Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Tổ chức và hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 106 trang )





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





HOÀNG THỊ HOA





TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG TIẾN TRÌNH CẢI CÁCH TƢ PHÁP




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC








HÀ NỘI - 2009



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



HOÀNG THỊ HOA




TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG TIẾN TRÌNH CẢI CÁCH TƢ PHÁP

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số : 60 38 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Hữu Thể




HÀ NỘI - 2009




MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN



1
MỤC LỤC



Trang

Trang bìa phụ


Lời cam đoan


Mục lục


MỞ ĐẦU

1


Chương 1: SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA VIỆN KIỂM SÁT
4
1.1.
Tổ chức cơ quan công tố - tiền thân của Viện kiểm sát từ năm
1946 đến 1960
4
1.1.1.
Về thẩm quyền của cơ quan công tố giai đoạn 1945 đến 1958
6
1.1.2.
Về mối quan hệ giữa cơ quan công tố với các cơ quan tố tụng
khác giai đoạn 1945 đến 1958
6
1.2.
Vị trí, chức năng của Viện công tố
7
1.2.1.
Vị trí của Viện công tố
7
1.2.2.
Về chức năng của Viện công tố
8
1.2.3.
Về tổ chức bộ máy của Viện công tố
8
1.3.
Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân từ năm 1960
đến năm 2002
9
1.4.

Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân từ năm 2002
đến nay
12
1.5.
Khái quát một số Viện kiểm sát (Viện công tố) trên thế giới
26
1.5.1.
Viện kiểm sát nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
26
1.5.2.
Viện kiểm sát Liên bang Nga
32
1.5.3.
Viện công tố Hoàng gia Anh
37


2
1.5.4.
Cơ quan công tố Hoa Kỳ
40

Chương 2: thùc tr¹ng tæ chøc vµ ho¹t ®éng cña hÖ
thèng viÖn kiÓm s¸t nh©n d©n
46
2.1.
Tổ chức của Viện kiểm sát
46
2.2.
Hoạt động của Viện kiểm sát

51

Chương 3: PHƢƠNG HƢỚNG XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN TỔ
CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
THEO TINH THẦN CẢI CÁCH TƢ PHÁP
54
3.1.
Quan điểm chỉ đạo, yêu cầu đối với việc tổ chức bộ máy,
chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát theo yêu cầu cải cách tư
pháp
54
3.2.
Về vị trí, chức năng của Viện kiểm sát trong bộ máy nhà nước
55
3.3.
Về vai trò của Viện kiểm sát trong giải quyết các vụ, việc dân sự
59
3.4.
Về vai trò, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự
60
3.5.
Về tên gọi của Viện kiểm sát các cấp
64
3.6.
Về hệ thống tổ chức của Viện kiểm sát các cấp
64
3.7.
Về cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát các cấp
66

3.8.
Vấn đề bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và sự giám sát của Hội
đồng nhân dân các cấp đối với Viện kiểm sát
68
3.9.
Các giải pháp thức hiện
71
3.10.
Những vấn đề đặt ra khi đổi mới tổ chức và hoạt động của
Viện kiểm sát theo yêu cầu cải cách tư pháp
78

KẾT LUẬN
94

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
96





3
MỞ ĐẦU

1. Tớnh cấp thiết của đề tài
Cải cỏch Viện kiểm sỏt nhõn dõn là một trong những nội dung quan
trọng của cải cỏch bộ mỏy nhà nước núi chung và cải cỏch tư phỏp núi riờng
nhằm mục tiờu xõy dựng Nhà nước phỏp quyền Việt Nam xó hội chủ nghĩa.
Trong những năm gần đõy, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tõm đến việc

đổi mới tổ chức và hoạt động của cỏc cơ quan tư phỏp, trong đú cú Viện kiểm
sỏt nhõn dõn. Cỏc chủ trương về cải cỏch tư phỏp của Đảng ta được thể hiện
trong cỏc văn kiện của Đảng qua cỏc kỳ Đại hội VI, VII, VIII, IX và X. Đặc biệt,
Bộ Chớnh trị đó ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về
Chiến lược cải cỏch tư phỏp đến năm 2020. Thực hiện Nghị quyết số 49-
NQ/TW của Bộ Chớnh trị, ngày 22/2/2006, Ban Chỉ đạo Cải cỏch tư phỏp
Trung ương đó ban hành Kế hoạch số 05-KH/CCTP, giao cho Ban Cỏn sự
Đảng Viện kiểm sỏt nhõn dõn tối cao chủ trì thực hiện nhiệm vụ nghiờn cứu
xõy dựng mụ hỡnh tổ chức bộ mỏy và chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm
sỏt trong tiến trỡnh cải cỏch tư phỏp; chuẩn bị điều kiện để sắp xếp tổ chức bộ
mỏy của Viện kiểm sỏt nhõn dõn cỏc cấp cho phự hợp với việc đổi mới mụ
hỡnh tổ chức Tòa ỏn theo thẩm quyền xột xử sẽ được thực hiện sau năm
2010.
Qua tổng kết thực tiễn tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát gần 50
năm qua cho thấy, bằng những kết quả trong việc thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của mình ngành kiểm sát đã góp phần tích cực vào thắng lợi vĩ đại của
công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, góp phần giữ vững an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, qua hơn 20 năm đổi mới toàn diện, tình hình
kinh tế, chính trị, xã hội, pháp lý đã có những thay đổi nhanh chóng và sâu
sắc, tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và Viện kiểm sát
nói riêng đã bộc lộ những hạn chế, bất cập cần phải được cải cách mạnh mẽ,


