Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn điều tra các vụ án cố ý gây thương tích trên địa bàn tỉnh Hà Tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (707.01 KB, 125 trang )


4
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, công cuộc đổi mới của đất nước trong
những năm qua đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên nhiều mặt về kinh tế,
chính trị, văn hóa xã hội, đời sống của nhân dân ngày càng nâng cao, đất nước ta
ngày càng vững bước đi trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cùng với
những thành tựu đã đạt được, nhiều vấn đề tiêu cực trong xã hội cũng nảy sinh,
trong đó tình hình tội phạm nói chung, tội phạm cố ý gây thương tích nói riêng
cũng nhiều diễn biến phức tạp và có hướng gia tăng. Trong bối cảnh chung đó,
tình hình tội phạm cố ý gây thương tích xảy ra trên địa bàn tỉnh Hà Tây cũng có
nhiều diễn biến phức tạp. Số vụ cố ý gây thương tích xảy ra ở hầu hết các địa
phương trên địa bàn tỉnh, các vụ đánh nhau đông người tham gia và gây thương
tích cho nhiều người có xu hướng gia tăng với tính chất ngày càng nghiêm trọng.
Trước tình hình trên, các cơ quan pháp luật tỉnh Hà Tây đã tập trung thực hiện
tốt công tác đấu tranh và phòng ngừa, nên tình hình tội phạm này đã từng bước
được ổn định.
Do đặc điểm của loại tội phạm cố ý gây thương tích mang tính bạo
lực, xâm phạm trực tiếp đến khách thể quan trọng là quyền bất khả xâm phạm
về thân thể của công dân. Hậu quả của tội phạm này gây ra không chỉ là
thương tích, làm tổn hại sức khỏe của người khác, mà còn làm ảnh hưởng đến
tình hình an ninh, trật tự ở địa phương, gây bất bình trong nhân dân. Bên cạnh
đó, hung thủ thực hiện tội phạm cố ý gây thương tích thường có mối quan hệ
quen biết từ trước với nạn nhân, nhân chứng và những người liên quan nên họ
sợ bị trả thù hoặc ngại cung cấp thông tin. Đây là nguyên nhân làm cho việc
điều tra thu thập tài liệu, chứng cứ của các cơ quan tiến hành tố tụng nói
chung, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) trong giai đoạn điều
tra đối với loại án này gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng
hiệu quả hoạt động điều tra và xử lý của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với



5
loại tội phạm cố ý gây thương tích trên địa bàn tỉnh Hà Tây là rất cần thiết.
Theo quy định Hiến pháp và Điều 3 Luật tổ chức VKSND hiện hành
thì VKSND thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình bằng hoạt động thực
hành quyền công tố (THQCT) và kiểm sát hoạt động tư pháp, trong đó có
hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật trong việc
điều tra các vụ án hình sự của các cơ quan điều tra (CQĐT) và các cơ quan khác
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm góp phần đảm bảo
cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, giữ vững được nền
pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước ta. Trong những năm qua, hoạt động
THQCT và kiểm sát điều tra (KSĐT) các vụ án hình sự cố ý gây thương tích của
VKSND tỉnh Hà Tây đã có sự tiến bộ rõ rệt, góp phần đảm bảo cho hoạt động
phân loại xử lý tố giác, tin báo về tội phạm, khởi tố vụ án, khởi tố bị can, hoạt
động điều tra thu thập chứng cứ và lập hồ sơ đề nghị truy tố của Cơ quan Cảnh
sát điều tra (CSĐT) được tuân thủ theo quy định của pháp luật; đồng thời, thông
qua hoạt động này, VKSND tỉnh Hà Tây đã góp phần nâng cao hiệu quả công
tác phòng ngừa loại tội phạm cố ý gây thương tích ở địa phương. Bên cạnh
những kết quả đạt được, hoạt động của VKSND trong giai đoạn điều tra các vụ
án hình sự nói chung, các vụ án cố ý gây thương tích nói riêng còn bộc lộ nhiều
hạn chế, thiếu sót như: Chưa thực hiện tốt công tác kiểm sát việc phân loại xử lý
tố giác, tin báo về tội phạm, chất lượng công tác THQCT chưa cao, việc phê
chuẩn các quyết định của CQĐT đôi lúc còn chưa kịp thời; hoạt động kiểm sát
điều tra từ đầu, kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án còn chưa thật chủ động, chưa
đầy đủ, toàn diện, việc phát hiện những vi phạm trong hoạt động điều tra của
CQĐT chưa được thường xuyên, kiên quyết, còn hiện tượng nể nang. Các yêu
cầu điều tra chưa đầy đủ, cụ thể nên việc định hướng hoạt động điều tra còn
hạn chế... Do vậy, đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng của công tác điều
tra.
Những hạn chế, tồn tại, thiếu sót trên do nhiều nguyên nhân khác

nhau. Trong đó, nguyên nhân cơ bản là nhận thức về công tác THQCT - KSĐT

6
của VKSND còn thiếu đầy đủ và chưa thống nhất. Lý luận về hoạt động kiểm
sát trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự chưa được xem xét, nghiên cứu
có tính hệ thống, đầy đủ và toàn diện. Thực tiễn hoạt động của VKSND trong
giai đoạn điều tra các vụ án hình sự nói chung và các vụ án cố ý gây thương
tích nói riêng chưa được quan tâm nghiên cứu, tổng kết thường xuyên.
Để góp phần nâng cao hiệu quả công tác điều tra và xử lý các loại tội
phạm hình sự nói chung, tội phạm cố ý gây thương tích nói riêng. Đồng thời,
góp phần tổng kết kinh nghiệm thực tiễn hoạt động THQCT - KSĐT tội phạm
này trên địa bàn tỉnh Hà Tây, làm nền tảng để xây dựng cơ sở lý luận cho việc
nhận thức và nâng cao chất lượng công tác THQCT - KSĐT các vụ án hình
sự, tác giả đã chọn đề tài nghiên cứu: "Hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân trong giai đoạn điều tra các vụ án cố ý gây thương tích trên địa bàn
tỉnh Hà Tây" làm luận văn Thạc sĩ Luật học là rất cần thiết, nhằm đáp ứng cả
về phương diện lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đến nay chưa có một công trình khoa học nghiên cứu về hoạt động
của VKSND trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Hà
Tây. Chỉ có một số một số bài báo khoa học đề cập tới một số khía cạnh và ở
những mức độ khác nhau về hoạt động của VKSND trong giai đoạn điều tra
tội phạm hoặc có một số công trình khoa học nghiên cứu về hoạt động của
VKSND. Trong đó, có sự đóng góp đáng kể của một số đề tài khoa học sau:
Đề tài: "Nghiên cứu giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm sát trong
việc đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Hà Tây" do
VKSND tỉnh Hà Tây thực hiện năm 2002; Đề tài: "Nghiên cứu giải pháp đấu
tranh, phòng ngừa tội phạm cớp tài sản trên địa bàn tỉnh Hà Tây" do
VKSND tỉnh Hà Tây thực hiện năm 2003; Chuyên đề: "Kinh nghiệm giải
quyết những điểm phức tạp liên quan đến lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai

trên địa bàn tỉnh Hà Tây" do VKSND tỉnh Hà Tây thực hiện năm 2005 hoặc
Luận văn thạc sĩ Luật học: "Hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân trong giai

