Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Quyền của phụ nữ theo pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 115 trang )

1

2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGUYỄN THỊ MAI HIÊN







QUYỀN CỦA PHỤ NỮ THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC











HÀ NỘI - 2008

2

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 6

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA PHỤ
NỮ Ở VIỆT NAM
11
1.1.
Quyền của phụ nữ và pháp luật về quyền của phụ nữ ở Việt
Nam
11
1.1.1.
Khái niệm quyền của phụ nữ
11
1.1.2.
Pháp luật về quyền của phụ nữ ở Việt Nam
13
1.1.3.
Vai trò của pháp luật trong việc ghi nhận quyền của phụ nữ
15
1.2.


Các quyền của phụ nữ theo quy định của pháp luật quốc tế và
Việt Nam
16
1.3.
Quá trình hình thành, phát triển quyền của phụ nữ và các quy
định pháp luật về quyền của phụ nữ ở Việt Nam và các tiêu chí
để đánh giá chúng
27
1.3.1.
Quá trình hình thành, phát triển quyền của phụ nữ và các quy
định pháp luật về quyền của phụ nữ ở Việt Nam
27
1.3.2.
Các tiêu chí để đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về
quyền của phụ nữ ở Việt Nam
38

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI
HÀNH PHÁP LUẬT VỀ CÁC QUYỀN CỦA PHỤ NỮ
Ở VIỆT NAM
47
2.1.
Trong lĩnh vực chính trị
48
2.2.
Trong lĩnh vực kinh tế, lao động
58
2.3.
Trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ, văn hoá

thông tin và thể thao
71
2.4.
Trong lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khoẻ gia đình
81

Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ QUYỀN CỦA PHỤ NỮ Ở VIỆT NAM
90

3
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1.
Phương hướng hoàn thiện pháp luật về quyền của phụ nữ ở Việt
Nam
90
3.2.
Những giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về
quyền của phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
92
3.3.
Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
quyền của phụ nữ ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay
97

KẾT LUẬN
104

DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
107


















4
DANH MỤC BẢNG BIỂU

LOẠI
TÊN
TRANG
BẢNG


2.1
Tỷ lệ đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp các nhiệm
kỳ từ 1985 - 2009
54

2.2
Thu nhập thực tế hàng tháng của lao động nữ ở các
doanh nghiệp ngoài nhà nước
67
2.3
Số vụ và bị cáo bị đưa ra xét xử về tội hiếp dâm,
hiếp dâm trẻ em

85
BIỂU ĐỒ


2.1
Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội trong các nhiệm kỳ từ
1976 - 2007
53
2.2
Tỷ lệ phụ nữ và nam giới trong các cấp uỷ Đảng
nhiệm kỳ 2001 – 2006

55
PHỤ LỤC


2.1
Tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân dân 3 cấp nhiệm kỳ
2004 – 2009 ở 17 tỉnh, thành phố trên toàn quốc
106




5
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Đất nước Việt Nam sau 20 năm đổi mới cùng với những thành tựu to lớn
về kinh tế, chính trị – xã hội thì những thành tựu về bình đẳng giới và tiến bộ
của phụ nữ cũng rất đáng được trân trọng. Một minh chứng cho sự thay đổi này
là tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khoá XI chiếm tỷ lệ 27,31% đã đưa Việt Nam dẫn
đầu các nước Châu á về tỷ lệ nữ trong Quốc hội. Kết quả trên đánh dấu sự quyết
tâm của Đảng và Nhà nước trong việc bảo vệ quyền của phụ nữ và mục tiêu vì
sự bình đẳng giới ở Việt Nam. Những thành tựu đó là kết quả trực tiếp, tất yếu
từ sự tăng cường lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động phụ nữ, từ hệ
thống pháp luật, chính sách của Đảng, Nhà nước về bình đẳng giới ngày càng
được hoàn thiện, từ tinh thần vượt khó, phát huy nội lực phấn đấu vươn lên của
các tầng lớp phụ nữ.
Ghi nhận những đóng góp của phụ nữ trong sự nghiệp xây dựng và phát
triển đất nước, Nhà nước Việt Nam đánh giá cao những cống hiến này. Ở Việt
Nam việc bảo vệ quyền của phụ nữ không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước, mà
còn là trách nhiệm của toàn xã hội, của mỗi gia đình và của từng công dân. Ngay
từ Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp đầu tiên của nhà nước Việt Nam độc lập đã
thể hiện tính dân chủ, không phân biệt giống nòi, gái, trai, giai cấp, tôn giáo.
Nguyên tắc bình đẳng đã được nhắc đến hai lần trong Điều 6, Điều 7 và đặc biệt
là Điều 9 đã ghi nhận: “đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”.
Cho đến nay, quyền của phụ nữ đã được pháp luật ghi nhận và chiếm một vị trí
đáng kể trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Ở hầu hết các ngành luật của Việt
Nam như: Luật Hiến pháp, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Lao động, Luật
Hình sự, Luật Tố tụng hình sự… đều đã ghi nhận và bảo vệ các quyền của phụ
nữ. Đặc biệt vào ngày 29/7/1980 Việt Nam đã quyết định gia nhập Công ước
quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (gọi là công ước
CEDAW) và có hiệu lực chính thức ở Việt Nam vào ngày 09/03/1982.

Bên cạnh những kết quả đạt được thì quyền của phụ nữ ở Việt Nam còn
nhiều vấn đề cần quan tâm, giải quyết. Trên thực tế không thể phủ nhận rằng,

6
khoảng cách giới, sự phân biệt đối xử về giới hay nói cách khác là sự phân biệt
đối xử với phụ nữ vẫn còn tồn tại trong đời sống xã hội. Những khoảng cách hay
sự phân biệt đối xử đó có nguyên nhân từ tư tưởng định kiến giới, coi trọng nam
giới hơn phụ nữ; từ nhận thức về vai trò, vị trí của người phụ nữ trong xã hội
chưa sâu sắc, toàn diện, còn cào bằng và chưa xuất phát trên quan điểm bình
đẳng giới. Vì vậy, để tiếp tục sự nghiệp vì sự tiến bộ của phụ nữ và đảm bảo tốt
nhất quyền của phụ nữ trong việc tham gia vào công tác chính trị, quản lý nhà
nước - xã hội, lao động việc làm… Đảng và Nhà nước cần có những giải pháp
hữu hiệu hơn nữa để giảm bớt, đi đến xoá bỏ sự bất bình đẳng giới ở nước ta
hiện nay. Do đó, hoàn thiện pháp luật về quyền của phụ nữ và đảm bảo quyền đó
được thực hiện trên thực tiễn được coi là xu hướng tất yếu, là việc làm cần thiết
cả về lý luận lẫn thực tiễn của Việt Nam hiện nay.
Để góp phần nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng và
hoàn thiện cơ sở pháp lý của quyền phụ nữ, tôi đã chọn đề tài: “Quyền của phụ
nữ theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài luận văn Thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến thời điểm hiện nay, vấn đề nghiên cứu pháp luật về quyền của
phụ nữ đã được các nhà nghiên cứu, các chuyên gia đề cập đến ở các góc độ
khác nhau. Có rất nhiều chương trình, dự án cũng như các đề tài khoa học viết
về phụ nữ hoặc bình đẳng giới. Đặc biệt trước khi xây dựng và ban hành Luật
Bình đẳng giới, các tổ chức cá nhân của các cơ quan như Hội Liên hiệp phụ nữ
Việt Nam, Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ, các trường đào tạo đã có
nhiều bài viết, hội thảo chuyên đề về quyền của phụ nữ và bình đẳng giới. Các
bài viết, tham luận tại các hội thảo chuyên đề cũng đã trực tiếp hoặc gián tiếp đề
cập đến quyền của phụ nữ ở từng lĩnh vực hoặc đưa ra những giải pháp về khía
cạnh pháp luật để thực thi các quyền này của phụ nữ. Ở tầm vĩ mô, thời gian qua

