Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Quyền công tố trong các vụ án hình sự về ma túy ( Qua thực tiễn Viện kiểm sát Tỉnh Thanh Hóa )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (780.69 KB, 92 trang )


1

2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



LỮ THỊ PHƢƠNG QUÝ



QUYỀN CÔNG TỐ
TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ VỀ MA TÚY
(QUA THỰC TIỄN VIỆN KIỂM SÁT TỈNH
THANH HÓA)

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số : 60 38 01



TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



HÀ NỘI - 2012
Công trình đƣợc hoàn thành
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội





Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Nguyễn Đăng Dung




Phản biện 1:


Phản biện 2:



Luận văn đƣợc bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại Khoa
Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi giờ , ngày tháng năm 2012.




Có thể tìm hiểu luận văn
tại Trung tâm tƣ liệu - Thƣ viện Đại học Quốc gia Hà Nội Trung tâm tƣ
liệu - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội


4
MỤC LỤC




Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CÔNG TỐ CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN
6
1.1.
Những vấn đề lý luận chung cơ quan tư pháp và quyền
công tố
6
1.1.1.
Cơ quan tư pháp trong chính thể nhà nước
6
1.1.2.
Sự ra đời và phát triển của quyền công tố
8
1.2.

Lịch sử hình thành và mô hình hoạt động của viện kiểm sát
ở thế giới và Việt Nam
16
1.2.1.
Mô hình hoạt động của cơ quan công tố trên thế giới
16
1.2.1.1.
Một số mô hình hoạt động của cơ quan công tố (Viện kiểm sát)
theo hệ thống luật pháp Châu Âu - lục địa và Luật Anh - Mỹ
16
1.2.1.2.
Một số mô hình hoạt động của cơ quan công tố (Viện kiểm
sát) ở châu Á
21
1.2.2.
Sự ra đời và phát triển của chế định Viện kiểm sát trong bộ
máy nhà nước Việt Nam
29

Chương 2: TÌNH HÌNH TỘI PHẠM VÀ THỰC TRẠNG QUYỀN
CÔNG TỐ TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ VỀ MA
TÚY QUA THỰC TIỄN Ở VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TỈNH THANH HÓA HIỆN NAY
34
2.1.
Tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
34


5

2.1.1.
Tình hình kinh tế - xã hội
34
2.1.2.
Tội phạm hình sự và ma túy
38
2.2.
Quyền công tố trong việc giải quyết các vụ án ma túy tại
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa
45
2.2.1.
Quyền công tố trong tố tụng hình sự
45
2.2.2.
Thực trạng về quyền công tố trong điều tra, truy tố, xét xử
các vụ án ma túy qua thực tiễn tại Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Thanh Hóa
54
2.2.2.1.
Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Thanh Hóa
54
2.2.2.2
Thực hành quyền công tố trong việc giải quyết các vụ án
hình sự về ma túy ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa
57
2.3.
Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quyền công tố trong
việc giải quyết các vụ án hình sự về ma túy
69

2.3.1.
Đánh giá chung về kết quả và tồn tại trong công tác thực
hành quyền công tố trong các vụ án hình sự
69
2.3.2.
Một số giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công
tố của Viện kiểm sát trong việc giải quyết các vụ án hình sự
về ma tuý
73

KẾT LUẬN
85

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
87





6
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đề tài luận văn thạc sĩ Luật học: "Quyền công tố trong các vụ án
hình sự về ma túy (qua thực tiễn Viện kiểm sát tỉnh Thanh Hóa)" được
nghiên cứu bởi những lý do cấp thiết sau:
Thứ nhất: Yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình
hiện nay đòi hỏi phải nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan bảo
về pháp luật trong đó có việc tăng cường chất lượng thực hành quyền công

tố của Viện kiểm sát nhân dân nhằm chống bỏ lọt tội phạm, không làm oan
người vô tội và bảo về pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đây là một trong những nội
dung quan trọng được thể hiện trong nhiều nghị quyết của Đảng như
Nghị quyết số 08/NQ/2002 ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về
một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới chỉ rõ:
"Chất lượng công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với nhu cầu và đòi
hỏi của nhân dân, còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô
tội… giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan
tư pháp" [9]. Bên cạnh đó Nghị quyết còn nhấn mạnh:
Viện kiểm sát nhân dân các cấp thực hiện tốt chức năng
thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải thực hiện ngay từ khi
khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không
bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội…
Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, đảm
bảo tranh tụng với Luật sư, người bào chữa và những người tham
gia tố tụng khác… [9].
Việc thực hành quyền công tố ở Việt Nam do Viện kiểm sát nhân dân
thực hiện trong thời gian qua đã đạt được nhiều thành tích trong việc trừng trị


7
tội phạm và bảo vệ quyền tự do dân chủ của nhân dân. Tuy nhiên so với yêu
cầu đấu tranh phòng chống tội phạm còn nhiều hạn chế về cả nhận thức và
thực tiễn.
Thứ hai, vấn nạn về ma túy đang là một vấn đề nhức nhối ảnh hưởng
lớn đến cuộc sống, sinh hoạt của toàn nhân loại. Ma túy đã gây tác hại xấu đến
nhiều mặt của đời sống xã hội, ảnh hưởng đến sự trường tồn của toàn dân tộc.
Toàn thế giới hiện nay có khoảng 100 triệu người nghiện ma túy, ở Việt Nam
trong 5 năm qua có 783.339 người nghiện ma túy. Đáng lo ngại là ma túy đã

tràn lan vào cả các trường học từ cấp tiểu học trở lên. Theo thống kê 63/63
tỉnh thành đều có học sinh, sinh viên sử dụng ma túy. Sản xuất và buôn bán
ma túy mạng lại siêu lợi nhuận nên đây là nguyên nhân thúc dẩy sự gia tăng
số người nghiện ma túy và tội phạm về ma túy năm trước lớn hơn năm sau.
Đối với địa bàn tỉnh Thanh Hóa là một tỉnh rộng, địa hình phức tạp,
đường biên giới với nước bạn Lào dài. Dân số đông dẫn đến số người nghiện
ma túy cũng nhiều. Do vậy tình hình tội phạm về ma túy đang là một trong
những vấn đề nhức nhối. Mặc dù tỉnh Thanh Hóa chỉ là địa điểm trung
chuyển ma túy nhưng hàng năm cuộc đấu tranh phòng chống tệ nạn và tội
phạm về ma túy vẫn diễn ra đầy cam go và phức tạp, đôi khi nó lấy đi cả tính
mạng của cán bộ, chiến sĩ trực tiếp đối mặt với tội phạm ma túy. Hàng năm
cơ quan chức năng đã phát hiện bắt giữ, xử lý hàng chục nghìn vụ vi phạm và
tội phạm về ma túy, triệt phá nhiều đường dây ma túy lớn hoạt động nhiều
năm, xóa nhiều tụ điểm ma túy phức tạp làm thay đổi tình hình ở một số địa
bàn. Hàng năm các cơ quan tiến hành tố tụng đã đưa ra xét xử nghiêm minh
một số lượng rất lớn các vụ án ma túy, đưa một số lượng lớn các đối tượng
nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện. Thông qua đó góp phần nâng cao nhận
thức của nhân dân đối với cuộc đấu tranh về tội phạm này.
Trước sự gia tăng đến mức lo ngại của tội phạm ma túy, Đảng và Nhà
nước ta đã quan tâm chỉ đạo kiên quyết đấu tranh nhằm từng bước ngăn chặn