7
đoạn điều tra các vụ án ma túy - Lý luận, thực tiễn và các giải pháp nâng
cao" của tác giả Nguyễn Mạnh Hiền, năm 2005; Luận văn thạc sĩ Luật học:
"Hoạt động của Cơ quan Cảnh sát điều tra trong điều tra tội phạm gây
thương tích trên địa bàn thành phố Hà Nội" của tác giả Phạm Văn Các, năm
2005; hoặc chuyên đề: "Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong công
tác phòng ngừa tội phạm" của tác giả Nguyễn Hồng Vinh và tập thể cán bộ
Trường Cao đẳng Kiểm sát năm 2003;...
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài khoa học
- Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về hoạt động của VKSND trong giai
đoạn điều tra các vụ án cố ý gây thương tích. Đánh giá một cách khách quan
thực trạng hoạt động của VKSND trong giai đoạn điều tra tội phạm này trên
địa bàn tỉnh Hà Tây từ năm 2000 đến 6/2005. Từ đó, chỉ ra những mặt tích
cực, hạn chế, nguyên nhân tồn tại và những vướng mắc đề xuất một số giải
pháp chủ yếu để hoàn thiện lý luận và góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động điều tra các vụ án cố ý gây thương tích trên địa bàn tỉnh Hà Tây.
- Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để đạt được mục đích nêu trên, quá trình nghiên cứu, tác giả tập trung
giải quyết các nhiệm vụ cụ thể như sau:
+ Phân tích làm rõ khái niệm, dấu hiệu pháp lý và đặc điểm hình sự
của tội phạm cố ý gây thương tích.
+ Nghiên cứu làm sáng tỏ mặt lý luận về hoạt động của VKSND trong
giai đoạn điều tra các vụ án cố ý gây thương tích.
+ Khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động của VKSND
trong giai đoạn điều tra các vụ án cố ý gây thương tích trên địa bàn tỉnh Hà
Tây từ năm 2000 đến 6/2005. Chỉ ra những mặt tích cực, hạn chế, nguyên

nhân tồn tại và những vướng mắc trong hoạt động của VKSND trong giai
đoạn điều tra đối với loại án này.

8
+ Đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác THQCT
và KSĐT của VKSND đối với hoạt động điều tra vụ án hình sự cố ý gây
thương tích trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Hoạt động của VKSND trong giai
đoạn điều tra án cố ý gây thương tích trên địa bàn tỉnh Hà Tây. Trong đó, nội
dung cơ bản là hoạt động THQCT và hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp
luật đối với Cơ quan CSĐT trong quá trình thực hiện việc thu thập, xử lý tố giác,
tin báo về tội phạm; khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; việc áp dụng, thay đổi
hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động điều tra. Kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi,
khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản, vật chứng; việc tiến hành thu thập lời
khai người làm chứng, người bị hại, hỏi cung bị can và những người có liên
quan; hoạt động đối chất và nhận dạng, thực nghiệm điều tra và trưng cầu
giám định; việc chấp hành thời hạn điều tra; phục hồi điều tra, điều tra bổ
sung; việc phát hiện và khắc phục nguyên nhân, điều kiện tội phạm; việc ra
các quyết định tạm đình chỉ điều tra, đình chỉ điều tra, phục hồi điều tra và kết
thúc điều tra. Nghiên cứu các quyết định của VKSND sau khi vụ án được kết
thúc điều tra.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Hoạt động THQCT và kiểm sát hoạt
động tư pháp của VKSND rất rộng. Nhưng trong đề tài này, tác giả chỉ tập
trung nghiên cứu công tác THQCT - KSĐT của VKSND đối với các vụ án
hình sự cố ý gây thương tích theo quy định tại Điều 104 Bộ luật hình sự (BLHS)
xảy ra trên địa bàn tỉnh Hà Tây từ năm 2000 đến 6/2005 của Cơ quan CSĐT -
Công an các huyện, thị xã và Cơ quan CSĐT tỉnh Hà Tây.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài

Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các
quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác điều tra, xử lý tội phạm nói

9
chung, công tác điều tra, xử lý các vụ án cố ý gây thương tích nói riêng.
Để thực hiện các nội dung nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương
pháp cụ thể như: Phân tích, tổng hợp, so sánh, điều tra xã hội học, thảo luận,
tọa đàm và phương pháp chuyên gia, trực tiếp khảo sát ….
6. Những đóng góp mới của đề tài
- Lần đầu tiên có một đề tài nghiên cứu về lý luận đầy đủ toàn diện, rõ
ràng về công tác THQCT, KSĐT của VKSND trong giai đoạn điều các vụ án
cố ý gây thương tích.
- Trên cơ sở khảo sát thực tế đề tài đã đánh giá, phân tích thực trạng
hoạt động của VKSND trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích
trên địa bàn tỉnh Hà Tây trong thời gian từ năm 2000 đến 6/2005, những ưu,
khuyết điểm và nguyên nhân làm cơ sở khoa học cho các kiến nghị, đề xuất.
- Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của VKSND trong
giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích là tài liệu phục vụ cho cán bộ
của Viện kiểm sát (VKS) trong hoạt động thực tiễn và đây cũng là tài liệu
tham khảo học tập cho học viên các trường Kiểm sát và trường Cảnh sát nhân
dân - Bộ Công an.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Nhận thức chung về hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
trong giai đoạn điều tra các vụ án cố ý gây thương tích.
Chương 2: Thực trạng hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong
giai đoạn điều tra các vụ án cố ý gây thương tích trên địa bàn tỉnh Hà Tây từ
năm 2000 đến tháng 6/2005.

Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn điều tra các vụ án cố ý gây thương

10
tích trên địa bàn tỉnh Hà Tây.

