ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THỊ PHƯƠNG LAN
QUY TRÌNH, THỦ TỤC XEM XÉT, THÔNG QUA
DỰ ÁN LUẬT TẠI KỲ HỌP QUỐC HỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Hà Nội – 2009
Hà Nội - 2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THỊ PHƯƠNG LAN
QUY TRÌNH, THỦ TỤC XEM XÉT, THÔNG QUA
DỰ ÁN LUẬT TẠI KỲ HỌP QUỐC HỘI
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Phan Trung Lý
Hà Nội - 2009
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 4
1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu Đề tài 4
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 6
3. Phạm vi nghiên cứu 7
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 7
5. Nội dung của Đề tài và các vấn đề cần giải quyết 7
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUY TRÌNH, THỦ TỤC XEM XÉT,
THÔNG QUA DỰ ÁN LUẬT TẠI KỲ HỌP QUỐC HỘI 9
1.1. Chức năng lập pháp và quy trình, thủ tục trong hoạt động lập pháp của
Quốc hội 9
1.1.1. Chức năng lập pháp của Quốc hội 9
1.1.2. Quy trình, thủ tục trong hoạt động lập pháp của Quốc hội 10
1.2. Quy trình, thủ tục xem xét, thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội 11
1.2.1. Xem xét, thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội 12
1.2.2. Quy trình, thủ tục xem xét, thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc
hội 16
1.3. Kinh nghiệm của một số nƣớc về quy trình, thủ tục xem xét thông qua
dự án luật 24
1.3.1. Lần đọc thứ nhất và lần đọc thứ hai 24
1.3.2. Lần đọc thứ ba và thông qua 27
1.3.3. Thủ tục tiến hành các cuộc thảo luận tại Nghị viện 29
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUY TRÌNH, THỦ TỤC
XEM XÉT, THÔNG QUA DỰ ÁN LUẬT TẠI KỲ HỌP QUỐC HỘI 32
2.1. Sơ lƣợc về sự phát triển các quy định của pháp luật về quy trình, thủ
tục xem xét, thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội 32
2
2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1992 32
2.1.2. Giai đoạn từ năm 1992 đến nay 35
2.2. Quy định của pháp luật hiện hành về quy trình, thủ tục xem xét, thông
qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội 40
2.2.1. Thuyết trình về dự án luật 42
2.2.2. Trình bày báo cáo thẩm tra 42
2.2.3. Thảo luận về dự án luật 43
2.2.4. Biểu quyết thông qua dự thảo luật 48
2.3. Thực trạng áp dụng quy trình, thủ tục xem xét, thông qua dự án luật tại
kỳ họp Quốc hội 50
2.3.1. Thuyết trình về dự án luật 51
2.3.2. Trình bày báo cáo thẩm tra 53
2.3.3. Thảo luận về dự án luật 54
2.3.4. Biểu quyết thông qua dự thảo luật 67
2.3.5. Một số nhận xét về thực trạng xem xét, thông qua dự án luật tại kỳ
họp Quốc hội. 69
Chương 3: GIẢI PHÁP TIẾP TỤC ĐỔI MỚI QUY TRÌNH, THỦ TỤC
XEM XÉT, THÔNG QUA DỰ ÁN LUẬT TẠI KỲ HỌP QUỐC HỘI . 72
3.1. Sự cần thiết của việc đổi mới quy trình, thủ tục xem xét, thông qua dự
án luật tại kỳ họp Quốc hội 72
3.2. Nguyên tắc chỉ đạo trong việc đổi mới quy trình, thủ tục xem xét,
thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội 74
3.2.1. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng 74
3.2.2. Phát huy dân chủ trong quá trình xem xét, thông qua dự án luật . 75
3.2.3. Bảo đảm sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nƣớc trong
hoạt động lập pháp của Quốc hội 76
3.2.4. Bảo đảm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa 77
3
3.2.5. Bảo đảm nguyên tắc khoa học, khách quan 77
3.3. Giải pháp tiếp tục đổi mới quy trình, thủ tục xem xét, thông qua dự án
luật tại kỳ họp Quốc hội 78
3.3.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về quy trình, thủ tục xem xét, thông
qua dự án luật 78
3.3.2. Đổi mới về tổ chức 87
3.3.3. Cải tiến một số công tác khác 89
KẾT LUẬN 92
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 95
PHỤ LỤC 100
SƠ ĐỒ QUY TRÌNH XÂY DỰNG LUẬT CỦA QUỐC HỘI (từ khi lập
Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh đến khi được thông qua) 100
DANH MỤC LUẬT ĐÃ ĐƢỢC QUỐC HỘI BAN HÀNH 104
4
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu Đề tài
Theo quy định của Hiến pháp, Quốc hội Việt Nam là cơ quan đại biểu
cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nƣớc cao nhất của nƣớc Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện chức năng lập pháp, giám
sát và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nƣớc.
Lập pháp là một trong những hoạt động quan trọng và đặc trƣng nhất
của Quốc hội kể từ khi thành lập Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa đến
nay. Trong hoạt động lập pháp thì việc xây dựng và ban hành luật luôn đƣợc
Quốc hội quan tâm và chú trọng, nhất là trong giai đoạn xây dựng nhà nƣớc
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Qua các nhiệm kỳ Quốc hội, số văn
bản luật đƣợc ban hành ngày càng tăng. Từ nhiệm kỳ Quốc hội khoá I đến khoá
VII, Quốc hội chỉ thông qua 29 luật, bộ luật thì khoá VIII, Quốc hội thông qua
31 luật, bộ luật, khoá IX, Quốc hội thông qua 41 luật, bộ luật, khoá X, Quốc
hội thông qua 35 luật, bộ luật. Từ nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI trở lại đây, hoạt
động xây dựng luật của Quốc hội đã có nhiều đổi mới, đi vào thực chất hơn, có
sự tăng cƣờng cả về chất và lƣợng. Cụ thể là nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI, Quốc
hội đã thông qua đƣợc 84 luật, bộ luật và tính đến hết kỳ họp thứ 5 (tháng 6-
2009), Quốc hội khóa XII đã thông qua đƣợc 38 luật.