4
toàn diện để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm
pháp luật trong tình hình mới. Chính vì vậy tôi chọn đề tài "Tổ chức và hoạt
động của Viện kiểm sát nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp" làm đề
tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Các chủ trương về cải cách tư pháp, trong đó có Viện kiểm sát nhân dân

được thể hiện trong các văn kiện của Đảng qua các kỳ Đại hội VI, VII, VIII, IX
và X. Đặc biệt Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp như Nghị quyết số 49-
NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến
2020; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng
đến năm 2020 là những nghị quyết đã xác định nhiều định hướng quan trọng,
toàn diện cho việc xây dựng hệ thống pháp luật và chương trình cải cách tư
pháp. Bên cạnh đó nhiều công trình nghiên cứu khoa học, sách chuyên khảo
như của TS. Khuất Văn Nga với cuốn Viện kiểm sát nhân dân đã và đang
vững bước trên con đường cải cách tư pháp, hoặc Vị trí, vai trò Viện kiểm sát
trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp, Nxb Tư pháp, Hà Nội,
2008. Các tạp chí kiểm sát năm 2005, 2006, 2007, 2008, 2009 cũng đã phần
nào đề cập đến những nội dung đổi mới tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân.
3. Nhiệm vụ, mục đích, phạm vi nghiên cứu
Việc nghiên cứu, tìm hiểu về Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp là hết sức cần thiết nhằm thực hiện
một cách kịp thời, đầy đủ, nghiêm túc các chủ trương của Đảng về cải cách tư
pháp nói chung và cải cách cơ quan Viện kiểm sát nhân dân nói riêng theo
tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, góp phần hoàn thiện bộ
máy nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


5
Trong khuôn khổ đề tài luận văn của mình, tác giả tập trung nghiên cứu
về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát giai đoạn từ 1945 đến nay. Trải
qua hơn 60 năm tồn tại trưởng thành và phát triển đã thực hiện được nhiều nội
dung cải cách tư pháp. Từ đó đưa ra đề xuất kiến nghị những nội dung đổi mới
vị trí, vai trò, tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát theo yêu cầu cải cách tư
pháp.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm
đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền
trong đó có ngành kiểm sát nhân dân.
4.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
- Các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Cách tiếp cận của đề tài và hướng nghiên cứu của đề tài có thể có
những đóng góp nhất định vào việc nghiên cứu các chủ trương của Đảng về
cải cách tư pháp nói chung và cải cách Viện kiểm sát nhân dân nói riêng
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho sinh viên, học viên cao học và những người quan tâm trong việc
nghiên cứu các chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp.
6. Kết cấu của luận văn
Gồm phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Sự ra đời và phát triển của Viện kiểm sát.


6
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ thống Viện kiểm
sát nhân dân.
Chương 3: Phương hướng xây dựng và hoàn thiện tổ chức, hoạt động
của Viện kiểm sát nhân theo tinh thần cải cách tư pháp.


7
Chương 1

SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA VIỆN KIỂM SÁT

1.1. TỔ CHỨC CƠ QUAN CÔNG TỐ - TIỀN THÂN CỦA VIỆN KIỂM
SÁT TỪ NĂM 1945 ĐẾN 1960
Với cuộc khởi nghĩa tháng 8 năm 1945, nước ta giành được độc lập.
Tuy nhiên, chúng ta phải đối phó với các thế lực thù địch, thù trong giặc
ngoài chống phá quyết liệt, reo rắc tư tưởng hoài nghi kích động bạo lực.
Chưa thời kỳ nào cách mạng Việt Nam phải đối phó với nhiều thế lực, đảng
phái chính trị như giai đoạn 1945 - 1946. Đứng trước diễn biến phức tạp của
tình hình cách mạng hệ thống cơ quan tư pháp nói chung và cơ quan được
giao thực hiện quyền công tố nhà nước nói riêng được tổ chức rất đa dạng,
linh hoạt phục vụ nhiệm vụ của cách mạng, trong đó sự phát triển của ngành
công tố từ năm 1945 đến trước 1958 chủ yếu gắn liền với quá trình xây dựng
và phát triển của ngành Tòa án.
Ngày 13/9/1945 Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 33c về việc thành
lập Tòa án quân sự - đây là cơ sở pháp lý đầu tiên của Nhà nước dân chủ nhân
dân đánh dấu sự ra đời của hệ thống Tòa án, đồng thời cũng là văn bản pháp
lý đầu tiên quy định về tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố trong bộ
máy nhà nước ta.
Tòa án quân sự được tổ chức ở khắp ba miền Bắc - Trung - Nam là sự
hiện diện đầu tiên của tổ chức công tố và quyền công tố. Về chức năng công
tố, Điều V Sắc lệnh 33C quy định rõ: "Đứng buộc là một ủy viên quân sự hay
một ủy viên của Ban trinh sát". Một công cáo ủy viên quyết định truy tố một
người ra xét xử tại Tòa án và thực hiện sự buộc tội trước Tòa án. Như vậy lần
đầu tiên chức năng công tố nhà nước được quy định bằng một văn bản pháp
lý do người đứng đầu Nhà nước Việt Nam dân chủ ban hành. Nội dung của