8
và đẩy lùi, tiến tới loại trừ loại tội phạm nguy hiểm này ra khỏi đời sống
xã hội, tuy nhiên việc giải quyết các vụ án ma túy đang còn gặp nhiều khó
khăn cả về lý luận và thực tiễn bởi tội phạm về ma túy diễn biến phức tạp,
quá trình giải quyết án chia thành nhiều giai đoạn khác nhau do vậy việc điều
tra, truy tố, xét xử gặp nhiều khó khăn. Việc quản lý chỉ đạo điều hành đối với
công tác này còn có những thiếu sót nhất định.
Vì những lý do trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu này. Trên cơ sở đó làm

sáng tỏ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn, đề ra những giải pháp cơ bản giúp cho
việc thực hành quyền công tố trong việc giải quyết các vụ án hình sự về ma túy ở
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa có chất lượng, đáp ứng yêu cầu về cải
cách tư pháp và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm ở tỉnh Thanh Hóa.
2. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích:
- Làm rõ cơ sở lý luận về chức năng thực hành quyền công tố của
Viện kiểm sát nhân dân trong chính thể nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
- Trên cơ sở lý luận về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
kiểm sát nhân dân liên hệ việc thực hành quyền công tố trong việc giải quyết
các vụ án hình sự về ma túy ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Qua
đó đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công
tố dưới góc độ hoàn thiện pháp luật và thực tiễn áp dụng.
Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu lịch sử hình thành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân
dân theo các bản Hiến pháp
- Việc tổ chức thực hành quyền công tố ở một số nước trên thế giới.
- Nghiên cứu thực trạng tổ chức thực hành quyền công tố ở Việt Nam.


9
- Khảo sát thực tiễn việc thực hành quyền công tố trong việc giải
quyết các vụ án hình sự về ma túy từ năm 2005 đến nay ở Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Thanh Hóa.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về nội
dung và hình thức để qua đó nâng cao chức năng thực hành quyền công tố
trong việc giải quyết các vụ án hình sự về ma tuý ở Việt Nam nói chung
và ở tỉnh Thanh Hóa nói riêng.
3. Phƣơng pháp tiếp cận vấn đề

Cơ sở lý luận của luận văn dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về tổ
chức và hoạt động bộ máy nhà nước nói chung, tổ chức và hoạt động của các
cơ quan tư pháp nói riêng; quan điểm về đấu tranh phòng chống tội phạm của
Đảng và Nhà nước ta. Các học thuyết chính trị, pháp lý về tổ chức hoạt động
của cơ quan tư pháp trong nhà nước xã hội chủ nghĩa. Lý luận chung về nhà
nước pháp luật, chủ nghĩa Hiến pháp và các khoa học pháp lý liên quan. Bên
cạnh đó luận văn còn nghiên cứu dựa trên những quy định của pháp luật hình
sự và luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân ở nước ta từ khi thành lập đến nay.
Từ những cơ sở lý luận trên, luận văn tiếp cận vấn đề trên cơ sở phương
pháp luận của duy vật lịch sử và các phương pháp khác so sánh, phân tích,
tổng hợp và khảo sát thực tiễn nhằm làm rõ các nội dung cần nghiên cứu.
4. Ý nghĩa của luận văn
Những nội dung nghiên cứu của luận văn là một đóng góp nhỏ trong
việc nhìn nhận và đánh giá hoạt động của cơ quan Viện kiểm sát trong đó
có chức năng thực hành quyền công tố. Qua đó có cái nhìn đúng đắn
về hoạt động này trong thực tiễn để thấy rõ được vai trò của Viện kiểm sát
trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm hình sự nói chung và tội phạm
về ma túy nói riêng.


10
Ngoài ra luận văn còn đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
thực hành quyền công tố trong việc giải quyết các vụ án hình sự về ma túy trong
tiến trình cải cách tư pháp theo tinh thần của Nghị quyết số 08-NQ/TW
và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tư liệu tham khảo
trong việc nghiên cứu lý luận cũng như áp dụng vào thực tiễn giải quyết các
vụ án hình sự về ma túy.
5. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân.
Chương 2: Tình hình tội phạm và thực trạng quyền công tố trong các
vụ án hình sự về ma túy qua thực tiễn ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh
Hóa hiện nay.



11
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CÔNG TỐ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG CƠ QUAN TƢ PHÁP VÀ
QUYỀN CÔNG TỐ
1.1.1. Cơ quan tƣ pháp trong chính thể nhà nƣớc
Ở nước ta, quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công
và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền:
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Do đó, quyền tư pháp được hiểu là hoạt động
xét xử của tòa án và những hoạt động của các cơ quan nhà nước hoặc các tổ
chức khác trực tiếp liên quan đến hoạt động xét xử của tòa án, nhằm bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa, pháp chế, trật tự pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, lợi ích của Nhà nước và xã hội. Vì vậy, cơ quan tư pháp bao
gồm: Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan điều tra và các
cơ quan, tổ chức tư pháp bổ trợ như: Luật sư, Công chứng, Giám định, Tư vấn
pháp luật
Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Một nền tư pháp kiểu mới - nền tư pháp nhân
dân đã từng bước được thiết lập. Gần 60 năm qua, các cơ quan tư pháp đã

vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, nỗ lực phấn đấu để hoàn thành trọng
trách mà Đảng và nhân dân giao phó, đã đóng góp không nhỏ vào thắng lợi
chung của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
Các cơ quan tư pháp Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo đơn vị
hành chính, có sự phân công chỉ đạo từ trung ương đến địa phương và hoạt