Hoạt động xây dựng và ban hành luật của Quốc hội đƣợc tiến hành
theo quy trình, thủ tục nhất định. Các bƣớc trong quy trình có quan hệ mật
thiết với nhau. Từng bƣớc trong quy trình đó có ý nghĩa nhất định trong việc
quyết định chất lƣợng của đạo luật. Trong quy trình, thủ tục lập pháp, quy
trình, thủ tục xem xét, thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội có tính
quyết định, thể hiện kết quả của quá trình lập pháp, thể hiện rõ chức năng
5
lập pháp và tính đại diện nhân dân của Quốc hội. Do đó, việc nghiên cứu
những vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh quy trình, thủ tục xem xét,
thông qua dự án luật có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động lập pháp của
Quốc hội. Xuất phát từ những lý do trên tác giả chọn đề tài “Quy trình, thủ
tục xem xét, thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội” làm đề tài luận văn
tốt nghiệp cao học của tác giả.
Thời gian qua đã có nhiều bài viết, đề tài, luận án về vấn đề đổi mới
công tác lập pháp của Quốc hội nói chung và đổi mới quy trình lập pháp của
Quốc hội nói riêng. Trong các công trình của các tác giả đã công bố có bài viết
“Quy trình lập pháp Việt Nam từ soạn thảo và xin ý kiến đến quyết định chính
sách, dịch chính sách và thẩm định chính sách”, TS. Nguyễn Sĩ Dũng, Ths.
Hoàng Minh Hiếu - Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 15, tháng 9 năm 2008,
“Một số điểm mới quan trọng của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật”,
Ths. Mai Thị Kim Huế - Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 1, tháng 01 năm 2009,
“Tổ chức và hoạt động Quốc hội theo yêu cầu Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa”, PGS.TS. Phan Trung Lý, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 2, tháng 01
năm 2009, “Tiếp tục hoàn thiện quy trình làm việc của Quốc hội”, TS. Ngô
Đức Mạnh - Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 4, tháng 02 năm 2009; Sách “Quy
trình, thủ tục trong hoạt động của Quốc hội”, Ban công tác lập pháp - Ủy ban
thƣờng vụ Quốc hội, Công ty in Hữu nghị, 2005, “Đổi mới và hoàn thiện quy
trình lập pháp của Quốc hội”, Văn phòng Quốc hội, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, 2004, “Báo cáo nghiên cứu đánh giá quy trình xây dựng luật, pháp
lệnh thực trạng và giải pháp”, Viện nghiên cứu chính sách, pháp luật và phát
triển, Nhà xuất bản lao động xã hội, 2008; Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn
của việc thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội” năm 1994-1999, TS.
Nguyễn Văn Thuận Chủ nhiệm, “Đổi mới và hoàn thiện quy trình lập pháp của
Quốc hội và ban hành pháp lệnh của Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội”, đề tài cấp
6
Bộ, 2001, Vũ Mão - Chủ nhiệm Ủy ban đối ngoại của Quốc hội khóa XI Chủ
nhiệm, “Tăng cƣờng năng lực lập pháp của Quốc hội trong điều kiện xây dựng
nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”, đề tài cấp Bộ,
2006, PGS. TS. Lê Văn Hòe Chủ nhiệm; Luận án “Cơ sở lý luận của việc đổi
mới cơ cấu tổ chức và phƣơng thức hoạt động của Quốc hội ở Việt Nam”, NCS
Lê Thanh Vân, bảo vệ năm 2003 tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh;
Luận án: “Hoàn thiện quy trình lập pháp ở Việt Nam hiện nay”, NCS Hoàng
Văn Tú, bảo vệ năm 2004 tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Luận
văn Thạc sĩ: “Chất lƣợng thảo luận và thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội
nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Hoàng Thị Lan Nhung, bảo vệ
năm 2007 tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh…Các công trình khoa
học nói trên đều trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến những vấn đề nghiên cứu
của luận văn, tuy nhiên hoặc chỉ đi vào một khía cạnh nào đó của quy trình lập
pháp hoặc đề cập một cách khái quát đến toàn bộ quy trình lập pháp, trong đó
một số nội dung nghiên cứu đã không còn phù hợp với hiện hành và yêu cầu
trong đổi mới hoạt động của Quốc hội.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ cơ sở lý luận của quy trình,
thủ tục xem xét thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội, đánh giá thực trạng
việc thực hiện quy trình, thủ tục, nhận thức rõ những ƣu điểm, hạn chế trên cơ
sở đó đƣa ra những kiến nghị có tính khả thi để tiếp tục hoàn thiện quy trình,
thủ tục xem xét, thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội nói riêng và quy
trình, thủ tục lập pháp nói chung.
Tác giả mong muốn kết quả nghiên cứu của mình sẽ góp phần nhỏ bé
vào việc nâng cao hiệu quả công tác lập pháp của Quốc hội; đồng thời, có thể
cung cấp thông tin tham khảo hữu ích cho những ai quan tâm đến hoạt động
7
lập pháp của Quốc hội nói chung và quy trình, thủ tục xem xét, thông qua dự
án luật tại kỳ họp Quốc hội nói riêng.
3. Phạm vi nghiên cứu
Xem xét, thông qua dự án luật chỉ là một bƣớc của của hoạt động lập
pháp, có quan hệ hữu cơ với các bƣớc khác của quy trình lập pháp. Tuy nhiên,
trong khuôn khổ có hạn Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề liên
quan đến quy trình, thủ tục xem xét, thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội
ở Việt Nam. Theo đó, Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề cơ bản của
quy trình, thủ tục này, từ khi dự án luật đƣợc trình Quốc hội tại kỳ họp đến
khi đƣợc Quốc hội biểu quyết thông qua.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn đƣợc thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của triết học Mác –
Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, các nguyên tắc của lý luận về nhà nƣớc
và pháp luật, các quan điểm của Đảng về Nhà nƣớc, pháp luật trong thời kỳ
đổi mới, trực tiếp là các quan điểm về đổi mới quy trình lập pháp của Quốc
hội đƣợc xác định trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành
Trung ƣơng Đảng khóa VIII, Chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hƣớng đến năm 2020 tại Nghị quyết
số 48/NQ-TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị.
