Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Hoạt động của viện kiểm sát nhân dân qua thực tiễn tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (449.43 KB, 30 trang )

Hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
Qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế

Đặng Trần Sơn

Khoa Luật
Luận văn ThS ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật; Mã số: 60 38 01
Người hướng dẫn: GS.TS Phạm Hồng Thái
Năm bảo vệ: 2012


Abstract: Nghiên cứu cơ sở pháp lý về hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân theo quy
định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001); Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 2002 và Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 (sửa
đổi, bổ sung năm 2011). Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Thừa Thiên Huế trong giai đoạn từ năm 2007 đến 2011 (01/01/2007 đến
31/12/2011). Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của viện kiểm sát
nhân dân- qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế

Keywords: Viện kiểm sát nhân dân; Thừa Thiên Huế; Lịch sử nhà nước và pháp luật


Content
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Ngày 26/7/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Lệnh công bố Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân, đánh dấu sự ra đời của một hệ thống cơ quan Nhà nước với chức năng kiểm sát việc tuân
theo pháp luật, đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo vệ và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân. Sự ra đời của ngành kiểm sát nhân dân nhằm góp phần bảo đảm
pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh phòng chống các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm. Trải


qua nhiều giai đoạn khác nhau, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân đã góp phần tích cực vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, trong cơ cấu tổ chức bộ
máy của Nhà nước ta, Viện kiểm sát nhân dân là một trong bốn hệ thống cơ quan được quy định
trong Hiến pháp. Chức năng của Viện kiểm sát nhân dân được thể hiện như là một trong những hình
thức thực hiện quyền lực Nhà nước. Vì vậy, tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân cần
phải được quan tâm nghiên cứu đầy đủ, nhằm đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi của công cuộc cải cách tư
pháp của Đảng và Nhà nước ta, nhất là trong quá trình nghiên cứu để hoàn thiện tổ chức bộ máy Nhà
nước, phục vụ cho việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992.
Một trong những mục tiêu hướng tới trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước ta là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI của Đảng đã xác định: “Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta thật sự là của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân,
do Đảng lãnh đạo”. “Nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành cụ thể để bảo
đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp”. Trên cơ sở đó, Văn kiện Đại hội XI khẳng định: "Đẩy mạnh việc thực
hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh,
bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người”.
Về Viện kiểm sát nhân dân, trên cơ sở những nguyên tắc xây dựng Nhà nước pháp quyền
ủa Viện kiểxã hội chủ nghĩa và chủ trương đẩy mạnh cải cách tư pháp. Văn kiện Đại hội XI
tiếp tục khẳng định: “Viện kiểm sát được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức tòa án, bảo đảm tốt hơn
các điều kiện để viện kiểm sát nhân dân thực hiện hiệu quả chức năng thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp; tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt
động điều tra”. Mặt khác, nhằm tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong công tác kiểm
sát các hoạt động tư pháp. Vừa qua, Quốc hội Khóa XII đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Bộ luật tố tụng dân sự (có hiệu lực từ ngày 01/01/2012); Luật tố tụng hành chính; Luật thi hành án
hình sự (cùng có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2011). Có thể nói, những chủ trương và các đạo luật nêu trên
đã có những thay đổi hết sức cơ bản và quan trọng về vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân,
đòi hỏi phải có nhận thức đầy đủ, đúng đắn về vai trò, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong tình
hình mới.

Những nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định, đã đặt ra những yêu cầu mới đối với tổ chức và hoạt
động của các cơ quan tư pháp nói chung và Viện kiểm sát nhân dân nói riêng. Là một bộ phận cấu thành của hệ
thống Viện kiểm sát nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế trong quá trình hình thành và phát
triển của mình đã có nhiều đóng góp vào thành tựu chung của ngành, đồng thời có vai trò, vị trí hết sức quan
trọng trong việc góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân ở địa phương. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được,
hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nói chung và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế
nói riêng cũng phát sinh những hạn chế, tồn tại cần phải có giải pháp để tháo gỡ, khắc phục kịp thời, góp phần
nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác kiểm sát.
Với những phân tích nêu trên, tôi xin chọn đề tài: "Hoạt động cm sát nhân dân - Qua
thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế" làm đề tài Luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu các quan điểm của Đảng và Nhà nước; Quá trình hình thành và
phát triển của Viện kiểm sát nhân dân nói chung và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế
nói riêng và các quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân.
Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế. Đề
tài đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân nói chung và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng. Đồng
thời kiến nghị, đề xuất sửa đổi bổ sung một số quy định của pháp luật có liên quan đến hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nói chung và
thực trạng hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở pháp lý về hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001); Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2002 và Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm
2011).
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên

Huế trong giai đoạn từ năm 2007 đến 2011 (01/01/2007 đến 31/12/2011).
5. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Sau khi có các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, đặc biệt là từ năm 2006 đến nay, đã có
một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành (chủ yếu là tạp chí Kiểm sát) nghiên cứu về tổ chức và hoạt
động của Viện kiểm sát nhân dân như: “Một số nội dung cần nghiên cứu để triển khai thực hiện Kết luận
79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân năm 2002” của tác giả Hoàng Nghĩa Mai đăng trên Tạp chí Kiểm sát
số 13 (tháng 7/2011); “Viện kiểm sát nhân dân đổi mới toàn diện và đồng bộ để triển khai thực hiện tốt các
quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự và tố tụng hành
chính” của tác giả Nguyễn Thị Thủy Khiêm đăng trên Tạp chí kiểm sát số 13 (tháng 7/2011); “Một số vấn
đề về tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong tiến trình cải cách tư pháp” của tác
giả Lê Hữu Thể đăng trên Tạp chí kiểm sát số 04 (2008) v.v. Chuyên đề về tổ chức và hoạt động của Viện
kiểm sát theo yêu cầu cải cách tư pháp của tập thể tác giả đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 14-16 (tháng 7,8
/2008); Chuyên đề những vấn đề đặt ra sau 5 năm thi hành Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
năm 2002 của tập thể tác giả đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 24 (tháng 12/2008) …
Về các công trình khoa học có liên quan đến đề tài có Luận văn Thạc sĩ: “Tăng thẩm
quyền cho Kiểm sát viên trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự - Một yêu cầu tất yếu của tiến
trình cải cách tư pháp ở Việt Nam” của tác giả Trần Mạnh Đông (Khoa Luật - Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2009) …
Ngoài ra còn có các sách chuyên khảo như: “Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp trong giai đoạn điều tra” do TS Lê Hữu Thể chủ biên (Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội - 2008); “Vị trí, vai
trò Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp” do TS Khuất Văn Nga chủ biên (Nhà
xuất bản Tư pháp, Hà Nội - 2008) … Ngoài ra, vấn đề hoạt động của Viện kiểm sát cũng được đề cập trong
các sách chuyên khảo khác như: “Một số vấn đề về phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do GS.TS Trần Ngọc Đường chủ biên (Nhà xuất
bản chính trị quốc gia - sự thật, Hà Nội - 2011); “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới” do Nguyễn Văn Yểu - GS.TS Lê Hữu Nghĩa đồng chủ biên (Nhà xuất bản chính trị
quốc gia, Hà Nội - 2006); “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân lý luận
và thực tiễn” do GS.VS Nguyễn Duy Quý - PGS.TS Nguyễn Tất Viễn đồng chủ biên (Nhà xuất bản chính trị
quốc gia, Hà Nội - 2008) v.v.

6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của phép biện chứng duy vật,
chủ nghĩa Mác - Lê Nin; các quan điểm của Đảng và Nhà nước và các quy định của pháp luật về
hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân.
Trên cơ sở phương pháp luận đã nêu, các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng
trong Luận văn bao gốm: Phương pháp phân tích; Phương pháp tổng hợp; Phương pháp thống kê
và Phương pháp so sánh.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đóng góp của đề tài về mặt khoa học pháp lý (lý luận chung về Nhà nước và pháp luật) là
góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về chức năng, nhiệm vụ, vai trò, công tác của Viện kiểm sát nhân
dân. Kiến nghị, đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định của pháp luật có liên quan đến hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân.
Đóng góp của đề tài về mặt thực tiễn là đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nói chung và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Thừa Thiên Huế nói riêng.
8. Bố cục của Luận văn
Luận văn được chia làm 3 phần, bao gồm:
Phần 1: Phần mở đầu.
Phần 2: Phần nội dung, gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân.
Chương 2: Thực trạng hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân -
Qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế.
Phần 3: Phần kết luận.

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1 Khái quát quá trình hình thành và phát triển của Viện kiểm sát nhân dân ở
nước ta

Viện kiểm sát (tiền thân là Viện công tố) ra đời và phát triển cùng với quá trình thành
lập Nhà nước ta. Trải qua nhiều thời kỳ, ở nước ta đã từng tồn tại cả hai mô hình: Viện kiểm sát
và Viện công tố.
Ngay sau khi nước nhà giành được độc lập năm 1945, Chính phủ ban hành nhiều văn
bản định hướng và đặt cơ sở pháp lý cho hoạt động tư pháp, trong đó có vai trò, vị trí của công
tác công tố. Ngày 13-9-1945, Chính phủ lâm thời đã ban hành Sắc lệnh số 33c-SL về thành lập
Tòa án quân sự ở ba miền Bắc, Trung, Nam. Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử tất cả các
người nào có hành vi làm phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Theo Sắc lệnh này, Tòa án quân sự của Chính phủ lâm thời có chức năng công tố và có sự phân
định về chức năng, nhiệm vụ của các chức danh pháp lý trong các cơ quan tòa án. Điều 5 Sắc
lệnh này quy định đứng buộc tội (công tố) là một ủy viên quân sự hay một ủy viên của ban trinh
sát. Sắc lệnh số 33c-SL là văn bản đầu tiên quy định về tổ chức tư pháp của chính quyền dân chủ
nhân dân, trong đó có thành phần công tố. Đến năm 1957, về mặt tổ chức cơ quan công tố vẫn
nằm trong hệ thống Tòa án, thực hiện nhiệm vụ buộc tội bị cáo trong các phiên tòa hình sự.
Tại Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa I diễn ra từ ngày 16 đến 29-4-1958, Quốc hội đã nghe
và thảo luận đề án của Chính phủ về bộ máy nhà nước, trong đó có quyết nghị về việc thành lập
hệ thống cơ quan Tòa án và hệ thống cơ quan Viện công tố, cả hai hệ thống cơ quan này đều có
nhiệm vụ, quyền hạn ngang bộ và trực thuộc Hội đồng chính phủ. Như vậy, hệ thống cơ quan
công tố đã được tách khỏi Tòa án, hình thành hệ thống cơ quan công tố độc lập.
Năm 1960, nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc,
đòi hỏi pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Đảng và Nhà nước ta đã vận
dụng đúng đắn quan điểm của Lê-nin trong tác phẩm “Bàn về song trùng trực thuộc và pháp chế”
để thành lập cơ quan Viện kiểm sát nhân dân - một trong những cơ quan mới của nhà nước xã
hội chủ nghĩa. Căn cứ vào Hiến pháp năm 1959, ngày 15-7-1960, Quốc hội khóa II nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa trong kỳ họp thứ I đã thông qua Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.
Theo đó, Viện kiểm sát nhân dân có chức năng, nhiệm vụ là kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong các nghị quyết, quyết định, thông tư, chỉ thị của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ và
cơ quan nhà nước địa phương; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của nhân viên cơ quan nhà nước
và của công dân; Điều tra những việc phạm pháp về hình sự và truy tố trước tòa án nhân dân
những người phạm pháp về hình sự; Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra của cơ