12
động theo chế độ thủ trưởng chế. Mặc dù đã trải qua mộ thời gian dài tồn tại
và phát triển nhưng cho đến nay các cơ quan tư pháp vẫn còn mang đậm bản
chất phong kiến, bao cấp chưa chưa nghiêng hẳn về chức năng bảo vệ công lý
của mình. Tòa án không phải là cấp xét xử cuối cùng mà vẫn phải chịu sự
giám sát của các cơ quan nhà nước khác.
Hoạt động tư pháp là hoạt động có mục đích chung nhằm "bảo vệ
pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ
của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài
sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân" [24, Điều 126]. Vì vậy, các
cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát và điều tra đều là những cơ quan thể hiện trực
tiếp bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và
vì dân, là những bộ phận không thể thiếu của bộ máy nhà nước.
Với các mục đích như thế, các cơ quan tư pháp chính là cơ quan bảo
vệ pháp luật bằng cách áp dụng luật của Quốc hội và các văn bản pháp quy để
giải quyết các vi phạm pháp luật, các tội phạm và các tranh chấp xảy ra trong
đời sống của bản thân bộ máy nhà nước và xã hội. Có thể xem các cơ quan
tư pháp như những bộ phận chuyển tải quyền lực nhà nước chứa đựng trong
pháp luật vào đời sống xã hội qua việc giải quyết các vụ việc liên quan trực
tiếp đến quyền và lợi ích thiết thân của những con người cụ thể. Nếu như "lực"
thể hiện đầy đủ, đúng đắn và chính xác qua hoạt động lập pháp và lập quy,

nhưng hệ thống truyền lực qua hoạt động của các cơ quan tư pháp không tốt,
thì lực đó không đi vào cuộc sống và không trở thành hiện thực. Nói cách
khác, hoạt động tư pháp là hoạt động áp dụng pháp luật liên quan trực tiếp đến
lợi ích thiết thân, quan trọng nhất đối với con người như danh dự, nhân phẩm,
tự do, tài sản và cả tính mạng. Bằng cách đó mà pháp luật vì con người, cho
con người, đề cao các quyền con người trở thành hiện thực.
Hoạt động của Tòa án và Viện kiểm sát quan hệ thiết thân đến con
người. Họ đòi hỏi Tòa án và Viện kiểm sát phải là biểu tượng điển hình của


13
việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, phải thể hiện trực tiếp tính chất dân chủ
và công khai trong hoạt động. Trong tất cả các khâu của quá trình bảo vệ pháp
luật, Tòa án và Viện kiểm sát là nơi biểu hiện rõ nhất bản chất của pháp luật.
Ở đó, con người tìm thấy lẽ công bằng, tính nhân đạo, "thiện" và "ác" một
cách trực tiếp và cụ thể qua các vụ việc cụ thể. Ở đó, còn là "mảnh đất" kích
thích sự hoàn thiện và phát triển pháp luật vì con người và cho con người.
Thực tiễn xây dựng bộ máy nhà nước cho thấy, hệ thống tư pháp hiện
nay ở nước ta chưa đảm đương được đầy đủ vị trí, vai trò nói trên. Có thể nói,
ở tất cả các khâu từ điều tra, truy tố, đến xét xử và phòng ngừa, hệ thống
tư pháp chưa thực sự là một hệ thống vận dụng và áp dụng thành thạo pháp
luật. Trong nhiều trường hợp, quyền lực nhà nước bị biến dạng qua hoạt động
cụ thể của Tòa án và Viện kiểm sát. Uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật
giảm sút trong dư luận của quần chúng. Vì vậy, tiếp tục đổi mới, cải cách hệ
thống các cơ quan tư pháp theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, đòi hỏi phải nâng cao năng lực áp
dụng pháp luật và năng lực đề xuất, kiến nghị sáng kiến đổi mới và hoàn thiện
hệ thống pháp luật vì con người, cho con người đối với đội ngũ điều tra viên,
kiểm sát viên và thẩm phán.
1.1.2. Sự ra đời và phát triển của quyền công tố

Việc nghiên cứu so sánh lịch sử tư pháp hình sự trên thế giới đã cho
thấy, về cơ bản khái niệm quyền công tố - hoạt động tố tụng vì lợi ích công
cộng (lợi ích của Nhà nước hay của xã hội) đối với người phạm tội - đã được
biết đến ngay từ những thời đại xa xưa của xã hội loài người. Chẳng hạn, ở nhà
nước chiếm hữu nô lệ Hy Lạp cổ đại vào thế kỷ V trước công nguyên đã tồn tại
hai hình thức tố tụng - công tố (hoạt động tố tụng đối với các vụ án mà trong đó
động chạm trực tiếp hay gián tiếp đến các lợi ích của Nhà nước khi mà người
đại diện của nó bị thiệt hại do sự vi phạm pháp luật) và tư tố (hoạt động tố
tụng đối với các vụ án xảy ra do sự vi phạm đến các lợi ích riêng của ai đó);


14
còn ở La Mã cổ đại trong thời kỳ tan rã của nền dân chủ quân sự và hình thành
Nhà nước chiếm hữu nô lệ, thì công tố đã được tiến hành đối với cả các vụ án
quan trọng nhất trực tiếp xâm hại (hoặc đe dọa nghiêm trọng) đến trật tự xã hội -
các lợi ích công cộng, khác với các vụ án động chạm đến các lợi ích cá nhân.
Như vậy "quyền công tố" đã xuất hiện từ thời kỳ xa xưa của xã hội
loài người. Quyền công tố là một khái niệm pháp lý gắn liền với bản chất của
Nhà nước, là một bộ phận cấu thành và không thể tách rời khỏi công quyền.
Quyền công tố có trong tất cả các kiểu Nhà nước; nó ra đời, tồn tại và mất đi
cùng với Nhà nước và pháp luật. Khi mới có Nhà nước, quyền công tố chỉ
giới hạn trong phạm vi rất hẹp để bảo vệ các lợi ích của giai cấp thống trị.
Cùng với sự phát triển của xã hội, nhận thức về lợi ích công và lợi ích tư, về
trách nhiệm của Nhà nước đối với xã hội và cá nhân ngày càng có những thay
đổi: Lợi ích cá nhân liên quan đến lợi ích công, tác động qua lại với nhau;
chính vì vậy, cần có sự can thiệp của Nhà nước vào đời sống của cá nhân. Từ
đó, vai trò công tố càng được đề cao trong xã hội.
Tại Việt Nam, khoa học luật tố tụng hình sự nói riêng cũng như khoa
học pháp lý nói chung, chế định "quyền công tố" chưa được nghiên cứu một
cách toàn diện; chính vì vậy, chưa có khái niệm chính thống về quyền công