Luận văn sử dụng phƣơng pháp lịch sử, phân tích, tập hợp, tổng hợp, so
sánh, thống kê, xã hội học
5. Nội dung của Đề tài và các vấn đề cần giải quyết
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về quy trình, thủ tục xem xét, thông qua dự
án luật tại kỳ họp Quốc hội gồm chức năng lập pháp, quy trình, thủ tục lập
8
pháp; khái niệm, vai trò, ý nghĩa, đặc trƣng, cơ sở xây dựng và áp dụng quy
trình, thủ tục xem xét, thông qua dự án luật của Quốc hội; quy trình xem xét,
thông qua dự án luật của Nghị viện một số nƣớc.
- Sơ lƣợc về lịch sử hình thành và phát triển của các quy định của pháp
luật, hệ thống các quy định của pháp luật hiện hành về quy trình, thủ tục xem
xét, thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội; đánh giá thực trạng việc thực
hiện quy trình, thủ tục xem xét, thông qua dự án luật tại kỳ họp, đƣa ra những
nhận xét về ƣu điểm, hạn chế và nguyên nhân.
- Hệ thống yêu cầu, nguyên tắc cơ bản của việc đổi mới quy trình, thủ
tục xem xét, thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội; đƣa ra kiến nghị cụ thể
để tiếp tục đổi mới quy trình, thủ tục xem xét, thông qua dự án luật tại kỳ họp
Quốc hội.
Kết cấu Đề tài gồm:
- Mở đầu;
- 3 Chƣơng:
Chương 1. Cơ sở lý luận về quy trình, thủ tục xem xét, thông qua dự
án luật tại kỳ họp Quốc hội
Chương 2. Thực trạng thực hiện quy trình, thủ tục xem xét, thông
qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội
Chương 3. Giải pháp tiếp tục đổi mới quy trình, thủ tục xem xét,
thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội
- Kết luận;
- Danh mục công trình của tác giả;
- Danh mục tài liệu tham khảo;
- Phụ lục.
9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUY TRÌNH, THỦ TỤC
XEM XÉT, THÔNG QUA DỰ ÁN LUẬT
TẠI KỲ HỌP QUỐC HỘI
1.1. Chức năng lập pháp và quy trình, thủ tục trong hoạt động lập
pháp của Quốc hội
1.1.1. Chức năng lập pháp của Quốc hội
Lập pháp là một trong những chức năng cơ bản của Quốc hội nƣớc ta.
Với tƣ cách là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nƣớc cao nhất, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.
Điều đó cũng có nghĩa rằng, ở nƣớc ta, Quốc hội là cơ quan duy nhất có
quyền thể chế hóa chủ trƣơng đƣờng lối của Đảng, biến ý chí của nhân dân
thành ý chí nhà nƣớc, thành luật, thành các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc
chung đối với toàn xã hội.
Trong lịch sử nhà nƣớc và pháp luật quyền lập pháp đƣợc hình thành và
phát triển theo sự phát triển của học thuyết tổ chức quyền lực. Theo
Monstesquieu và những nhà sáng lập ra thuyết tam quyền phân lập thì quyền
lập pháp ra đời gắn liền với nguyên tắc phân quyền - một trong những nguyên
tắc cơ bản tổ chức quyền lực nhà nƣớc. Quan điểm của những ngƣời xây dựng
học thuyết phân quyền khẳng định: quyền lực nhà nƣớc phải đƣợc phân chia
thành những loại quyền lực khác nhau và do các cơ quan nhà nƣớc khác nhau
nắm giữ. Quyền lập pháp phải do một cơ quan bao gồm nhiều ngƣời xây dựng
lên, cơ quan có quyền lập pháp không thực thi quyền hành pháp và tƣ pháp.
Về bản chất, quyền lập pháp là quyền cao nhất trong các loại quyền lực.
Ở Việt Nam tất cả quyền lực Nhà nƣớc thuộc về nhân dân, nhân dân
10
thực hiện quyền lực nhà nƣớc thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các
cấp. Quốc hội là nơi tập trung trí tuệ toàn dân, là cơ quan nhà nƣớc duy nhất
do cử tri cả nƣớc bầu ra, Quốc hội thay mặt nhân dân quyết định và thực hiện
quyền lực nhà nƣớc thống nhất trong cả nƣớc. Quốc hội có quyền quyết định
những vấn đề thuộc chủ quyền quốc gia, những vấn đề trọng đại của đất nƣớc.
Chỉ có Quốc hội mới có quyền định ra các quy phạm pháp luật có hiệu lực
pháp lý cao nhất để điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản. Các văn bản quy
phạm pháp luật của các cơ quan nhà nƣớc khác phải căn cứ vào quy định của
Hiến pháp, luật và không đƣợc trái với quy định của Hiến pháp, luật.
Hoạt động lập pháp là hoạt động cơ bản nhất điều chỉnh mọi hoạt động
đang diễn ra trong xã hội và ở hoạt động này Quốc hội thể hiển rõ vai trò, vị
trí, thực quyền của mình, không ai có thế thay thế. Trên phƣơng diện đó,
Quốc hội là cơ quan cao nhất điều chỉnh mọi hoạt động xã hội.
Chức năng lập hiến và lập pháp của Quốc hội đã đƣợc quy định khá rõ
nét trong các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992. Ngoài Hiến pháp
1946 quy định ở nguyên tắc chung “Nghị viện nhân dân đặt ra các pháp
luật” (Điều thứ 23), thì cả 3 bản Hiến pháp 1959, 1980 và 1992 đều khẳng
định Quốc hội là “cơ quan duy nhất có quyền lập pháp”. Qua mỗi bản Hiến
pháp, chức năng lập pháp của Quốc hội đƣợc kế thừa, phát triển và ngày
càng đƣợc làm rõ, đƣợc quy định cụ thể hơn. Đặc biệt từ Hiến pháp 1992, về
mặt pháp lý cũng nhƣ trên thực tế, quyền lập pháp của Quốc hội từng bƣớc
đƣợc hoàn thiện.
