Tải bản đầy đủ (.pdf) (141 trang)

Phổ biến, giáo dục pháp luật của xã, phường trên địa bàn Thành phố Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 141 trang )


1

2

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT



hng k



ph bin, giỏo dc phỏp lut ca xó,
phng trờn a bn thnh ph thanh húa

Chuyờn ngnh : Lý lun v lch s nh nc v phỏp lut
Mó s : 60 38 01



TúM TT LUN VN THC S LUT HC




Hà NộI - 2012
Cụng trỡnh c hon thnh
ti Khoa Lut - i hc Quc gia H Ni





Ngi hng dn khoa hc: GS.TS Hong Th Kim Qu



Phản biện 1:


Phản biện 2:


Luận văn đ-ợc bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi giờ , ngày tháng năm 2012.




Có thể tìm hiểu luận văn
tại Trung tâm t- liệu - Th- viện Đại học Quốc gia Hà Nội
Trung tâm t- liệu - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội


4

MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN



Trang

TRANG PHỤ BÌA


Lời cam đoan


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT
7
1.1.
Bản chất của giáo dục pháp luật
7
1.1.1.
MỘT SỐ KHÁI NIỆM CHUNG VỀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT
7
1.1.2.
Bản chất giáo dục pháp luật
8
1.2.
Mục đích và nhiệm vụ của giáo dục pháp luật
13

1.3.
Chủ thể, khách thể, đối tượng của phổ biến, giáo dục pháp
luật
18
1.3.1.
Chủ thể của phổ biến, giáo dục pháp luật
18
1.3.2.
Khách thể, đối tượng của phổ biến, giáo dục pháp luật
21
1.4.
Hình thức, phương tiện, phương pháp và hiệu quả hoạt động
phổ biến, giáo dục pháp luật
23
1.4.1.
Hình thức của phổ biến, giáo dục pháp luật
23
1.4.2.
Phương tiện, phương pháp của phổ biến, giáo dục pháp luật
26
1.4.3.
Hiệu quả của phổ biến, giáo dục pháp luật
28

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO
DỤC PHÁP LUẬT Ở NƢỚC TA HIỆN NAY (QUA
VÍ DỤ THÀNH PHỐ THANH HÓA)
31
2.1.
Khái quát đặc điểm địa lý, kinh tế, văn hóa - xã hội của tỉnh

Thanh Hóa
31
2.2.
Các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động phổ biến, giáo dục pháp
luật trên địa bàn Thanh Hóa
32
2.2.1.
Yếu tố địa - kinh tế
32
2.2.2.
Yếu tố địa - văn hóa
33
2.2.3.
Yếu tố tổ chức - pháp luật
35
2.3.
Thực trạng hiểu biết và ý thức tuân thủ pháp luật của các
nhóm dân cư trên địa bàn thành phố Thanh Hóa
37
2.3.1.
Nhóm dân cư khu vực trung tâm thành phố Thanh Hóa
37
2.3.2.
Thực trạng phổ biến, giáo dục pháp luật trong học sinh, sinh
viên và thanh, thiếu niên
38
2.3.3.
Nhóm cán bộ, công chức nhà nước
43
2.3.4.

Nhóm dân cư nông thôn 47

2.4.
Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật qua những hình thức
cụ thể
49
2.4.1.
Phổ biến, giáo dục pháp luật qua báo, đài phát thanh và truyền hình
49
2.4.2.
Phổ biến, giáo dục pháp luật trong các trường trung học phổ
thông, đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề
50
2.4.3.
Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua công tác hòa giải
51
2.4.4.
Tủ sách pháp luật ở xã, phường
52
2.4.5.
Tổ chức các hình thức tìm hiểu pháp luật
53
2.4.6.
Phổ biến, giáo dục pháp luật bằng việc biên soạn, in, phát
53


5
hành tài liệu phổ biến, giáo dục pháp luật
2.4.7.

Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua trợ giúp pháp lý
54
2.4.8.
Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của
Tòa án
55

Chƣơng 3: Quan điểm Và Một Số Giải Pháp NÂNG CAO Chất
Lƣợng Phổ Biến, Giáo Dục Pháp Luật
57
3.1.
Những yêu cầu của việc nâng cao chất lượng phổ biến, giáo
dục pháp luật
57
3.2.
Một số kiến nghị và giải pháp để nâng cao chất lượng phổ
biến, giáo dục pháp luật
59
3.2.1.
Một số kiến nghị
59
3.2.2.
Các giải pháp mang tính chiến lược
62
3.2.3.
Các giải pháp cụ thể trong đó tập trung xây dựng được các
loại tài liệu hướng dẫn cho công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật
63
3.2.3.1.

Xây dựng Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật
63
3.2.3.3.
Xây dựng kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật
76
3.2.3.4.
Xây dựng kỹ năng tuyên truyền miệng về pháp luật
84
3.2.3.5.
Phổ biến giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hòa giải ở cơ sở
91
3.2.3.6.
Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động tư vấn pháp luật
101
3.2.3.7.
Kỹ năng xây dựng tài liệu tuyên truyền phổ biến, giáo dục
pháp luật
113

Kết Luận
128











6
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính quyền các cấp nói chung trong đó chính quyền cơ sở là một bộ
phận cấu thành quan trọng của hệ thống chính trị, là nơi trực tiếp giải quyết
những công việc cụ thể liên quan tới nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân.
Vì vậy, năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động của chính quyền tác động
trực tiếp đến việc phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân, đảm bảo sự
ổn định và phát triển của đất nước.
Thực tiễn cho thấy ở đâu chính quyền mạnh, ở đó mọi chủ trương,
chính sách, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước được chấp hành
nghiêm chỉnh, quyền làm chủ của nhân dân được phát huy; ở đâu chính quyền
yếu kém thì ở đó các phong trào quần chúng cũng kém phát triển, đời sống
kinh tế, văn hóa của nhân dân gặp nhiều khó khăn, trật tự an toàn xã hội mất
ổn định. Chính vì vậy, việc tạo chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tôn trọng và
tự giác chấp hành pháp luật của cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân là
việc làm cần thiết trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay.
Đối với tỉnh Thanh Hóa nói chung và thành phố Thanh Hóa nói riêng,
trong những năm qua công tác phổ biến, giáo dục pháp luật luôn luôn được
Đảng bộ, chính quyền và nhân dân quan tâm, xác định đây là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm gắn chặt với công tác giáo dục chính trị tư tưởng
và là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Các cấp ủy Đảng, chính quyền đã có nhiều cố gắng để tiến hành phổ biến
rộng rãi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước
đến với mọi tầng lớp nhân dân. Bằng nhiều biện pháp tích cực, công tác phổ