quan công an và của các cơ quan điều tra khác; Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét
xử của tòa án nhân dân và trong việc chấp hành các bản án; Kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc giam giữ của các trại giam; Khởi tố hoặc tham gia tố tụng trong những vụ án dân sự
quan trọng liên quan đến lợi ích của Nhà nước và của nhân dân.
Kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
1960 cho đến nay, Nhà nước ta đã tiếp tục ban hành các đạo luật về tổ chức và hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân. Các đạo luật này về cơ bản vẫn giữ nguyên mô hình tổ chức, chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của viện kiểm sát nhân dân như Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
1960.
Đến năm 2002, trên cơ sở của Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001),
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân đã quy định Viện kiểm sát nhân dân thực hiện hai chức
năng: thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp cho đến nay.
1.2 Những quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân.
1.2.1 Chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân
Theo quy định tại Điều 137 - Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1992, được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 của Quốc hội khóa X, thì chức năng
của Viện kiểm sát nhân dân được quy định như sau:
“Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi trách nhiệm do luật định.”
Như vậy, theo quy định của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Viện kiểm sát nhân dân có hai chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp.
Thực hành quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này thuộc về Nhà nước, được Nhà nước giao cho
một cơ quan thực hiện (ở nước ta là cơ quan Viện kiểm sát) để phát hiện tội phạm và truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Để làm được điều này, cơ quan có chức năng thực
hành quyền công tố phải có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác

định tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo
vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa. Quyền công tố được thực hiện từ khi có quyết định khởi tố vụ
án hình sự và kết thúc khi có bản án, quyết định của cơ quan Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Kiểm sát các hoạt động tư pháp là một hình thức của hoạt động giám sát của Nhà nước nhằm
theo dõi, kiểm tra việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật của các chủ thể được giao thực hiện thẩm quyền
tư pháp. Đây chính là cơ chế sử dụng tổ chức Nhà nước để hạn chế sự lạm dụng quyền lực của chính các
cơ quan Nhà nước.
Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp là hai chức năng của Viện
kiểm sát nhân dân. Tuy nhiên, không phải chúng tách rời nhau, độc lập với nhau mà ngược lại có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Thực hành quyền công tố là cơ sở cho
việc kiểm sát các hoạt động tư pháp có hiệu quả và ngược lại kiểm sát các hoạt động tư pháp bảo
đảm thực hiện mục đích của hoạt động thực hành quyền công tố. Thực hiện tốt chức năng kiểm
sát các hoạt động tư pháp cũng chính là nhằm phát huy hiệu lực, hiệu quả của chức năng thực
hành quyền công tố.
Về nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân, theo quy định tại Điều 2 Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân năm 2002 thì Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ:
“Trong phạm vi chức năng của mình, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ góp phần
bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân
dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự
và nhân phẩm của công dân, bảo đảm để mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tập
thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đều phải được xử lý theo pháp luật”.
1.2.2 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Xuất phát từ bản chất, đặc điểm của hoạt động tư pháp là hoạt động thực hiện quyền lực Nhà nước
(quyền tư pháp). Do vậy, hoạt động tư pháp phải chịu sự kiểm tra, giám sát, kiểm soát của nhiều cơ chế khác
nhau, bao gồm cả cơ chế giám sát từ bên trong hệ thống và cơ chế giám sát từ bên ngoài hệ thống. Chính vì
vậy, quan điểm của Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền là phải bảo đảm sự kiểm soát giữa các cơ
quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, tăng cường các cơ chế giám sát, bảo đảm
sự tham gia giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp. Đặc biệt, xuất phát từ tính chất rất đặc thù của
hoạt động tư pháp là hoạt động giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, kinh doanh thương mại và