1.1.2. Quy trình, thủ tục trong hoạt động lập pháp của Quốc hội
Trong hệ thống các văn bản pháp luật, các luật do Quốc hội thông qua
là những văn bản quy phạm pháp luật quan trọng, có giá trị pháp lý cao, điều
chỉnh các vấn đề cơ bản thuộc lĩnh vực của đời sống xã hội. Để ban hành đạo
11
luật, Quốc hội phải tiến hành nhiều hoạt động khác nhau theo quy trình, thủ
tục nhất định đƣợc quy định trong Luật ban ban hành văn bản quy phạm pháp
luật, Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội và các quy chế, nội quy làm việc của
Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội. Theo đó văn bản luật
đƣợc ban hành thông qua các bƣớc liên tục, kế tiếp nhau: quyết định đƣa dự
án luật vào Chƣơng trình xây dựng luật, pháp lệnh, soạn thảo dự án luật, thẩm
tra dự án luật, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến về dự án luật,
xem xét, thông qua dự án luật, công bố luật. Trong đó quyết định đƣa dự án
vào Chƣơng trình có thể coi là bƣớc đầu tiên trong quy trình xây dựng luật
theo nghĩa rộng. Soạn thảo dự án luật là bƣớc tiếp theo có tính chất làm cơ sở
cho bƣớc thẩm tra. Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến về dự án
luật trên cơ sở hồ sơ dự án của cơ quan soạn thảo và báo cáo thẩm tra là bƣớc
kế tiếp. Không có các bƣớc này thì không thể có bƣớc xem xét, thông qua dự
án luật tại kỳ họp và tiếp theo là bƣớc công bố luật.
Mỗi bƣớc có quy trình, thủ tục riêng, có vai trò riêng và giữa các bƣớc
có mối quan hệ hữu cơ với nhau, nhƣng quy trình, thủ tục xem xét, thông qua
dự án luật là một trong những khâu độc lập và quan trọng thể hiện rõ nét vai
trò của Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất, cơ quan duy nhất có quyền
lập pháp.
1.2. Quy trình, thủ tục xem xét, thông qua dự án luật tại kỳ họp
Quốc hội
Hoạt động xem xét, thông qua dự án luật và quy trình, thủ tục xem xét,
thông qua dự án luật là hai mặt của một vấn đề có quan hệ biện chứng với
nhau. Không thể nói đến hoạt động xem xét, thông qua nếu không nói đến
quy trình, thủ tục xem xét, thông qua và ngƣợc lại. Hoạt động xem xét, thông
qua dự án luật cần phải đƣợc thực hiện theo quy trình, thủ tục nhất định. Quy
12
trình, thủ tục góp phần cho hoạt động xem xét, thông qua luật đƣợc vận hành
hiệu quả, kịp thời theo những mục đích, yêu cầu mà hoạt động xem xét, thông
qua luật hƣớng tới.
1.2.1. Xem xét, thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội
1.1.1.1. Khái niệm xem xét, thông qua dự án luật
Theo Từ điển Tiếng Việt, thuật ngữ “xem xét” đƣợc hiểu là “tìm hiểu,
quan sát kỹ để đánh giá, rút ra những nhận xét, những kết luận cần thiết” [49,
tr.1147], “thông qua” đƣợc hiểu là việc “cơ quan hoặc người có thẩm quyền
đồng ý chấp thuận cho được thực hiện, sau khi đã xem xét, thảo luận” [49,
tr.952].
Việc xem xét dự án luật tại kỳ họp Quốc hội là một mắt xích quan trọng
thể hiện tính công khai, minh bạch trong quy trình xây dựng luật để làm sáng
tỏ tính khách quan của dự án luật. Việc xem xét dự án luật tại kỳ họp tác động
đến mọi vấn đề của dự án luật, có thể làm thay đổi toàn bộ dự án và là cơ sở
để Quốc hội thông qua dự thảo luật. Thông qua dự án luật là một thủ tục pháp
lý kết thúc quy trình xây dựng luật mà chỉ Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà
nƣớc cao nhất mới có thẩm quyền này. Quốc hội biểu quyết thông qua dự
thảo luật trên cơ sở căn cứ vào kết quả thảo luận, vào chính kiến của từng cá
nhân đại biểu. Trong quy trình, thủ tục xây dựng luật thì thông qua dự án luật
là quy trình đƣa một dự thảo luật trở thành luật. Việc xem xét, thông qua dự
án luật tại kỳ họp Quốc hội có ý nghĩa quan trọng tạo nên chất lƣợng của các
văn bản luật. Những vấn đề đƣợc đƣa ra thảo luận, xem xét và thông qua tại
các kỳ họp Quốc hội đều là những vấn đề hệ trọng ở tầm quốc gia, đòi hỏi trí
tuệ tập thể của các đại biểu Quốc hội phải đƣợc huy động tối đa để đi đến
những quyết định đúng đắn, sáng suốt, trên cơ sở bảo đảm tính dân chủ trong
thảo luận và biểu quyết theo đa số.
13
- Đối tượng được xem xét, thông qua:
Trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành đang sử dụng các
thuật ngữ khác nhau là “thông qua dự thảo luật”, “xem xét, thông qua dự án
luật”. Khái niệm “dự án luật” là khái niệm rộng, bao gồm dự thảo luật, tờ
trình, các tài liệu khác. Trong đó, các tài liệu kèm theo dự thảo luật có mục
đích là thuyết minh làm rõ các nội dung của dự thảo, làm căn cứ để đại biểu
Quốc hội tham khảo khi thảo luận và biểu quyết thông qua dự thảo luật. Theo
quy định của Luật ban hành văn bản hiện hành thì đối tƣợng của hoạt động
xem xét, thông qua dự án luật là dự thảo luật, tờ trình, các tài liệu khác, còn
đối tƣợng thông qua trong hoạt động biểu quyết thông qua luật là dự thảo luật.
