngân sách đồng thời phát triển nguồn thu từ các

nguồn ngoài ngân sách tùy theo tình hình thực tế. Hỗ trợ cho người dân thông qua thẻ
học nghề, để đảm bảo sử dụng đúng mục đích của các khoản tài chính hỗ trợ dạy
nghề ở các khu vực nói trên, chủ dự án sẽ lập danh sách nhu cầu học nghề của các hộ
bị thu hồi đất, sau đó gửi họ đến các cơ sở dạy nghề phù hợp. Khi đó cả người dạy và
người học nghề đều được thụ hưởng đúng ưu đãi tài chính cho người lao động tại các
vùng đô thị hoá nhanh ở ngoại thàn
Đồng thời, tiếp tục đổi mới phương thức cho vay vốn nhằm đơn giản hơn thủ
tục cho vay, song vẫn đảm bảo khả năng thu hồi vốn, đảm bảo đúng đối tượng và
công bằng; nâng cao ý thức, trách nhiệm vay và hoàn trả nợ vay đối với người được
vay; khuyến khích học viên hoàn trả các khoản vay đúng hạn; thủ tục thanh toán đơn
giản, dễ thực hiện...tiến hành tận dụng những mặt lợi thế ngay tại địa phương, tránh
tình trạng phải ly hương để kiếm sống.
Ngoài ra, cần khuyến khích mô hình đào tạo nghề và tạo việc làm trực tiếp do
doanh nghiệp : Doanh nghiệp tự tổ chức đào tạo nghề cho người lao động và sau đó
tuyển dụng họ vào làm việc cho doanh nghiệp, hoặc cũng có thể đào tạo để sau đó
người lao động tự đi tìm việc ở doanh nghiệp khác.
Các cơ quan quản lý các cấp, doanh nghiệp giải quyết những vấn đề tâm lý nảy
sinh từ phía người nông dân, tạo điều kiện cho họ thích ứng với điệu kiện sống mới.
Đồng thời, trước khi triển khai kế hoạch thu hồi đất, chính quyền địa phương nên có
những buổi tập huấn nâng cao nhận thức cho người dân về ảnh hưởng của việc
chuyển đổi mục đích sử dụng đất như tư vấn định hướng nghề nghiệp và chuyển đổi
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc Lớp: Kế hoạch 48A
18
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
cơ cấu ngành nghề, hướng dẫn người dân những vùng sẽ bị thu hồi đất sử dụng tiền
đền bù có hiệu quả… Đồng thời, người nông dân cần phải ý thức được việc tự trang
bị cho mình một nghề nhất định để có thể đáp ứng kịp thời với sự thay đổi việc làm
khi đất nông nghiệp bị thu hồi.
Rút kinh nghiệm từ các địa phương khác sẽ giúp cho Hà Nội, thành phố có
lượng lớn lao động bị thu hồi đất, sẽ tìm ra được những giải pháp tốt nhất, hiệu quả

nhất giúp cho người lao động có được việc làm, tránh rơi vào tình trạng thất nghiệp,
từ đó không chỉ cải thiện được thu nhập cho người lao động mà còn giúp cho nền
kinh tế có thể ngày càng phát triển, đất nước ngày càng đi lên sánh ngang tầm với các
quốc gia trong khu vực.
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc Lớp: Kế hoạch 48A
19
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG
BỊ THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động trên địa bàn
hà Nội.
2.1.1. Vị trí địa lí kinh tế.
Hà Nội nằm ở trung tâm vùng Đồng bằng sông Hồng. Hà Nội là Thủ đô của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có vị trí địa lý – chính trị quan trọng, có
ưu thế đặc biệt so với các địa phương khác trong cả nước. Hà Nội có diện tích
3.348,5 km
2
; dân số là 6,45 triệu người, mật độ trung bình là 1.926 người/km
2
. Từ Hà
Nội đi các thành phố, thị xã của Bắc Bộ cũng như của cả nước rất dễ dàng bằng cả
đường ô tô, sắt, thủy và hàng không. Hà Nội có 2 sân bay dân dụng, là đầu mối giao
thông của 5 tuyến đường sắt, 7 tuyết đường quốc lộ đi qua trung tâm. Đó là những
yếu tố gắn bó chặt chẽ hà Nội với các trung tâm trong cả nước và tạo điều kiện thuận
lợi để Hà Nội phát triển mạnh giao lưu buôn bán với nước ngoài, tiếp nhận kịp thời
các thông tin, thành tựu khoa học và kỹ thuật của thế giới; tham gia vào quá trình
phân công lao động quốc tế, khu vực và cùng hội nhập vào quá trình phát triển năng
động của khu vực Đông Á – Thái Bình Dương.
Trong vùng Thủ đô, Hà Nội được khẳng định là thành phố trung tâm của vùng