11
Chơng 1
nhận thức chung về hoạt động
của viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn điều tra
các vụ án cố ý gây thơng tích

1.1. Nhận thức chung về tội phạm cố ý gây thơng tích
1.1.1. Khái niệm tội phạm cố ý gây thơng tích
Bộ luật hình sự nớc Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1985 quy định
tội phạm cố ý gây thơng tích, với tội danh "Tội cố ý gây thơng tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của ngời khác" đợc qui định tại Điều 109. Đến
năm 1999, nhằm mục đích cá thể hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa tội
phạm, Quốc hội đã ban hành BLHS năm 1999 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2000)
quy định tội phạm này thành ba điều luật: Khoản 1, khoản 2, khoản 3 Điều 109
BLHS năm 1985 chuyển thành Điều 104 BLHS năm 1999 (tội cố ý gây thơng
tích); khoản 4, Điều 109 BLHS năm 1985 chuyển thành các Điều 105 BLHS
năm 1999 (tội cố ý gây thơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngời
khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh) và Điều 106 BLHS năm
1999 (tội cố ý gây thơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngời khác
do vợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng). Tội phạm cố ý gây thơng tích
thuộc nhóm các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của
con ngời đợc qui định trong Chơng 12 BLHS.
Điều 8 BLHS năm 1999 đa ra khái niệm về tội phạm nh sau:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội đợc qui định trong BLHS,

do ngời có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý,
xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc, xâm
phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật
tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng,

12
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp của
công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Nh vậy, nội hàm của khái niệm tội phạm có các dấu hiệu cơ bản là:
Tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính trái pháp luật và tính phải chịu
hình phạt. Trong đó, tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu cơ bản nhất, quyết
định những dấu hiệu khác của tội phạm.
Đối với tội phạm cố ý gây thơng tích ngoài những dấu hiệu pháp lý
đặc trng chung nh trên thì còn có dấu hiệu pháp lý riêng đó là: Tính nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm cố ý gây thơng tích đợc biểu hiện tập trung
nhất ở hành vi dùng sức mạnh vật chất tác động trực tiếp lên cơ thể của ngời
khác, làm tổn thơng một bộ phận hay toàn bộ cơ thể, làm tổn hại, làm mất
hẳn hay làm mất một chức năng của một cơ quan nào đó trên cơ thể con ngời
(nh làm gãy tay, chân, cụt tay, cụt chân, mù mắt...).
Tính có lỗi thể hiện thái độ tâm lý của một ngời đối với tội phạm mà
ngời đó gây ra. Việc xác định lỗi là rất cần thiết bởi lỗi là đặc điểm quan
trọng của tội phạm nói chung và tội phạm gây thơng tích nói riêng. Về mặt hình
sự, lỗi của ngời phạm tội đợc xác định trên cơ sở làm rõ ngời phạm tội có
nhận thức về hành vi phạm tội hay không, có ý thức thế nào đối với hậu quả của
hành vi. Tội phạm gây thơng tích có hai loại lỗi là lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý (BLHS
quy định rõ tội cố ý gây thơng tích, tội vô ý gây thơng tích cho ngời khác).
Ngời phạm tội do lỗi cố ý nguy hiểm hơn ngời phạm tội do lỗi vô ý.
Tính trái pháp luật của tội phạm gây thơng tích cũng nh tội phạm
nói chung theo quy định tại Điều 2 BLHS là: "Chỉ ngời nào phạm một tội đã
đợc Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự".

Tính phải chịu hình phạt: BLHS quy định tính chịu hình phạt là đặc
điểm cơ bản của tội phạm, tính chịu hình phạt là thuộc tính bên ngoài của tội
phạm nó thể hiện đã có tội thì phải chịu hình phạt, không áp dụng hình phạt
đối với ngời vô tội hoặc ngời có hành vi vi phạm pháp luật khác. Tuy nhiên,

13
trên thực tiễn có nhiều trờng hợp ngời phạm tội đợc miễn trách nhiệm hình
sự, miễn hình phạt theo quy định tại Điều 25, Điều 57 BLHS.
Từ việc nghiên cứu lý luận trên chúng ta có thể khái niệm:
Tội phạm gây thơng tích là loại tội phạm do ngời phạm tội đã cố ý
hoặc vô ý thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội (sức mạnh bạo lực) gây
thơng tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho ngời khác, một cách trái quy định
của pháp luật hình sự và đến mức đáng phải xử lý bằng hình phạt. Hành vi gây
thơng tích đợc thực hiện bằng phơng pháp hành động nh dùng chân tay,
hung khí tác động lên cơ thể ngời khác làm họ bị thơng tích hoặc bị tổn hại
sức khỏe, hoặc có thể thực hiện bằng phơng pháp không hành động nh buộc
nạn nhân phải gây thơng tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho mình hoặc giúp
sức cho đồng phạm thực hiện phạm tội hành vi gây thơng tích
Tội phạm cố ý gây thơng tích có những dấu hiệu đặc trng của tội
phạm gây thơng tích đó là: Ngời phạm tội cũng thực hiện sức mạnh vật chất
tác động trực tiếp lên cơ thể ngời khác bằng các hình thức khác nhau làm cho
họ bị thơng tích hoặc bị tổn hại sức khỏe và tính nguy hiểm của sự tổn hại
thơng tích hoặc sức khỏe đó đến mức bị coi là tội phạm. Nhng có đặc điểm
riêng là hành vi phạm tội gây thơng tích đó phải thực hiện do lỗi cố ý và
không phải trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội phạm cố ý gây thơng tích theo
quy định tại Điều 104 Bộ luật hình sự
Về mặt lý luận tội phạm cố ý gây thơng tích cũng có đầy đủ các dấu
hiệu pháp lý về cấu thành tội phạm nh tội phạm nói chung đó là: Yếu tố
khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, yếu tố chủ thể của tội

phạm, mặt chủ quan của tội phạm. Cụ thể là:
- Khách thể của tội phạm: Tội cố ý gây thơng tích xâm hại đến quyền
bất khả xâm phạm về thân thể, quyền đợc bảo hộ về tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự đợc qui định rõ tại Điều 71 Hiến pháp nớc Cộng hòa

14
XHCN Việt Nam. Trong BLHS, các chơng tội xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, nhân phẩm, danh dự đợc qui định ngay sau chơng các tội xâm phạm
an ninh quốc gia. Khách thể trực tiếp của tội phạm cố ý gây thơng tích không
phải là con ngời nói chung mà là sức khỏe của ngời khác, là quyền bất khả
xâm phạm về thân thể của công dân đã đợc Hiến pháp quy định. Những
trờng hợp tự gây thơng tích hoặc tổn hại sức khỏe cho bản thân mình thì
không cấu thành tội danh qui định các điều luật này.
- Mặt khách quan của tội phạm: Giống nh các loại tội phạm khác,
mặt khách quan của tội phạm cố ý gây thơng tích là những biểu hiện ra bên
ngoài của tội phạm. Đó là hành vi dùng sức mạnh vật chất (dùng tay, chân...
đấm, đá hoặc dùng các loại công cụ phơng tiện, súng, lựu đạn hoặc các loại
hung khí khác nh dao, côn, gậy...) tác động trực tiếp đến thân thể ngời khác,
làm cho ngời đó bị thơng tích hoặc tổn hại đến sức khỏe; hoặc có thể do
ngời phạm tội bắt nạn nhân tự gây thơng tích cho mình...
Để xác định hành vi của tội phạm gây thơng tích có đủ yếu tố mặt
khách quan hay không ngoài việc quy định yếu tố bắt buộc về quan hệ nhân
quả do hành vi gây thơng tích gây ra hậu quả mà nạn nhân phải gánh chịu thì
BLHS còn quy định hậu quả tội phạm này là mức độ tổn hại thơng tích hoặc
sức khỏe của nạn nhân ở một tỷ lệ nhất định, cụ thể là:
+ Đối với tội phạm cố ý gây thơng tích (Điều 104), tỉ lệ thơng tật
của nạn nhân phải từ 11% trở lên. Nếu tỷ lệ thơng tật cha đến 11% thì phải
thuộc một trong các trờng hợp quy định từ điểm a đến điểm k, khoản 1 Điều
104 mới cấu thành tội gây thơng tích, cụ thể là:
Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho

nhiều ngời.
Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân.
Phạm tội nhiều lần đối với cùng một ngời hoặc đối với nhiều ngời.
Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, ngời già yếu, ốm đau hoặc
ngời khác không có khả năng tự vệ.

15
Đối với ông, bà, cha, mẹ, ngời nuôi dỡng, thầy giáo, cô giáo của mình.
Có tổ chức.
Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện
pháp đa vào cơ sở giáo dục.
Thuê gây thơng tích hoặc gây thơng tích thuê.
Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm.
Để cản trở ngời thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
+ Đối với tội phạm cố ý gây thơng tích trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh (Điều 105) và tội cố ý gây thơng tích do vợt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng (Điều 106), tỉ lệ thơng tật của nạn nhân phải từ 31% trở
lên mới cấu thành tội phạm.
- Mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm cố ý gây thơng tích đợc
thực hiện do lỗi cố ý (trực tiếp hoặc gián tiếp), ngời phạm tội ý thức đợc
tính chất nguy hiểm của hành vi mà mình sẽ thực hiện, thấy trớc đợc hậu
quả do hành vi mình thực hiện nhất định có thể sẽ gây ra thơng tích hoặc tổn
hại sức khỏe cho ngời khác hoặc mong muốn, hoặc là để mặc cho hậu quả
xảy ra làm cho nạn nhân bị thơng tích, hay bị tổn hại sức khỏe.
Trong mặt chủ quan của tội phạm cố ý gây thơng tích thì động cơ và
mục đích không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Tuy
nhiên, trong một số trờng hợp, việc chứng minh động cơ, mục đích của ngời
phạm tội lại có ý nghĩa quyết định đối với việc định tội và định khung.
Hành vi phạm tội gây thơng tích thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp hoặc
gián tiếp. Nếu lỗi cố ý trong trờng hợp gây thơng tích có mức độ nguy hiểm

thấp hơn so với tội giết ngời, bởi vì ngời phạm tội không mong muốn cho
nạn nhân chết mà chỉ muốn xâm hại tới sức khỏe của nạn nhân, muốn làm cho
nạn nhân bị thơng tích hoặc bị tổn thơng khác. Có nghĩa là, trờng hợp nạn
nhân chết là nằm ngoài dự định, mong muốn của ngời phạm tội, song họ vẫn

16
phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thơng tích dẫn đến chết ngời,
theo khoản 3 Điều 104 BLHS.
- Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội phạm cố ý gây thơng tích là
con ngời cụ thể, có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định,
đợc quy định tại Điều 12 BLHS: Ngời từ đủ 16 tuổi trở lên, nhng cha đủ
18 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Ngời từ đủ 14 tuổi trở
lên, nhng cha đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất
nghiêm trọng do cố ý, hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đối chiếu với
khoản 3 Điều 8 BLHS quy định về các loại tội phạm thì tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự của tội cố ý gây thơng tích là ngời từ đủ 16 tuổi trở lên, riêng
ngời từ đủ 14 tuổi đến dới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự nếu phạm
tội quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 104 của Bộ luật này.
Trờng hợp ngời không có năng lực phải chịu trách nhiệm hình sự (đợc
quy định tại Điều 13 BLHS), là ngời đang mắc các bệnh về tâm thần hoặc bệnh
hiểm nghèo gây ảnh hởng đến trạng thái tâm lý của họ; là ngời có đủ khả năng
nhận thức và khả năng điều chỉnh hành vi của mình nhng không nhận thức
đợc tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi mà mình sẽ thực hiện).
Tóm lại, nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý của tội phạm cố ý gây
thơng tích có ý nghĩa cả về mặt lý luận thực tiễn. Qua đó, giúp cho hoạt động
THQCT và kiểm sát điều tra xử lý tội phạm nói chung, tội phạm gây thơng
tích nói riêng đợc chính xác, đúng ngời, đúng tội và đúng pháp luật.
1.2. Nhận thức và đặc điểm hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân trong giai đoạn điều tra các vụ án cố ý gây thơng tích
1.2.1. Nhận thức về hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong

giai đoạn điều tra các vụ án cố ý gây thơng tích
Hoạt động của VKSND trong giai đoạn điều tra chính là hoạt động
THQCT và kiểm sát điều tra đối với hoạt động điều tra các vụ án hình sự. Đây

17
cũng là một trong những hoạt động chủ yếu của VKSND. Tuy nhiên, trải qua
hơn 45 năm hình thành và phát triển, việc nhận thức về chức năng, nhiệm vụ
của VKSND vẫn còn những hạn chế, bất cập nhất định. Do vậy, việc làm sáng
tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn để nhận thức đúng đắn, đầy đủ về chức
năng, nhiệm vụ THQCT và kiểm sát các hoạt động t pháp trong giai đoạn
điều tra các vụ án hình sự, trong đó có các vụ án hình sự cố ý gây thơng tích
là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng để nâng cao chất lợng, hiệu quả công tác
của VKSND trong giai đoạn hiện nay.
Hiến pháp 1992 (đã đợc sửa đổi bổ sung theo Nghị quyết 51/2001-QH10
ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 10) và Luật tổ
chức VKSND năm 2002 quy định: VKSND có chức năng, nhiệm vụ THQCT,
kiểm sát các hoạt động t pháp. Nhng đến nay, việc nhận thức cũng nh
phân biệt THQCT và kiểm sát các hoạt động t pháp, trong đó có hoạt động
KSĐT là một vấn đề phức tạp. Nhiều hoạt động của VKSND chỉ đợc đánh
giá là kết quả chung của công tác kiểm sát, mà cha phân biệt cụ thể và xác
định rõ hai hình thức hoạt động chủ yếu của VKSND, nên cha đánh giá đợc
chất lợng, hiệu quả công tác THQCT (trong việc chống bỏ lọt tội phạm,
chống làm oan ngời vô tội) và công tác KSĐT (trong việc phát hiện và khắc
phục những vi phạm, thiếu sót của các cơ quan t pháp). Trong khoa học đã có
nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề này, nhng vẫn cha có quan
điểm mang tính thống nhất và cha đợc triển khai thực hiện đồng bộ. Mặc
dù, Luật tổ chức VKSND năm 2002 bớc đầu đã phân định THQCT và kiểm
sát các hoạt động t pháp trong đó có giai đoạn điều tra, nhng một số vấn đề
mà pháp luật đã quy định cũng cần phải đợc tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện.
Do vậy, việc nhận thức đúng đắn hoạt động nào của VKSND là THQCT, hoạt