Việt Nam cũng đã có nhiều chương trình, dự án tài trợ cho hoạt động nghiên cứu
và phân tích chính sách về quyền của phụ nữ. Chẳng hạn, Hội Liên hiệp phụ nữ
Việt Nam có dự án “Hỗ trợ xây dựng Luật bình đẳng giới và văn bản hướng dẫn
thi hành” do Đại sứ quán Phần Lan tài trợ hay dự án “Tăng cường khả năng tư

7
vấn cấp Bộ” do Thuỵ Điển tài trợ cho Ban vì sự tiến bộ phụ nữ Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn… được đánh giá là các chương trình, đề tài lớn nghiên
cứu mang tính khái quát, tổng hợp nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề quyền phụ
nữ.
Ngoài ra còn rất nhiều ấn phẩm, tác phẩm của các nhà nghiên cứu, các
chuyên gia viết về đề tài này như các bài viết: “Hoàn thiện pháp luật về lao động
nữ ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Dương Thị Ngọc Lan; “Bảo hiểm xã hội
đối với lao động nữ - cụ thể công ước CEDAW khi dự thảo Luật Bảo hiểm xã
hội” của tác giả Nguyễn Kim Phượng; “Bảo vệ quyền phụ nữ và trẻ em trong
pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam” của tác giả Nguyễn Hồng Bắc; “Bảo
vệ quyền phụ nữ theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam” của tác giả Bùi Thị
Mừng. Gần đây nhất phải kể đến đề tài “Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền
của phụ nữ trong một số lĩnh vực ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Mai Thị
Diệu Thuý và một số bài viết đăng trên Tạp chí Luật học như “Pháp luật Việt
Nam với việc thực hiện Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với
phụ nữ” số tháng 3 năm 2006. Trong các công trình của mình, mỗi tác giả đều
có những phân tích, nhận định vấn đề quyền của phụ nữ ở những khía cạnh khác
nhau nhưng chưa khái quát được dưới góc độ chung nhất các vấn đề về quyền
của phụ nữ và pháp luật về quyền của phụ nữ. Do vậy, vấn đề quyền của phụ nữ
ở Việt Nam vẫn cần tiếp tục được nghiên cứu nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống
pháp luật cũng như quá trình thực hiện có hiệu quả quyền của phụ nữ Việt Nam
trên thực tế.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là góp phần làm rõ hơn một số vấn

đề lý luận về quyền phụ nữ và pháp luật về quyền phụ nữ, đánh giá một cách có
hệ thống và tương đối toàn diện về quyền của phụ nữ theo pháp luật Việt Nam,
từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về các quyền của
phụ nữ nhằm bảo đảm sự bình đẳng giới ở Việt Nam.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau đây:

8
- Làm sáng tỏ các quy định của pháp luật về quyền của phụ nữ ở Việt
Nam.
- Đánh giá các quy định pháp luật về quyền của phụ nữ trên những tiêu
chí nhất định và quá trình thực hiện chúng trên thực tế để làm sáng tỏ nội dung
cũng như chỉ ra những hạn chế, những điểm bất hợp lý trong các quy định của
pháp luật và việc thực hiện chúng trên thực tế.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
và nâng cao hiệu quả thực hiện các quyền của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về quyền của phụ
nữ, pháp luật về quyền của phụ nữ và thực tiễn thực hiện các quyền đó trên thực
tế ở Việt Nam từ đó đề ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về quyền của phụ nữ trong giai đoạn hiện nay.
Về phạm vi nghiên cứu, luận văn tập tập trung nghiên cứu những vấn đề
sau:
- Một số vấn đề lý luận về quyền của phụ nữ và pháp luật về quyền của
phụ nữ ở Việt Nam;
- Phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật Việt Nam về quyền
phụ nữ trong một số lĩnh vực pháp luật cụ thể như: lĩnh vực chính trị, lĩnh vực
kinh tế, lao động, lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ, văn hoá,
thông tin và thể thao và lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khoẻ gia đình.
- Phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện các quyền đó trên thực tế ở Việt
Nam hiện nay;

- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật về quyền của phụ nữ ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở các quan điểm của Chủ nghĩa Mác –
Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước
Việt Nam về quyền con người nói chung, quyền phụ nữ nói riêng vì sự tiến bộ
của phụ nữ và mục tiêu bình đẳng giới cao cả.

9
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã áp dụng một số phương pháp cụ
thể như: Phương pháp phân tích để làm sáng tỏ những nội dung thuộc phạm vi
nghiên cứu; phương pháp so sánh được sử dụng để làm rõ mức độ tương quan
giữa những quy định của pháp luật quốc tế với pháp luật Việt nam và đặc biệt là
thông qua phương pháp này để có được những đánh giá khách quan giữa quy
định của pháp luật với thực tiễn thực hiện các quy định ấy; phương pháp tổng
hợp và thống kê được sử dụng để khái quát hoá nội dung nghiên cứu một cách
hệ thống, làm cho vấn đề nghiên cứu trở nên ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu. Đồng
thời phương pháp này được dùng để thu thập và cung cấp một số số liệu liên
quan đến việc thực thi quyền của phụ nữ trên thực tiễn; phương pháp xã hội học
được dùng để đánh giá, phân tích những điều kiện kinh tế, chính trị xã hội với
việc thực hiện quyền của phụ nữ ở Việt Nam
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
- Phân tích làm rõ hơn khái niệm về quyền của phụ nữ và pháp luật về
quyền của phụ nữ ở Việt Nam.
- Đánh giá một cách khái quát những thành tựu, cũng như những hạn chế,
bất cập của các quy định pháp luật và quá trình thực hiện pháp luật về các quyền
của phụ nữ ở Việt Nam. Phân tích những nguyên nhân, điều kiện làm cản trở
việc thực hiện các quyền của phụ nữ ở nước ta.
- Đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện một số các quy định pháp luật về
quyền của phụ nữ ở Việt Nam.

- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thực hiện
pháp luật về quyền của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận mục lục và danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn gồm 3 chương
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về quyền của phụ nữ ở Việt Nam
Chương 2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về các
quyền của phụ nữ ở Việt Nam

10
Chương 3. Những giải pháp cơ bản hoàn thiện pháp luật về quyền của phụ
nữ ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA PHỤ NỮ Ở VIỆT NAM
1.1. Quyền của phụ nữ và pháp luật về quyền của phụ nữ ở Việt Nam
1.1.1. Khái niệm quyền của phụ nữ
Theo cách hiểu thông thường thì quyền là “điều mà pháp luật hoặc xã hội
công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi” [72, tr.786]. Hiện nay
trong khoa học luật khái niệm quyền của phụ nữ hiện chưa có một cách hiểu
thống nhất và chính thống. Còn rất nhiều ý kiến xung quanh khái niệm này
nhưng các nhà khoa học cũng như những nhà làm công tác thực tiễn đều thống
nhất rằng quyền của phụ nữ không thể tách rời quyền con người. Khái niệm
quyền con người từ lâu đã được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu cũng như
trong đời sống xã hội. Có nhiều trường phái nghiên cứu khi tiếp cận khái niệm
quyền con người. Chẳng hạn, trường phái pháp luật tự nhiên thì cho rằng quyền
con người là đặc quyền tự nhiên, khẳng định quyền con người là tự nhiên, vốn
có, nhằm đối lập, phủ nhận quyền con người do vương quyền và thần quyền ban
phát, tặng cho. Trường phái thứ hai lại cho rằng, con người cũng như quyền con

người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội. Họ quan niệm: Quyền con người
không phải là một khái niệm trừu tượng, cũng không chỉ là quyền cá nhân con
người mang tính tự nhiên, bẩm sinh mà luôn gắn liền với cuộc đấu tranh chống
áp bức bóc lột, chống bất công trong xã hội, chịu sự giới hạn của chế độ kinh tế,
đặc biệt là chế độ chính trị – nhà nước [53, tr.15]. Khái niệm quyền con người
vẫn còn tiếp tục được nghiên cứu và tranh luận nhưng qua nghiên cứu ý kiến của
các nhà khoa học, chúng tôi nhất trí với cách hiểu sau về quyền con người:
“Quyền con người là những đặc quyền (quyền tự nhiên) của con người được
pháp luật công nhận, điều chỉnh do cá nhân con người nắm giữ trong mối quan
hệ với nhà nước và với những cá nhân con người khác” [79, tr.16]. Làm sáng tỏ

11
thuộc tính của quyền con người sẽ giúp hiểu rõ bản chất của quyền của phụ nữ,
vì quyền của phụ nữ là một bộ phận của quyền con người nhưng có những thuộc
tính đặc biệt do liên quan đến phụ nữ. Thuộc tính cơ bản của quyền con người là
bao gồm những giá trị gắn với mỗi con người, vừa với tư cách là cá nhân, vừa
với tư cách là thành viên xã hội. Giá trị đó phải được xã hội hoá bằng cách thể
chế hoá thành các quyền năng cụ thể, có tính phổ cập, cần thiết cho mọi người.
Quyền con người vừa là thuộc tính tự nhiên của con người, vừa là giá trị nảy
sinh trong đời sống cộng đồng, gắn liền với một nhà nước cụ thể, với một chế độ
chính trị, pháp luật cụ thể. Dựa trên những tiêu chí khác nhau có thể có nhiều
cách phân loại nội dung quyền con người. Theo cách tiếp cận quyền con người
của khoa học pháp lý thì quyền con người được chia thành những nhóm chính
sau:
+ Các quyền tự do dân chủ về chính trị bao gồm: Quyền tham gia quản lý
nhà nước và xã hội; quyền bầu cử, ứng cử, quyền bình đẳng nam nữ, quyền tự
do tín ngưỡng, quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí…
+ Các quyền dân sự (quyền tự do cá nhân) bao gồm: Quyền tự do đi lại cư
trú trong nước, quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước; quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, quyền được an toàn về thư tín, điện thoại, quyền khiếu

nại, tố cáo…
+ Các quyền trong lĩnh vực kinh tế – xã hội bao gồm: Quyền lao động,
quyền tự do kinh doanh, quyền được bảo hộ hôn nhân và gia đình, quyền sở hữu
hợp pháp và quyền thừa kế, được bảo vệ sức khoẻ, quyền được giáo dục đào
tạo, quyền nghiên cứu, phát minh… và một số quyền mang tính chất ưu tiên như
quyền trẻ em, quyền người già, người cô đơn không nơi nương tựa.
Trên cơ sở nghiên cứu khái niệm quyền con người, chúng ta nhận thấy
mối quan hệ tất yếu giữa việc nghiên cứu quyền con người với quyền của phụ
nữ. Hiện nay cũng chưa có một định nghĩa nào nói đến quyền của phụ nữ mặc
dù ở Việt Nam Luật Bình đẳng giới đã được Quốc hội khoá XI thông qua và có
hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2007. Luật Bình đẳng giới không chỉ ra thế nào
là quyền của phụ nữ mà đưa ra những nguyên tắc và biện pháp để thực hiện bình

12
đẳng giới ở Việt Nam. Mục đích của cuộc đấu tranh cho bình đẳng giới cũng là
cuộc đấu tranh cho quyền của phụ nữ trên thực tế.
Xuất phát từ mối quan hệ giữa quyền con người với quyền của phụ nữ và
đặc điểm riêng của quyền phụ nữ ta có thể đưa ra khái niệm quyền của phụ nữ
như sau: Quyền của phụ nữ là quyền con người của phụ nữ. Quyền của phụ nữ
là những đặc quyền được pháp luật công nhận, điều chỉnh, hay nói cách khác,
phụ nữ có quyền quyết định những gì thuộc về họ và pháp luật bảo vệ những
quyền đó. Khi tiếp cận khái niệm quyền của phụ nữ, quyền con người được hiểu
theo nghĩa xác định hơn, nó phản ánh những quyền cụ thể của một đối tượng cụ
thể. Quyền của phụ nữ được quy định trong pháp luật luôn có sự xem xét những
yếu tố về tâm sinh lý của giới nữ, quan điểm về thuần phong mỹ tục, về văn hoá
của một dân tộc để xây dựng nên một khung quy tắc về hành vi ứng xử quan hệ
giao tiếp giữa người nam và nữ, sao cho vừa thể hiện lối sống bình đẳng văn
minh đồng thời vẫn giữ được nét đẹp truyền thống, tránh xảy ra sự xung đột và
biến đổi xã hội gay gắt. Do đó quyền của phụ nữ không chỉ được hiểu đơn thuần
như quyền con người nhưng cũng không thể tách rời quyền con người.

Xuất phát từ thực tế thực hiện các quyền của phụ nữ hiện nay mà cuộc
đấu tranh cho quyền con người nói chung còn nhiều khó khăn, đòi hỏi phải có
sự phát huy sức mạnh và sự phối hợp trách nhiệm của cả cộng đồng. Đã có
nhiều văn kiện quốc tế về quyền con người nhưng quyền của phụ nữ vẫn là mục
tiêu phấn đấu của không chỉ mỗi quốc gia mà còn của cả nhân loại. Mỗi quốc
gia sẽ xây dựng những quy phạm pháp luật riêng để bảo vệ quyền cho phụ nữ.
Có như vậy người phụ nữ mới thực sự được bình đẳng, được bảo vệ và có điều
kiện phát triển.
1.1.2. Pháp luật về quyền của phụ nữ ở Việt Nam
“Quyền con người không phải là một nhân tố đầu tiên có trước Nhà nước
mà phải bằng pháp luật Nhà nước ghi nhận và thiết định mới trở thành hiện
thực” [79, tr.18]. Như vậy, quyền con người nói chung và quyền của phụ nữ nói
riêng một mặt mang tính chất tự nhiên (quyền tự nhiên), người ta sinh ra đã có
các quyền đó, nhà nước không thể không ghi nhận nhưng mặt khác khi chưa