7
biến, giáo dục pháp luật ở Thanh Hóa đã và đang thu được những thành công
nhất định.
Riêng địa bàn thành phố Thanh Hóa, mặc dù thời gian qua các cấp ủy
đảng, chính quyền đã thực sự vào cuộc và xác định công tác, phổ biến, giáo
dục pháp luật là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh, an toàn trật tự xã hội nhưng trong lĩnh
vực này chưa đáp ứng được những yêu cầu, đòi hỏi đề ra cũng như chưa khai
thác hết tiềm năng, thế mạnh nguồn nhân lực sẵn có tại địa phương. Hạn chế
này có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu một mặt là do nhận thức của một
bộ phận không nhỏ cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa
thực sự quan tâm, còn chiếu lệ, đối phó trong thực hiện nhiệm vụ; chưa có cơ
chế thu hút những người giỏi, tận tâm, thạo việc, chưa có đề cương hướng dẫn
nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật được ban hành. Bên cạnh đó vẫn còn
nhiều bất cập như: một số nơi công tác phổ biến, giáo dục pháp luật vẫn mang
tính hình thức, chưa thực sự đi vào chiều sâu; thông tin pháp luật đến với
nhân dân chưa kịp thời, chưa cập nhật và chưa thống nhất; việc tuyên truyền
phổ biến, giáo dục pháp luật chưa được coi trọng đúng mức, còn chạy theo
phong trào, mang tính bề nổi, kém hiệu quả; hệ thống tư vấn pháp luật và trợ
giúp pháp lý còn yếu, chưa đủ sức để tư vấn giúp công dân và doanh nghiệp
hiểu biết pháp luật, tin pháp luật và làm theo pháp luật; nội dung và hình thức
tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật chưa sát với đối tượng; vẫn còn một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhân dân hiểu biết pháp luật còn sơ sài,
hời hợt, nhiều cán bộ, công chức chưa phân biệt được giữa các loại vi phạm
pháp luật như: vi phạm pháp luật kinh tế, thương mại, hành chính, đặc biệt là
trong lĩnh vực đất đai; vi phạm pháp luật ở một số nơi còn xảy ra.
Để từng bước nâng cao nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật, đáp ứng
yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì việc nghiên cứu



8
về phổ biến, giáo dục pháp luật là việc làm cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài: "Phổ biến, giáo dục pháp luật của xã, phƣờng
trên địa bàn thành phố Thanh Hóa" làm luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
hiện nay
Việc đổi mới phương thức tổ chức thực hiện phổ biến, giáo dục pháp
luật và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm công tác trên là một đòi hỏi
mang tính tất yếu của xã hội. Tuy nhiên, hoạt động phổ biến, giáo dục pháp
luật không phải là vấn đề mới trong khoa học pháp lý Việt Nam, song việc
tiến hành nghiên cứu có phần chậm hơn so với yêu cầu "Nhà nước quản lý
bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa" đã
được ghi nhận từ Hiến pháp 1980. Trước những năm 1990 mới chỉ có một số
ít nhà khoa học nghiên cứu về vấn đề này như: "Ý thức pháp luật và giáo dục
pháp luật ở Việt Nam", Luận án Phó tiến sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Đình
Lộc (bảo vệ ở Liên Xô cũ năm 1977); "Giáo dục ý thức pháp luật với việc
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa", Luận án Phó tiến sĩ Luật học của tác
giả Trần Ngọc Đường (bảo vệ ở Liên Xô cũ năm 1988).
Từ năm 1990 tới nay vấn đề phổ biến, giáo dục pháp luật được nhiều
cơ quan, tổ chức và các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Đến nay đã có
nhiều công trình nghiên cứu, có thể kể tên một số công trình tiêu biểu sau:
+ Công trình đã viết thành sách:
Bàn về giáo dục pháp luật, của hai tác giả Trần Ngọc Đường và
Dương Thanh Mai, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; Xây dựng ý thức và
lối sống tuân theo pháp luật, do GS.TSKH. Đào Trí Úc chủ biên, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 1995; Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ
quản lý hành chính, của TS. Lê Đình Khiên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2002.



9
+ Các đề tài khoa học cấp nhà nước và cấp bộ nghiên cứu về phổ biến,
giáo dục pháp luật:
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phổ biến, giáo dục pháp luật
trong công cuộc đổi mới, Đề tài khoa học cấp Bộ, mã số 92-98-223. ĐT của
Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp; Tìm kiếm mô hình giáo dục
pháp luật có hiệu quả trong một số dân tộc ít người, Đề tài khoa học cấp Bộ
của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, 1995; Đổi mới giáo
dục pháp luật trong hệ thống các trường chính trị ở nước ta hiện nay, Đề tài
khoa học cấp Bộ của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2000; Cơ sở
lý luận và thực tiễn của việc xây dựng chương trình quốc gia về phổ biến, giáo
dục pháp luật trong giai đoạn tới, đề tài khoa học cấp Bộ của Bộ Tư pháp,
2004…
+ Các luận án, luận văn nghiên cứu về công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật:
Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính nhà
nước ở nước ta hiện nay, Luận án Phó tiến sĩ Luật học của tác giả Lê Đình
Khiên, 1996; Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam, Luận án
Phó tiến sĩ Luật học của tác giả Dương Thanh Mai, 1996; Giáo dục pháp luật
trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (không
chuyên luật) ở nước ta hiện nay, Luận án Phó tiến sĩ Luật học của tác giả
Đinh Xuân Thảo, 1996 và một số luận văn thạc sĩ Luật học của Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và các cơ sở đào tạo khác cũng đề cập đến
chủ đề phổ biến, giáo dục pháp luật.
Một số bài viết của các nhà khoa học, tiêu biểu như: sách chuyên khảo của
GS.TSKH. Đào Trí Úc, Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật, Nxb Khoa
học xã hội, 1993; Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật, Viện nghiên
cứu Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội; các bài viết của GS. TS. Hoàng Thị Kim
Quế như: Bàn về ý thức pháp luật, Tạp chí Luật học số 1/2003; Bàn về hiệu



10
quả phổ biến, giáo dục pháp luật ở nước ta hiện nay, Tạp chí Khoa học pháp
lý số 4/2011. Một số luận văn của học viên khoa Luật, Đại học quốc gia Hà
Nội nghiên cứu trên bình diện chung về giáo dục pháp luật cho thanh thiếu
niên.
3. Mục đích, nhiệm vụ
- Đánh giá đúng thực trạng và xác định được phương hướng, giải pháp
nhằm bổ sung, hoàn thiện các quy định cũng như xây dựng được đề cương
hướng dẫn trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở nước ta hiện nay
trong đó có thành phố Thanh Hóa.
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của phổ biến, giáo dục pháp luật;
- Góp phần nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng và hệ thống chính
trị; xóa bỏ quan niệm cho rằng việc phổ biến, giáo dục pháp luật chỉ là nhiệm
vụ của ngành Tư pháp;
4. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tập trung nghiên cứu vào việc đổi mới, nâng cao chất
lượng hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật từ phương diện những người
làm công tác này trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
- Luận văn đi sâu vào hoạt động chuyên môn, tác nghiệp của phổ biến,
giáo dục pháp luật là chính.
- Luận văn được xây dựng dựa trên việc những hiểu biết và nắm vững
tình hình kinh tế - xã hội, phong tục, tập quán, truyền thống của địa phương.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật,
đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, quan điểm xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.