Tuy nhiên, không phải mọi dự án luật đều là đối tƣợng của hoạt động xem
xét, thông qua tại kỳ họp Quốc hội mà chỉ có dự án luật đã đƣợc Hội đồng
dân tộc hoặc Uỷ ban của Quốc hội thẩm tra, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội xem
xét và quyết định trình Quốc hội mới là đối tƣợng xem xét, thông qua tại kỳ
họp Quốc hội.
- Phạm vi của hoạt động xem xét, thông qua dự án luật:
Phạm vi xem xét, thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội là cả một
quá trình. Theo các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật giai đoạn
này bao gồm tất cả các hoạt động từ thuyết trình Tờ trình về dự án luật, trình
bày báo cáo thẩm tra, thảo luận về dự án luật tại kỳ họp, biểu quyết về những
vấn đề cơ bản, những vấn đề lớn còn có ý kiến khác nhau, chỉnh lý dự thảo
luật, báo cáo Quốc hội về việc chỉnh lý, biểu quyết thông qua dự thảo luật và
gọi là “xem xét, thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội” (Điều 51, 52, 53
của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật).
- Chủ thể xem xét, thông qua dự án luật:
Trong giai đoạn xem xét, thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội
14
ngoài vai trò quan trọng của đại biểu Quốc hội, còn có sự tham gia của rất
nhiều chủ thể: cơ quan, tổ chức trình dự án, của cơ quan thẩm tra (cơ quan
chủ trì thẩm tra và cơ quan tham gia thẩm tra), Uỷ ban pháp luật, Bộ tƣ pháp
và các cơ quan hữu quan khác, Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội. Hoạt động của
các chủ thể này có mối liên quan chặt chẽ với nhau và đều hƣớng tới một mục
đích chung là phục vụ Quốc hội xem xét, thông qua dự án luật, bảo đảm chất
lƣợng của việc đƣa một dự thảo luật trở thành luật.
Mặc dù có nhiều chủ thể tham gia, song theo quy định tại Điều 83 của
Hiến pháp và Điều của 1 của Luật tổ chức Quốc hội thì chỉ “Quốc hội là cơ
quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp”. Việc xem xét, quyết định
thông qua hay không thông qua dự thảo luật, một công việc quan trọng nhất,
có tính chất quyết định để dự thảo luật trở thành luật thuộc thẩm quyền duy
nhất của Quốc hội và Quốc hội thực hiện công việc này tại kỳ họp Quốc
hội.
Từ những phân tích trên đây, có thể đƣa ra khái niệm về việc xem xét,
thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội nhƣ sau:
Xem xét, thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội, một bước trong quy
trình lập pháp của Quốc hội bao gồm toàn bộ các hoạt động của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền tiến hành theo trình tự do luật định từ hoạt động
thuyết trình về dự án luật, trình bày báo cáo thẩm tra, thảo luận về dự án luật
đến hoạt động biểu quyết của Quốc hội theo nguyên tắc đa số để đưa một dự
thảo luật trở thành luật.
1.1.1.2. Đặc trưng của hoạt động xem xét, thông qua dự án luật tại kỳ
họp Quốc hội
Là một hoạt động thƣờng xuyên, chủ yếu và quan trọng của Quốc hội,
hoạt động xem xét, thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội có những đặc
15
trƣng sau đây:
Thứ nhất, xem xét, thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội là hoạt
động thể hiện tập trung rõ nét nhất chức năng lập pháp của Quốc hội. Tại kỳ
họp, Quốc hội thảo luận và quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn
của mình trong đó có quyết định quan trọng đƣa các quy tắc xử sự trở thành
các quy phạm pháp luật có tính bắt buộc chung, tất cả mọi ngƣời phải thực
hiện. Chỉ Quốc hội mới có quyền ban hành các đạo luật và chỉ các đạo luật
đƣợc Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp mới có giá trị pháp lý buộc mọi
ngƣời phải thực hiện.
Thứ hai, việc xem xét, thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội là
khâu quan trọng trong quá trình thể chế hóa đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng
Cộng sản Việt Nam thành các quy phạm pháp luật làm chuẩn mực cho mọi
hành vi xử sự trong xã hội, tác động đến mọi quan hệ xã hội nhằm làm cho
các quan hệ này tồn tại và phát triển theo ý chí và vì lợi ích của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động. Vì lẽ đó, xem xét, thông qua dự án luật
không phải là hoạt động mang tính pháp lý đơn thuần, mà đòi hỏi mỗi đại
biểu Quốc hội không chỉ phải nắm vững chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng,
mà phải có khả năng chuyển hóa đƣợc đƣờng lối, chủ trƣơng đó thành
những quy tắc pháp lý cụ thể.
Thứ ba, xem xét, thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội là sự thể
hiện quyền lực nhân dân, tính dân chủ trong hoạt động của Quốc hội. Qua
việc thảo luận, biểu quyết thông qua luật mỗi đại biểu Quốc hội thực hiện
chức năng đại diện cho nhân dân, thể hiện “quyền lực nhà nƣớc thuộc về nhân
dân”, thực hiện trách nhiệm của mình trƣớc nhân dân. Nội dung xem xét,
thông qua dự án luật tại kỳ họp đƣợc thể hiện rõ nét nhất trong việc thảo luận,
biểu quyết. Có những vấn đề để đi đến quyết định phải trải qua tranh luận sôi
16
nổi với nhiều ý kiến khác nhau. Thông qua hoạt động xem xét, thông qua dự
án luật, ý chí và nguyện vọng của nhân dân đƣợc thể hiện trong trong các quy
định của luật.