8
quyền công tố theo quy định tại Sắc lệnh này là đưa một người phạm tội ra

xét xử tại Tòa án và thực hiện việc buộc tội trước Tòa án.
Ngày 17/11/1950 Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 155 thay thế tất cả
các Sắc lệnh đã ban hành trước đây về Tòa án quân sự.
Về thẩm quyền: Tòa án quân sự được quyền xét xử tất cả các tội phạm
xảy ra trước hoặc sau ngày 19/8/1945 xâm hại đến nền độc lập của nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà, trừ những tội phạm do binh sĩ thực hiện thì do Tòa án
binh xét xử.
Theo đó chức năng công tố được giao cho Công tố ủy viên hoặc Phó
công tố ủy viên phụ trách việc buộc tội.
Bên cạnh việc thiết lập hệ thống Tòa án quân sự và Tòa án binh để xét
xử những tội phản cách mạng, những tội vi phạm trật tự quân đội thì việc
thành lập Tòa án thường để xét xử các tội phạm và vi phạm pháp luật nhằm
bảo vệ nhà nước và bảo vệ nhân dân rất cần thiết. Ngày 24/1/1946 Chủ tịch
Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh số 13 về việc tổ chức các Tòa án và
các ngạch thẩm phán (trong đó có Thẩm phán buộc tội); ngày 17/4/1946
Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 51 ấn định thẩm quyền Tòa án và sự phân
công nhiệm vụ giữa các nhân viên trong Tòa án; ngày 20/7/1946 Chính phủ
ban hành Sắc lệnh số 131 bổ sung Sắc lệnh số 51, về thẩm quyền tổ chức bộ
máy của Tòa án thường có Tòa sơ cấp, Tòa đệ nhị cấp, Tòa thượng thẩm. Cơ
quan công tố được tổ chức trong Tòa đệ nhị cấp và Tòa thượng thẩm, tạo
thành một đoàn thể độc lập với các Thẩm phán xét xử. Phiên tòa sơ thẩm
không có chức danh Biện lý hay đại diện của cơ quan công tố, Thẩm phán
vừa làm nhiệm vụ buộc tội vừa làm nhiệm vụ xét xử, Lục sự giữ bút ký và
biên bản án từ. Tòa đệ nhị cấp có một Chánh án, một Dự thẩm, một Chánh lục
sự và các Thư ký giúp việc; Tòa thượng thẩm có Chánh nhất hay một Chánh
án phòng giữ vai trò chủ toạ và hai Hội thẩm. Chưởng lý, Phó chưởng lý hoặc
Tham lý ngồi ghế Công tố viên, giữ quyền công tố.


9

1.1.1. Về thẩm quyền của cơ quan công tố giai đoạn 1945 đến 1958
Trong lĩnh vực tố tụng hình sự: Có quyền điều khiển và giám sát hoạt
động của Ban tư pháp cảnh sát trong quản hạt của mình; có quyền nhận đơn
khởi tố của tư nhân, biên bản do ban tư pháp cảnh sát thành lập.
Có quyền kháng cáo mệnh lệnh của Dự thẩm.
Tại phiên tòa, Biện lý thay mặt xã hội buộc tội bị can; có trách nhiệm
tổ chức thi hành cấp tốc những mệnh lệnh của Chánh án tại phiên tòa.
Có quyền kháng cáo bản án hình sự của Tòa án; có trách nhiệm thi
hành những bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
Trong lĩnh vực tố tụng dân sự: Có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi của các
vị thành niên, của các pháp nhân hành chính bắt buộc phải có mặt trong
những phiên tòa xử án dân sự và có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng mọi biện
pháp cần thiết để chứng tỏ sự thật của vụ án
Trong thời kỳ này, phạm vi thẩm quyền của cơ quan công tố không
chỉ bó hẹp trong lĩnh vực hình sự mà cơ quan công tố còn tham gia vào quá
trình giải quyết các việc dân sự, có trách nhiệm bảo vệ pháp luật, trông nom
việc thi hành các đạo luật của nhà nước.
1.1.2. Về mối quan hệ giữa cơ quan công tố với các cơ quan tố
tụng khác giai đoạn 1945 đến 1958
Quan hệ với thẩm phán xét xử: Các thẩm phán buộc tội do chưởng lý
đứng đầu. Các thẩm phán buộc tội của Tòa thượng thẩm hợp thành một đoàn
thể độc lập đối với các Thẩm phán xử án và duy nhất đặt dưới quyền quản lý
của Chưởng lý. Chưởng lý giữ toàn quyền truy tố và hành động.
Như vậy trong thời kỳ này mặc dù cơ quan công tố được tổ chức trong
hệ thống Tòa án thường nhưng hoạt động của cơ quan công tố hoàn toàn độc
lập với hoạt động xét xử của Tòa án. Việc quyết định truy tố hay không truy
tố cũng như việc quản lý các Thẩm phán buộc tội hoàn toàn thuộc thẩm quyền