với mô hình chùm đô thị có hệ thống đa trung tâm hiện đại, đầu mối giao thông
chính, trung tâm nghiên cứu, dịch vụ tài chính, thương mại, văn hóa, du lịch và dịch
vụ hạ tầng xã hội mang tầm khu vực Đông Nam Á.
Hà Nội là nơi tập trung các cơ quan hành chính cao nhất của Nhà Nước, là trung
tâm hàng đầu về khoa học – công nghệ, đào tạo, y tế, văn hóa. Tại Hà Nội còn có các
cơ quan ngoại giao, các văn phòng đại diện của các tổ chức quốc tế.
Hà Nội đã và sẽ giữ vai trò trung tâm phát triển lớn nhất của Bắc Bộ, là thị
trường lớn của vùng và cả nước. Đồng thời, Hà Nội nằm trong vùng nhiều quần thể
di tích lịch sử và cảnh quan du lịch hấp dẫn: Hạ Long, Đồ Sơn, Tam Đảo,… có thể
làm điểm đầu mối của nhiều tuyến du lịch hấp dẫn ở Miền Bắc.
Có thể nói, Hà Nội là thành phố có khả năng tạo nhiều việc làm cho người lao
động, thuận lợi cho việc làm ăn, buôn bán của người dân. Chính vì vậy, những người
lao động không có việc làm ở nhiều nơi khác thường đổ về thành phố để mong có
thêm nhiều cơ hội tìm kiếm việc làm, tạo thu nhập giúp cải thiện đời sống cho bản
thân và gia đình, cũng như tăng sự phát triển kinh tế,xã hội.
2.1.2. Khí hậu.
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc Lớp: Kế hoạch 48A
20
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
Thành phố Hà Nội nằm trong vùng khí hậu Đồng bằng Bắc Bộ mang đặc thù
của miền khí hậu nhiệt đới gió mùa. Mùa động lạnh, mùa hè nống ẩm mưa nhiều.
Mùa động lạnh rõ rệt so với mùa hạ, chênh lệch giữa nhiệt độ trung bình tháng lạnh
nhất và tháng nóng nhất lên tới 12
o
C, song nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất chỉ
xuống đến 16 – 17
o
C, rất thuận lợi để phát triển cây vụ Đông giá trị kinh tế cao. Mùa
hè: nóng ẩm, mưa nhiều, lượng mưa trung bình từ 1700 – 1800 mm. Lượng mưa tăng
dần từ đầu mùa tới giữa mùa, đạt cực đại vào tháng 8, tháng 9 thuộc về mùa ít mưa.