Thứ tư, xem xét, thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội là hoạt động
mang tính quyết định để đƣa một dự thảo luật trở thành luật. Đây là giai đoạn
cuối kết thúc quá trình lập pháp, quyết định toàn bộ về nội dung, hình thức
cũng nhƣ kỹ thuật soạn thảo văn bản. Xem xét, thông qua dự án luật tại kỳ
họp kết thúc giai đoạn xây dựng luật và chuyển sang giai đoạn hoàn tất thủ
tục pháp lý để luật có hiệu lực trong thực tế.
1.2.2. Quy trình, thủ tục xem xét, thông qua dự án luật tại kỳ họp
Quốc hội
Xem xét, thông qua dự án luật là một hoạt động có tính pháp lý cao,
phải tuân theo trình tự, thủ tục chặt chẽ đƣợc quy định tại các văn bản quy
phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao nhƣ Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc
hội, các đạo luật khác về tổ chức bộ máy nhà nƣớc, Luật ban hành văn bản
quy phạm pháp luật, Nội quy kỳ họp Quốc hội, các quy chế hoạt động của
Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội,
đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội. Các cơ quan, tổ chức có trách
nhiệm trong hoạt động xem xét, thông qua dự án luật đều có trách nhiệm
phải tuân theo các quy định này.
1.1.2.1. Khái niệm quy trình, thủ tục xem xét, thông qua dự án luật
Bất kỳ một công việc nào dù đơn giản hay phức tạp cũng chỉ có thể đạt
đƣợc kết quả cao nếu đƣợc thực hiện một cách hợp lý. Theo Từ điển Tiếng
Việt thì “quy trình” đƣợc hiểu là “trình tự phải tuân theo để tiến hành một
công việc nào đó” [49, tr.813], “trình tự” đƣợc hiểu là “sự sắp xếp lần lượt,
thứ tự trước sau” [49, tr.1037], cũng theo Đại từ điển Tiếng Việt thì “quy
17
trình” đƣợc hiểu là “các bước phải tuân theo khi tiến hành một công việc nào
đó” [59, tr.1381]; “thủ tục” đƣợc hiểu là “những việc cụ thể phải làm theo
một trật tự quy định, để tiến hành một công việc nào đó” [59, tr.960]. Nhƣ
vậy, để thực hiện một công việc hoặc một hoạt động có kết quả thì điều quan
trọng và có tính quyết định là chủ thể thực hiện công việc hoặc hoạt động đó
phải sắp xếp thứ tự các công việc cụ thể phải làm và tuân theo sự sắp xếp đó
một cách nghiêm túc. Nói cách khác, việc xây dựng quy trình, thủ tục và tuân
theo các quy trình, thủ tục đó là yêu cầu cần thiết, tất yếu vì nó ảnh hƣởng
trực tiếp đến chất lƣợng, hiệu quả công việc của các chủ thể.
Trong thực tiễn có ý kiến cho rằng, thủ tục là một phần của quy trình,
trong quy trình đã bao gồm thủ tục. Mặc dù, trong quy trình có thủ tục và
thủ tục nằm trong quy trình tuy nhiên có thể thấy đây là hai khái niệm có
nội hàm khác nhau. Do đó việc nghiên cứu cụ thể về cả “quy trình” và “thủ
tục” là cần thiết.
Văn bản pháp luật đầu tiên đánh dấu bƣớc phát triển của việc xây dựng
quy trình, thủ tục trong hoạt động lập pháp của Quốc hội là Quy chế xây dựng
luật và pháp lệnh do Hội đồng Nhà nƣớc ban hành ngày 06 tháng 8 năm 1988.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn việc thực hiện Quy chế đó, năm 1996, Quốc hội
đã ban hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật này đƣợc sửa
đổi, bổ sung năm 2002 và đƣợc sửa đổi toàn diện năm 2008 trong đó quy định
cụ thể quy trình, thủ tục trong việc đƣa dự án luật vào Chƣơng trình xây dựng
luật, pháp lệnh, soạn thảo, thẩm tra, xem xét, thông qua dự án luật và công bố
luật của Quốc hội. Trong đó mỗi bƣớc có vai trò nhất định trong hoạt động
lập pháp và có mối liên hệ với nhau.
Quy trình, thủ tục xem xét, thông qua dự án luật bao gồm các công việc
phải tiến hành trong một số bƣớc cơ bản có mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ với
18
nhau, tuân theo một trình tự kế tiếp nhau. Cụ thể:
- Thuyết trình về dự án luật;
- Trình bày báo cáo thẩm tra;
- Thảo luận về dự án luật;
- Biểu quyết thông qua dự thảo luật.
Từ những phân tích trên đây, có thể định nghĩa về quy trình, thủ tục
xem xét, thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội nhƣ sau: Quy trình, thủ tục
xem xét, thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội là tổng thể những quy định
về các công việc cần tiến hành được sắp xếp theo một trình tự nhất định mà
theo đó Quốc hội và các chủ thể khác tham gia thực hiện các công việc thuộc
trách nhiệm của mình tại kỳ họp Quốc hội phải tuân theo để đưa dự thảo luật
trở thành luật.
1.1.1.3. Vị trí, vai trò của quy trình, thủ tục xem xét, thông qua dự án luật
- Quy trình, thủ tục xem xét, thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội
góp phần quan trọng để các đạo luật được Quốc hội ban hành một cách cẩn
trọng, kịp thời, hợp pháp, công bằng, dân chủ và công khai.