13
được nhà nước, pháp luật ghi nhận thì “các quyền tự nhiên” chưa có điều kiện
trở thành hiện thực. Hay nói cách khác, chỉ có pháp luật mới là công cụ hữu hiệu
để bảo vệ quyền con người, quyền của phụ nữ. Pháp luật phải ghi nhận các
quyền của phụ nữ và đảm bảo thực hiện các quyền đó trên thực tế. Ngay tại
Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hiệp Quốc được thông qua ngày 10 tháng 12
năm 1948 cũng đã xác định nguyên tắc có tính chất khái quát về nhân quyền như
sau: Tất cả mọi người đều có những quyền bình đẳng và không thể chuyển
nhượng. Đó là nền tảng của tự do và chân lý trên thế giới. Và các quyền con
người phải được bảo vệ bằng chế độ pháp luật [52, tr.105].
Có nhiều phương thức để bảo vệ quyền của phụ nữ nhưng pháp luật là
phương thức quan trọng nhất và không thể thiếu. Để bảo vệ quyền con người nói
chung và quyền của phụ nữ nói riêng trước hết được hiểu là sự ghi nhận các
quyền đó bằng pháp luật và bảo đảm thực hiện bằng pháp luật. Hơn nữa, xuất
phát từ đặc điểm riêng của phụ nữ nên quyền của phụ nữ phải được xem xét và

ghi nhận trên cơ sở những yếu tố đặc thù về giới và nguyên tắc bình đẳng giới.
Nhận thức được tầm quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người nói
chung và quyền của phụ nữ nói riêng, ngay từ khi thành lập nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà, nhà nước Việt Nam đã quan tâm đến việc ghi nhận quyền của phụ
nữ. Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng quyền con người, quyền của phụ nữ và
coi đó là một trong những nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước.
Ngay trong tuyên ngôn khai sinh ra nước Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khẳng
định: Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống,
quyền được tự do và quyền được mưu cầu hạnh phúc [80]. Thấm nhuần tư tưởng
nhân quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hiến pháp đầu tiên năm 1946 cho đến
Hiến pháp năm 1992 hiện hành đều thể hiện tư tưởng xuyên suốt là đề cao các
quyền con người, quyền của phụ nữ. Ngay sau khi đất nước dành được độc lập,
trong Hiến pháp năm 1946 đã khẳng định một cách rõ ràng: “Nước Việt Nam là
một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân
dân Việt Nam không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn

14
giáo” [18, tr. 8]. Trên cơ sở những quy định của Hiến pháp, các bộ luật, luật và
những văn bản hướng dẫn thi hành của Việt Nam đã và đang xác định nhiệm vụ
trọng tâm là ghi nhận và bảo vệ quyền của phụ nữ. Tuỳ vào những lĩnh vực bảo
vệ cụ thể mà quyền của phụ nữ được ghi nhận ở những văn bản pháp luật khác
nhau. Chẳng hạn Bộ luật lao động thì bảo vệ quyền phụ nữ trong lĩnh vực lao
động và việc làm, Luật Hôn nhân và gia đình lại ghi nhận và bảo vệ nguyên tắc
nam, nữ bình đẳng trong hôn nhân gia đình, Luật Giáo dục lại tạo điều kiện để
phụ nữ được học tập và phát huy sự sáng tạo… hoặc cùng một vấn đề nhưng ở
những khía cạnh khác nhau, quyền của phụ nữ được pháp luật ghi nhận trong
các văn bản pháp lý khác nhau. Gần đây nhất Quốc hội khoá XI đã thông qua
Luật Bình đẳng giới và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2007 là cơ sở pháp lý
quan trọng của cuộc đấu tranh cho quyền phụ nữ và mục tiêu bình đẳng giới.

Luật Bình đẳng giới đã thể chế hoá quan điểm của Đảng nhất là Nghị quyết Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X và tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ
và phát huy nguồn lực con người, tạo cơ hội và điều kiện cho cả nam và nữ cùng
tham gia đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước và hưởng lợi từ các
thành quả của sự phát triển. Phấn đấu bình đẳng giới không chỉ đảm bảo mục
tiêu phát triển hài hoà mà là công cụ hữu hiệu nhất để bảo vệ quyền của phụ nữ.
Đạo luật này đã đưa ra một số quy định mới mà các quy phạm pháp luật hiện
hành chưa điều chỉnh, đòi hỏi các văn bản pháp luật hiện hành phải bổ sung,
hoàn thiện để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật và đảm
bảo cho Luật Bình đẳng giới được thi hành trong thực tiễn.
1.1.3. Vai trò của pháp luật trong việc ghi nhận quyền của phụ nữ
Việc ghi nhận quyền của phụ nữ là vấn đề rất quan trọng trong thực tiễn
cũng như trong lý luận. Đặc biệt việc ghi nhận quyền này bằng các quy định
pháp luật thì càng có vai trò to lớn. Việc ghi nhận quyền của phụ nữ trong các
văn bản pháp luật như là minh chứng về sự nỗ lực và bước tiến lớn của Việt nam
trong quá trình đấu tranh cho bình đẳng giới và đảm bảo quyền cho phụ nữ.
Pháp luật ghi nhận quyền của phụ nữ và pháp luật cũng là phương tiện
đảm bảo cho những quyền đó được thực thi trong thực tiễn. Đảm bảo bằng pháp

15
luật là một trong những điều kiện quan trọng nhất để quyền con người nói chung
và quyền của phụ nữ nói riêng được thực hiện. Điều này được lý giải từ chính
những đặc trưng của pháp luật. Pháp luật là những quy tắc xử sự chung, có tính
bắt buộc, do nhà nước ban hành và được đảm bảo thực hiện bởi sức mạnh của
nhà nước. Với đặc trưng này việc ghi nhận các quyền của phụ nữ sẽ có cơ sở để
đảm bảo thực hiện. Pháp luật ghi nhận các quyền của phụ nữ và pháp luật cũng
ghi nhận các chế tài để ngăn chặn các hành vi vi phạm của bất kỳ chủ thể nào tới
các quyền đó.
Việc ghi nhận quyền của phụ nữ là cơ sở quan trọng cho quá trình đấu
tranh vì sự nghiệp bình đẳng giới ở Việt Nam. Việc Quốc hội Việt Nam thông

qua Luật Bình đẳng giới được đánh giá là văn bản pháp lý ghi nhận đầy đủ và
toàn diện nhất các quyền của phụ nữ ở Việt Nam từ trước tới nay. Luật Bình
đẳng giới là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ và đấu tranh cho mục tiêu phát
triển và bình đẳng giới ở nước ta. Đồng thời việc ghi nhận những quyền này
cũng là một phương thức giáo dục, tuyên truyền về quyền của phụ nữ để mọi
người tôn trọng và thực hiện đầy đủ, chính xác hơn. Thực tiễn trong thời gian
qua đã chứng minh bằng việc ghi nhận các quyền của phụ nữ trong pháp luật đã
là cơ sở thúc đẩy cho nhiệm vụ giải phóng phụ nữ và các chỉ tiêu phát triển phụ
nữ được nâng cao. Chẳng hạn, tỷ lệ phụ nữ tham gia hoạt động kinh tế đạt mức
cao của thế giới là 83%. Chỉ số bình đẳng giới (GDI) liên tục tăng cao và nhanh
hơn chỉ số kinh tế. Trong nhiều báo cáo của Hội Liên hiệp phụ nữ và Uỷ ban vì
sự tiến bộ phụ nữ thì chỉ tiêu phát triển phụ nữ không ngừng được nâng cao. Từ
những phân tích trên cho thấy pháp luật luôn là công cụ hữu hiệu để ghi nhận,
củng cố, bảo vệ và hiện thực hóa quyền phụ nữ. Vì vậy, đòi hỏi Nhà nước Việt
Nam cần không ngừng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ,
thống nhất và toàn diện để ghi nhận, củng cố, bảo vệ và hiện thực hóa các quyền
của phụ nữ ở Việt Nam.
1.2. Các quyền của phụ nữ theo quy định của pháp luật quốc tế và
Việt Nam