10

của người đứng đầu Công tố viện (Chưởng lý). Điều 17 Sắc lệnh quy định:
"Ông Chánh án có quyền điều khiển và kiểm soát tất cả các nhân viên khác
trong Tòa án, trừ các Thẩm phán buộc tội".
Quan hệ với Tư pháp công an: Công tố có trách nhiệm phụ trách tư
pháp công an và các cơ quan được giao nhiệm vụ điều tra. Tư pháp Công an
đặt dưới quyền kiểm soát trực tiếp của Chưởng lý, Biện lý. Biện lý có quyền
ra chỉ thị và kiểm soát công việc của tất cả ủy viên Tư pháp công an. Việc bổ
sung, thăng trưởng và trừng phạt hành chính những ủy viên Tư pháp công an
phải trên cơ sở ý kiến đồng ý của Biện lý và Chưởng lý.
Trong điều kiện đất nước có chiến tranh việc tổ chức bộ máy nhà nước nói
chung và bộ máy cơ quan tư pháp nói riêng linh hoạt như thời kỳ đầu về cơ bản
là phù hợp với điều kiện nước ta. Tuy nhiên, sau năm 1954 chúng ta thực hiện
đồng thời hai cuộc cách mạng, việc tiếp tục tổ chức bộ máy cơ quan tư pháp như
giai đoạn trước không còn phù hợp nữa. Trước sự chuyển biến của tình hình
cách mạng, sự trưởng thành của các cơ quan tư pháp đòi hỏi phải có sự thay đổi
căn bản, sâu sắc về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp trong đó có cơ
quan công tố để bảo đảm mở rộng dân chủ, tăng cường chuyên chính, bảo đảm
việc trừng trị bọn phản cách mạng và các tội phạm khác kịp thời, đúng người,
đúng tội.
1.2. VỊ TRÍ, CHỨC NĂNG CỦA VIỆN CÔNG TỐ
Tại phiên họp ngày 29/4/1958, Thủ tướng Chính phủ đã báo cáo Quốc
hội về việc thành lập Tòa án tối cao và thành lập Viện công tố cả hai cơ quan
này tách khỏi Bộ Tư pháp. Tòa án tối cao và Viện công tố có quyền hạn và
trách nhiệm ngang một Bộ và trực thuộc Hội đồng Chính phủ. Quốc hội đã
thông qua đề án của Hội đồng Chính phủ.
1.2.1. Vị trí của Viện công tố


11
Viện Công tố được tổ chức thành một hệ thống cơ quan độc lập, tách

khỏi tổ chức của Tòa án và sự quản lý của Bộ Tư pháp, đặt Viện công tố trung
ương trực thuộc Hội đồng Chính phủ, có trách nhiệm, quyền hạn ngang một Bộ.
1.2.2. Về chức năng của Viện công tố
- Điều tra và truy tố trước Tòa án những kẻ phạm pháp về hình sự.
- Giám sát việc chấp hành luật pháp trong việc xét xử của các Tòa án.
- Giám sát việc chấp hành luật pháp trong việc thi hành các bản án về
hình sự, dân sự và trong hoạt động của cơ quan tư pháp.
- Khởi tố và tham gia tố tụng trong những vụ án dân sự quan trọng có
liên quan đến lợi ích của Nhà nước và của nhân dân.
Ngoài nhiệm vụ điều tra, truy tố trước Tòa án, Viện công tố còn được
giao nhiệm vụ quan trọng là giám sát chấp hành pháp luật trong lĩnh vực tư
pháp (giám sát hoạt động xét xử của Tòa án, hoạt động giam giữ cải tạo, thi
hành các bản án dân sự ).
1.2.3. Về tổ chức bộ máy của Viện công tố
- Viện Công tố trung ương có Văn phòng; Vụ giám sát điều tra; Vụ
giám sát xét xử; Vụ giám sát giam giữ cải tạo.
- Viện Công tố địa phương các cấp gồm: Viện công tố Hà Nội; Hải
Phòng; Công tố khu Hồng Quảng; Viện công tố các tỉnh và khu vực Vĩnh
Linh, công tố huyện và đơn vị tương đương cấp huyện.
- Viện công tố quân sự các cấp.
Ngành Công tố tách khỏi hệ thống Bộ Tư pháp, được tổ chức từ trung
ương xuống địa phương. Ở địa phương Viện công tố chịu sự lãnh đạo trực
tiếp của Ủy ban hành chính cùng cấp, đồng thời chịu sự lãnh đạo của Viện
công tố trung ương. Viện Công tố các cấp đều được tổ chức gắn liền với hệ
thống hành chính cấp trung ương, tỉnh, huyện.