11
- Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Phương pháp
phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, điều tra xã hội học
và một số phương pháp khác để làm sáng tỏ bản chất của vấn đề.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Góp phần nâng cao hiểu biết về cơ sở lý luận của phổ biến, giáo dục
pháp luật, về đánh giá hiệu quả, chất lượng của hoạt động này trong giai đoạn
hiện nay.
- Đưa ra được những yêu cầu, giải pháp và xây dựng được đề cương
hướng dẫn nghiệp vụ cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phổ biến, giáo dục pháp luật
Chương 2: Thực trạng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở nước ta
hiện nay (qua ví dụ thành phố Thanh Hóa)
Chương 3: Phương hướng và một số giải pháp nâng cao chất lượng
phổ biến, giáo dục pháp luật.


12
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

1.1. BẢN CHẤT CỦA GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
1.1.1. Một số khái niệm chung về phổ biến, giáo dục pháp luật
Để làm rõ bản chất của phổ biến, giáo dục pháp luật, cần phải phân
biệt các khái niệm tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật.
Thông tin pháp luật và tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật có
quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Thông tin pháp luật là nguồn nội dung cho

hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật. Phổ biến, giáo dục pháp luật là hoạt
động truyền tải các thông tin pháp luật tới mọi thành viên trong xã hội, đến
các đối tượng khác nhau bằng các hình thức, phương tiện thích hợp.
Tuyên truyền pháp luật hoàn toàn không giới hạn về phạm vi thông tin
và đối tượng tiếp nhận thông tin. Thông tin trong tuyên truyền pháp luật là
những thông tin toàn diện và chung nhất về những vấn đề liên quan đến pháp
luật, trước hết là hệ thống pháp luật hiện hành. Đây là điểm khác biệt so với
phổ biến pháp luật.
Phổ biến pháp luật là sự truyền tải những thông tin cụ thể của pháp
luật đến một loại đối tượng nhất định nhằm để đạt được mục đích cụ thể. Nếu
đối tượng của tuyên truyền pháp luật là chung nhất và nhu cầu về thông tin
pháp luật đối với người nghe không xác định một cách cụ thể thì ngược lại,
phổ biến pháp luật thường chỉ nhằm vào những đối tượng cụ thể mà hành
động của họ có liên quan trực tiếp đến sự điều chỉnh của một loại văn bản
pháp luật cụ thể, giúp họ nắm vững để điều chỉnh hành vi của mình.
Khác với hai khái niệm trên, giáo dục pháp luật là sự chuyển tải
những thông tin pháp luật theo mục đích chung, nhằm nâng cao ý thức pháp
luật để từ đó hình thành lối sống tuân thủ pháp luật đối với các thành viên


13
trong xã hội. Giáo dục pháp luật nhằm mục đích trang bị cho công dân những
kiến thức pháp luật, hình thành ở họ phong cách sống và làm việc theo pháp
luật. Giáo dục pháp luật chính là quá trình phát triển nhận thức pháp luật theo
các nấc thang tạo lập ý thức, trang bị kiến thức để nâng cao sự hiểu biết pháp
luật, từ đó khẳng định hành vi xử sự của bản thân.
1.1.2. Bản chất giáo dục pháp luật
Trong các tài liệu khoa học hiện nay đang tồn tại một số các quan
điểm khác nhau về giáo dục pháp luật, đó là:
- Giáo dục pháp luật là một bộ phận của giáo dục chính trị, tư tưởng

và giáo dục đạo đức, nghĩa là nếu tiến hành giáo dục chính trị tư tưởng đạo đức
tốt thì trên thực tế có thể đạt được sự tôn trọng pháp luật của công dân. Nói cách
khác, sự hình thành ý thức pháp luật của công dân được xem là "Sản phẩm phụ"
của quá trình giáo dục chính trị hay giáo dục đạo đức, giáo dục pháp luật không
được đặt ra như một hoạt động độc lập trong hệ thống giáo dục nói chung.
- Một số quan điểm đồng nhất giáo dục pháp luật với tuyên truyền phổ
biến hay giải thích pháp luật, tức là đồng nhất nó với một công việc cụ thể của
một số cơ quan chuyên trách của các phương tiện thông tin đại chúng của bộ
máy tuyên truyền.
- Có quan điểm lại cho rằng giáo dục pháp luật đồng nghĩa với dạy và
học pháp luật ở các nhà trường, còn việc phổ biến pháp luật ở ngoài xã hội
không phải là giáo dục pháp luật.
- Một số quan điểm khác lại khẳng định không có khái niệm giáo dục
pháp luật nào bởi pháp luật là các qui tắc có tính bắt buộc chung, mọi người
đều phải có nghĩa vụ tuân thủ. Đặt vấn đề giáo dục pháp luật là vô nghĩa, có
chăng chỉ là phổ biến pháp luật để mọi người hiểu và xử sự theo cho đúng.
Sự phát triển của khoa học pháp lý hiện nay cho thấy tất cả các quan
niệm trên đều phiến diện, giản đơn, một chiều, chưa thấy hết tính đặc thù


14
trong sự tác động của pháp luật cũng như những giá trị xã hội vốn có của nó.
Thậm chí "đã vô tình hoặc cố ý hạ thấp vai trò và giá trị của pháp luật"
.

Không tạo ra khả năng nếu như không muốn nói là cản trở triển khai hoạt
động tổ chức thực hiện pháp luật trong thực tiễn bị giảm sút. Quan niệm có
tính khoa học về giáo dục pháp luật và lột tả được đầy đủ bản chất của nó chỉ
có thể bắt nguồn và xuất phát từ khái niệm giáo dục nói chung là sự biểu hiện
của khái niệm giáo dục trên mọi lĩnh vực cụ thể.