tố. Mặc dù vậy, quyền công tố là một quyền năng quan trọng đã được Viện
công tố thực hiện ở nước ta từ năm 1945; từ 1960 đến nay do Viện kiểm sát
nhân dân thực hiện. Tuy nhiên, hiểu thế nào là "công tố", "quyền công tố",
bản chất và nội dung của nó là gì, thì hiện nay vẫn chưa có nhận thức, quan
điểm thống nhất chung.
Có quan điểm cho rằng, công tố là "hoạt động tố tụng đối với các vụ án
mà trong đó động chạm trực tiếp hay gián tiếp đến các lợi ích của Nhà nước
khi mà người đại diện của nó bị thiệt hại do sự vi phạm pháp luật".
Theo Từ điển tiếng Việt, công tố có nghĩa là "điều tra, truy tố và buộc
tội kẻ phạm pháp trước Tòa án".


15
Từ điển Luật học lại ghi: Công tố "là quyền của Nhà nước truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội".
Thuật ngữ "quyền công tố" lần đầu tiên được ghi nhận tại Hiến pháp
năm 1980; sau đó tại Hiến pháp năm 1992, Bộ luật Tố tụng hình sự năm
1999, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân năm 1981, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992, Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Pháp lệnh kiểm sát viên năm 2002
Hiện nay chưa có văn bản pháp luật nào của Nhà nước giải thích chính
thức nội dung quyền công tố. Có nhiều quan điểm khác nhau về nội dung,
lĩnh vực cũng như phạm vi chủ thể tham gia thực hành quyền công tố. Nhưng
về nội dung và phạm vi thực hành quyền công tố (những yếu tố cấu thành
quyền công tố) là những yếu tố không thể thay đổi ở bất kỳ quốc gia nào.
Nghiên cứu các tài liệu hiện hành có thể thấy một số quan điểm về quyền
công tố như sau:
- Quan điểm thứ nhất đồng nhất khái niệm quyền công tố với hoạt
động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân (trước khi
Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi bổ sung năm 2001). Quan điểm này xuất

phát từ chức năng của Viện kiểm sát nhân dân để xem xét quyền công tố; theo
đó, tất cả các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật đều là thực hành
quyền công tố. Có nghĩa là ngay cả khi Viện kiểm sát kiến nghị, yêu cầu các
cơ quan nhà nước khắc phục, sửa chữa những sai phạm của mình trên các lĩnh
vực hành chính, kinh tế, xã hội thì đó cũng là hoạt động thực hành quyền
công tố. Quan điểm này cho rằng công tố không phải là một chức năng độc
lập của Viện kiểm sát, mà chỉ là một quyền năng, một hình thức hoạt động
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Đây là quan điểm khá phổ biến,
đặc biệt là trong ngành Kiểm sát nhân dân từ năm 1960 cho đến khi Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 được ban hành. Cơ sở lập luận của
quan điểm này chủ yếu dựa vào nội dung các điều luật được quy định trong


16
Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 1981 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992. Mặt
khác, quan điểm này cũng chịu ảnh hưởng của các nhà tố tụng hình sự Liên
Xô trước đây.
- Quan điểm thứ hai cho rằng quyền công tố là quyền của Nhà nước
giao cho Viện kiểm sát truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án, thực hiện sự buộc tội tại
phiên tòa (thực hành quyền công tố). Quan điểm này cho rằng việc thực hiện
quyền công tố chỉ diễn ra trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự.
Quan điểm này quá thu hẹp khái niệm, nội dung cũng như phạm vi
của quyền công tố. Về lý luận cũng như trên thực tế, hoạt động thực hành
quyền công tố của Viện kiểm sát tại Tòa án chỉ là một bộ phận trong nhiều
hoạt động thực hiện chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát.
- Quan điểm thứ ba cho rằng quyền công tố là quyền đại diện cho
Nhà nước để đưa các vụ việc vi phạm trật tự pháp luật ra cơ quan xét xử để
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật. Quan điểm này cho rằng
quyền công tố xuất hiện từ khi có Nhà nước và pháp luật, được thể hiện đầu

tiên trong tố tụng hình sự; cùng với sự phát triển của xã hội và của các ngành
luật, quyền công tố được mở rộng sang các lĩnh vực dân sự, kinh tế, lao động.
Theo quan điểm này thì nội dung quyền công tố là tổng hợp các biện pháp
pháp lý đặc trưng theo luật định mà Viện kiểm sát có trách nhiệm thực hiện
trong hoạt động tố tụng tư pháp; quyền công tố là một nội dung của hoạt động
chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong lĩnh vực tố tụng hình sự, tố tụng
dân sự và các lĩnh vực tư pháp khác, nhằm đảm bảo mọi hành vi vi phạm
pháp luật, hành vi phạm tội đều bị phát hiện, điều tra, xử lý theo pháp luật,
không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, tăng cường pháp chế
thống nhất.
Đây là quan điểm được đưa vào chương trình giảng dạy chính thức
của Trường Cao đẳng Kiểm sát Hà Nội và thường xuyên được nhắc đến trong


17
các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ, các chuyên đề tổng kết trước đây của
ngành Kiểm sát. Quan điểm này quá mở rộng quyền công tố, dẫn đến xóa
nhòa ranh giới và tính đặc thù giữa tố tụng hình sự và các lĩnh vực tố tụng
khác; đồng nhất quyền công tố với các quyền năng khác của Viện kiểm sát
trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, lao động.
Những quan điểm nêu trên về quyền công tố đều có sự hợp lý ở những
khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên mỗi quan điểm đều có những nội dung còn
bất cập, thể hiện:
- Hoặc là đánh đồng quyền công tố với các chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát, dẫn đến mở rộng phạm vi quyền công
tố vượt khỏi lĩnh vực tố tụng hình sự sang các lĩnh vực tư pháp khác như dân
sự, hành chính, kinh tế, lao động.
- Hoặc là coi quyền công tố chỉ là một quyền năng, một hình thức thực
hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự,
dẫn đến việc xem nhẹ bản chất của quyền công tố như là hoạt động độc lập

của Viện kiểm sát nhân danh quyền lực công.
- Hoặc là quá thu hẹp phạm vi quyền công tố, coi quyền công tố là
quyền của Viện kiểm sát truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án và thực hiện việc buộc
tội tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.
Mặt khác, các quan điểm đó đều có hạn chế là không phân định rõ ràng
khái niệm, bản chất, nội dung, phạm vi quyền công tố, hoạt động thực hành
quyền công tố và hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Nhiều quan điểm
cho rằng hai chức năng của Viện kiểm sát (công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật) vừa có tính độc lập tương đối, vừa liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại,
bổ sung cho nhau, giữa chúng có những nội dung xâm nhập, đan xen lẫn nhau
không thể tách rời; tạo nên sự thống nhất trong chức năng của Viện kiểm sát.
Bên cạnh đó, để đưa ra được quan niệm đúng về quyền công tố, cần
phải xem xét nó trong mối liên hệ với tính đặc thù của một lĩnh vực pháp luật