những việc khác theo quy định của pháp luật. Quá trình đó, các cơ quan tư pháp được pháp luật trao thẩm
quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm giữ đồ
vật, tài liệu, kê biên tài sản, phong tỏa tài sản, cấm chuyển dịch quyền về tài sản v.v. và kết thúc quá trình giải
quyết, Tòa án có quyền ra các phán quyết ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền quan trọng nhất của con người
như quyền sống, quyền tự do, quyền sỡ hữu v.v. là các quyền được đặc biệt tôn trọng và bảo đảm thực hiện
trong Nhà nước pháp quyền. Do vậy, hoạt động tư pháp cần và phải chịu sự kiểm tra, giám sát, kiểm soát chặt
chẽ của nhiều cơ chế khác nhau, đặc biệt là phải thiết lập cho được cơ chế giám sát trực tiếp, thường xuyên, có
tính chuyên nghiệp cao. Trong điều kiện cụ thể của Nhà nước ta, cơ chế đó chính là Viện kiểm sát nhân dân.
Thông qua chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân đã phát hiện nhiều vi phạm
trong việc điều tra, bắt, tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù, thi hành án để xem
xét kiến nghị, kháng nghị, góp phần quan trọng trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
1.2.3 Những công tác của Viện kiểm sát nhân dân
1.2.3.1 Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc
điều tra các vụ án hình sự
Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
việc điều tra các vụ án hình sự của các Cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra nhằm bảo đảm cho mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều
tra và xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Không để
người nào bị khởi tố, bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các quyền công dân, bị xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm một cách trái pháp luật; Bảo đảm những vi phạm
pháp luật trong quá trình điều tra phải được phát hiện, khắc phục kịp thời, xử lý nghiêm minh và bảo
đảm cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can phải có căn cứ và đúng pháp luật.
1.2.3.2 Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự
Trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm thực
hành quyền công tố, bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội
phạm và người phạm tội, nhằm đảm bảo việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời.
1.2.3.3 Kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành
chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật
Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình,

hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm
việc giải quyết vụ án đúng pháp luật, kịp thời.
1.2.3.4 Kiểm sát việc thi hành án
Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án nhân dân, cơ quan thi
hành án, Chấp hành viên, cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên quan trong việc thi hành bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật và những bản án, quyết định được thi hành ngay theo quy định của
pháp luật nhằm bảo đảm các bản án, quyết định đó được thi hành đúng pháp luật, đầy đủ, kịp thời.
1.2.3.5 Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án
phạt tù
Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan, đơn vị và
người có trách nhiệm trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù,
nhằm bảo đảm: Việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo đúng
quy định của pháp luật; Chế độ tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù
được chấp hành nghiêm chỉnh; Tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người bị tạm giữ, tạm
giam, người chấp hành án phạt tù và các quyền khác của họ không bị pháp luật tước bỏ được tôn
trọng.
1.3 Cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định hệ thống Viện kiểm sát nhân dân
gồm có: Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương; Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và Viện kiểm sát quân sự.
1.4 Kiểm sát viên và Điều tra viên
Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Điều tra viên của Viện kiểm sát nhân dân tối cao được bổ nhiệm theo quy định của
pháp luật để làm nhiệm vụ điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là
cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp.
Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do Viện trưởng; Thủ trưởng Cơ quan điều tra phân công,
Kiểm sát viên, Điều tra viên phải tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Viện trưởng Viện
kiểm sát cấp mình, Thủ trưởng Cơ quan điều tra, sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao.

Tóm lại, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta cũng như các quy định của pháp luật hiện hành
đều khẳng định Viện kiểm sát nhân dân có hai chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp, đồng thời đảm bảo các điều kiện để Viện kiểm sát nhân dân thực hiện có hiệu quả
hai chức năng này.
Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
2.1 Tóm tắt điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của tỉnh Thừa Thiên Huế
Thừa Thiên Huế là một tỉnh ở miền Trung Việt Nam, chiều dài địa bàn tỉnh là 127 km,
chiều rộng trung bình 60 km, diện tích 5,065,3 km
2
. Dân số Thừa Thiên Huế là 1.150.900 người.
Mật độ dân số bình quân toàn tỉnh là 200 người/km
2
.
Hiện nay, tỉnh Thừa Thiên Huế có 9 đơn vị hành chính, gồm thành phố Huế, 6 huyện đồng
bằng là Hương Thuỷ, Hương Trà, Quảng Điền, Phong Điền, Phú Vang, Phú Lộc và 2 huyện miền
núi là Nam Đông, A Lưới.
2.2 Khái quát quá trình hình thành và phát triển của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Thừa Thiên Huế
Cùng với sự hình thành hệ thống chính quyền và tổ chức đoàn thể, sau ngày quê hương
hoàn toàn giải phóng (26-3-1975), ngành Kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế cũng nhanh
chóng được hình thành. Tháng 9-1975, lực lượng cán bộ Kiểm sát đầu tiên của Thừa Thiên Huế
do Viện Kiểm sát nhân dân tối cao cử vào để thành lập Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên
Huế gồm 9 đồng chí. Trải qua hơn 35 năm xây dựng và phát triển, đến nay Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Thừa Thiên Huế có 9 phòng nghiệp vụ và 9 Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện. Tổng số
cán bộ toàn ngành là 178 đồng chí, trong đó kiểm sát viên cấp tỉnh có 31 đồng chí, kiểm sát viên
cấp huyện có 59 đồng chí. Số cán bộ có trình độ Cử nhân Luật trở lên là 158 đồng chí, chiếm tỷ
lệ 88,7 %.
2.3 Kết quả hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế từ năm
2007 đến năm 2011 (từ 01/01/2007 đến 31/12/2011)