16
Ghi nhận và bảo vệ quyền của phụ nữ không chỉ là vấn đề riêng của mỗi
quốc gia mà nó là vấn đề chung của toàn nhân loại. Mục tiêu xây dựng một xã
hội hoà bình, ổn định, dân chủ và bình đẳng là mục đích cao cả mà tất cả các
quốc gia đều hướng tới. Tuy nhiên thực tế xã hội từ trước đến nay luôn tồn tại sự
bất bình đẳng như bất bình đẳng về chủng tộc, giai cấp và giới. Phụ nữ chiếm
hơn một nửa nhân loại, là lực lượng lao động quan trọng của xã hội nhưng thực
tế chưa được đối xử một cách xứng đáng. Quyền của phụ nữ bị vi phạm do sự
phân biệt đối xử với phụ nữ diễn ra ở khắp nơi trên thế giới cho nên vấn đề cốt
lõi trong việc bảo đảm các quyền của phụ nữ là đảm bảo quyền bình đẳng nam,

nữ. Để đấu tranh cho mục tiêu bình đẳng nam, nữ, từ đầu thế kỷ XX cho đến nay
đã có rất nhiều văn bản pháp luật quốc tế ghi nhận và bảo vệ quyền của phụ nữ
trên tất cả các lĩnh vực đời sống. Ngay trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc tại
Điều 1 đã ghi nhận: “…Khuyến khích phát triển sự tôn trọng các quyền con
người và các quyền tự do cơ bản của tất cả mọi người, không phân biệt chủng
tộc, nam nữ, ngôn ngữ và tôn giáo” [12]. Và điều này tiếp tục được khẳng định
trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948: Mọi người đều được hưởng
các quyền tự do nêu trong bản tuyên ngôn này, không có bất kỳ sự phân biệt đối
xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, tôn giáo, chính kiến hay quan điểm khác,
nguồn gốc dân tộc hay xã hội, giống nòi hay các tình trạng khác. Những khẳng
định này tiếp tục được cụ thể hoá tại một số văn kiện quốc tế khác. Chẳng hạn,
Công ước về trấn áp việc buôn người và bóc lột mại dâm người khác được Liên
Hiệp Quốc ban hành năm 1949. Công ước có nội dung nhằm hạn chế và xoá bỏ
một trong những hình thức xâm hại phụ nữ tồi tệ nhất là buôn bán và bóc lột
tình dục phụ nữ. Các quyền về chính trị của phụ nữ như quyền được bầu cử, ứng
cử, quyền được nhận vào làm việc trong các cơ quan nhà nước được thể hiện
trong Công ước về các quyền chính trị được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông
qua năm 1952. Công ước về quốc tịch và phụ nữ khi kết hôn được thông qua
năm 1957. Công ước ra đời nhằm mục đích bảo vệ quyền có quốc tịch hoặc
quyền thay đổi quốc tịch của người phụ nữ khi kết hôn hay ly hôn với chồng là
người nước ngoài. Công ước về các quyền dân sự – chính trị năm 1966. Công

17
ước ghi nhận toàn bộ nội dung các quyền dân sự – chính trị ở phần III cụ thể là:
quyền sống, quyền không bị tra tấn, đối xử tàn nhẫn vô nhân đạo, không bị bắt
và giam giữ vô cớ, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền bầu cử… Các quốc
gia thành viên của Công ước cam kết đảm bảo quyền bình đẳng nam nữ trong
việc thực hiện tất cả các quyền dân sự và chính trị mà Công ước đã đề ra.
Mặc dù đã có nhiều văn kiện quốc tế ghi nhận và bảo vệ quyền của phụ
nữ song thực tế trên thế giới vẫn tồn tại sự phân biệt đối xử với phụ nữ và diễn

ra khá phổ biến. Theo thống kê của nhiều quốc gia, phụ nữ thường chiếm đa số
trong diện những người nghèo khổ, mù chữ, thất học, có thu nhập thấp của thể
giới. Nói cách khác, phụ nữ luôn bị hạn chế trong việc tham gia vào các hoạt
động xã hội và không được đánh giá đúng với những đóng góp công sức cho lao
động gia đình. Hơn nữa những công ước quốc tế trên mới chỉ dừng lại ở việc ghi
nhận quyền của phụ nữ ở những khía cạnh riêng lẻ trong tổng thể các quyền của
phụ nữ vốn tồn tại là một thể thống nhất, do đó cần phải có một văn bản đề cập
đến quyền con người của phụ nữ một cách toàn diện và đề ra được các biện pháp
cụ thể nhằm khắc phục những cản trở trong việc thực hiện các quyền của phụ
nữ. Mục tiêu xây dựng công ước này một mặt sẽ đặt ra các hình thức ràng buộc
pháp lý có tính chất quốc tế đối với các quốc gia đã chấp nhận những nguyên tắc
về quyền của phụ nữ tại các văn kiện pháp lý quốc tế liên quan, mặt khác góp
phần phát triển và hoàn thiện khung pháp luật quốc tế để từ đó có cơ sở cho việc
bảo đảm và hiện thực hoá các quyền của phụ nữ trên thực tế ở từng quốc gia.
Từ những lý do trên, Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt
đối xử với phụ nữ (CEDAW) - International Convention on the Elimination of
All Forms of Discrimination against Women đã được Liên Hiệp Quốc thông qua
ngày 18/12/1979 và có hiệu lực từ ngày 3/9/1981. Tính đến tháng 11 năm 2006
đã có 185 nước – hơn 90% số nước thành viên Liên Hợp Quốc là quốc gia thành
viên của Công ước. Việt Nam ký CEDAW ngày 29/7/1980 và phê chuẩn ngày
17/2/1982. CEDAW có hiệu lực ở Việt Nam từ ngày 19/3/1982.
Công ước CEDAW là một công ước đa phương phổ biến trong hệ thống
các công ước quốc tế về quyền con người của Liên Hiệp Quốc mà cụ thể là