18
cụ thể. Quyền công tố chỉ có thể được xem xét trong mối liên hệ với lĩnh vực
pháp luật mà từ cội nguồn lịch sử của nó đã gắn liền, không thể tách rời với
việc nhân danh Nhà nước (nhân danh công quyền) chống lại hình thức vi
phạm pháp luật nghiêm trọng (tội phạm), đó là lĩnh vực tố tụng hình sự. Tội
phạm là vi phạm pháp luật nguy hiểm nhất; kẻ phạm tội xâm phạm trước hết
đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích xã hội (an ninh, trật tự xã hội), sau đó mới
đến lợi ích của người bị hại. Nhà nước nhân danh xã hội dành cho mình
quyền trừng trị kẻ phạm tội.
Trong hoạt động tố tụng hình sự luôn tồn tại ba chức năng tố tụng
cơ bản, đó là chức năng buộc tội (kết quả điều tra xác minh hành vi phạm tội),
chức năng bào chữa (gỡ tội) và chức năng xét xử.
Với tư cách là một chức năng tố tụng luôn nhằm chống lại một cá nhân
cụ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, chức năng buộc tội thực chất
chính là hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự đối với kẻ phạm tội. Trong

chức năng buộc tội, hình thức buộc tội nhân danh Nhà nước (nhân danh
quyền lực công) giữ vai trò là động lực của hoạt động tố tụng; nó thu hút
hoạt động của tất cả các chủ thể tham gia vào hoạt động tố tụng hình sự. Khi
đề cập đến vị trí, vai trò của Công tố viên thì các nhà làm luật nước ngoài
thường gọi họ là "người buộc tội nhân danh Nhà nước", dịch ra tiếng Việt
là "công tố".
Cùng với thời gian, quyền công tố đã dần dần được hình thành một
cách riêng biệt và đến hôm nay nó là một chế định pháp lý độc lập được thừa
nhận chung trong luật tố tụng hình sự của các Nhà nước pháp quyền. Để hiểu
rõ "quyền công tố" thực sự như thế nào, chúng ta có thể thấy
- Trước hết, về mặt lập pháp: cụm từ "quyền công tố" chính thức được
ghi nhận lần đầu tiên về mặt hiến định trong Hiến pháp năm 1980 (Điều 138)
và hiện nay - trong Hiến pháp năm 1992 (Điều 137), ngoài ra cụm từ này còn
được đề cập trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (Điều 23) và trong Luật


19
ngày 8-10-1992 về tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (các điều 15-16). Tuy
nhiên, cho đến nay vẫn chưa có văn bản pháp luật nào của Nhà nước ta (từ Ủy
ban Thường vụ Quốc hội đến Viện kiểm sát nhân dân tối cao) chính thức giải
thích nội dung của quyền công tố.
- Về mặt thuật ngữ: theo cuốn Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ
học do GS. Hoàng Phê chủ biên, thì công tố có nghĩa là "điều tra, truy tố và
buộc tội kẻ phạm pháp trước tòa án" [18, tr. 204].
- Về mặt thực tiễn: hoạt động điều tra đúng pháp luật là điều kiện tiên
quyết và là tiền đề đảm bảo pháp chế cho việc tiến hành tốt hai chức năng của
quyền công tố tương ứng trong hai giai đoạn tiếp theo sau đó - truy tố bị can
trước pháp luật và buộc tội bị cáo tại phiên tòa xét xử của Tòa án. Và chính vì
vậy, thực tiễn áp dụng pháp luật Tố tụng hình sự của nước ta cho thấy, khi
thực hành quyền công tố, Viện kiểm sát cũng tiến hành cả chức năng đầu tiên

và độc lập của quyền này - kiểm sát tính hợp pháp của việc điều tra (mà điều
này trên thực tế cũng được nhà làm luật nước ta giao cho Viện kiểm sát).
Hiện nay trong thực tiễn tư pháp hình sự và trong khoa học luật tố
tụng hình sự Việt Nam vẫn còn có sự nhận thức chưa đúng hoặc chưa thống
nhất về khái niệm "quyền công tố". Chính vì lẽ đó, nhiệm vụ làm sáng tỏ
những vấn đề xung quanh khái niệm này là không đơn giản.
Tuy vậy, đứng dưới góc độ của pháp luật nói chung và pháp luật về
hình sự nói riêng có thể khái quát được định nghĩa của khái niệm quyền công
tố như sau: Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện các chức
năng do luật tố tụng hình sự quy định để kiểm sát tính hợp pháp của việc điều
tra tội phạm, truy tố và buộc tội người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội bị luật hình sự cấm trước Tòa án nhằm góp phần ra được các bản án có
căn cứ, công minh và đúng pháp luật, đồng thời bảo vệ các quyền tự do của
công dân, cũng như các lợi ích hợp pháp của xã hội và của Nhà nước trong
hoạt động tư pháp hình sự.


20
Trên cơ sở khái niệm khoa học này, có thể làm sáng tỏ về mặt lý luận
bản chất pháp lý, nội dung và các đặc điểm cơ bản của từng chức năng của
quyền công tố, đồng thời từ đó khẳng định vị trí hợp lý của Viện kiểm sát
trong bộ máy quyền lực nhà nước.
Việc phân tích các quy định của luật thực định (Điều 137 Hiến pháp
năm 1992, các Điều 15-16 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992, và
các Điều 23, 141-144, 156, 164, 169-170, v.v… Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003) và nghiên cứu thực tiễn tư pháp hình sự cho thấy, quyền công tố mà
Viện kiểm sát nhân danh Nhà nước thực hiện có thể được hiểu theo hai nghĩa:
nghĩa hẹp - khi nó được hiểu là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện trên cơ
sở các quy định của pháp luật tố tụng hình sự các chức năng truy tố và buộc
tội trước Tòa án người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình

sự cấm; và nghĩa rộng - khi nó được hiểu là quyền nhân danh Nhà nước thực
hiện trên cơ sở các quy định của pháp luật tố tụng hình sự các chức năng kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra tội phạm, truy tố và buộc tội
trước Tòa án người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự
cấm. Từ hai cách hiểu này, chúng ta cần phải lần lượt tìm hiểu xem nội dung
của quyền công tố mà Viện kiểm sát nhân danh Nhà nước được thể hiện trong
phạm vi (giới hạn) nào của quá trình tố tụng hình sự và tương ứng với việc
thực hiện các chức năng nào.
Trước hết, nếu như chỉ hiểu theo nghĩa hẹp, thì nội dung của quyền
công tố chỉ được thể hiện trong phạm vi (giới hạn) từ sau khi kết thúc
việc điều tra tội phạm và vụ án hình sự được chuyển sang Viện kiểm sát để
truy tố người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm
trước Tòa án và chấm dứt sau khi Tòa án xét xử xong với việc tuyên một bản
án (quyết định) có hiệu lực pháp luật đối với người đó, tức là trong hai giai
đoạn của hoạt động tố tụng hình sự - truy tố bị can và buộc tội bị cáo của
Viện kiểm sát tại phiên tòa xét xử của Tòa án. Hai giai đoạn này tương ứng
với việc thực hiện hai chức năng của Viện kiểm sát nhân danh Nhà nước -


21
chức năng truy tố và chức năng buộc tội. Các chức năng của quyền công tố
trong luật tố tụng hình sự mà Viện kiểm sát nhân danh Nhà nước thực hiện
luôn luôn có mối quan hệ chặt chẽ và hữu cơ, thống nhất và biện chứng với
nhau, mà nếu không thực hiện tốt bất kỳ một chức năng nào, thì sẽ dẫn đến
tình trạng không đồng bộ, thiếu sự nhất quán và do đó, quyền công tố sẽ
không thể đạt được hiệu quả và mục đích cao cả của nó.
1.2. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ MÔ HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN
KIỂM SÁT Ở THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
1.2.1. Mô hình hoạt động của cơ quan công tố trên thế giới
1.2.1.1. Một số mô hình hoạt động của cơ quan công tố (Viện kiểm

sát) theo hệ thống luật pháp Châu Âu - lục địa và Luật Anh - Mỹ
Mô hình Nhà nước quân chủ Anh quốc, được coi là xuất phát điểm
của mọi mô hình tổ chức nhà nước hiện nay. Có thể nói rằng, mọi thể chế dân
chủ đương đại đều có gốc tích từ Anh quốc. Anh quốc có thể được xem như là
quê hương của các thiết chế dân chủ cổ điển. Điều kỳ lạ là ở chỗ, các thiết chế
của nhà nước Anh quốc được hình thành và tồn tại cho mãi đến hiện nay, là
kết quả của một sự vận động dần dần từng bước một của lịch sử thực tế, như
"một bức tường gạch được xây nên, theo một nguyên tắc hết viên gạch thứ
nhất, rồi mới được viên gạch thứ hai, không có điều ngược lại", không theo
một lý thuyết nào cho trước.
Nước Anh không có một bản hiến pháp thành văn giống như nhiều
nước khác. Hiến pháp Anh là một kiểu hiến pháp bất thành văn, mà nguồn
của nó là các thông lệ truyền thống, các đạo luật của nghị viện Anh và pháp
luật của Liên minh Châu Âu. Sự độc đáo và linh hoạt này lý giải một phần
việc áp dụng cơ chế phân quyền "mềm" giữa các cơ quan của bộ máy nhà
nước, thiên về xu hướng hợp nhất quyền lực hơn là phân chia quyền lực rạch
ròi. Viện công tố Hoàng gia Anh và Tòa án tối cao của Anh là cơ quan tư
pháp của Anh. Viện công tố Hoàng gia Anh do Viện trưởng Viện công tố


22
đứng đầu, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và hoạt động dưới sự giám sát của
Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Tuy nhiên đây là sự giám sát chung mang tính chất
chính trị chứ không phải là sự giám sát thường xuyên mang tính pháp lý. Bộ
trưởng Bộ Tư pháp là nghị sĩ Quốc hội và do Nữ hoàng anh bổ nhiệm theo đề
nghị của Thủ tướng. Theo quy định của pháp luật, Chính phủ không kiểm tra
Công tố Hoàng gia mà nhiệm vụ này được giao cho Bộ Tư pháp.
Hệ thống công tố hoàng gia Anh là cơ quan truy tố được phân chia
theo khu vực địa lý. Mỗi khu vực do một Công tố viên trưởng Hoàng gia
đứng đầu và ông này có quyền bổ nhiệm Công tố viên qua thi cử. Các Công

tố viên thực thi nhiệm vụ công tố dưới sự chỉ đạo của Viện trưởng.
Việc khởi tố, điều tra tội phạm ở Anh thuộc thẩm quyền của cơ quan
Cảnh sát. Công tố Hoàng gia không thực thi chức năng giám sát việc điều tra
hoặc chỉ đạo việc điều tra của cảnh sát hay chỉ thị cho cảnh sát trong việc thu
thập chứng cứ. Tuy nhiên, Công tố Hoàng gia Anh có nhịêm vụ theo luật định
thậphỉ dẫn cho cảnh sát về mối liên quan, khối lượng cần và đủ cũng như khả
năng có thể chấp nhận được của các bằng chứng đã thu thập được, nhưng đây
không phải là mệnh lệnh buộc cảnh sát phải tuân theo. việc quyết định làm thế
nào để đáp ứng được các chỉ dẫn đó hoàn toàn là việc của cảnh sát. nhiệm vụ
chủ yếu của Công tố hoàng gia là truy tố tội phạm, ngoài ra cơ quan này có
quyền khởi tố đối với những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp.
Trong quá trình điều tra, Công tố viên chỉ đóng vai trò như Luật sư tư
vấn cho cơ quan cảnh sát nhưng lại có quyền quyết định một số vấn đề như:
có cần thiết phải khởi tố bị can hay không hoặc nếu vụ việc đã được khởi tố
thì tiếp tục tiến hành tố tụng hay đình chỉ.
Tất cả các Công tố viên phải chịu trách nhiệm cá nhân và phải cân
nhắc đầy đủ các vấn đề chứng cứ trên tinh thần bộ luật truy tố tội phạm.
Trong giai đoạn xét xử, Công tố viên Hoàng gia không có quyền đề nghị mức
án mà trình bày nội dung vụ án, còn quyết định tội danh và mức án là do Hội


23
đồng xét xử. Trong trường hợp cần thiết Công tố viên có quyền kháng nghị
bản án, quyết định của Tòa án, tuy nhiên số lượng kháng nghị không đáng kể.
Tổ chức và hoạt động của Công tố Hoàng gia Anh chỉ thực hiện trong
lĩnh vực tư pháp hình sự với nhiệm vụ chủ yếu là đưa vụ án ra Tòa án và thực
hiện sự buộc tội đối với bị cáo.
Hoa Kỳ, là đất nước mà tổ chức bộ máy nhà nước được thực hiện theo
thuyết tam quyền phân lập một cách triệt để bao gồm ba hệ thống cơ quan là
Lập pháp - Hành pháp - Tư pháp, hoạt động theo cơ chế kìm chế và đối trọng.