2.3.1 Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự
Viện kiểm sát nhân dân hai cấp tỉnh Thừa Thiên Huế đã chú trọng thực hiện nhiều biện
pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm của Cơ quan điều tra. Các Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện đã tiến hành kiểm sát trực
tiếp 17 lượt tại các Cơ quan điều tra Công an cấp huyện về công tác giải quyết các tin báo, tố
giác tội phạm. Đã ban hành 17 kết luận yêu cầu rút kinh nghiệm, khắc phục tình trạng giải quyết tin
báo, tố giác tội phạm kéo dài quá thời hạn luật định. Qua công tác kiểm sát, đã yêu cầu Cơ quan
điều tra khởi tố 53 vụ, 50 bị can, góp phần đảm bảo cho việc ra quyết định khởi tố vụ án hoặc
quyết định không khởi tố vụ án được kịp thời, có căn cứ và đúng pháp luật, hạn chế việc bỏ lọt
tội phạm.
Từ năm 2007 đến năm 2011, Viện kiểm sát nhân dân hai cấp tỉnh Thừa Thiên Huế đã
thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra 2.658 vụ / 4.308 bị can. Cơ quan cảnh sát điều tra
đã kết thúc điều tra, đề nghị truy tố 2.496 vụ / 4.018 bị can, đình chỉ điều tra 39 vụ/ 80 bị can,
tạm đình chỉ điều tra 55 vụ / 55 bị can chủ yếu là do chưa xác định được bị can hoặc không biết
rõ bị can đang ở đâu. Hiện còn đang điều tra 68 vụ / 155 bị can đang trong hạn luật định.
Viện kiểm sát nhân dân hai cấp đã kiểm sát chặt chẽ việc áp dụng các quy định của
pháp luật trong các trường hợp tạm đình chỉ và đình chỉ vụ án, đảm bảo việc đình chỉ, tạm đình
chỉ của Cơ quan điều tra đúng quy định pháp luật. Đã tiến hành kiểm sát chặt chẽ việc khởi tố vụ
án, khởi tố bị can, hầu hết các vụ án mới khởi tố, kiểm sát viên đều có văn bản yêu cầu điều tra
ngay từ đầu. Không có vụ án nào để quá hạn điều tra, truy tố. Qua công tác kiểm sát điều tra,
Viện kiểm sát nhân dân hai cấp đã từ chối phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp 5 trường hợp, hủy quyết
định khởi tố bị can của Cơ quan điều tra 9 trường hợp, hủy quyết định không khởi tố vụ án của
Cơ quan điều tra và ra quyết định khởi tố vụ án 6 trường hợp, huỷ quyết định đình chỉ điều tra
của Cơ quan điều tra và ra quyết định truy tố 3 trường hợp theo quy định của pháp luật.
Viện kiểm sát nhân dân hai cấp đã ban hành cáo trạng truy tố 2.378 vụ / 3.828 bị can,
chiếm tỉ lệ 95,27 % số vụ Cơ quan điều tra đã kết thúc điều tra, đề nghị truy tố. Không có vụ án
nào Viện kiểm sát phải ra quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra. Tiến độ và chất lượng công
tác thực hành thực quyền công tố, kiểm sát điều tra được bảo đảm và từng bước được nâng cao.
2.3.2 Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự
Viện kiểm sát nhân dân hai cấp đã thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm

2.238 vụ / 3.127 bị cáo, trong đó có 332 vụ tham gia xét xử lưu động tại địa bàn các bị cáo đã
thực hiện hành vi phạm tội. Kết quả xét xử, Tòa án nhân dân hai cấp đã tuyên các hình phạt
chính gồm: phạt tiền 35 bị cáo, cải tạo không giam giữ 87 bị cáo, từ 3 năm tù trở xuống 2464 bị
cáo trong đó cho hưởng án treo 1266 bị cáo (chiếm tỷ lệ 40,5 % so với tổng số bị cáo Toà án đã
đưa ra xét xử), từ trên 3 năm tù đến 7 năm tù 327 bị cáo, từ trên 7 năm tù đến 15 năm tù 159 bị
cáo, trên 15 năm tù 46 bị cáo, tù chung thân 9 bị cáo.
Trong các quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm, Viện kiểm sát nhân
dân hai cấp đã chú trọng nâng cao chất lượng xét hỏi, tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa. Nhìn
chung, về cơ bản các vụ án được đưa ra xét xử sơ thẩm đều đảm bảo tính khách quan, chính xác và
đúng quy định của pháp luật. Tội danh, mức hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị hầu hết phù hợp với
kết quả xét xử của Hội đồng xét xử. Không có trường hợp nào Viện kiểm sát phải đình chỉ vì hành vi
không cấu thành tội phạm; Kiểm sát viên rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn. Điểm
đáng lưu ý, là không có trường hợp nào Viện kiểm sát truy tố mà Toà án xét xử tuyên không phạm tội.
Về công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự. Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh đã thụ lý kiểm sát xét xử phúc thẩm 1019 vụ / 1089 bị cáo. Tòa án nhân
dân tỉnh đã đưa ra xét xử phúc thẩm 821 vụ / 864 bị cáo, đình chỉ xét xử 156 vụ / 166 bị cáo.
Hiện còn chưa xét xử 42 vụ / 59 bị cáo, đang trong hạn luật định.
Qua công tác kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân hai cấp đã ban hành 108 kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm, Tòa án nhân dân tỉnh đã đưa ra xét xử 98 vụ, hiện còn 10 vụ chưa xét xử.
Trong số các vụ án đã đưa ra xét xử, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm đã chấp nhận kháng nghị 48
vụ.
2.3.3 Công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành
chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật
- Công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình
Vụ, việc sơ thẩm: Viện kiểm sát nhân dân hai cấp đã kiểm sát việc thụ lý 4217 vụ, việc.
Tòa án nhân dân hai cấp đã giải quyết 3981 vụ, việc. Trong đó: tạm đình chỉ giải quyết 253 vụ,
việc; đình chỉ giải quyết 257 vụ, việc; công nhận sự thỏa thuận của các đương sự 1801 vụ, việc;
đưa ra xét xử sơ thẩm 1670 vụ, việc. Hiện còn 236 vụ, việc đang tiếp tục giải quyết.
Vụ, việc phúc thẩm: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh đã thụ lý giải quyết 253 vụ, việc
(trong đó Viện kiểm sát nhân dân hai cấp đã kháng nghị phúc thẩm 51 vụ). Tòa án nhân dân tỉnh