12
Ủy ban công tố được làm việc theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách. Những việc quan trọng đều phải được đưa ra Ủy ban thảo

luận và quyết định. Trường hợp ý kiến của Viện trưởng khác với ý kiến của
toàn thể ủy ban thì phải báo cáo lên Ủy ban hành chính cùng cấp và Viện
công tố cấp trên xem xét, quyết định.
Viện trưởng chủ trì các cuộc họp hội nghị và công tác của ủy ban đôn
đốc và theo dõi toàn bộ công tác. Các ủy viên công tố phân công phụ trách
các khối công tác hoặc phụ trách từng loại vụ việc.
Ủy ban Công tố họp ít nhất mỗi tháng một lần để kiểm điểm tình hình,
kiểm điểm công tác và bàn về những vấn đề quan trọng về đường lối công tác,
tổ chức và cán bộ.
Mối quan hệ giữa Viện công tố địa phương với uỷ ban hành chính
cùng cấp và Viện công tố cấp trên là quan hệ song trùng trực thuộc.
1.3. TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỪ
NĂM 1960 ĐẾN NĂM 2002
Sự ra đời của hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân được khởi đầu
bằng việc ban hành Hiến pháp 1959 và các luật về tổ chức nhà nước, trong đó
có Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Trên cơ sở các văn bản pháp luật
ấy, các cơ quan công tố được chuyển thành hệ thống các cơ quan nhà nước
mới (Viện kiểm sát nhân dân). Việc thành lập Viện kiểm sát nhân dân thay
cho Viện công tố là xuất phát từ yêu cầu khách quan của việc chuyển giai
đoạn cách mạng ở nước ta, giai đoạn vừa tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ở miền Nam vừa tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc. Cách mạng đã chuyển giai đoạn thì tất yếu bộ máy nhà nước cũng phải
có những thay đổi. Pháp luật phải được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và
thống nhất. Vì các lẽ trên phải tổ chức ra Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát
việc tuân theo pháp luật nhằm giữ vững pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm


13
cho pháp luật được chấp hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất. Xuất
phát từ những yêu cầu khách quan của giai đoạn cách mạng mới. Hiến pháp

1959 của Nhà nước ta đã dành bốn điều quy định các nguyên tắc cơ bản về tổ
chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, có chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật và chức năng công tố.
Sau khi thống nhất nước nhà tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV
của Đảng, Nhà nước ta đã ban hành Hiến pháp 1980, so với Hiến pháp 1959
thì Hiến pháp 1980 đã có những bổ sung hết sức quan trọng khi quy định về
Viện kiểm sát nhân dân. Đặc biệt nhấn mạnh chức năng thực hành quyền
công tố. Khẳng định rõ hơn vai trò và trách nhiệm của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân các cấp đặc biệt là Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Viện kiểm sát có hai chức năng là chức năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật.
Ngày 15/4/1992 tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khoá VIII của Nhà nước
ta đã thông qua Hiến pháp 1992 thể chế đường lối đổi mới của Đảng Cộng
sản Việt Nam. So với Hiến pháp 1980 các quy định về Viện kiểm sát nhân
dân trong Hiến pháp 1992 có hai điểm mới mang tính điển hình nhìn từ góc
độ nguyên tắc tổ chức và hoạt động:
Một là, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu trách
nhiệm báo cáo trước Hội đồng nhân dân về tình hình thi hành pháp luật ở địa
phương và trả lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân (Điều 140). Như
vậy có nghĩa Hội đồng nhân dân có quyền giám sát hoạt động của Viện kiểm
sát nhân dân (Điều 7 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân).
Hai là, Ủy ban kiểm sát không còn cơ quan tư vấn cho Viện trưởng
nữa mà có quyền thảo luận và quyết định theo đa số những vấn đề quan trọng
(Điều 38). Như vậy Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện trưởng


14
Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu không còn được quyền tự quyết định mọi
vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân.
Mặc dù có những quy định mới rất quan trọng so với Hiến pháp 1980

và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981, Hiến pháp và Luật Tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992 vẫn giữ nguyên quy định Viện kiểm
sát có hai chức năng là chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật. Và những quy định về tổ chức bộ máy của hệ thống cơ
quan này về căn bản không có gì khác so với trước đây.
Tháng 4 năm 2001, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta
được tiến hành, đánh dấu một bước quan trọng trong tiến trình cải cách bộ
máy nhà nước. Khẳng định việc đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của
Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế nhằm xây dựng nhà nước
pháp quyền chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng nêu rõ phải cải cách tổ chức nâng cao
chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm
của cơ quan và cán bộ tư pháp trong công tác điều tra, bắt, giam, xét xử, thi
hành án, không để xảy ra các trường hợp oan, sai. Trong Nghị quyết Hội nghị
lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng nêu rõ: Cần sửa đổi, bổ sung,
chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân theo hướng Viện kiểm sát
nhân dân chỉ thực hiện quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp,
không thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ
quan, tổ chức nhằm đảm bảo Viện kiểm sát nhân dân các cấp thực hiện tốt
chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Ngày 2/4/2002, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khoá X đã thông qua Luật
Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân mới, thể chế hoá các quan điểm của Đảng về
cải cách tư pháp nói chung và về đổi mới tổ chức, hoạt động của Viện kiểm
sát nhân dân nói riêng, cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp 1992 (sửa đổi)