Ở Mỹ, Viện công tố được tổ chức làm hai cấp là liên bang và bang và
trực thuộc sự quản lý điều hành của Bộ Tư pháp. Đứng đầu Viện công tố liên
bang là Tổng công tố do Tổng thống Mỹ bổ nhiệm theo nhiệm kỳ của Tổng
thống. dưới viện công tố liên bang là Viện công tố bang. Tùy thuộc vào pháp
luật của từng bang quy định mà Tổng công tố bang có thể do Thống đốc bang
bổ nhiệm hoặc do cử tri bang bầu ra theo nhiệm kỳ vài năm một. Trong hoạt
động tố tụng hình sự, Công tố viên của Mỹ có vị trí vai trò rất quan trọng
trong việc bảo vệ công lý. Công tố viên phải chịu trách nhiệm về toàn bộ quá
trình điều tra và quyết định truy tố hoặc không truy tố người phạm tội ra Tòa.
Về nhiệm vụ buộc tội, quyết định của Công tố viên không thể xem xét lại bởi
thẩm phán hoặc các viên chức tư pháp hình sự nào khác. Trong khi xét xử,
Công tố viên có trách nhiệm đại diện cho Nhà nước tranh luận vụ việc và
chứng minh tội trạng của bị cáo. Nghĩa vụ phải trình toàn bộ chứng cứ để đảm
bảo xu hướng sự thật, đó là xác lập việc có tội hay vô tội phải được đề cao
trong hoạt động nghiệp vụ của Công tố viên.
Hoạt động công tố của Mỹ chỉ diễn ra trong lĩnh vực hình sự. nhiệm
vụ chủ yếu của Công tố viên Mỹ là đưa vụ án ra Tòa, quyền quyết định có
truy tố hoặc không truy tố người phạm tội, khởi tố hoặc không khởi tố vụ án
được gọi là quyền tự quyết của Công tố viên - đây là nét đặc trưng thể hiện
vai trò to lớn của cơ quan công tố Mỹ.


24
Chế định công tố ở các nước theo hệ thống pháp luật châu Âu - lục địa
có phần phức tạp hơn. Công tố viên là những người đại diện cho Nhà nước
hoạt động vì xã hội, không chỉ bảo vệ lợi ích cho Nhà nước mà còn bảo về
quyền và lợi ích cho những người bị hại trong vụ án.
Công tố viên của nước pháp là một ví dụ điển hình của hệ thống pháp
luật này. Hệ thống cơ quan Công tố của Pháp chịu sự lãnh đạo của Bộ trưởng
Bộ Tư pháp. Tuy vậy, theo quy định của pháp luật, các Công tố viên được

đảm bảo hoạt động độc lập, đó là quyền tự do luận tội và quyền tự quýet định
có truy tố hay không. Công tố viên Tòa sơ thẩm có quyền chỉ ra hoạt động
điều tra của nhân viên cảnh sát, có quyền tiến hành khám xét va thu giữ, kiểm
tra nhận dạng và tạm giam. Ngoài ra Công tố viên có quyền tự quyết định số
phận vụ án mà không cần chuyển sang tòa án. Đây là những vụ án mà hành vi
phạm tội không ảnh hưởng lớn đến những giá trị nền tảng của xã hội và nạn
nhân muốn được bồi thường hơn là truy tố.
Trong quá trình xét xử Công tố viên có quyền tranh luận, phát biểu
quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án, đề nghị mức án đối với bị cáo.
Sau cùng cơ quan công tố có trách nhiệm theo dõi việc thi hành án.
Một quốc gia khác mang đậm nét của luật châu Âu - lục địa là Đức: ở
đây cơ quan Công tố một mặt thuộc cơ quan Hành pháp nhưng mặt khác lại
chịu sự quản lý của cơ quan tư pháp. Bộ Tư pháp là cơ quan giám sát cao nhất
của cơ quan công tố, nhưng cơ quan công tố lại nằm trong hệ thống tòa án.
Viện trưởng viện công tố Liên bang do Tổng thống Đức bổ nhiệm và có trách
nhiệm truy tố tất cả các loại tội phạm. Công tố viên tham gia vào quá trình
điều tra với tư cách là người chỉ huy, có quyền khởi tố và kết thúc các thủ tục
ban đầu, có quyền quyết định các biện pháp cường chế cần thiết trong quá
trình điều tra như: Khám xét, tịch thu tài sản, theo dõi điện thoại của người bị
tình nghi… nhưng các quyết định này phải có lệnh của thẩm phán trừ những
trường hợp khẩn cấp. Công tố viên có thể tự tiến hành ngay những biện pháp
cưỡng chế nhưng ngay sau đó phải xin lệnh của Tòa án.


25
Trong giai đoạn xét xử, Công tố viên tham gia phiên tòa có quyền
công bố cáo trạng, tham gia thẩm vấn bị cáo và những người tham gia tố tụng
khác sau khi Tòa án đã thẩm vấn, đề nghị mức án đối với bị cáo. Sau cùng
công tố viên có quyền kháng nghị bản án hoặc quyết định của Tòa án có vi
phạm pháp luật.