Theo một quan niệm phổ biến hiện nay, khái niệm giáo dục được hiểu
như sau:
Theo nghĩa rộng: Giáo dục là quá trình ảnh hưởng của những điều
kiện khách quan như chế độ xã hội, trình độ phát triển kinh tế, môi trường
sống và của cả những nhân tố chủ quan như tác động tự giác, định hướng của
nhân tố con người.
Theo nghĩa hẹp: Giáo dục được hiểu là quá trình tác động định hướng
của nhân tố chủ quan lên khách thể giáo dục, điều có nghĩa quan niệm giáo
dục theo nghĩa hẹp đã không tính đến những ảnh hưởng hay tác động của các
yếu tố khách quan.
Theo chúng tôi quan niệm về bản chất của giáo dục pháp luật được
hiểu theo nghĩa hẹp và bao gồm các nội dung cơ bản sau:
Một là, sự hình thành ý thức của con người là quá trình ảnh hưởng tác
động thống nhất của các điều kiện khách quan, còn các nhân tố chủ quan là
những nhân tố tác động, nhân tố ảnh hưởng có thể là tự phát theo chiều này
hoặc là chiều khác. Trong khi đó các nhân tố tác động bao giờ cũng là tự giác,
có ý thức, có chủ định theo một định hướng xác định. Như vậy hoạt động giáo
dục pháp luật chính là sự tác động của nhân tố chủ quan mà trước hết là hoạt
động giáo dục định hướng, có tổ chức, có chủ định thành một hệ thống của
nhiều chủ thể, nhất là sự tác động của các tổ chức, các cơ quan Đảng, cơ quan
Nhà nước, các tổ chức xã hội.


15
Hai là, giáo dục pháp luật là hình thức giáo dục cụ thể, là cái riêng, cái
đặc thù trong mối quan hệ với cái chung, cái phổ biến, cái vừa mang những
đặc điểm chung, lại vừa phải thể hiện những nét đặc thù. Vì vậy, giáo dục
pháp luật vừa phải "hút vào" trong nó những nét chung của quá trình giáo
dục, sử dụng các hình thức, phương pháp của giáo dục nói chung, lại vừa phải
chứng tỏ mình có những nét riêng đặc thù và trên thực tế giáo dục pháp luật

có những nét đặc thù như vậy.
Các yếu tố chủ thể, khách thể, đối tượng, hình thức và phương pháp
của giáo dục pháp luật có nét đặc thù, chẳng hạn so với các dạng giáo dục
khác thì giáo dục pháp luật là quá trình tác động thường xuyên liên tục lâu dài
hơn. Hoàn toàn không phải là sự tác động một lần của một chủ thể lên đối
tượng giáo dục. Vì thế, giáo dục pháp luật trở thành sợi chỉ đỏ xuyên qua gia
đình, trường học, các tập thể lao động, các tổ chức Đảng, Nhà nước và đoàn
thể, nhân tố con người với hành vi và hoạt động hợp pháp đóng vai trò chủ
đạo trong quá trình tác động qua lại giữa giáo dục (chủ thể) với người được
giáo dục (đối tượng). Người được giáo dục là người chịu sự tác động có tổ
chức, có định hướng của các thông tin pháp lý. Như vậy một vấn đề đặt ra là
người giáo dục phải hiểu biết được trình độ, đặc biệt là đặc điểm nhân thân
của người được giáo dục, đồng thời giáo dục cần phải nắm vững tri thức pháp
luật, biết cách truyền tải nó và là tấm gương, là hình mẫu trong việc tuân theo
pháp luật. Bởi trong giáo dục pháp luật nguyên tắc "Anh hãy làm giống như
tôi" có ảnh hưởng to lớn đối với người được giáo dục.
Từ những đặc thù trên cho thấy không thể đồng nhất "giáo dục pháp
luật" với khái niệm "hình thành ý thức pháp luật"của cá nhân, ý thức pháp luật
là sản phẩm của điều kiện khách quan lẫn sự tác động định hướng của nhân tố
chủ quan vào ý thức con người. Trong khi đó, giáo dục pháp luật chỉ là một
yếu tố của quá trình hình thành ý thức pháp luật ở cá nhân con người, nhưng
là yếu tố có vai trò chủ đạo trong quá trình ấy như thế. "Giáo dục pháp luật"
và "hình thành ý thức pháp luật" không đồng nhất về bản chất mặc dù chúng


16
có mối quan hệ mật thiết với nhau. Hình thành ý thức pháp luật có nội hàm
rộng hơn giáo dục pháp luật. Việc phân biệt này có ý nghĩa rất lớn về lý luận
và thực tiễn khi mà những điều kiện khách quan chưa đầy đủ cho sự hình
thành tri thức, tình cảm và thói quen xử sự theo pháp luật thì vai trò của nhân

tố chủ quan là hết sức quan trọng đến lượt mình. Quan điểm này cho phép rút
ra một vấn đề có phương pháp luận là có thể không cần phải chờ đợi các điều
kiện khách quan chín muồi mà bằng nỗ lực chủ quan, bằng hoạt động có tổ
chức, có định hướng, có ý thức cao của chủ thể giáo dục để tác động lên đối
tượng giáo dục thì vẫn có khả năng hình thành được tri thức, tình cảm và thói
quen xử sự theo pháp luật ở họ.
Giáo dục là một hệ thống phức tạp bao gồm nhiều dạng, nhiều nhánh,
nhiều hình thức, phương pháp và phương tiện khác nhau tác động lên ý thức
con người. Giáo dục pháp luật là một dạng trong hệ thống giáo dục chung đó.
Tuy nhiên, giáo dục pháp luật là một dạng giáo dục độc lập trong hệ thống
giáo dục, bởi vì bên cạnh những đặc trưng chủ yếu trong một quá trình giáo
dục, giáo dục pháp luật có những nét đặc trưng riêng biệt:
Thứ nhất, giáo dục pháp luật có mục đích riêng của mình. Đó là hoạt
động nhằm hình thành tri thức, tình cảm và thói quen xử sự phù hợp với quy
định của pháp luật, làm cho công dân tự giác tuân thủ pháp luật, có ý thức
pháp luật cao góp phần tăng cường hiệu quả của pháp luật;
Thứ hai, giáo dục pháp luật có nội dung riêng của mình. Đó là sự tác
động định hướng với nội dung cơ bản là chuyển tải tri thức của nhân loại nói
chung, của một quốc gia nói riêng về hai hiện tượng Nhà nước và pháp luật,
trong đó pháp luật thực định của Nhà nước là bộ phận cơ bản quan trọng nhất;
Thứ ba, giáo dục pháp luật có những nét đặc thù riêng về chủ thể,
khách thể, đối tượng, hình thức và phương pháp giáo dục.
Từ những đặc thù nói trên của giáo dục pháp luật, cho phép chúng ta
phân biệt phạm trù "giáo dục pháp luật" với phạm trù "hình thành ý thức