15
về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân,
theo đó Viện kiểm sát nhân dân có chức năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp (Điều 1). Có thể nói, đây là bước thay đổi lớn

về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân
từ ngày thành lập (1960) đến nay.
1.4. TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỪ
NĂM 2002 ĐẾN NAY
Vị trí của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước ta được quy
định bởi nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam được xác lập trong Hiến pháp 1992. Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề
nghị của Chủ tịch nước. Nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
chịu sự giám sát của của Quốc hội; Phó Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao và
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao.
Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân tối cao là một hệ thống thống nhất,
bao gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Viện kiểm sát nhân dân địa
phương, các Viện kiểm sát quân sự. Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng
lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của
Viện trưởng cấp trên; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các địa phương,
Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Theo Điều 137 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Điều 1 Luật Tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 2002. Viện kiểm sát nhân dân có chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Bảo đảm cho pháp


16
luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các Viện kiểm sát nhân dân
địa phương kiểm sát các hoạt động tư pháp ở địa phương mình. Căn cứ Điều 3
Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định chức năng, nhiệm

vụ của mình bằng những công tác sau đây:
- Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
việc điều tra các vụ án hình sự của các cơ quan điều tra và cơ quan khác được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
- Điều tra một số loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm
tội là cán bộ thuộc cơ quan tư pháp.
- Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
việc xét xử các vụ án hình sự
- Kiểm sát vịêc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình,
hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật.
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành bản án, quyết
định của Tòa án; Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tạm giữ, tạm
giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù.
Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố là việc Viện kiểm sát
nhân dân sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền
công tố để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai
đoạn điều tra, truy tố và xét xử. Theo pháp luật hiện hành ở Việt Nam Viện
kiểm sát nhân dân là cơ quan duy nhất được giao chức năng thực hành quyền
công tố. Hoạt động công tố được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án hình sự
và trong suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người
phạm tội, không làm oan người vô tội.
Theo quy định tại Điều 13 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân khi
thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát nhân dân có
những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:


17
- Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu cơ quan điều tra khởi
tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can.
- Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành điều tra,

trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật.
- Quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp bắt, tạm giam và các
biện pháp ngăn chặn khác, phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của cơ
quan điều tra theo quy định của pháp luật.
- Huỷ bỏ các quyết định trái pháp luật của cơ quan điều tra.
- Quyết định truy tố bị can, quyết định đình chỉ, hoặc tạm đình chỉ
điều tra, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự.
Điều 17 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định Viện kiểm
sát nhân dân có những nhiệm vụ và quyền hạn sau:
- Đọc cáo trạng, quyết định của Viện kiểm sát nhân dân liên quan đến
việc giải quyết vụ án tại phiên tòa.
- Thực hiện việc luận tội đối với bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, phát
biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm; tranh luận với
người bào chữa và người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa sơ thẩm, phúc
thẩm.
- Phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân về vịêc giải quyết
vụ án tại phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm.
Theo Hiến pháp 1992 (sửa đổi) và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân chỉ thực hiện hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt
tư pháp. Được thực hiện cụ thể qua các hoạt động sau:
Thứ nhất, công tác kiểm sát điều tra các vụ án hình sự là kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của các cơ quan điều tra và các


18
cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Công
tác kiểm sát điều tra nhằm mục đích đảm bảo cho các hoạt động điều tra phải
được tiến hành khách quan, đầy đủ, toàn diện, chính xác và phải đúng pháp
luật. Hoạt động điều tra nhằm xác định một cá nhân có tội hay không có tội,

đáng phải truy tố trước pháp luật hay không, nhằm đảm bảo việc truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với bất kỳ công dân nào cũng phải có căn cứ, hợp
pháp, đảm bảo việc truy tố, xét xử của Viện kiểm sát và Tòa án đúng người,
đúng tội. Vì vậy, Điều 14 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002
quy định: Khi thực hiện công tác kiểm sát điều tra Viện kiểm sát nhân dân
kiểm sát các hoạt động điều tra và vịêc lập hồ sơ vụ án của cơ quan điều tra;
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng; giải
quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra; yêu cầu cơ quan điều tra khắc
phục vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra
Thứ hai, công tác kiểm sát xét xử là hoạt động kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong quá trình xét xử của Tòa án, nhằm đảm bảo việc xét xử của
Tòa án đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời. Theo Điều 18 Luật Tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định: Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong hoạt động của Tòa án, kiểm sát các bản án và
quyết định của Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân có quyền kháng nghị theo thủ
tục phúc thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm của Toà chưa có hiệu lực pháp
luật; kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của
Toà đã có hiệu lực pháp luật; kiến nghị với Tòa án nhân dân cùng cấp và cấp
dưới khắc phục vi phạm trong việc xét xử
Viện kiểm sát nhân dân thực hiện công tác kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, hành
chính, kinh tế, lao động và những việc khác nhằm đảm bảo vịêc giải quyết các
vụ án đúng pháp luật kịp thời. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc thụ lý và
lập hồ sơ của Tòa án; tham gia phiên tòa theo quy định; yêu cầu Tòa án xác