18
quyền con người của phụ nữ. CEDAW trở thành cơ sở pháp lý quốc tế quan
trọng cho những cố gắng của cộng đồng quốc tế trong việc bảo vệ và phát triển
quyền con người cơ bản của phụ nữ trên phạm vi toàn thế giới.
Công ước CEDAW bao gồm lời nói đầu và 30 điều quy định cách thức,
biện pháp nhằm loại trừ mọi sự phân biệt đối xử với phụ nữ trong thụ hưởng các

quyền con người cơ bản đã được xác định bởi các điều ước quốc tế về nhân
quyền khác. CEDAW cũng chỉ ra những lĩnh vực cụ thể hiện đang tồn tại sự
phân biệt đối xử với phụ nữ một cách nặng nề để từ đó xác định những biện
pháp thích hợp nhằm loại bỏ hoàn toàn tình trạng bất bình đẳng của phụ nữ
trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Bên cạnh công ước ngày 6/10/1999 Đại
hội đồng Liên Hiệp Quốc đã thông qua Nghị định thư không bắt buộc bổ sung
cho CEDAW và có hiệu lực từ ngày 22/12/2000. Nghị định thư một mặt tạo cho
phụ nữ quyền được gửi đơn khiếu nại cá nhân tới Uỷ ban CEDAW về tất cả các
vi phạm của Chính phủ nước họ và mặt khác tạo điều kiện cho Uỷ ban CEDAW
tiến hành những cuộc điều tra về các lạm dụng mà phụ nữ là nạn nhân ở những
nước đã phê chuẩn Nghị định thư. Tính đến tháng 11 năm 2006 đã có 83 nước là
quốc gia thành viên của Nghị định thư.
Phương pháp tiếp cận của CEDAW là quan tâm đến sự khác biệt về giới
và giới tính giữa nam và nữ, đồng thời cũng xác định một trong những nguyên
nhân sâu xa dẫn tới sự bất bình đẳng nam, nữ là sự tác động của phong tục tập
quán. Công ước không chỉ xác định những biện pháp chung, áp dụng cho cả
nam và nữ mà còn xây dựng những quy phạm pháp lý riêng, có tính chất ưu tiên
chỉ áp dụng cho phụ nữ nhằm đạt được mục tiêu đảm bảo quyền bình đẳng cho
phụ nữ trong việc ghi nhận quyền cũng như thực tế thụ hưởng những quyền này
(Điều 4, CEDAW) [5, tr. 9]. Đồng thời công ước cũng chỉ ra rằng các quốc gia
trong quá trình đấu tranh cho bình đẳng giới thì yêu cầu quan trọng đầu tiên là
đổi mới tư duy nhận thức về bình đẳng nam nữ trong gia đình và ngoài xã hội.
Đó là biện pháp liên quan đến sự thay đổi mẫu hình văn hoá - xã hội, là biện
pháp giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội (Điều 5, Điều 6). Cách tiếp cận này
của Công ước đã khắc phục được sự phân biệt về giới tính của phụ nữ dẫn tới sự

19
hạn chế quyền của phụ nữ trong một số lĩnh vực xuất phát từ đặc điểm về giới
tính.
Là thành viên của Công ước CEDAW và một số công ước quốc tế khác,

Việt Nam có nghĩa vụ thực thi chúng. Đây vừa là nghĩa vụ, vừa mục tiêu phấn
đấu của Đảng và Nhà nước cho sự nghiệp bình đẳng giới để ngày càng đảm bảo
quyền của phụ nữ được thực thi trong cuộc sống. Những đóng góp của phụ nữ
trong sự nghiệp đấu tranh và bảo vệ tổ quốc cũng như phát triển đất nước đã
được nhà nước Việt Nam đánh giá cao. Trên phương diện quốc tế, Việt Nam là
một trong các quốc gia rất tích cực tham gia vào các văn bản pháp lý quốc tế về
quyền con người nói chung. Ngay từ Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đến Hiến
pháp hiện hành năm 1992 được sửa đổi năm 2001 đều khẳng định: “Nhà nước
và xã hội tạo điều kiện để phụ nữ nâng cao trình độ mọi mặt, không ngừng phát
huy vai trò của mình trong xã hội, chăm lo phát triển các nhà hộ sinh, khoa nhi,
nhà trẻ và các cơ sở phúc lợi xã hội khác để giảm nhẹ gánh nặng gia đình, tạo
điều kiện cho phụ nữ sản xuất, công tác, học tập, chữa bệnh, nghỉ ngơi, làm bổn
phận của người mẹ” (Điều 63 Hiến pháp 1992) [18, tr.157]. Để chuyển hoá các
công ước quốc tế đã gia nhập, Việt Nam đã thể chế hoá vào trong các văn bản
quy phạm pháp luật trong nước hay nói cách khác bằng cách nội địa hoá các quy
định của công ước quốc tế đã trở thành các văn bản quy phạm trong các bộ luật,
luật và các văn bản pháp luật khác. Một số văn bản pháp luật như: Luật Quốc
tịch, Luật Giáo dục, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự… và các chính sách của
Nhà nước Việt Nam trên mọi lĩnh vực đều thể hiện rõ nguyên tắc bình đẳng
nam, nữ, không có sự phân biệt dưới bất kỳ hình thức nào. Trên tất cả các
phương diện của đời sống như chính trị, pháp lý và các quyền dân sự khác
không những được quy định trong các văn bản pháp luật mà còn được xác định
là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các tổ chức và mọi công dân.
Năm 2006 Quốc hội Việt Nam thông qua Luật Bình đẳng giới với các
mục tiêu và nguyên tắc cơ bản phản ánh đầy đủ nội dung và tinh thần của công
ước CEDAW, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về bình đẳng
giới và tiến bộ của phụ nữ. Luật Bình đẳng giới được đánh giá là văn bản pháp

20
lý quan trọng bao quát được nhiều nội dung trong việc ghi nhận và bảo vệ các

quyền của phụ nữ và sự nghiệp đấu tranh cho mục tiêu bình đẳng giới. Các quy
phạm của Luật Bình đẳng giới đã được xây dựng theo hướng nội luật hoá các
quy định của điều ước quốc tế về chống phân biệt đối xử và bình đẳng giới, đảm
bảo thể chế hoá các quy định của các điều ước quốc tế này để thực hiện. Đặc
biệt Luật đã đưa vào những nội dung rất mới như quy định về việc lồng ghép
vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (Điều 21),
thẩm tra lồng ghép vấn đề bình đẳng giới (Điều 22)…
Việc nghiên cứu các quy định của các điều ước quốc tế mà cụ thể là Công
ước CEDAW và quá trình nội luật hoá ở Việt Nam được thể hiện ở những khía
cạnh sau:
Thứ nhất là việc giải thích thuật ngữ. Công ước CEDAW tiếp cận vấn đề
phân biệt đối xử với phụ nữ một cách chi tiết và cụ thể để các quốc gia thành
viên cũng như cộng đồng quốc tế có căn cứ thực thi và giám sát việc thực thi các
yêu cầu về đảm bảo quyền bình đẳng cho phụ nữ. Ngay tại Điều 1 của Công ước
đã nêu “phân biệt đối xử với phụ nữ” là: “…bất kỳ sự phân biệt, loại trừ hay hạn
chế nào dựa trên cơ sở giới tính có tác dụng hoặc nhằm mục đích làm tổn hại
hoặc vô hiệu hoá việc phụ nữ được công nhận, hưởng thụ hay thực hiện các
quyền con người và những tự do cơ bản trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã
hội, văn hoá, dân sự hay bất kể lĩnh vực nào khác và trên cơ sở bình đẳng nam
nữ” [5, tr. 9]. CEDAW chi tiết hoá những biểu hiện “phân biệt đối xử với phụ
nữ” một cách thống nhất và xuyên suốt toàn bộ nội dung công ước nhằm hướng
đến đảm bảo, thực hiện và phát triển quyền bình đẳng của phụ nữ ở các lĩnh vực
hoạt động cụ thể: bình đẳng về cơ hội và bình đẳng về kết quả trong việc hưởng
các quyền ở các lĩnh vực xã hội. Chính điều này đã tạo thuận lợi cho cơ chế thực
thi và giám sát thực thi công ước ở các quốc gia thành viên. Các quốc gia thành
viên phải lên án và áp dụng các biện pháp thích hợp và không chậm trễ để xoá
bỏ mọi sự phân biệt đối xử với phụ nữ. Ở nước ta, theo quy định tại khoản 5
Điều 5 của Luật Bình đẳng giới thì: “Phân biệt đối xử về giới là việc hạn chế,
loại trừ, không công nhận hoặc không coi trọng vai trò, vị trí của nam và nữ, gây