17
pháp luật" của cá nhân, vốn là hai phạm trù quan hệ mật thiết nhưng không
phải là đồng nhất. Hoạt động giáo dục pháp luật chỉ là một yếu tố của quá
trình hình thành ý thức pháp luật ở cá nhân con người và đóng vai trò chủ đạo

trong quá trình ấy. Hoạt động giáo dục pháp luật là sự tác động của nhân tố
chủ quan mang tính định hướng, có tổ chức, có chủ định, có mục tiêu xác
định là hình thành và nâng cao ý thức pháp luật của đối tượng được giáo dục
phù hợp với yêu cầu của nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Sự hình thành ý thức
pháp luật là sản phẩm của cả điều kiện khách quan (thực tiễn đời sống kinh tế
- xã hội tác động trực tiếp là đời sống pháp luật của xã hội), lẫn sự tác động
định hướng của nhân tố chủ quan giáo dục pháp luật.
Thực tế cho thấy, người có trình độ hiểu biết rộng, nhận thức đúng
đắn về vai trò quan trọng của pháp luật trong cuộc sống thì họ có đủ khả năng để
lựa chọn cách xử sự sao cho phù hợp với quy định của pháp luật và thường họ
không làm những điều pháp luật cấm. Nếu không xác định được vai trò, tầm
quan trọng của hoạt động giáo dục pháp luật, không chú trọng đến công tác
giáo dục pháp luật thì các hành vi phạm pháp, tiêu cực sẽ tăng do người có
hành vi vi phạm pháp luật hạn chế hiểu biết về pháp luật, về vai trò của pháp
luật trong cuộc sống. Giáo dục pháp luật tác động lên nhận thức và trình độ
hiểu biết, thái độ tình cảm, lòng tin vào pháp luật của công dân, là cơ sở hình
thành ý thức pháp luật tốt, làm hạn chế sự phát triển của các hành vi vi phạm
pháp luật.
Tóm lại, từ những phân tích trên có thể kết luận: Giáo dục pháp luật là
hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác động
lên đối tượng giáo dục một cách có hệ thống và thường xuyên nhằm mục đích
hình thành ở họ tri thức, pháp luật, tình cảm và hành vi phù hợp với các đòi
hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành. Hoặc giáo dục pháp luật là sự sử dụng
những hình thức khác những tác động có hệ thống và thường xuyên tới ý thức


18
của con người nhằm trang bị cho họ những kiến thức đúng đắn về pháp luật,
tôn trọng và tự giác xử sự theo yêu cầu của pháp luật.
1.2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

Mục đích xã hội của giáo dục pháp luật là một trong những yếu tố qui
định cấu trúc bên trong của giáo dục pháp luật cũng như việc xác định hình
thức, phương tiện, phương pháp và nội dung của nó.
Thứ nhất: Giáo dục pháp luật phải trang bị, bồi dưỡng và không
ngừng nâng cao tri thức pháp luật với đòi hỏi khác nhau của các đối tượng
giáo dục và phù với các điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
Thứ hai: Giáo dục pháp luật phải hình thành niềm tin nhiều hơn vào
pháp luật.
Thứ ba: Giáo dục pháp luật phải xây dựng được thói quen vững chắc
xử sự theo những đòi hỏi của pháp luật hiện hành. Từ những mục đích chung
nêu trên, mục đích giáo dục pháp luật được xác định như sau:
Một là: + Cung cấp tri thức pháp luật
+ Mục đích nhận thức
Việc cần lưu ý là am hiểu tri thức pháp luật không phải là sự am hiểu
đơn thuần một vài quy phạm pháp luật nào đó mà là sự am hiểu có hệ thống
thấu đáo về nội dung, ý nghĩa của pháp luật, biết đánh trúng niềm tin nội tâm
các sự kiện, các hành vi pháp lý là hợp pháp, hợp lý hay không hợp pháp, hợp lý.
Việc mở rộng khối lượng tri thức và từng bước nâng cao trình độ hiểu
biết pháp luật cho các đối tượng cần phải tuân theo quy luật phát triển của
nhận thức phải từ ít đến nhiều, từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó, từ bộ
phận đến hệ thống và phải có một quá trình liên tục với các cấp độ thang bậc
sau:
- Hình thành tri thức pháp luật ban đầu;


19
- Mở rộng và làm sâu sắc tri thức pháp luật;
- Am hiểu thấu đáo pháp luật;
- Biết đánh giá một cách đúng đắn các hành vi pháp luật.
Hai là: Giáo dục pháp luật nhằm hình thành, bồi dưỡng cho các đối

tượng tình cảm và lòng tin với pháp luật (mục đích cảm xúc). Đây là mục đích
quan trọng, bởi nếu có tri thức pháp luật mà không có tình cảm tôn trọng và
lòng tin vào pháp luật cũng như tin vào các cơ quan tuyên truyền, bảo vệ pháp
luật, cơ quan thực thi pháp luật thì con người rất dễ hoạt động không đúng với
các chuẩn mực pháp luật. Môngtexkiơ, một Luật gia lớn và là một trong
những người đề xướng và phát triển học thuyết phân quyền đã từng nói
"Muốn bảo vệ pháp luật thì phải yêu lấy nó, tất cả phụ thuộc vào tình yêu
trong sáng nói trên, do đó mà phải quan tâm giáo dục pháp luật".
Ba là: giáo dục pháp luật góp phần hình thành động cơ và hành vi tích
cực pháp luật trong thanh thiếu niên học sinh phổ thông. Đây là mục đích có ý
nghĩa đặc biệt trong hệ thống các mục đích giáo dục pháp luật cho thanh thiếu
niên trong các trường phổ thông.
Bởi vì suy cho cùng, kết quả cuối cùng của giáo dục pháp luật phải
được thể hiện bằng hành vi xử sự theo pháp luật của con người; những mục
đích về nhận thức và tình cảm nói trên là để phục vụ cho mục đích hình thành
động cơ và hành vi. Trong số các yếu tố đó phải là hoạt động giáo dục pháp
luật cung cấp tri thức, giáo dục lòng tin sâu sắc vào sự cần thiết phải tuân theo
một cách tự nguyện của mệnh lệnh của pháp luật là nguyên tố rất quan trọng,
nhằm hình thành động cơ hợp pháp những tình cảm công bằng, bình đẳng, ý
thức trách nhiệm và không khoan dung đối với các vi phạm pháp luật là
những yếu tố tâm lý tư tưởng không tách rời với việc hình thành hành vi hợp
pháp tự giác và tích cực. Đó cũng là quá trình hình thành thói quen xử sự hợp