Riêng vùng núi Ba Vì: Khí hậu có sự khác biệt, ngoài sự chênh lệch nâng cao của nền
nhiệt độ vùng từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây, ở Ba Vì còn có sự chênh lệch rõ
nét về độ cao địa hình.
2.1.3. Địa hình
Thành phố Hà Nội có địa hình đa dạng, bao gồm vùng núi cao, vùng đồi thấp và
vùng đồng bằng thấp trũng. Vùng núi cao có cao độ thay đổi từ 300m đến 1000m,
trong đó có đỉnh núi Bà Vì cao 1.281m và một số núi đá vôi ở phía Nam tỉnh
(Chương Mỹ, Mỹ Đức) với nhiều hang động đẹp, các núi rừng này thường có độ dốc
lớn, hay bị xói mòn, rửa trôi khi mùa mưa đến. Phía Bắc Hà Nội có dãy Sóc Sơn với
đỉnh cao nhất là Chân Chim có độ cao 462m.Vùng đồi thấp tập trung chủ yếu ở khu
vực Hà Tây cũ với diện tích trên 53 nghìn ha, chủ yếu có cao độ từ 30m đến 300m.
Địa hình vùng đồi thấp dốc thoải với độ dốc trung bình từ 8 – 20%, đây là vùng đất
nâu vàng, đỏ.
Địa hình đồng bằng chiếm phần lớn diện tích của thành phố, bao gồm khu vực
phía Đông của tỉnh Hà Tây cũ, hầu hết diện tích của Hà Nội cũ (trừ khu vực vùng núi
Sóc Sơn) và huyện Mê Linh.
Hà Nội có địa hình tốt, có nhiều thuận lợi trong việc phát triển ngành nông
nghiệp. Vì vậy, chính quyền địa phương có thể hướng người lao động sử dụng một số
vùng đất trống trên cao, tiến hành áp dụng một số công nghệ cao vào việc trồng trọt,
chăn nuôi, giúp tăng năng suất, tạo nguồn thu nhập cho người lao động.
2.1.4. Tài nguyên đất.
Đến năm 2009, diện tích đất nông nghiệp chiếm tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu
sử đụng dất cua thành phố, khoảng 56,5%, trong đó đất trồng lúa là 118,1 nghìn ha,
chiếm 35,3% diện tích tự nhiên thành phố.
Đất lâm nghiệp chỉ có khoảng 24,05 nghìn ha, trong đó chủ yếu là đất rừng
phồng hộ và rừng đặc dụng (14,43 nghìn ha). Diện tích đất chưa sử dụng là 10,51
nghìn ha, trong đó đất bằng chưa sử dụng còn khá nhiều (4,84 nghìn ha).
Bảng 2.1. Thực trạng sử đụng dất thành phố Hà Nội.
STT Chỉ tiêu
Năm 2009 Năm 2010

Diện tích Cơ cấu Diện tích Cơ cấu
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc Lớp: Kế hoạch 48A
21
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
(ha) (%) (ha) (%)
TỔNG DIỆN TÍCH ĐẤT TỰ NHIÊN 334.852,150 100,0 334.852,150 100,0
1 Đất nông nghiệp 189.092,480 56,470 172.837,470 51,616
1.1 Đất sản xuất nông nghiệp 153.513,010 45,845 133.680,250 39,922
1.1.1 Đất trồng cây hàng năm 138.907,380 41,483 116.139,560 34,684
1.1.1.
1
Đất trồng lúa 118.126,550 35,277 96.428,500 28,797
1.1.1.
2.
Đất trồng cây hàng năm còn lại 20.138,990 6,014 19.711,060 5,886
1.1.2 Đất trồng cây lâu năm 14.605,630 4,362 17.540,690 5,238
1.2 Đất lâm nghiệp 24.051,920 7,183 23.342,790 6,971
1.2.1. Đất rừng sản xuất 9.618,440 2,872 8.511,780 2,542
1.2.2 Đất rừng phòng hộ 3.753,630 1,121 5.308,710 1,585
1.2.3 Đất rừng đặc dụng 10.679,850 3,189 9.522,300 2,844
1.3 Đất nuôi trồng thủy sản 9.658,250 2,884 13.835,930 4,132
1.4 Đất nông nghiệp khác 1.869,300 0,558 1.978,500 0,591
2 Đất phi nông nghiệp 135.245,150 40,390 153.611,560 45,874
2.1 Đất ở 33.493,540 10,002 36.998,080 11,049
2.1.1 Đất ở tại nông thôn 26.948,780 8,048 27.477,740 8,206
2.1.2 Đất ở tại đô thị 6.544,760 1,955 9.520,340 2,843
2.2 Đất chuyên dùng 70.002,820 20,906 94.622,240 28,258
2.2.1 Đất trụ sở cơ quan, công trình sự
nghiệp
2.265,540 0,677 2.386,250 0,713