động nào là kiểm sát điều tra có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình cải cách t
pháp ở nớc ta; đồng thời là cơ sở quan trọng để sửa đổi, bổ sung và hoàn
thiện Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) trong giai đoạn hiện nay.

18
- Về hoạt động thực hành quyền công tố
Theo Từ điển Hán - Việt thì "công tố" là: "Quan kiểm sát đã xét xử
hình sự rồi, bên thay mặt quốc gia để buộc tội trớc Tòa án" [21, tr. 122], theo
Từ điển tiếng Việt là: "Truy tố, buộc bị cáo và phát biểu ý kiến trớc Tòa
án" [22, tr. 210]; còn theo Thuật ngữ pháp lý phổ thông là: "Hoạt động của
Kiểm sát viên và những ngời khác đợc luật định (công tố viên xã hội) có
nhiệm vụ vạch mặt kẻ phạm tội, xác định căn cứ để kết tội và áp dụng hình
phạt đối với ngời phạm tội..." [16, tr. 94). Nh vậy, hoạt động THQCT gắn
liền với việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ngời phạm tội.
Điều 137 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) đã quy định nh sau: "Viện
kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động t pháp,
góp phần bảo đảm cho pháp luật đợc chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất". Điều 1 Luật tổ chức VKSND năm 2002 quy định: "Viện kiểm sát nhân
dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động t pháp theo quy định
của Hiến pháp và pháp luật". Khoản 1 Điều 23 BLTTHS cũng quy định: Viện
kiểm sát THQCT trong tố tụng hình sự (TTHS), quyết định việc truy tố ngời
phạm tội ra trớc Tòa án. VKS THQCT và kiểm sát tuân theo pháp luật trong
TTHS nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải đợc xử lý kịp thời, việc
khởi tố điều tra, truy tố, xét xử thi hành án đúng ngời, đúng tội, đúng pháp
luật không để lọt tội phạm và ngời phạm tội, không làm oan ngời vô tội
(khoản 3 Điều 23 BLTTHS)
Với những quy định nêu trên của pháp luật, chúng ta có thể xác định
THQCT trên một số phơng diện chủ yếu sau:
+ Về chủ thể, quyền công tố là quyền năng pháp lý quan trọng đợc
pháp luật giao cho một chủ thể duy nhất thực hiện, đó là VKSND. Một số cơ

quan khác đợc thực hiện các hoạt động liên quan đến quyền công tố của
VKS, nh: Hoạt động khởi tố vụ án hình sự của CQĐT và Tòa án. Tuy nhiên,
các hoạt động này chỉ là giai đoạn ban đầu nhằm khởi động quyền công tố của

19
VKS và không quyết định việc buộc tội tại Tòa án. Do vậy, một số hoạt động
của các cơ quan trên chỉ là bổ trợ cho quyền công tố của VKS, chứ không phải
là hoạt động THQCT.
+ Về phạm vi quyền công tố, đến nay vẫn tồn tại nhiều quan điểm
khác nhau. Chúng tôi xin nêu một số quan điểm phổ biến hiện nay nh sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, quyền công tố của VKS có phạm vi rất
rộng, bao gồm trong các lĩnh vực: Hình sự, dân sự, kinh tế... Chúng tôi cho
rằng, bản chất của quyền công tố là việc truy tố ngời phạm tội. Do vậy,
quyền công tố chỉ xuất hiện trong lĩnh vực hình sự.
Quan điểm thứ hai cho rằng, quyền công tố có phạm vi rất hẹp, chỉ
xuất hiện khi VKS truy tố ngời phạm tội và duy trì quyền công tố tại Tòa án.
Quan điểm này cha đầy đủ, bởi lẽ việc truy tố ngời phạm tội và duy trì
quyền công tố tại Tòa án là hình thức cao nhất, là "hạt nhân" của THQCT, còn
trớc đó VKS đã có các hoạt động khởi động quyền công tố, nh: Quyết định
khởi tố vụ án hình sự...
Quan điểm thứ ba khẳng định rằng, quyền công tố xuất hiện từ khi có
tội phạm xảy ra đến khi bản án có hiệu lực pháp luật. Theo quan điểm này,
quyền công tố của VKSND đợc thực hiện trong quá trình TTHS, từ giai đoạn
phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử (sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm). Còn
thi hành án hình sự không có việc tiến hành tố tụng, cũng nh không có việc
chứng minh và buộc tội trớc Tòa án, nên không thuộc phạm vi THQCT.
Theo nhận thức của chúng tôi thì quan điểm thứ ba quan niệm về phạm
vi THQCT là có cơ sở. Bởi lẽ quan điểm này thỏa mãn đầy đủ các các dấu hiệu
của quyền công tố nhà nớc theo quy định của Luật tổ chức VKSND năm 2002,
phù hợp với thực tế hoạt động của VKSND trong những năm qua và đáp ứng

với yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay.
+ Về khái niệm, quyền công tố là quyền năng pháp lý mà Nhà nớc
giao cho VKSND đợc thực hiện. Còn THQCT là việc tổ chức thực hiện quyền

20
công tố trên thực tiễn. Với những phân tích trên, khái niệm THQCT là: Hoạt
động của VKSND trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ngời phạm
tội và thực hiện buộc tội ngời phạm tội tại Tòa án.
Từ những phân tích đánh giá trên, chúng tôi rút ra nhận thức về công tác
THQCT trong giai đoạn điều tra tội phạm cố ý gây thơng tích là: Hoạt động của
VKSND trong việc ra các quyết định TTHS để truy cứu trách nhiệm hình sự và
thực hiện việc buộc tội tại Tòa án đối với ngời phạm tội cố ý gây thơng tích.
- Về kiểm sát hoạt động điều tra
Theo Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/1/2002 của Bộ Chính trị về
"Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác t pháp trong thời gian tới", thì hoạt
động t pháp bao gồm: Hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình
sự, thi hành án dân sự, giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt động t pháp của
các cơ quan t pháp, hoạt động bổ trợ t pháp... Do vậy, hoạt động của các
chủ thể trên đều là đối tợng của kiểm sát các hoạt động t pháp.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 23 của BLTTHS thì VKSND kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong TTHS có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm
pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng, ngời tiến hành tố tụng và ngời
tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do bộ luật này quy định để loại trừ
việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này.
Kiểm sát các hoạt động điều tra là một khái niệm mới, nhng trên thực
tế đã đợc VKSND thực hiện từ những năm 1960 tức là ngay từ khi đợc
thành lập. Đó là công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động
điều tra các vụ án hình sự... Theo Hiến pháp, BLTTHS và pháp luật hiện hành
thì kiểm sát điều tra là một lĩnh vực hoạt động chỉ thuộc một cơ quan duy nhất
là VKSND. Hoạt động KSĐT bắt đầu từ giai đoạn phát hiện tội phạm đến khi