20
pháp để bảo vệ các quyền và lợi ích của mình, của người khác, của Nhà nước và
xã hội.
Ba mục đích của giáo dục pháp luật như phân tích ở trên có mối quan
hệ chặt chẽ và thống nhất với nhau, góp phần hình thành cơ chế tự điều chỉnh
hành vi hợp pháp, từ nhận thức đến tự giác, từ tự giác đến tích cực và từ tích

cực đến thói quen xử sự đúng pháp luật. Chính vì thế tính khó khăn, phức tạp
và nghiêm ngặt của giáo dục pháp luật là ở chỗ bất kỳ một hoạt động giáo dục
nào cũng phải hướng tới đạt được ba mục đích trên. Thực tế cuộc sống cũng
cho thấy mỗi sự kiện pháp lý mà công dân tham gia hay chứng kiến đều có tác
động đồng thời tới tri thức, tình cảm và định hướng hoạt động của họ trong
các tình huống tương tự.
Mục đích xã hội của phổ biến, giáo dục pháp luật là một trong những
yếu tố tạo nên cấu trúc bên trong của giáo dục pháp luật, là đặc trưng đầu tiên
và quan trọng nhất để phân biệt nó với các dạng giáo dục khác. Mục đích xã
hội cần đạt được trong quá trình giáo dục pháp luật phải đáp ứng các yêu cầu
của xã hội, ở từng giai đoạn trong các điều kiện lịch sử cụ thể. Việc xác định
đúng đắn mục đích phổ biến, giáo dục pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong
lý luận và thực tiễn phổ biến, giáo dục pháp luật bởi vì các phạm trù nội dung,
hình thức, phương pháp của phổ biến, giáo dục pháp luật phần lớn phụ thuộc
vào việc xác định các mục đích xã hội đã được đặt ra trước quá trình giáo dục.
Mục đích của phổ biến, giáo dục pháp luật còn giúp cho việc xác định hiệu
quả của phổ biến, giáo dục pháp luật. Kết quả đạt được bao giờ cũng được đánh
giá so với mục đích đề ra để xác định được chỉ số hiệu quả của công tác này.
Khi tiến hành tìm kiếm, xác định mục đích của phổ biến, giáo dục
pháp luật cần phân biệt giữa mục đích trước mắt và mục đích lâu dài; mục
đích có tính tổng quát, chiến lược và mục đích giáo dục pháp luật cụ thể.
Mục đích tổng quát, chiến lược của phổ biến, giáo dục pháp luật là
nhằm góp phần hình thành và nâng cao văn hóa pháp lý của từng cá nhân


21
trong toàn xã hội. Trong điều kiện của nước ta hiện nay, phổ biến, giáo dục
pháp luật có các mục đích cụ thể như sau:
Thứ nhất, mục đích hình thành, làm sâu sắc và từng bước mở rộng hệ
thống tri thức pháp luật cho công dân (gọi chung là mục đích nhận thức).

Đây được xem là mục đích hàng đầu vì sự am hiểu pháp luật, nhận
thức đúng đắn về vai trò và giá trị xã hội của pháp luật là điều kiện cần thiết
đảm bảo sự phát triển ý thức pháp luật, tư duy pháp lý và hình thành tình cảm,
lòng tin, thái độ tích cực đối với pháp luật ở mọi công dân. Có tri thức pháp
luật sẽ giúp cho mỗi công dân có khả năng tự đánh giá, phê phán, đối chiếu
hành vi của mình đối với các chuẩn mực pháp luật để từ đó tổ chức một cách
ý thức các hành vi xử sự. V.I. Lê nin đã cho rằng: Sự am hiểu, trong đó có sự
am hiểu pháp luật là điều kiện cần thiết, mà thiếu nó không nên nói về chính
trị, người mù chữ thì đứng ngoài chính trị. Hồ Chủ tịch, trong "Lời kêu gọi
chống nạn thất học" tháng 10/1945 cũng đã từng nói: Mỗi người Việt Nam
phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới
có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, trước hết phải biết đọc,
biết viết chữ quốc ngữ.
Thứ hai, mục đích hình thành lòng tin pháp luật (còn gọi là mục đích
cảm xúc).
Đây là mục đích có ý nghĩa rất quan trọng. Mục đích cảm xúc phụ
thuộc vào trình độ tri thức pháp luật, về sự am hiểu các quy phạm, các nguyên
tắc pháp lý, đánh giá các sự kiện pháp lý. Tri thức pháp lý càng đầy đủ thì
tình cảm pháp luật càng mạnh mẽ. Tình cảm pháp luật được nuôi dưỡng trên
cơ sở các khái niệm, quan niệm, các phạm trù về pháp luật, thiếu những điều
đó không thể tồn tại cảm xúc pháp luật. Tuy nhiên, có tri thức pháp luật mà
thiếu tình cảm tôn trọng đối với pháp luật thì không dự đoán và đảm bảo hành
vi hợp pháp, con người dễ dàng hành động không phù hợp chuẩn mực pháp
luật vì lợi ích cá nhân. Các nhà tâm lý học đã chỉ ra rằng, con người nếu thiếu


22
lòng tin thì hành vi của họ thường lệch khỏi các chuẩn mực xã hội. Thực tiễn
thực hiện pháp luật đã cho thấy sự đúng đắn của luận điểm này.
Trong đa số sách báo nghiên cứu pháp lý phân tích về nội hàm của