đã giải quyết 249 vụ, đạt tỷ lệ 98 % tổng số án thụ lý. Hiện còn 4 vụ đang tiếp tục nghiên cứu,
giải quyết.
Về án giám đốc thẩm: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh đã thụ lý giải quyết 19 vụ, trong đó
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh kháng nghị 12 vụ, Tòa án nhân dân tỉnh kháng nghị 7 vụ. Tòa án
nhân dân tỉnh đã đưa ra xét xử 19 vụ, đạt tỷ lệ 100 %, trong đó Viện kiểm sát nhân dân tỉnh đã
tham gia phiên tòa 19 / 19 vụ.
Về việc tham gia các phiên tòa dân sự: Từ 01/01/2007 đến 31/12/2011, Viện kiểm sát
nhân dân hai cấp không nhận được khiếu nại nào của đương sự về việc thu thập chứng cứ của
Toà án để tham gia phiên toà theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, vừa qua Quốc
hội khóa XII đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật dân sự (có hiệu lực từ
ngày 01/01/2012) theo đó, Viện kiểm sát phải có trách nhiệm tham gia hầu hết các phiên tòa sơ
thẩm giải quyết việc dân sự, các phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ
việc dân sự. Vì vậy, kể từ ngày 01/01/2012 đến 30/03/2012, Viện kiểm sát nhân dân hai cấp đã
tham gia xét xử 62 vụ sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm các vụ, việc dân sự. Qua công tác
kiểm sát, đã phát hiện nhiều vi phạm của Tòa án nhân dân hai cấp trong việc giải quyết các vụ án
dân sự, hôn nhân gia đình. Viện kiểm sát nhân dân hai cấp đã ban hành 114 kiến nghị yêu cầu
Tòa án cùng cấp khắc phục các vi phạm trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia
đình.
Về công tác kháng nghị, Viện kiểm sát nhân dân hai cấp đã ban hành 51 kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm; 12 kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Tòa án nhân dân tỉnh đã xét
xử 51 vụ án do Viện kiểm sát nhân dân hai cấp kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, chấp nhận 48
kháng nghị, đạt tỉ lệ 94 %; bác kháng nghị của Viện kiểm sát 3 vụ, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
đã báo cáo Viện kiểm sát nhân dân Tối cao kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm 3 vụ án này,
Viện kiểm sát nhân dân Tối cao đã ban hành kháng nghị 2 vụ. Tòa án nhân dân tỉnh đã đưa ra xét
xử 12 vụ do Viện kiểm sát kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, chấp nhận 12 kháng nghị, đạt
tỉ lệ 100 %.
- Công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính, kinh tế, lao động và những việc
khác theo quy định của pháp luật
Viện kiểm sát nhân dân hai cấp đã thụ lý giải quyết 82 vụ án hành chính (sơ thẩm 42
vụ, phúc thẩm 40 vụ). Nội dung khởi kiện chủ yếu là việc bồi thường tài sản, giá trị quyền sử

dụng đất khi thu hồi đất, giải phóng mặt bằng không thỏa đáng nên phát sinh việc khiếu kiện
hành chính. Tòa án nhân dân hai cấp đã đưa ra xét xử 80 vụ, Viện kiểm sát nhân dân hai cấp đã
tham gia xét xử 80 vụ, đạt tỷ lệ 100 %.
Về án kinh tế: Án sơ thẩm, Viện kiểm sát nhân dân hai cấp đã kiểm sát việc thụ lý 229 vụ,
đã giải quyết 202 vụ, trong đó đình chỉ giải quyết 20 vụ, xét xử 69 vụ, công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự 75 vụ, tạm đình chỉ giải quyết 38 vụ, còn lại 27 vụ. Án phúc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh thụ lý giải quyết 20 vụ, đã giải quyết 19 vụ, hiện còn 1 vụ đang tiếp tục nghiên cứu, giải quyết.
Về án lao động: Nội dung tranh chấp chủ yếu là người lao động không đồng ý với quyết
định kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc không đồng ý với quyết định chấm dứt hợp đồng
lao động của người sử dụng lao động. Viện kiểm sát nhân dân hai cấp đã kiểm sát việc thụ lý 28 vụ
(19 vụ sơ thẩm, 9 vụ phúc thẩm). Đã giải quyết 27 vụ, trong đó công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự 20 vụ, xét xử 7 vụ.
Về yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh kiểm sát việc
thụ lý 05 vụ từ năm 2007 đến nay. Quá trình giải quyết, Tòa án nhân dân tỉnh đã ra quyết định
thanh lý tài sản; bán đấu giá thu hồi giá trị tài sản còn lại; mở Hội nghị các chủ nợ khách hàng và
phân chia tỷ lệ trả nợ cho các chủ nợ theo qui định của Luật phá sản. Tuy nhiên, đến nay vẫn
chưa có trường hợp nào được Tòa án ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
2.3.4 Công tác kiểm sát việc thi hành án
- Công tác kiểm sát việc thi hành án hình sự
Viện kiểm sát nhân dân hai cấp đã tập trung kiểm sát chặt chẽ việc ra quyết định thi
hành án hình sự của cơ quan Tòa án cùng cấp; việc đưa người bị kết án phạt tù đi chấp hành án;
việc hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù. Đã lập hồ sơ kiểm sát 2550 người bị kết án phạt tù
có thời hạn, đã thi hành 2454 người, tạm đình chỉ 61 người, còn lại chưa thi hành án 35 người,
trong đó số hoãn thi hành án 23 người, công an chưa áp giải 2 người, trốn đã ra lệnh truy nã 8
người, đang làm thủ tục xét hoãn 1 người, 1 bị án phạt tù tại ngoại còn trong thời gian tự nguyện
thi hành án.
Viện kiểm sát nhân dân hai cấp đã tiến hành kiểm sát 805 quyết định thi hành án phạt tù
cho hưởng án treo, 42 quyết định cải tạo không giam giữ. Qua công tác kiểm sát, phát hiện 130
quyết định có vi phạm, đã ban hành 3 kháng nghị về 03 trường hợp tạm giam quá hạn của Tòa án
nhân dân tỉnh; 15 kháng nghị về quyết định thi hành án hình sự không đúng với nội dung bản án;