19
minh, thu thập chứng cứ trên cơ sở nội dung yêu cầu và khiếu nại của đương
sự Khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân
sự, hôn nhân gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác Viện

kiểm sát nhân dân có quyền kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm
các bản án, quýêt định của Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, công tác kiểm sát thi hành án là hoạt động kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân đối với Tòa án nhân dân, cơ quan
thi hành án, cơ quan tổ chức và cá nhân có liên quan trong việc thi hành bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và những bản án, quyết định được thi
hành ngay theo quy định của pháp luật.
Thi hành án là một giai đoạn có vai trò cực kỳ quan trọng, bảo đảm
cho sự chấp hành nghiêm chỉnh, kịp thời và đúng pháp luật bản án, quyết định
của Tòa án. Nó góp phần khẳng định uy tín của Tòa án nhân dân, bảo vệ lợi
ích của nhà nước, của tập thể, quyền lợi ích hợp pháp của công dân. Trong
hoạt động thi hành án, Viện kiểm sát nhân dân có quyền yêu cầu Tòa án nhân
dân, các cơ quan hữu quan ra quyết định thi hành án đúng quy định của pháp
luật, tự kiểm tra việc thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và
những bản án quyết định được thi hành ngay; Viện kiểm sát nhân dân có
quyền tham gia việc xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xoá án tích, đề
nghị miễn chấp hành hình phạt theo quy định của pháp luật; yêu cầu đình chỉ
việc thi hành án, sửa đổi hoặc huỷ bỏ quy định có vi phạm pháp luật trong
việc thi hành án, chấm dứt việc làm vi phạm pháp luật trong việc thi hành án,
nếu có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự.
Thứ tư, công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục
người chấp hành án phạt tù là hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật đối với
cơ quan, đơn vị và người có trách nhiệm trong việc tạm giữ, tạm giam, quản
lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo đúng quy định của pháp luật.
Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ và quyền hạn như thường kỳ hoặc bất


20
thường trực tiếp kiểm sát tại nhà tạm giữ, trại tạm giam và trại giam; tiếp
nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo về việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và

giáo dục người chấp hành án phạt tù; trả lời về quyết định, biện pháp hoặc
việc làm vi phạm pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam (Điều 27 Luật Tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002).
Trong quá trình kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục
người chấp hành án phạt tù Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm phát hiện
và xử lý kịp thời các trường hợp oan sai trong tạm giữ, tạm giam, người đang
chấp hành án phạt tù không có căn cứ và trái pháp luật (Điều 28 Luật Tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 2002).
Theo quy định của Hiến pháp 1992 (sửa đổi), Viện kiểm sát nhân dân
là một trong bốn hệ thống cơ quan của bộ máy nhà nước ta. Do đó, cũng như
các hệ thống cơ quan khác, Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức và hoạt
động trên cơ sở các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta
nói chung. Song, do có vị trí, chức năng và nhiệm vụ mang tính đặc thù nên
hệ thống các Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức và hoạt động theo những
nguyên tắc đặc thù. Điều đó không có nghĩa là tách hệ thống các Viện kiểm
sát nhân dân ra khỏi bộ máy nhà nước ta, mà nhằm cho nó hoạt động có hiệu
quả hơn, đáp ứng tốt hơn yêu cầu thực hiện nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội
chủ nghĩa. Những nguyên tắc đó được quy định ở Điều 138 Hiến pháp 1992
(sửa đổi) và Điều 8 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002. Đó là
nguyên tắc tập trung lãnh đạo trong ngành và nguyên tắc độc lập, không lệ
thuộc vào bất cứ cơ quan nhà nước nào ở địa phương.
+ Nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành.
Khẳng định nguyên tắc này không có nghĩa là khẳng định hệ thống
Viện kiểm sát nhân dân hoạt động theo các nguyên tắc riêng biệt, không liên
quan đến các nguyên tắc tổ chức và hoạt động chung của bộ máy nhà nước ta.


21
Dù là một hệ thống cơ quan riêng, các Viện kiểm sát nhân dân là một bộ phận
không tách rời của bộ máy nhà nước ta. Tìm hiểu nguyên tắc này, chúng ta