VKS có quyết định truy tố ngời phạm tội ra Tòa án nhân dân hoặc ra quyết
định đình chỉ điều tra vụ án đã có hiệu lực pháp luật.

21
Mục đích của kiểm sát các hoạt động điều tra là bảo đảm cho các hoạt
động điều tra phải chấp hành đúng các trình tự, thủ tục, thẩm quyền, thời hạn
đã đợc pháp luật quy định. Do vậy, khái niệm kiểm sát các hoạt động điều tra
đợc hiểu là: Hoạt động của VKSND trong việc bảo đảm cho các hoạt động
điều tra đợc thực hiện theo quy định pháp luật.
Từ phân tích nêu trên, chúng tôi rút ra nhận thức về hoạt động KSĐT
các vụ án hình sự cố ý gây thơng tích là: Hoạt động kiểm sát các hoạt động
điều tra của Cơ quan CSĐT trong giai đoạn điều tra các vụ án cố ý gây thơng
tích nhằm bảo đảm cho các hoạt động điều tra đợc tuân thủ theo trình tự
đúng quy định của BLTTHS và đúng pháp luật.
- Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và hoạt động KSĐT
trong TTHS
Mục đích của THQCT và KSĐT đều nhằm phát hiện nhanh chóng, xử
lý nghiêm minh, đúng pháp luật các hành vi phạm tội, bảo đảm việc điều tra, truy
tố, xét xử đúng ngời, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan ngời vô tội,
không bỏ lọt tội phạm. THQCT và kiểm sát các hoạt động điều tra có mối quan
hệ trong lĩnh vực hình sự và trong phạm vi THQCT đợc tiến hành từ khi có tội
phạm xảy ra đến khi vụ án đợc đa ra xét xử. Nếu nh hoạt động THQCT là bảo
đảm mọi tội phạm phải đợc xử lý, thì kiểm sát các hoạt động điều tra bảo đảm
việc xử lý tội phạm phải đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Do vậy,
giữa THQCT và KSĐT có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong TTHS. Mối
quan hệ giữa THQCT và KSĐT là mối quan hệ giữa nội dung và hình thức.
Về tổ chức hoạt động, THQCT - KSĐT đều do VKSND thực hiện.
Trong các khâu công tác kiểm sát, Kiểm sát viên vừa THQCT, vừa thực hiện
KSĐT. Thực hành quyền công tố và KSĐT có mối quan hệ tơng hỗ, tác động
qua lại lẫn nhau. Nếu thực hiện tốt công tác THQCT sẽ là điều kiện thuận lợi

để kiểm sát các hoạt động điều tra có chất lợng, hiệu quả và ngợc lại. Tiến
hành tố tụng là một quá trình, mà kết quả của giai đoạn trớc là tiền đề để
thực hiện các hoạt động của giai đoạn sau.

22
- Những dấu hiệu cơ bản phân biệt thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động điều tra
THQCT và kiểm sát các hoạt động điều tra tuy có mối quan hệ chặt
chẽ, nhng giữa chúng có những điểm khác nhau rõ rệt, đòi hỏi phải đợc
nhận thức đầy đủ và thống nhất. Trên cơ sở những quy định của pháp luật hiện
hành, theo tôi đa ra những dấu hiệu cơ bản để phân biệt THQCT và kiểm sát
các hoạt động điều tra nh sau:
+ Về phạm vi hoạt động: THQCT và kiểm sát các hoạt động điều tra
đều xuất hiện từ khi tội phạm xảy ra.
+ Về đối tợng: Đối tợng của THQCT là tội phạm, còn đối tợng của
kiểm sát các hoạt động điều tra là hoạt động thuộc lĩnh vực điều tra của các cơ
quan t pháp, ngời tiến hành tố tụng và ngời tham gia TTHS.
+ Về căn cứ tiến hành: THQCT dựa trên quy định của luật nội dung (BLHS)
và luật hình thức (BLTTHS), còn kiểm sát các hoạt động điều tra chỉ dựa trên
quy định của luật hình thức và các văn bản quy định về trình tự, thủ tục TTHS.
+ Về hình thức hoạt động: THQCT đợc thực hiện thông qua các hình
thức cơ bản, nh: VKS ra lệnh, quyết định, cáo trạng, luận tội. Còn khi kiểm sát
các hoạt động t pháp, VKS ban hành các văn bản, nh: Kiến nghị, yêu cầu...
+ Về hậu quả pháp lý: Khi VKS THQCT ban hành các văn bản pháp lý,
sẽ dẫn đến các hậu quả pháp lý nh: Truy cứu hoặc không truy cứu trách nhiệm
hình sự. Còn khi tiến hành kiểm sát các hoạt động t pháp, VKS ban hành các
văn bản pháp lý dẫn đến việc xử lý các vi phạm, thiếu sót trong hoạt động điều
tra và các cơ quan khác đợc giao một số hoạt động điều tra theo TTHS.
Từ những nhận thức nêu trên, chúng ta có thể hiểu hoạt động của
VKSND trong giai đoạn điều tra tội phạm cố ý gây thơng tích là hoạt động

THQCT và KSĐT đối với Cơ quan CSĐT trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
điều tra các vụ án cố ý gây thơng tích.