Nhƣ trên đã trình bày, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân
dân, có vị trí quan trọng trong hệ thống quyền lực nhà nƣớc nên các quyết
định của Quốc hội rất quan trọng, có liên quan và ảnh hƣởng trực tiếp đến lợi
ích của quốc gia, lợi ích của toàn xã hội và từng ngƣời dân, đặc biệt là các văn
bản quy phạm pháp luật là các quy định khuân mẫu mà mọi ngƣời phải tuân
thủ. Do đó, các quyết định của Quốc hội phải đƣợc ban hành một cách cẩn
trọng, kịp thời, hợp pháp, công bằng, dân chủ và công khai. Đề đạt đƣợc điều
này, Quốc hội cần phải có một quy trình, thủ tục làm việc hiệu quả. Quy trình,
thủ tục trong việc ban hành quyết định sẽ góp phần quan trọng để các quyết
19
định của Quốc hội nói chung và các quyết định trong hoạt động lập pháp nói
riêng đƣợc ban hành một cách cẩn trọng, kịp thời, hợp pháp, công bằng, dân
chủ và công khai
- Quy trình, thủ tục xem xét, thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội
tạo nên sự ổn định, chủ động trong hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của
Quốc hội và đại biểu Quốc hội, là căn cứ để bảo đảm sự phân công công việc
một cách hợp lý trong hoạt động của Quốc hội.
Quy trình, thủ tục xem xét, thông qua dự án luật là công cụ để Quốc
hội thực hiện hoạt động ban hành luật của mình. Hoạt động ban hành luật
của Quốc hội có đƣợc tiến hành một cách thông suốt và hiệu quả hay không
phụ thuộc vào từng bƣớc trong quy trình, trong đó có quy trình, thủ tục xem
xét, thông qua dự án luật. Quy trình, thủ tục này đƣợc xây dựng một cách
khoa học, cụ thể, chặt chẽ thì hoạt động ban hành luật của Quốc hội sẽ đƣợc
tiến hành một cách chủ động, đều đặn, thông suốt. Ngƣợc lại, khi tiến hành
công việc nếu không có quy trình, thủ tục hoặc có nhƣng quy trình, thủ tục
không đầy đủ, rõ ràng, hợp lý hoặc bị chi phối bởi các chủ thể khác thì Quốc
hội sẽ gặp phải những trở ngại, lúng túng ảnh hƣởng không nhỏ đến chất
lƣợng văn bản đƣợc ban hành. Ngoài ra, việc có quy trình, thủ tục xem xét,
thông qua luật sẽ giúp các cơ quan của Quốc hội, cơ quan, tổ chức có hoạt
động liên quan đến việc ban hành luật của Quốc hội, đại biểu Quốc hội hiểu
rõ công việc mình sẽ phải làm để sắp xếp công việc một cách hợp lý.
Căn cứ vào quy trình, thủ tục, các cơ quan đó tiến hành giải quyết công
việc thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình một cách chủ
động, hiệu quả theo đúng tiến độ trong thời gian diễn ra kỳ họp Quốc hội.
Quy trình, thủ tục xem xét, thông qua luật còn giúp các cơ quan của Quốc hội,
các cơ quan, tổ chức khác có hoạt động liên quan đến hoạt động thông qua
20
luật có thể phối hợp, kết hợp chặt chẽ để giải quyết công việc một cách rõ
ràng, hiệu quả, thuận tiện, góp phần tạo nên thành công trong hoạt động của
Quốc hội.
- Quy trình, thủ tục xem xét, thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội
là yếu tố quan trọng, then chốt mang tính quyết định bảo đảm chất lượng của
dự án luật.
Xuất phát từ ý nghĩa và tầm quan trọng của các đạo luật trong đời sống
xã hội, đồng thời để bảo đảm cho các đạo luật đƣợc ban hành kịp thời, có chất
lƣợng, nội dung phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của nhân dân, thể chế hoá
sáng tạo đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng, cần thiết phải có một quy trình lập
pháp hoàn chỉnh. Quy trình, thủ tục để xây dựng và ban hành một đạo luật
bao gồm rất nhiều bƣớc khác nhau từ việc lập chƣơng trình xây dựng luật,
pháp lệnh; soạn thảo; thẩm tra; Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội xem xét cho ý
kiến; lấy ý kiến đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội về dự án luật;
Quốc hội xem xét, thông qua cho đến khi Chủ tịch nƣớc công bố luật. Các
bƣớc trong quy trình, thủ tục xây dựng, ban hành luật có mối liên hệ chặt chẽ
với nhau, không thể bỏ qua một bƣớc nào. Việc Quốc hội xem xét, thông qua
luật hoàn toàn không phải là hoạt động hình thức nhằm biểu quyết thông qua
hoặc không thông qua một đạo luật. Trong giai đoạn này, Quốc hội, các cơ
quan hữu quan phải thực hiện rất nhiều công việc khác nhau nhằm hoàn thiện
dự án luật trƣớc khi biểu quyết thông qua trên cơ sở dự án luật đƣợc cơ quan
soạn thảo trình. Chính ở giai đoạn này trí tuệ của Quốc hội đƣợc tập trung cao
nhất trong việc xem xét, quyết định và thông qua dự án luật, các đại biểu
Quốc hội thực sự đóng vai trò của nhà lập pháp. Điều này cho thấy Quốc hội
nƣớc ta thực sự là một cơ quan “làm luật” đúng nhƣ quy định của Hiến pháp
năm 1992, chứ không chỉ đơn thuần là cơ quan “thông qua luật” nhƣ một số
ngƣời từng quan niệm.
21
1.1.2.2. Đặc điểm của quy trình, thủ tục xem xét, thông qua dự án luật
- Quy trình, thủ tục xem xét, thông qua dự án luật bao gồm tổng thể
những quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật. Về nguyên tắc trình
tự, thủ tục này đƣợc ghi nhận trong văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao
là Hiến pháp và các đạo luật. Ngoài ra, có thể có các thủ tục thông qua luật
mang tính chất kỹ thuật không nhất thiết phải quy định trong văn bản luật mà
có thể đƣợc quy định trong các văn bản pháp luật khác nhƣ Nội quy kỳ họp
Quốc hội, Quy chế hoạt động của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội, Quy chế họat
động của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội, Quy chế hoạt động
của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội.