thấy nó bắt nguồn từ nguyên tắc tập trung dân chủ và nhằm bảo đảm tính
thống nhất của pháp chế.
Tìm hiểu tổ chức bộ máy nhà nước ta, dễ dàng nhận thấy rằng, các cơ
quan nhà nước ở địa phương một mặt trực thuộc Chính phủ hoặc Bộ chủ
quản, mặt khác lại trực thuộc Hội đồng nhân dân hoặc Ủy ban nhân dân địa
phương. Nguyên tắc này được gọi là nguyên tắc phụ thuộc hai chiều.
Viện kiểm sát nhân dân ở nước ta (cũng như các nước xã hội chủ
nghĩa trước đây) không được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc phụ thuộc
hai chiều nêu trên, mà theo nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong
ngành. Có thể thấy cách tổ chức và hoạt động này được thực hiện theo tư
tưởng của V.I. Lênin. Theo đó, Viện kiểm sát nhân dân không được tổ chức
và hoạt động theo nguyên tắc phụ thuộc hai chiều, mà nó phải và chỉ trực
thuộc vào một cơ quan trung ương duy nhất.
Theo nguyên tắc này, Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh
đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới phải chịu sự lãnh đạo của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân địa phương, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp phải chịu sự lãnh
đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Điều 138
Hiến pháp 1992 sửa đổi và Điều 8 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2002). Viện trưởng, Phó viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
các địa phương, Phó viện trưởng Viện kiểm sát quân sự quân khu và khu vực,
Điều tra viên của Viện kiểm sát nhân đều do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức (Điều 9 Luật Tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 2002). Như vậy, tất cả các Viện kiểm sát từ trên
xuống dưới tạo thành một hệ thống thống nhất. Mọi hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân, dù ở cấp nào, đều đặt dưới sự lãnh đạo của Viện trưởng. Viện


22
trưởng Viện kiểm sát nhân dân phải chịu trách nhiệm cá nhân về toàn bộ hoạt

động của Viện kiểm sát do mình lãnh đạo trước Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách
nhiệm cá nhân về hoạt động của toàn ngành kiểm sát trước Quốc hội, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Việc thực hiện nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành
bảo đảm cho các cấp kiểm sát hoạt động đồng bộ, thống nhất, tạo điều kiện
nâng cao hiệu quả hoạt động thực hành quyền công tố và hoạt động kiểm sát.
Mặt khác, nhấn mạnh nguyên tắc này nhằm đề cao trách nhiệm cá nhân của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân. Khẳng định Viện trưởng là người có
quyền và có trách nhiệm quyết định các vấn đề thuộc thẩm quyền của Viện
kiểm sát và chịu trách nhiệm cá nhân về mọi công việc thuộc phạm vi của
mình không có nghĩa là loại trừ nguyên tắc tập trung dân chủ ra khỏi hoạt
động kiểm sát. Phải thấy rằng, Viện trưởng không có quyền quyết định các
vấn đề một các độc đoán, mà trên cơ sở bàn bạc tập thể. Ở Viện kiểm sát nhân
tối cao và Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có Ủy ban kiểm sát. Ủy ban kiểm
sát làm việc tập thể, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng như
phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch công tác, dự án luật, dự án pháp lệnh
(các điều 32 và 35 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002).
Theo Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Ủy ban kiểm
sát thảo luận và quyết định các vấn đề theo đa số. Khi Viện trưởng không nhất
trí với ý kiến của đa số thành viên Ủy ban kiểm sát thì vẫn thực hiện theo
quyết định của đa số, nhưng có quyền báo cáo lên cấp trên (lên Ủy ban Thường
vụ Quốc hội nếu là Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; lên Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao nếu là Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân cấp tỉnh). Như vậy, quy định này vừa bảo đảm mở rộng dân chủ, phát huy
trí tuệ tập thể, vừa hạn chế những thiếu sót của Viện trưởng, đề cao trách nhiệm
của Viện trưởng.


23

+ Nguyên tắc không lệ thuộc vào bất kỳ cơ quan nhà nước nào ở địa
phương.
Trong tổ chức và hoạt động của mình, Viện kiểm sát nhân dân không
hoàn toàn lệ thuộc vào bất cứ một cơ quan nhà nước nào ở địa phương. Nguyên
tắc này có mối quan hệ mật thiết với nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh
đạo trong ngành. Để bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa và hạn chế, ngăn
chặn, loại trừ tình trạng "phép vua thua lệ làng", một yêu cầu khách quan
được đặt ra là hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân phải được tổ chức và
hoạt động theo nguyên tắc không lệ thuộc vào bất kỳ một cơ quan nhà nước
nào ở địa phương. Có quan điểm cho rằng, nguyên tắc này biện Viện kiểm sát
nhân dân thành một hệ thống cơ quan nhà nước có những quyền hạn quá lớn,
đứng ngoài mọi sự giám sát. Suy nghĩ như vậy biểu hiện một cách nhìn nhận
chưa toàn diện về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của ngành kiểm sát nhân
dân. Nguyên tắc này nhằm tạo ra điều kiện để ngành kiểm sát nhân dân thực
hiện tốt nhiệm vụ của mình là bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách
nghiêm chỉnh và thống nhất. Theo Hiến pháp 1992 (sửa đổi) và Luật Tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, toàn bộ hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân được đặt dưới sự giám sát toàn diện, thường xuyên và chặt chẽ của Quốc
hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội,
trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo trước Ủy
ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước (Điều 139 Hiến pháp 1992 sửa đổi
và Điều 9 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002).
Nội dung nguyên tắc Viện kiểm sát nhân dân không lệ thuộc vào bất
kỳ cơ quan nhà nước nào ở địa phương thể hiện ở chỗ: Các Viện kiểm sát
nhân dan thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình một cách độc lập, không
chịu sự chi phối bởi các cơ quan nhà nước ở địa phương, mà chỉ chịu sự lãnh
đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Khi hoạt động, các Viện

×