23
1.2.2. Đặc điểm hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong giai
đoạn điều tra các vụ án cố ý gây thơng tích
Từ việc nhận thức chung chức năng, nhiệm vụ của VKSND theo quy
định của pháp luật về hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án hình sự nói
chung, các vụ án cố ý gây thơng tích nói riêng, theo quan điểm của chúng tôi
hoạt động của VKSND trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thơng tích có
một số đặc điểm cụ thể nh sau:
- Hoạt động của VKSND trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự cố
ý gây thơng tích là hoạt động THQCT - KSĐT các hoạt động điều tra của Cơ
quan CSĐT từ thời điểm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, khởi tố điều tra
và kết thúc khi vụ án đợc kết thúc điều tra chuyển sang giai đoạn truy tố và
xét xử. Hoạt động này của VKSND đợc tiến hành công khai theo đúng trình
tự, thủ tục do BLTTHS và các văn bản hớng dẫn thực hiện BLTTHS.
- Chủ thể thực hiện hoạt động THQCT-KSĐT chỉ có thể là Kiểm sát
viên và Viện trởng, Phó Viện trởng VKSND có thẩm quyền và có sự phối
hợp với các chủ thể khác có liên quan theo quy định của BLTTHS, Luật tổ
chức VKSND.
- Quá trình THQCT - KSĐT các vụ án cố ý gây thơng tích, Kiểm sát
viên chỉ đợc áp dụng các biện pháp và phơng tiện theo qui định của pháp
luật và theo chức năng, quyền hạn của ngành Kiểm sát nhân dân và của Kiểm
sát viên trong giai đoạn điều tra vụ án.
- Hoạt động THQCT - KSĐT của VKSND trong giai đoạn điều tra các
vụ án cố ý gây thơng tích đợc diễn ra trực tiếp, đồng thời và đề cập một
cách toàn diện mọi hành vi tố tụng của giai đoạn điều tra; hoạt động này chịu
sự chi phối bởi đặc điểm của hoạt động điều tra của CQĐT, nhằm mục đích
bảo đảm tuân thủ pháp luật trong giai đoạn điều tra, tạo điều kiện cho giai

đoạn truy tố, xét xử.

24
1.3. Những nguyên tắc cơ bản quy định hoạt động của Viện
kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thơng tích
Nguyên tắc là những t tởng chỉ đạo cơ bản của hoạt động. Nguyên
tắc hoạt động là sự biểu hiện bản chất của hoạt động. Từ những nguyên tắc
nhất định chúng ta mới có thể xây dựng nên những hoạt động cụ thể. Ngoài ra
nguyên tắc còn có tính cơng lĩnh, vạch ra những xu hớng hoạt động cơ bản
trên thực tiễn là cơ sở để bổ sung sửa đổi, hoàn thiện những quy định của pháp
luật hiện hành. Trong hoạt động điều tra làm rõ tội phạm cố ý gây thơng tích,
VKSND phải tuân theo những nguyên tắc nhất định.
1.3.1. Nguyên tắc đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa
Nội dung của nguyên tắc này đòi hỏi các hoạt động TTHS phải tuân
theo đúng các quy định của pháp luật thể hiện việc khởi tố, điều tra các vụ án
hình sự nói chung, các vụ án cố ý gây thơng tích nói riêng; việc áp dụng các
biện pháp TTHS phải có căn cứ và đúng quy định của pháp luật. Hoạt động
của VKS dựa trên các căn cứ quy định của pháp luật. Quyền chế ớc của VKS
đối với CQĐT chỉ đợc giới hạn trong phạm vi mà luật pháp quy định.
1.3.2. Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền cơ bản của công dân
Nội dung của nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình hoạt động TTHS,
CQĐT và VKS phải tôn trọng và bảo vệ quyền cơ bản của công dân đã đợc
pháp luật ghi nhận.
Việc xác định sự thật vụ án và việc bảo vệ quyền con ngời là hai nhiệm
vụ khác nhau phải đợc CQĐT và VKS thực hiện đồng thời. Nhng ở đó luôn
đề cao việc bảo vệ quyền con ngời trong toàn bộ quá trình khởi tố, điều tra và
xử lý vụ án hình sự. Trong quá trình tiến hành TTHS, các cơ quan tố tụng đều
phải tuân thủ nguyên tắc không làm oan ngời vộ tội, không bỏ lọt tội phạm.
Để đảm bảo quyền con ngời trong quá trình hoạt động TTHS, CQĐT
phải thực hiện theo đúng quy định của BLTTHS. Đặc biệt là khi áp dụng các


25
biện pháp cỡng chế nh bắt, tạm giữ, tạm giam ngời phạm tội. VKS phải
giám sát chặt chẽ việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đó và các hoạt động
điều tra của CQĐT có liên quan đến quyền con ngời để kịp thời thay đổi
hoặc hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của CQĐT nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân.
1.3.3. Nguyên tắc đảm bảo việc xác định sự thật của vụ án
Theo quy định tại Điều 10 BLTTHS thì CQĐT, VKS và Tòa án phải áp
dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách
quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định sự thật của vụ án
một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có
tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Trách nhiệm chứng minh tội
phạm thuộc về các cơ quan THTT. Bị can, bị cáo có quyền nhng không buộc
phải chứng minh là mình vô tội.
Mục đích của hoạt động phát hiện, khởi tố và điều tra làm rõ tội phạm
là nhằm xác định sự thật của vụ án, xác định có tội phạm hay không, có đồng
phạm không để áp dụng chế tài hình sự một cách chính xác. Mặc dù chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐT và VKS là khác nhau nhng khi tiến
hành các hoạt động TTHS thì hai cơ quan này đều có mục đích chung là tìm ra
sự thật của vụ án. Việc CQĐT và VKS thực hiện các hoạt động TTHS cũng
nhằm xác định sự thật của vụ án. Để nguyên tắc này đợc tuân thủ nghiêm
chỉnh, CQĐT và VKS phải thu thập đầy đủ các chứng cứ tài liệu và đánh giá
chứng cứ một cách khách quan nhằm làm rõ sự thật của vụ án.
1.3.4. Nguyên tắc cấp dới chịu sự chỉ đạo của cấp trên trong hoạt
động tố tụng hình sự
Cấp dới chịu sự chỉ đạo của cấp trên là nguyên tắc chung trong hệ thống
các cơ quan nhà nớc ở nớc ta. Nguyên tắc này đảm bảo tính tập trung thống