giáo dục cảm xúc pháp luật đã kết luận mục đích của giáo dục cảm xúc pháp
luật chỉ đạt được qua việc giáo dục tình cảm công bằng, tình cảm trách nhiệm,
tình cảm không khoan nhượng và tình cảm pháp chế. Tất cả các tình cảm này
quan hệ với nhau và phụ thuộc vào nhau.
+ Giáo dục tình cảm công bằng: Là giáo dục cho công dân biết đánh
giá các quy phạm pháp luật, nhận thức được chuẩn mực pháp luật để đánh giá
về tính công bằng của pháp luật, từ đó tổ chức hành vi xử sự hợp lý, hợp pháp
đối với người khác và với chính mình theo các quy định pháp luật;
+ Giáo dục tình cảm trách nhiệm: Để người được giáo dục ý thức về
nghĩa vụ pháp lý cơ bản của mình, tận tâm thực hiện các quy định của pháp
luật, các nghĩa vụ pháp lý trong mối quan hệ pháp lý với các công dân khác;
+ Giáo dục tình cảm không khoan nhượng ở mọi công dân đối với
những hành vi vi phạm pháp luật: Giáo dục ý thức không thể khoan dung đối
với những biểu hiện chống đối pháp luật. Giáo dục tình cảm không khoan
nhượng ở công dân đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành hành vi tích
cực trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực;
+ Giáo dục tình cảm pháp chế: Là giáo dục nhằm hình thành ý thức
tuân thủ pháp luật của công dân ở mọi nơi, mọi lúc; phê phán, lên án những
biểu hiện coi thường pháp luật, các hành vi phạm pháp; cũng như đồng tình,
ủng hộ và tích cực tham gia bảo vệ sự nghiêm minh của pháp luật. Người
được giáo dục phải hình thành ý thức rằng mọi quyết định của mình phải dựa
vào cơ sở của pháp luật.
Sự hình thành lòng tin vững chắc của công dân vào sự cần thiết tuân
theo những quy phạm pháp luật phụ thuộc vào sự tác động định hướng của
quá trình giáo dục các tình cảm trên, vào sự am hiểu tri thức pháp luật.


23
Thứ ba, mục đích hình thành động cơ hành vi và thói quen xử sự hợp
pháp tích cực (gọi là mục đích hành vi).

Kết quả cuối cùng của phổ biến, giáo dục pháp luật thể hiện ở hành vi
xử sự theo pháp luật của con người. Mục đích nhận thức, mục đích cảm xúc
của quá trình phổ biến, giáo dục pháp luật là để phục vụ cho mục đích hình
thành động cơ, hành vi, thói quen xử sự hợp pháp, tích cực của công dân.
Thói quen xử sự của công dân phải là thói quen xử sự hợp pháp, thói quen
tuân thủ các quy phạm pháp luật, thực hiện đúng đắn và đầy đủ các quyền và
nghĩa vụ pháp lý cũng như việc sử dụng tri thức pháp luật và các quy phạm
pháp luật cụ thể để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, của người
khác, của Nhà nước và của xã hội.
Nhờ vào hoạt động giáo dục pháp luật, cung cấp tri thức pháp luật, lòng
tin sâu sắc vào sự cần thiết phải tuân thủ một cách tự nguyện những quy định
của pháp luật, giáo dục tình cảm công bằng, ý thức trách nhiệm và lòng khoan
dung đối với các vi phạm pháp luật, ở con người mới hình thành được động
cơ và hành vi hợp pháp, tự nguyện và tích cực. Giáo dục cho công dân thói
quen xử sự theo những đòi hỏi của pháp luật là nhiệm vụ khó khăn và phức
tạp. Chỉ khi giáo dục được cho công dân lòng tin vào giá trị xã hội và vai trò
của pháp luật khi đấy mới chuyển hóa thành ý thức tự giác pháp luật, hành vi
xử sự hợp pháp sẽ trở thành thói quen lặp đi lặp lại dù trong bất kỳ mối quan
hệ pháp lý nào như là thói quen của con người hàng ngày. Đó là thói quen
tuân theo những quy phạm pháp luật, kiềm chế thực hiện những hành vi bị
cấm đoán.
Phổ biến, giáo dục pháp luật phải được tiến hành một cách có hệ
thống, đồng bộ, nhất quán tới mọi tầng lớp nhân dân, trong các cơ quan, đoàn
thể với những mục tiêu xác định phù hợp với từng đối tượng, từng giai đoạn,
hoàn cảnh cụ thể. Đổi mới hệ thống chính trị nói chung, cải cách bộ máy nhà
nước nói riêng đang tiến hành ở nước ta, trên thực tế không thể tiến hành và


24
tồn tại bên ngoài quá trình phổ biến, giáo dục pháp luật, không thể không tính

đến kết quả và mức độ phổ biến, giáo dục pháp luật.
1.3. CHỦ THỂ, KHÁCH THỂ, ĐỐI TƢỢNG CỦA PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT
1.3.1. Chủ thể của phổ biến, giáo dục pháp luật
Về vấn đề chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật hiện còn có những
nhận thức khác nhau. Theo lý luận giáo dục học: Chủ thể giáo dục là những
người làm công tác giáo dục.
Vận dụng lý luận giáo dục về chủ thể giáo dục, chủ thể phổ biến, giáo
dục pháp luật là các giáo viên giảng dạy pháp luật ở các nhà trường, các cơ
quan hành chính, tư pháp, các cơ quan tuyên giáo, thông tin; báo cáo viên,
tuyên truyền viên pháp luật ở các ngành, các cấp, các đoàn thể. Ngoài ra chủ
thể giáo dục pháp luật còn là các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân
dân, cán bộ công chức khi thi hành công vụ với mục tiêu phổ biến, giáo dục
pháp luật; thẩm phán, hội thẩm nhân dân, kiểm sát viên, thông qua hoạt động
xét xử cũng là chủ thể tích cực của hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật.
Bên cạnh đấy, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp, đặc biệt là các tổ chức tư
vấn pháp lý, trợ giúp pháp lý, các luật gia, luật sư cũng tham gia phổ biến,
giáo dục pháp luật cho các thành viên và khách hàng của mình.
Như vậy, chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật được hiểu là tất cả
những người mà theo chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội đã tham
gia góp phần thực hiện các mục tiêu phổ biến, giáo dục pháp luật.
Trong lý luận và thực tiễn đã xác định và thừa nhận có hai loại chủ thể
phổ biến, giáo dục pháp luật khi căn cứ vào mối liên quan giữa mục tiêu phổ
biến, giáo dục pháp luật và chức năng, nhiệm vụ do luật định của chủ thể đó
là: Chủ thể chuyên nghiệp và chủ thể không chuyên nghiệp.