Liên bang Nga, Viện kiểm sát nước Cộng hòa Liên bang Nga là một
cơ quan có vị trí độc lập với cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp, được xây
dựng theo nguyên tắc tập trung thống nhất. Viện kiểm sát chỉ phục tùng một
người lãnh đạo duy nhất là Tổng kiểm sát trưởng Liên bang; Tổng kiểm sát
trưởng do Hội đồng Liên bang bổ nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Tổng
thống Liên bang Nga. Dưới quyền Tổng kiểm sát trưởng Liên bang Nga có
các Kiểm sát viên các nước cộng hòa, các vùng, khu vực, thành phố trực thuộc
Liên bang, các vùng tự trị, các khu vực tự trị, các thành phố quận, huyện và
cấp tương đương do Tổng kiểm sát trưởng Liên bang Nga bổ nhiệm và bãi
nhiệm. Mỗi Kiểm sát viên đều có một bộ máy những người dưới quyền…
Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân thủ pháp
luật đối với tất cả các đạo luật; kiểm sát việc chấp hành pháp luật của các Bộ,
các Tổng cục thuộc Liên bang, của các cơ quan lập pháp, hành pháp…;
có nhiệm vụ truy tố kẻ phạm tội trong các vụ án hình sự.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Nga thì hoạt động
tố tụng hình sự được thực hiện theo nguyên tắc tranh tụng. Kiểm sát viên
Viện kiểm sát Liên bang Nga tham gia vào quá trình tố tụng hình sự với tư
cách là bên buộc tội. Khi tham gia vào quá trình giải quyết vụ án, Kiểm sát
viên nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy tố hình sự và kiểm sát việc tuân
thủ pháp luật đối với toàn bộ hoạt động tố tụng của Cơ quan điều tra. Trong
giai đoạn điều tra, Kiểm sát viên thực hiện các yêu cầu của Luật Liên bang
trong việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm; khởi tố vụ án
hình sự; tham gia vào quá trình điều tra. Trong những trường hợp cần thiết,


26
Kiểm sát viên trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra; hủy bỏ các quyết
định không có căn cứ hoặc trái pháp luật của Kiểm sát viên cấp dưới, của Dự
thẩm viên, nhân viên điều tra; ủy quyền cho Cơ quan điều tra ban đầu tiến
hành các hoạt động điều tra; gia hạn thời hạn điều tra; quyết định truy tố và

chuyển vụ án cho Tòa án; tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án…
Trong quá trình xét xử, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố nhà
nước, bảo đảm việc buộc tội có căn cứ và đúng pháp luật. Tòa án chỉ giới hạn
xét xử đối với những nội dung mà Kiểm sát viên truy tố. Viện kiểm sát không
thực hiện việc giám sát hoạt động xét xử của Tòa án.
Trong hoạt động tố tụng hình sự, ngoài sự tham gia của Kiểm sát viên
trong tất cả các vụ án hình sự, thì sự tham gia của các Dự thẩm viên của Viện
kiểm sát trong quá trình giải quyết một số loại án hình sự cụ thể có vai trò rất
quan trọng. Theo quy định của pháp luật, Dự thẩm viên được giao thẩm quyền
điều tra đối với rất nhiều loại tội khác nhau (tất cả các loại tội phạm do một số
chủ thể đặc biệt thực hiện và hơn 80 loại tội khác trong Bộ luật hình sự).
1.2.1.2. Một số mô hình hoạt động của cơ quan công tố (Viện kiểm
sát) ở châu Á
Nhật Bản, là một nước quân chủ lập hiến với lưỡng viện Quốc hội
được bầu cử dân chủ. Đảng Dân chủ Tự do (thực ra là đảng chính trị bảo thủ)
đang có thời gian dài chiếm đa số ghế trong Quốc hội. Tuy nhiên, Nhật Bản
có nhiều đảng đối lập đáng kể, lớn nhất là Đảng Dân chủ, hiện đang nắm số
ghế lớn nhất trong tất cả các đảng đối lập tại Thượng viện.
Các viện công tố nằm dưới sự quản lý của Viện Công tố quốc gia.
Tư tố không tồn tại. Trong khi Bộ trưởng Bộ Tư pháp có trách nhiệm trong
việc giám sát chung đối với Viện Công tố quốc gia, Điều 14 của Luật Viện
Công tố quốc gia lại ngăn chặn sự can thiệp của Bộ trưởng Bộ Tư pháp vào
việc chỉ đạo các vụ án (trừ các cuộc điều tra được chỉ đạo bởi Viện trưởng
Viện Công tố quốc gia).


27
Viện Công tố quốc gia có trách nhiệm toàn bộ đối với quyết định
có truy tố hay không. Theo Điều 248 Bộ luật Tố tụng hình sự, công tố viên
có thể cho rằng việc truy tố không cần thiết trên cơ sở nhân thân và độ tuổi

của bị cáo, tính nguy hiểm của hành động phạm tội và hoàn cảnh tại thời điểm
trước và sau hành động phạm tội. Về quan hệ nội bộ, quyết định truy tố
phải được sự thông qua của hai hoặc ba cán bộ lãnh đạo trực tiếp công tố
viên. Điều này giúp đảm bảo sự chắc chắn trong hành động truy tố.
Sự giám sát, mang tính không bắt buộc, đối với các quyết định không
truy tố có thể được thực hiện bởi một trong các Hội đồng giám sát công tố của
Nhật Bản, mỗi Hội đồng này gồm 11 công dân. Tuy nhiên, sự giám sát này ít
khi đề nghị Công tố viên xem xét lại quyết định của họ.
Ngoài nhiệm vụ truy tố tội phạm, các công tố viên Nhật Bản được
chỉ đạo các hoạt động điều tra ban đầu; hoạt động điều tra độc lập và phối hợp
hoạt động với cảnh sát. Các công tố viên còn chỉ đạo trực tiếp cảnh sát trong
hoạt động điều tra của họ. Các Công tố viên có quyền kháng nghị hình phạt
và sự tha bổng, mặc dù họ hiếm khi sử dụng quyền này.
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, là một nước xã hội chủ nghĩa. Quốc
hội là cơ quan quyền lực cao nhất. Các đại biểu của mỗi cấp Hội đồng nhân
dân được bỏ phiếu bởi cấp thấp hơn. ở cấp thấp nhất, đại biểu được bỏ phiếu
trực tiếp bởi nhân dân. Từ triều đại nhà Thanh đã hình thành Cơ quan công tố
trong Tòa án. Năm 1921 hệ thống công tố độc lập tách rời khỏi Tòa án. Viện
công tố có nhiệm vụ điều tra tội phạm, khởi tố và thực hành quyền công tố, hỗ
trợ tư tố và chỉ đạo thi hành án hình sự. Năm 1927, quy định về Tòa án tối cao
được ban hành; theo đó, các Viện công tố được thành lập gắn với Tòa án như
mô hình của Pháp. Đến năm 1931, Viện công tố được giao thêm nhiệm vụ
giám sát các quan chức nhà nước. Đây là sự kết hợp giữa truyền thống luật
Châu Âu lục địa và truyền thống luật Trung Quốc. Ngày 01 tháng 10 năm
1949, Nhà nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thành lập dưới sự lãnh

×