70 kiến nghị yêu cầu cơ quan Tòa án khắc phục vi phạm.
Công tác kiểm sát việc thi hành án dân sự
Tổng số việc phải thi hành là 7140 việc, cơ quan thi hành án dân sự hai cấp đã thi hành
xong 2050 việc, đình chỉ thi hành 795 việc, tạm đình chỉ thi hành 12 việc, hoãn thi hành 2615 việc,
trả đơn thi hành án 455 việc, 1163 việc còn lại đang tiếp tục thi hành. Cơ quan thi hành án dân sự hai
cấp đã thu được 96.047.944.196 đồng trên tổng số phải thu là 147.821.217.820 đồng.
Viện kiểm sát nhân dân hai cấp thường xuyên theo dõi và lập hồ sơ kiểm sát việc thi hành án
dân sự; kiểm sát tiêu hủy tang vật, sung công 255 việc; tham gia kiểm sát cưỡng chế giao nhà và đất 22
việc; kê biên tài sản nhà và đất 25 việc, kiểm sát bán đấu giá tài sản để thi hành 08 việc theo quy định
của pháp luật. Đã chú trọng kiểm sát việc xác minh, phân loại các việc có điều kiện thi hành án và
không có điều kiện thi hành án, đồng thời yêu cầu thi hành án đối với những việc có điều kiện thi hành.
Viện kiểm sát nhân dân hai cấp đã tiến hành xác minh 356 trường hợp, phát hiện 4 trường hợp người
phải thi hành án đã chết, không để lại tài sản nên đề nghị Cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định đình
chỉ thi hành án, 37 trường hợp Cơ quan thi hành án dân sự xác minh không đúng thực tế, đã yêu cầu xử
lý.
Viện kiểm sát nhân dân hai cấp đã kiểm sát trực tiếp 50 lượt tại các Cơ quan thi hành
án dân sự hai cấp. Qua công tác kiểm sát, đã phát hiện nhiều vi phạm của Cơ quan thi hành án
dân sự cùng cấp và các cơ quan có liên quan như việc chậm gửi các văn bản, quyết định thi hành
án cho Viện kiểm sát và các đương sự; xác minh điều kiện thi hành án không đúng trình tự thủ
tục theo luật định v.v. Ngoài ra, qua công tác kiểm sát thi hành án dân sự đã ban hành 76 kháng
nghị, 35 kiến nghị yêu cầu Cơ quan thi hành án và cơ quan, tổ chức liên quan khắc phục các vi
phạm trong quá trình thi hành án.
2.3.5 Công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành
án phạt tù
Viện kiểm sát nhân dân hai cấp đã thụ lý kiểm sát tạm giữ 1515 người. Đã giải quyết
1513 người, trong đó khởi tố hình sự chuyển tạm giam 1492 người, giải quyết bằng biện pháp
khác 21 người.
Viện kiểm sát nhân dân hai cấp đã thụ lý kiểm sát tạm giam 3985 người. Đã giải quyết
3594 người. Hiện còn tạm giam 391 người đang trong hạn luật định. Qua công tác kiểm sát việc
bắt, tạm giữ, tạm giam, Viện kiểm sát nhân dân hai cấp đã từ chối phê chuẩn bắt khẩn cấp 22