25
- Chủ thể chuyên nghiệp: Là những người mà nhiệm vụ chủ yếu trực
tiếp là thực hiện các mục tiêu phổ biến, giáo dục pháp luật; thực hiện hoạt

động phổ biến, giáo dục pháp luật theo chức năng, nhiệm vụ. Đây là lực
lượng hoạt động có nghiệp vụ, có chương trình, kế hoạch, có nội dung và
thường xác định được đối tượng tác động cụ thể, bao gồm: Các giảng viên
giảng dạy pháp luật trong các nhà trường; các cán bộ, chuyên gia làm công
tác nghiên cứu và chỉ đạo phổ biến, giáo dục pháp luật tại các cơ quan nhà
nước, tổ chức, xã hội; các báo cáo viên, tuyên truyền viên về pháp luật; các
phóng viên, biên tập viên các báo, đài truyền hình phụ trách các chuyên mục
pháp luật hoặc các nội dung liên quan đến pháp luật. Đây cũng là lực lượng
nòng cốt của các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật. Hiện nay, tham gia
thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật là một lực lượng đông đảo cán bộ
chuyên trách (cán bộ tư pháp, pháp chế doanh nghiệp) các cán bộ kiêm
nhiệm, báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật, giáo viên dạy pháp luật
trong các nhà trường, các cộng tác viên trợ giúp pháp lý, luật sư, hòa giải viên
ở cơ sở, những người có uy tín trong cộng đồng dân cư.
- Chủ thể không chuyên nghiệp: Là những người tuy chức năng chính
không phải là phổ biến, giáo dục pháp luật nhưng một trong các nhiệm vụ của
họ là bằng hoặc thông qua các hoạt động của mình để thực hiện các mục đích
phổ biến, giáo dục pháp luật cụ thể, gắn liền với mục đích của hoạt động chuyên
môn chính. Chủ thể này thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật theo trách nhiệm
của người cán bộ, công chức khi thi hành công vụ, gắn với thi hành công vụ
hoặc thông qua trách nhiệm của người đứng đầu một cơ quan, tổ chức, đơn vị.
Với mỗi loại chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật, cần nghiên cứu đầy
đủ về vị trí, trách nhiệm, tính đặc thù trong phương thức tiến hành hoạt động
phổ biến, giáo dục pháp luật cũng như cách thức, phạm vi hoạt động của từng
loại chủ thể và các yêu cầu về trình độ, năng lực, đào tạo và các điều kiện cần
thiết khác cho việc thực hiện nhiệm vụ phổ biến, giáo dục pháp luật; sự vận


26
hành cơ chế phối hợp giữa các chủ thể nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục

chung. Việc không nghiên cứu đầy đủ, nhận thức rõ các yêu cầu trên đối với
từng loại chủ thể là nguyên nhân của hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật
không có định hướng, do đó không đạt được mục tiêu phổ biến, giáo dục pháp
luật và hiệu quả phổ biến, giáo dục bị giảm sút là hậu quả tất yếu.
Như vậy, để hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật được thực hiện
một cách có hệ thống, thường xuyên và có hiệu quả, các chủ thể cần phải xác
định rõ nhiệm vụ, mục tiêu cụ thể của mình trong hoạt động phổ biến, giáo
dục pháp luật để xây dựng các chương trình, kế hoạch từng thời kỳ; xác định
rõ nội dung, phương thức, phạm vi hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật của
từng loại chủ thể; xác định rõ yêu cầu đối với từng loại chủ thể (yêu cầu về
trình độ hiểu biết, năng lực tổ chức công việc, về phẩm chất, nhân cách, về
tính gương mẫu, tuân thủ pháp luật, ). Bên cạnh đấy, yêu cầu về trạng thái ý
thức pháp luật, tâm lý pháp lý, nhu cầu, điều kiện cụ thể để tiếp nhận pháp
luật và tác động giáo dục của các đối tượng được giáo dục là yêu cầu cần thiết
cho việc tìm ra cách tiếp cận thích hợp nhất giữa của chủ thể với đối tượng
được giáo dục pháp luật, làm tăng hiệu quả giáo dục pháp luật.
Khi xác định rõ các yêu cầu đối với chủ thể phổ biến, giáo dục pháp
luật, có thể đề ra những định hướng, biện pháp, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng
và tổ chức công việc của chủ thể sao cho phù hợp nhất với các điều kiện làm
việc của họ, để đạt được các mục tiêu phổ biến, giáo dục pháp luật.
1.3.2. Khách thể, đối tƣợng của phổ biến, giáo dục pháp luật
Vấn đề xác định khách thể và đối tượng của phổ biến, giáo dục pháp
luật là một trong những vấn đề cơ bản của lý luận giáo dục. Việc xác định
khách thể, đối tượng của phổ biến, giáo dục pháp luật có ý nghĩa quan trọng
nhằm đảm bảo tính chính xác, cụ thể trong việc xác định nội dung, phương pháp,
hình thức giáo dục phù hợp, nâng cao hiệu quả hoạt động thực hiện pháp luật.


27
Phân biệt giữa khách thể và đối tượng của phổ biến, giáo dục pháp

luật:
- Về khách thể: Trong lý luận giáo dục học: Khách thể (hay đối tượng)
giáo dục là các đối tượng được phổ biến, giáo dục pháp luật.
Trong Từ điển tiếng Việt năm 1992 (trang 487): Khách thể là đối
tượng chịu sự chi phối của hành động, trong quan hệ đối lập với đối tượng
gây ra hoạt động gọi là chủ thể.
Trong giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội năm 2001: Khách thể quan hệ pháp luật là cái mà quan hệ
pháp luật đó tác động tới, đó là các hành vi của các công dân, tổ chức khi
tham gia vào quan hệ pháp luật, thực hiện quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý.
Các hành vi này lại luôn hướng tới một đối tượng cụ thể như lợi ích vật chất
(tài sản), giá trị tinh thần (danh dự, nhân phẩm, tự do) hoặc lợi ích chính trị
(bầu cử). "Các đối tượng cụ thể hoặc tài sản, danh dự, tự do, nhân phẩm của
công dân hay nhu cầu tham gia vào sinh hoạt chính trị đó là khách thể của
hành vi, nói cách khác, đó là đối tượng quan hệ pháp luật" [19, tr. 405].
Các nhà khoa học pháp lý Việt Nam nghiên cứu vấn đề phổ biến, giáo
dục pháp luật cũng đi đến quan niệm chung: Khách thể của phổ biến, giáo dục
pháp luật là ý thức pháp luật và những thói quen, nếp sống, ứng xử hợp pháp
của công dân, của các nhóm cộng đồng và toàn xã hội, thể hiện trình độ nhất
định của nền văn hóa pháp lý.
Như vậy, phổ biến, giáo dục pháp luật tác động vào ý thức pháp luật
của công dân và phải nhằm tới mục đích cuối cùng là hành động hợp pháp, là
thói quen, nếp sống theo pháp luật của mỗi công dân, mỗi nhóm cộng đồng và
toàn xã hội.
- Về đối tượng: Trong Từ điển tiếng Việt năm 1992 (trang 344): Đối
tượng là người, vật, hoạt động mà con người nhằm vào trong suy nghĩ, hành động.

×