21
bất bình đẳng giữa nam và nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia
đình”. Việc quy định tại Luật Bình đẳng giới là phù hợp với Công ước CEDAW
nhưng quy định trên vẫn còn chung chung và sẽ được hướng dẫn cụ thể tại các
Nghị định hướng dẫn thi hành Luật.
Thứ hai là các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới. Điều 2 mục a Công
ước CEDAW yêu cầu các nước thành viên phải quy định trong pháp luật nguyên
tắc bình đẳng nam nữ. Vấn đề này đã được thể hiện xuyên suốt trong hệ thống
pháp luật Việt Nam từ Hiến pháp cho đến các văn bản luật và các văn bản
hướng dẫn của Chính phủ và các bộ ngành. Về cơ quan có trách nhiệm đảm bảo
thực thi các quy định về bình đẳng giới. Trong Luật bình đẳng giới, khoản 5
Điều 6 đã khẳng định: “Bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây
dựng và thực thi pháp luật” [25, tr. 6 - 8]. Quy định này là cần thiết và phù hợp
với nghĩa vụ được đặt ra tại Công ước CEDAW.
Thứ ba là nội dung xoá bỏ sự phân biệt đối xử với phụ nữ. Nội dung này
được Công ước khái quát ở các lĩnh vực như bình đẳng trong đời sống chính trị,
bình đẳng trong đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội và bình đẳng trong các vấn đề
dân sự pháp lý. Cụ thể như sau:
 Bình đẳng trong đời sống chính trị và công cộng
Bình đẳng trong đời sống chính trị và công cộng được Công ước xác định
là lĩnh vực đầu tiên, quan trọng buộc Chính phủ các nước thành viên phải hành
động để tạo lập sự bình đẳng cho phụ nữ ở lĩnh vực này trên cả 2 cấp độ, quốc
gia và quốc tế. Công ước ghi nhận những quyền chính trị quan trọng của phụ nữ
như: quyền tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội, quyền bầu cử, ứng
cử, quyền bỏ phiếu kín, đặc biệt là quyền được đại diện một cách xứng đáng cho
quốc gia mà mình là công dân trong các cuộc tiếp xúc quốc tế với tư cách thành
viên của các phái đoàn tại các hội nghị hoặc tổ chức quốc tế, kể cả các hoạt động
của các tổ chức phi chính phủ (Điều 7, Điều 8). Ở 2 cấp độ quốc gia và quốc tế,
để đảm bảo bình đẳng trong những lĩnh vực trên không phải là dễ dàng. Do đó
tại Điều 8 Công ước cũng yêu cầu các quốc gia thành viên phải sử dụng các biện


22
pháp đặc biệt tạm thời nhằm đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ trong các
thiết chế quốc tế mà quốc gia đó là thành viên.
Ngoài ra, các quốc gia thành viên cũng phải dành cho phụ nữ quyền bình
đẳng với nam giới trong việc nhập, thay đổi hay giữ nguyên quốc tịch của mình
đặc biệt phải đảm bảo quyền quốc tịch của phụ nữ khi kết hôn với người nước
ngoài, hay sự thay đổi quốc tịch của người chồng trong thời gian hôn nhân và
vấn đề quốc tịch của con cái họ (Điều 9). Những quy định này sẽ góp phần chấm
dứt trên thực tế sự lệ thuộc của phụ nữ vào nam giới khi thiết lập quan hệ hôn
nhân và gia đình, đồng thời nó còn giải phóng phụ nữ khỏi những áp lực không
mong muốn trong những hoạt động thực tiễn có liên quan đến nam giới.
Với trách nhiệm là một quốc gia thành viên của Công ước Việt Nam đã
từng bước nội luật hoá các quy định của Công ước. Bình đẳng giới trong lĩnh
vực chính trị được thể hiện trong quy định của nhiều văn bản quy phạm pháp
luật của Nhà nước và các văn kiện của Đảng như: Hiến pháp 1992; Luật Bầu cử
đại biểu Quốc hội (ban hành 1997, sửa đổi, bổ sung 2001); Luật tổ chức Hội
đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân 2003; Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân
dân 2003; Luật Khiếu nại, tố cáo; Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách
mạng 2005; Pháp lệnh cựu chiến binh; Pháp lệnh cán bộ công chức… và hàng
loạt các văn bản hướng dẫn thi hành các văn bản nêu trên. Đặc biệt Điều 11 của
Luật Bình đẳng giới đã nêu cụ thể bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị là:
nam nữ bình đẳng trong tham gia quản lý nhà nước, tham gia hoạt động xã hội,
bình đẳng trong tham gia xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của cộng
đồng, bình đẳng trong việc tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc
hội, đại biểu Hội đồng nhân dân Luật Bình đẳng giới còn nêu rõ các biện pháp
thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị và các hành vi vi phạm pháp
luật về bình đẳng giới.
 Đảm bảo sự bình đẳng cho phụ nữ trong đời sống kinh tế - văn hoá -
xã hội