26
nhất trong hoạt động của bộ máy nhà nớc, giúp cơ quan cấp trên có thể hớng
dẫn, tạo nên sự thống nhất trong hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của các cơ
quan cấp dới đồng thời phát huy đợc tính chỉ đạo, hớng dẫn của cơ quan
cấp trên đối với cơ quan cấp dới trong hoạt động chuyên môn nghiệp vụ.
Điều 6 Luật tổ chức VKSND quy định: "Viện kiểm sát nhân dân do
Viện trởng lãnh đạo. Viện kiểm sát nhân dân cấp dới, chịu sự lãnh đạo của
Viện kiểm sát nhân dân cấp trên; Viện trởng Viện kiểm sát các địa phơng,
Viện trởng Viện kiểm sát quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của
Viện trởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao". Điều 5, khoản 3 Pháp lệnh Tổ
chức - Điều tra hình sự quy định: "Cơ quan điều tra cấp dới chịu sự hớng
dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ của Cơ quan điều tra cấp trên".
Trên thực tế, nguyên tắc này đợc thực hiện một cách có hiệu quả bằng
hoạt động của CQĐT và VKS. Trong nội bộ mỗi ngành, nguyên tắc này đợc
thực hiện thông qua các hình thức nh thực hiện chế độ thỉnh thị, báo cáo về
nghiệp vụ; cơ quan cấp trên đôn đốc kiểm tra cấp dới, mở các chơng trình
tập huấn, hớng dẫn cấp dới thực hiện hoặc triển khai thực hiện các hoạt động
nghiệp vụ, thờng xuyên tổng kết rút kinh nghiệm hoạt động của toàn ngành.
Nguyên tắc cấp dới chịu sự chỉ đạo của cấp trên còn biểu hiện ở việc
quyết định của cơ quan cấp trên có hiệu lực cao hơn quyết định của cấp dới.
Từ nguyên tắc này, trong quá trình KSĐT, VKS cấp trên có quyền hủy các
quyết định trái pháp luật của CQĐT và VKS cấp dới.
Mối quan hệ giữa CQĐT và VKS trong hoạt động TTHS, mặc dù pháp
luật không quy định trực tiếp là CQĐT cấp dới phải chịu sự chỉ đạo của VKS
cấp trên trong khi tiến hành tố tụng. Nhng tại Điều 137 Hiến pháp, Điều 23
BLTTHS, Điều 3 Luật tổ chức VKSND và Điều 6 Pháp lệnh Tổ chức - Điều
tra hình sự đều quy định chức năng của VKS là THQCT, kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của CQĐT và các cơ quan khác đợc giao tiến hành một số
hoạt động điều tra. Do đó, CQĐT cấp dới chịu sự chỉ đạo của VKS cấp trên


27
trong hoạt động TTHS là một trong những nội dung của nguyên tắc cấp dới
chịu sự chỉ đạo của cấp trên trong mối quan hệ giữa hai cơ quan. Đồng thời,
cũng là một đặc trng của mối quan hệ tố tụng giữa CQĐT và VKS.
1.3.5. Nguyên tắc Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra cùng phối hợp
hoạt động trong tố tụng hình sự
Đây vừa là nguyên tắc là sự thể hiện nội dung mối quan hệ phối hợp
giữa CQĐT và VKS trong TTHS. Nguyên tắc này thể hiện bản chất Nhà nớc ta;
đảm bảo cho công tác đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm hình sự đạt
đợc hiệu quả cao trên thực tế.
Nội dung nguyên tắc này đòi hỏi CQĐT tiến hành điều tra các vụ án hình
sự đúng pháp luật, có hiệu quả, đồng thời có trách nhiệm, nghĩa vụ cung cấp, phối
hợp để VKS thực hiện chức năng giám sát. Đối với VKS, đòi hỏi vừa thực hiện
chức năng kiểm sát hoạt động điều tra của CQĐT đúng pháp luật, đồng thời phải
tạo điều kiện để CQĐT phát huy hiệu quả điều tra trên thực tế. Sự phối hợp giữa
CQĐT và VKS trong TTHS không mất đi t cách tiến hành tố tụng độc lập của từng
cơ quan, mà hoạt động của hai cơ quan này có tác động tơng hỗ, biện chứng để
cùng đạt đợc mục đích cao nhất là điều tra vụ án đúng pháp luật và có hiệu quả.
Đây là một nguyên tắc quan trọng, nhng đồng thời chứa đựng những
yếu tố phức tạp trong mối quan hệ tố tụng giữa VKS và CQĐT. Bởi vì, có tồn
tại hai mặt trong một nội dung. CQĐT vừa có chức năng điều tra tội phạm
nhng đồng thời có trách nhiệm thể hiện công khai những hoạt động điều tra
của mình trớc VKS để VKS nắm đợc và giám sát. Trong một số hoạt động
điều tra nhất định, CQĐT phải chủ động thông báo để VKS biết và thực hiện
chức năng giám sát. Nếu trên thực tế, CQĐT không thực hiện nghiêm chỉnh
nguyên tắc này sẽ dẫn đến CQĐT chỉ điều tra tội phạm, còn VKS lại điều tra
hoạt động điều tra của CQĐT. Trong trờng hợp này cả hai cơ quan đều
không những không đạt đợc hiệu quả trên thực tế mà còn phát sinh những
vấn đề phức tạp khác trong nội bộ hai cơ quan.


28
Trách nhiệm phối hợp của VKS thể hiện trong mối quan hệ này là:
VKS phải giám sát chặt chẽ các hoạt động điều tra, nếu phát hiện có vi phạm
thiếu sót trong quá trình điều tra phải kịp thời trao đổi yêu cầu CQĐT khắc
phục. Mục đích chính của hoạt động KSĐT không phải là phát hiện những vi
phạm thiếu sót của CQĐT mà nhằm phối hợp với CQĐT đảm bảo cho hoạt
động điều tra đúng pháp luật. Việc phát hiện những thiếu sót vi phạm của CQĐT
chỉ là một trong những mặt hoạt động của VKS đảm bảo cho việc điều tra
đúng theo quy định của pháp luật và có hiệu quả hơn trong thực tiễn.
Trong quá trình điều tra một vụ án hình sự thờng phải thực hiện cùng
một lúc cả yêu cầu của việc điều tra và yêu cầu đúng quy định của pháp luật,
cả hai yêu cầu này đều quan trọng. Vì vậy, trong hoạt động phối hợp của mình
VKS phải đảm bảo thực hiện đợc cả hai yêu cầu này.
Nguyên tắc phối hợp hoạt động giữa các cơ quan là bản chất u việt
của bộ máy nhà nớc ta, là điều kiện quan trọng để đảm bảo thực hiện nguyên
tắc quyền lực nhà nớc là thống nhất, mỗi cơ quan nhà nớc có chức năng
nhiệm vụ riêng nhng đều nằm trong một chính thể nhằm thực hiện mục tiêu
mà Nhà nớc đặt ra.
1.3.6. Nguyên tắc hoạt động kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát
chế ớc hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra
Đây là nguyên tắc đặc trng của của bộ máy nhà nớc trong Nhà nớc
Cộng hòa XHCN Việt Nam theo đó VKSND có quyền giám sát hoạt động của
CQĐT, yêu cầu CQĐT thực hiện và hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của
CQĐT, nhằm đảm bảo cho quá trình điều tra, xử lý ngời có hành vi phạm tội
phải tuân theo đúng quy định của pháp luật, đảm bảo hoạt động điều tra đúng
ngời, đúng tội, đúng pháp luật, nhng quan trọng nhất là bảo vệ con ngời
khi thực hiện các hoạt động TTHS.
Nội dung nguyên tắc này, đòi hỏi CQĐT tuân thủ các quyết định và
yêu cầu của VKS trong hoạt động TTHS, đòi hỏi VKS trong khi tiến hành

×