2.2.2 Đất quốc phòng, an nình 9.773,530 2,919 9.840,790 2,939
2.2.3 Đất an ninh 0,000
2.2.4 Đất sản xuất kinh doanh phi nông
nghiệp
11.837,750 3,535 20.432,620 6,102
2.2.5 Đất có mục đích công cộng 46.126,000 13,775 51.962,580 15,518
2.3 Đất tôn giáo, tín ngưỡng 788,480 0,235 792,810 0,237
2.4 Đất nghĩa trang, nghĩa địa 2.966,840 0,886 3.216,060 0,960
2.5 Đất sông suối và mặt nước
chuyên dùng
27.527,970 8,221 26.909,700 8,036
2.6 Đất phi nông nghiệp khác 465,500 0,139 1.072,670 0,320
3 Đất chưa sử dụng 10.514,520 3,140 8.403,120 2,510
3.1 Đất bằng chưa sử dụng 4.840,050 1,445 3.465,120 1,035
3.2 Đất đồi núi chưa sử dụng 2.794,110 0,834 2.201,950 0,658
3.3 Núi đá không có rừng cây. 2.880,360 0,860 2.736,050 0,817
Nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường.
Hiện nay, đất nông nghiệp trên địa bàn Hà Nội vẫn chiếm một diện tích khá lớn.
Phần lớn đất bị thu hồi trên địa bàn Hà Nội là đất nông nghiệp, điều này sẽ đẩy
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc Lớp: Kế hoạch 48A
22
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
những người nông dân rơi vào tình trạng mất nơi sản xuất, lao động. Vì vậy, chính
quyền, ủy ban nhân dân thành phố cần chú trọng thu hồi đất sử dụng hiệu quả, tránh
tình trạng để người lao động bị thu hồi đất không có việc làm, còn đất thì để không
chờ dự án gây lãng phí.
2.1.5. Tài nguyên du lịch.
Với bề dày hàng nghìn năm lịch sử, Hà Nội có nhiều danh thắng, di tích lịch sử,
công trình văn hóa nghệ thuật, khảo cổ, kiến trúc cùng với các di tích di vật thể khác,
các lễ hội, làng nghề và văn hóa dân gian; nơi tập trung những bảo tàng lớn và quan

trọng của cả nước. Những đặc trưng văn hóa Việt là nguồn lực và lợi thế cho phát
triển những ngành đem lại giá trị gia tăng cao và tạo xuất khẩu tại chỗ như du lịch và
các dịch vụ văn hóa khác. Trên địa bàn Hà Nội có trên 5.100 di tích lịch sử - văn hóa,
trong đó có trên 700 di tích được xếp hạng cấp quốc gia và trên 1.400 di tích được
xếp hạng cấp tỉnh, mật độ di tích vào loại cao nhất nước.Hà Nội có nhiều danh làm
thắng cảnh nổi tiếng như Cổ Loa, Văn Miếu, Hoàng thành Thăng Long, khu phố cổ,
khu phố cũ, lăng chủ tịch Hồ Chí Mình,.. Bên cạnh đó, Hà Nội còn có nhiều đền chùa
nổi tiếng như chùa Hương, chùa Quán Sứ, chùa Kim Liên, đền Và, phủ Tây Hồ,…
Ngoài ra, Hà Nội là nơi tập trung nhiều làng nghề nổi tiếng, trong đó có các
nghề đặc sắc như : làm tranh dân gian (tranh Hàng Trống, tranh Đông Hồ); gốm sứ
Bát Tràng; nghề làm giấy dó lụa, dệt tơ lụa ở Bưởi; nghề thêu ở Yên Thái; nghề đúc
đồng Ngũ Xã; nghề chạm khảm trang trí đồ gỗ Vân Hà; nghề sản xuất đồ da ở Kiêu
Kỵ; lụa Vạn Phúc; nón Chuông; quạt Vác; khảm trai Chuyên Mỹ; hàng mây tre Phú
Vinh; đồ mộc Tràng Sơn, tượng gỗ Sơn Đồng … Hiện nay, chính quyền thành phố
đã có nhiều chính sách phát triển các làng nghề truyền thống. Việc phát triển cũng
cần một số lượng lực lượng lao động có tay nghề. Vì vậy có thể hướng những lao
động sau khi bị thu hồi đất học và tham gia vào các làng nghề , tạo thêm nhiều công
ăn việc làm cho người lao động.
2.2. Thực trạng lực lượng lao động trên địa bàn Hà Nội.
2.2.1. Lực lượng lao động
Dân số của Việt Nam hiện nay là hơn 82 triệu người, trong đó có khoảng 19
triệu thanh, thiếu niên từ 10 đến 19 tuổi, và mỗi năm bình quân tăng thêm hơn một
triệu người. Với tốc độ tăng dân số như vậy, lao động (LĐ), việc làm luôn là vấn đề
cấp bách, nhất là trong bối cảnh Việt Nam mở cửa hội nhập nền kinh tế hiện
nay.Hiện thị trường lao động Việt Nam có 45 triệu lao động, trong đó có 70% lao
động ở khu vực nông thôn. Theo báo cáo gần đây nhất (tính đến ngày 23.1) của 41/63
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc Lớp: Kế hoạch 48A
23

×