23
Công ước dành phần III gồm 5 điều để đề cập khá chi tiết tới nghĩa vụ của
các quốc gia thành viên trong việc tạo cơ chế để đảm bảo thực hiện những quyền
bình đẳng cho phụ nữ trong lĩnh vực kinh tế – văn hoá - xã hội.
Trước hết là quyền được giáo dục và đào tạo như nam giới (bao gồm bình
đẳng trong hưởng cơ hội, điều kiện, chương trình, các cấp đào tạo, ngành nghề
và các chế độ trợ cấp học tập) (Điều 10). Đây là quyền thiết yếu và tối quan
trọng bởi trong một thời gian dài vì không được đảm bảo quyền bình đẳng trong
giáo dục và đào tạo nên phụ nữ đã chịu những thiệt thòi trong việc tham gia vào
công việc của nhà nước và xã hội. Những quy định về bình đẳng cho phụ nữ
trong giáo dục và đào tạo tại CEDAW buộc các quốc gia phải có nghĩa vụ bảo
đảm và thực thi.
Các quyền bình đẳng trong lao động, việc làm và y tế được quy định tại
Điều 11 và 12 của Công ước. Cụ thể là phụ nữ có quyền có việc làm và được
hưởng các cơ hội có việc làm như nam giới; được tự do chọn ngành nghề và
hưởng tất cả các phúc lợi, điều kiện làm việc, quyền được đào tạo nghề…bình
đẳng với nam giới; được bảo vệ quyền làm việc khi phụ nữ thực hiện thiên chức
là mẹ… Tất cả những quy định trên cũng nhằm mục tiêu giải phóng phụ nữ và
bảo vệ phụ nữ khỏi các hình thức xâm hại tại nơi làm việc nhất là nạn xâm hại
tình dục và bạo hành với phụ nữ. Đặc biệt đối với lĩnh vực y tế, Công ước đã có
sự liên hệ đặc biệt tới vấn đề thực hiện kế hoạch hoá gia đình ở các quốc gia
thành viên, cụ thể là các quốc gia thành viên phải áp dụng tất cả các biện pháp
thích hợp để xoá bỏ sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ trong lĩnh vực chăm
sóc sức khoẻ nhằm bảo đảm cho họ được tiếp cận các dịch vụ liên quan đến kế
hoạch hoá gia đình trên cơ sở bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ (Điều 12).
Nghĩa vụ của các quốc gia thành viên được xác định tại Điều 13 và 14 của Công
ước là cung cấp thông tin có ích, giáo dục phương pháp thích hợp và được chập
nhận trên các phương tiện y tế về kế hoạch hoá gia đình cho công dân nước đó
nói chung và công dân nữ nói riêng. Đặc biệt Điều 14 của Công ước xác nhận

phụ nữ nông thôn thuộc nhóm phụ nữ có những vấn đề cần được quan tâm đặc
biệt, bởi họ là người phải chịu đựng nhiều nhất gánh nặng của sự bất bình đẳng

24
về nhiều lĩnh vực, nhất là trong việc hưởng những thành quả lao động của bản
thân hay lợi ích của sự phát triển.
Nội dung này của Công ước đã được khái quát từ Điều 12 đến Điều 17
của Luật Bình đẳng giới. Cụ thể, Luật đã nêu rõ nội dung của bình đẳng giới
trong lĩnh vực kinh tế, lao động, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ và văn
hoá thông tin, thể dục, thể thao. Nam, nữ đều bình đẳng khi tham gia các quan
hệ trong các lĩnh vực nói trên: bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi tuyển dụng,
bình đẳng trong lựa chọn ngành nghề, học tập, đào tạo, bình đẳng trong việc tiếp
cận, ứng dụng khoa học và công nghệ và trong các hoạt động văn hoá - thông
tin, thể dục, thể thao. Nội dung của các quyền của phụ nữ này không chỉ được
quy định tại Luật bình đẳng giới mà trước đó tại các văn bản pháp luật chuyên
ngành khác cũng đã quy định rất cụ thể. Chẳng hạn trong lĩnh vực việc làm, Bộ
luật lao động, một mặt luôn tạo cơ hội như nhau cho cả lao động nam và lao
động nữ. Mặt khác, có những quy định riêng thể hiện biện pháp thúc đẩy bình
đẳng giới như: người sử dụng lao động phải ưu tiên nhận phụ nữ vào làm việc
khi người đó đủ tiêu chuẩn chọn làm công việc phù hợp với cả nam và nữ mà
doanh nghiệp đang cần (khoản 2, Điều 111 Bộ luật lao động). Các quy định của
Luật bình đẳng giới đã phù hợp với các nội dung của Công ước CEDAW, song
để đảm bảo thực hiện tốt các quyền này của phụ nữ cần có hướng dẫn tại các
văn bản dưới luật. Chẳng hạn, tại Nghị định hướng dẫn thi hành Luật cần quy
định cụ thể các vấn đề như: tỷ lệ thích đáng nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội
đồng nhân dân, tỷ lệ thích đáng trong bổ nhiệm các chức danh trong cơ quan nhà
nước phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới là tỷ lệ nào. Cần có
những hướng dẫn cụ thể hơn nhằm thực hiện các khoản e, f, g và h của Điều 10
Công ước CEDAW liên quan đến việc áp dụng các biện pháp nhằm: giảm bớt tỷ
lệ nữ sinh bỏ học và tổ chức các chương trình dành cho các em gái và phụ nữ

phải bỏ học sớm; tạo cơ hội như nhau giữa nam và nữ để tham gia tích cực vào
các hoạt động thể thao và giáo dục thể chất; tiếp cận tới thông tin giáo dục cụ
thể giúp bảo đảm sức khoẻ và hạnh phúc gia đình.

25
 Đảm bảo sự bình đẳng cho phụ nữ trong các vấn đề về dân sự, pháp
lý.
Điều 15, 16 của Công ước đã chính thức xác nhận địa vị bình đẳng của
phụ nữ với nam giới trước pháp luật. Quy định này tưởng chừng như dễ thực
hiện nhưng trên thực tế thì trong nhiều lĩnh vực giữa phụ nữ và nam giới vẫn có
những khoảng cách có lợi cho nam giới khi tham gia vào một số quan hệ pháp
luật. Do đó, Công ước tiếp tục chỉ ra những quy định pháp luật quốc gia có sự
hạn chế của phụ nữ khi tham gia các quan hệ về sở hữu tài sản, giao dịch dân sự
hay hạn chế quyền tự do đi lại, cư trú của phụ nữ… đều bị bãi bỏ. Mặt khác, các
quốc gia thành viên còn phải có nghĩa vụ tạo cơ chế và biện pháp thích hợp để
bảo đảm quyền bình đẳng và tự do cho phụ nữ trong các quan hệ kết hôn, tái hôn
và các quan hệ gia đình khác. Việt Nam đã nội luật hoá các quy định này trong
các quy định của Hiến pháp, các luật về tổ chức và tất cả các luật chuyên ngành.
Ngay từ Hiến pháp 1946 đến Hiến pháp hiện hành 1992 luôn khẳng định mọi
công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Bình đẳng nam nữ không chỉ là quyền
công dân được ghi nhận trong các văn bản pháp luật của Nhà nước mà xuất phát
từ nhận thức về vị trí, vai trò quan trọng của phụ nữ trong sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc cũng như công cuộc đổi mới đất nước cho nên bình đẳng
nam nữ được ghi nhận là quyền cơ bản công dân. Bình đẳng nam nữ không chỉ
là nguyên tắc hiến định mà được xác định là quyền cơ bản công dân, được ghi
nhận trong Hiến pháp và cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật của nhà nước.
Như vậy, Nhà nước Việt Nam không chỉ thừa nhận về mặt pháp lý mà còn quy
định những biện pháp bảo đảm thực hiện, bao gồm: biện pháp tổ chức là việc có
các cơ quan như Hội Liên hiệp phụ nữ Việt nam, Uỷ ban Quốc gia vì sự tiến bộ
của phụ nữ đã thực sự là nơi sinh hoạt chính trị, tư tưởng và là chỗ dựa tinh

thần, vật chất của chị em. Đồng thời các tổ chức này còn là cơ quan tham mưu
các chính sách, pháp luật cho Đảng và Nhà nước để bảo vệ tốt nhất quyền của
phụ nữ. Biện pháp về pháp lý trước hết ở bản Tuyên ngôn độc lập mà Bác Hồ
đọc ngày 02/9/1945 là: Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng. Tạo hoá cho họ

×