- Quy trình, thủ tục xem xét, thông qua dự án luật có tính ổn định cao
thể hiện ở chỗ các khâu, các bƣớc, các giai đoạn đƣợc định ra phải tiến hành
và chủ thể tham gia vào các hoạt động đó tƣơng đối ổn định qua thời gian để
không có những xáo trộn trong hoạt động làm luật của Quốc hội, bảo đảm
chất lƣợng của luật đƣợc ban hành. Tuy nhiên, cũng không nên tuyệt đối hóa
tính ổn định của quy trình, thủ tục. Ổn định song không phải bất biến. Ở đây
cần có sự nghiên cứu thƣờng xuyên thực tiễn lập pháp của Việt Nam và các
nƣớc trên thế giới để rút kinh nghiệm tạo ra sự thích ứng của hoạt động lập
pháp với những biến đổi trong thực tiễn quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nƣớc
ta trong điều kiện mới.
- Quy trình, thủ tục xem xét, thông qua dự án luật thể hiện rõ trách
nhiệm của mỗi chủ thể và sự phân công, phối hợp giữa các chủ thể. Để việc
xem xét, thông qua luật tại kỳ họp Quốc hội có hiệu quả, đòi hỏi phải có sự tổ
chức, phối hợp giữa các cơ quan, bộ phận trực tiếp liên quan đến quy trình
xem xét, thông qua luật, nhƣ Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội, cơ quan chủ trì
thẩm tra, cơ quan, tổ chức trình dự án, Uỷ ban pháp luật, Bộ tƣ pháp, Đoàn
22
thƣ ký kỳ họp, các cơ quan hữu quan khác nhằm đảm bảo tính khoa học, hợp
lý trong từng khâu, từng công việc.
- Quy trình, thủ tục xem xét, thông qua dự án luật là một trong những
yếu tố quan trọng bảo đảm hiệu quả của hoạt động xem xét, thông qua dự án
luật. Để hoạt động thông qua luật tạo dựng đƣợc một văn bản luật có chất
lƣợng tốt cần có nhiều điều kiện, trong đó có những điều kiện mang tính nội bộ
nhƣng cũng có những điều kiện khác nhƣ trách nhiệm và năng lực của các chủ
thể tham gia vào quá trình xem xét, thông qua dự án luật. Nhƣ vậy quy trình,
thủ tục xem xét, thông qua dự án luật cũng chỉ là một trong những yếu tố tác
động tới hiệu quả của hoạt động xem xét, thông qua dự án luật. Tuy nhiên quy
trình, thủ tục là một trong những yếu tố rất quan trọng. Một quy trình, thủ tục
xem xét, thông qua dự án luật hợp lý, khoa học sẽ giúp cho hoạt động thông
qua luật có hiệu quả, góp phần bảo đảm cho Quốc hội có thể thông qua nhiều
luật với chất lƣợng tốt.
1.1.2.3. Nguyên tắc chung trong việc xây dựng và áp dụng quy trình,
thủ tục xem xét, thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội
Xuất phát từ những đặc thù của mình, việc xây dựng và áp dụng quy
trình, thủ tục làm việc của Quốc hội nói chung và quy trình, thủ tục xem xét,
thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội nói riêng cần chặt chẽ, chi tiết và
phải tuân theo những nguyên tắc sau đây:
- Nguyên tắc bảo đảm quyền thảo luận và biểu quyết của đại biểu: Đại
biểu Quốc hội là ngƣời đại diện cho ý chí, nguyện vọng và lợi ích của cử tri,
là ngƣời thay mặt cử tri trong diễn đàn Quốc hội. Do vậy, việc Quốc hội có
quy trình, thủ tục làm việc chặt chẽ góp phần tạo ra sự độc lập trong hoạt
động của đại biểu Quốc hội, bảo đảm để đại biểu Quốc hội lựa chọn, quyết
23
định những vấn đề tại phiên họp toàn thể của Quốc hội phù hợp với ý chí và
lợi ích của nhân dân.
- Nguyên tắc bình đẳng, dân chủ, công bằng: Theo nguyên tắc này, tất
cả các vị đại biểu Quốc hội, dù là Chủ tịch Quốc hội, Chủ nhiệm Hội đồng dân
tộc, Chủ nhiệm Uỷ ban hay đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách, kiêm
nhiệm đều bình đẳng trong việc kiến nghị, thảo luận, biểu quyết tại diễn đàn
Quốc hội. Việc xem xét, thông qua dự án luật tại phiên họp toàn thể phải tuân
theo những yêu cầu nhƣ: tất cả đại biểu Quốc hội đều có quyền và nghĩa vụ
nhƣ nhau trong quá trình thảo luận; các quy định về thủ tục thảo luận phải đƣợc
thực hiện một cách không thiên vị; vào bất kỳ thời điểm nào, đại biểu Quốc hội
cũng có quyền đƣợc biết nội dung đang đƣợc xem xét và nội dung đó phải
đƣợc nhắc lại trƣớc khi tiến hành biểu quyết; không phát biểu lần thứ hai về
cùng một vấn đề khi đang có ngƣời khác muốn phát biểu về vấn đề đó; Chủ tọa
phiên họp phải điều khiển phiên họp một cách công bằng và trung thực; hai
luồng ý kiến phản đối và đồng ý đều có cơ hội đƣợc thể hiện nhƣ nhau
- Nguyên tắc công khai: Nguyên tắc công khai trong quy trình, thủ tục
làm việc của Quốc hội liên quan đến tính chất diễn đàn “mở” của cơ quan
này. Theo đó, đại diện cơ quan nhà nƣớc, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị –
xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan báo chí và công
dân, khách quốc tế có thể đƣợc mời dự các phiên họp công khai của Quốc hội.
Một số phiên họp nhất định thảo luận về những dự án luật quan trọng có thể
đƣợc truyền hình trực tiếp. Tất nhiên, Quốc hội là cơ quan cao nhất có quyền
quyết định các vấn đề quan trọng của đất nƣớc nên trong hoạt động của Quốc
hội cũng có thể có những vấn đề cần đƣợc bàn bạc, thảo luận kín để tìm ra
phƣơng án giải quyết hợp lý nhƣng việc có các phiên họp kín này không làm
ảnh hƣởng đến tính công khai trong hoạt động của Quốc hội. Mặt khác, dù