trường hợp; hủy bỏ quyết định tạm giữ 16 trường hợp; không phê chuẩn lệnh bắt tạm giam 26 bị
can; hủy bỏ biện pháp tạm giam 7 bị can.
Viện kiểm sát nhân dân hai cấp đã thường kỳ tiến hành kiểm sát Nhà tạm giữ, Trại tạm
giam 150 lần, đều có văn bản kết luận. Đã ban hành kiến nghị, yêu cầu khắc phục sửa chữa một
số vi phạm trong công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành
án phạt tù.
2.4 Đánh giá chung về hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên
Huế
2.4.1 Những thành tựu đã đạt được trong hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Thừa Thiên Huế
Nhìn chung, giai đoạn từ 2007 đến 2011, cùng với các cơ quan tiến hành tố tụng ở địa
phương, Viện kiểm sát nhân dân hai cấp tỉnh Thừa Thiên Huế đã tập trung giải quyết một khối
lượng lớn án hình sự. Điểm nổi bật nhất là trong số các vụ án đã giải quyết, không có vụ án nào
quá hạn điều tra, truy tố, xét xử, không có vụ án nào Viện kiểm sát truy tố mà Toà án tuyên
không phạm tội, không có các trường hợp hình sự hoá các quan hệ dân sự, kinh tế và ngược lại.
Không có vụ án nào phải đình chỉ điều tra do hành vi không cấu thành tội phạm. Tỷ lệ tạm giữ
theo thủ tục tố tụng hình sự sau đó phải trả tự do chuyển xử lý hành chính từ chỗ chiếm tỷ lệ đến
30,9 % vào năm 2000 đến nay đã không còn xảy ra trường hợp nào. Không có trường hợp nào
quá hạn tạm giữ, tạm giam, không có trường hợp nào bắt giữ oan sai người vô tội. Có thể nói,
đây là thành tựu cơ bản nhất đã đạt được trong hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa
Thiên Huế.
Nguyên nhân của những thành tựu đã đạt được trong hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Thừa Thiên Huế
Đạt được những kết quả trên đây là do Viện kiểm sát nhân dân hai cấp đã thường xuyên
quan tâm thực hiện tốt công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành. Các phòng nghiệp vụ Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh đã tăng cường công tác kiểm tra, tự kiểm tra, có kế hoạch kiểm tra thường xuyên các
đơn vị cấp huyện mỗi quý một lần, xây dựng nhiều chuyên đề nghiệp vụ để các đơn vị rút kinh
nghiê
̣
m th ực hiện. Tổ chức cho cán bộ, kiểm sát viên ở Viện kiểm sát nhân dân hai cấp tham dự các

phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp để rút kinh nghiệm, nâng cao chất lượng công tác kiểm sát
việc giải quyết các vụ án hình sự.
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh đã tăng cường công tác tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng
nghiệp vụ cho các Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện. Các phòng nghiệp vụ ở Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh đã kịp thời hướng dẫn nghiệp vụ, tổ chức các hội nghị triển khai công tác như công
tác kiểm sát án hình sự; công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người
chấp hành án phạt tù; công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự, hành chính, kinh tế, lao
động và những việc khác theo quy định của pháp luật; công tác kiểm sát thi hành án; công tác
giải quyết khiếu nại, tố cáo; công tác tài chính và công tác quản lý, chỉ đạo điều hành.
2.4.2 Những hạn chế trong hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế
- Theo quy định của pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm tiếp nhận, quản lý,
kiểm sát việc giải quyết các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Tuy nhiên, công tác
quản lý, kiểm sát việc giải quyết các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm
sát nhân dân hai cấp tỉnh Thừa Thiên Huế còn thụ động nên nguồn tố giác, tin báo do Viện kiểm sát
nắm được chủ yếu là do Cơ quan Cảnh sát điều tra cung cấp, mà chưa có cơ chế tiếp nhận, quản lý
tin báo, tố giác tội phạm ở các cơ quan Nhà nước khác nên có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà Viện kiểm
sát không quản lý được. Tình trạng xử lý các tố giác, tin báo tội phạm còn để kéo dài, không xử lý
dứt điểm, quá thời gian quy định,
- Về công tác kiểm sát điều tra các vụ án hình sự, một số Kiểm sát viên chưa theo sát
được tiến độ điều tra, chưa đề ra được yêu cầu điều tra một cách thuyết phục, không phát hiện
được các vi phạm của Điều tra viên trong các hoạt động tố tụng để kiến nghị, yêu cầu khắc phục,
sửa chữa vi phạm. Do không theo sát tiến độ điều tra nên khi hồ sơ chuyển sang Viện kiểm sát
truy tố mới phát hiện thiếu sót, dẫn đến việc phải trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung. Một số
trường hợp, Cơ quan điều tra chậm ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can để tiến hành điều
tra dẫn đến việc đối tượng gây án bỏ trốn nên sau đó phải tạm đình chỉ điều tra do hết thời hạn
điều tra mà không bắt được bị can
- Về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự: Kỹ năng xây
dựng bản cáo trạng, luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm; bài phát biểu của Viện kiểm sát
tại phiên tòa phúc thẩm còn thấp. Chưa chuẩn bị chu đáo đề cương xét hỏi nên tại phiên tòa các câu hỏi
của Kiểm sát viên không đi vào trọng tâm vụ án, lan man, dài dòng, trùng lặp với Hội đồng xét xử. Khả

năng tranh luận tại phiên toà của đa số Kiểm sát viên chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu của cải cách
tư pháp. Chất lượng công tác kiểm sát việc xét xử của Tòa án nhân dân hai cấp chưa cao nên không
phát hiện được nhiều vi phạm để kiến nghị yêu cầu Tòa án khắc phục, sữa chữa. Thực trạng xét xử sơ
thẩm án hình sự vẫn còn nhiều thiếu sót, tồn tại, vi phạm pháp luật cần phải được khắc phục sửa chữa
kịp thời, đảm bảo việc xét xử hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên hiện nay chất
lượng kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân hai cấp tỉnh Thừa Thiên Huế còn thấp, số
lượng án bị kháng nghị chưa nhiều, cá biệt có đơn vị trong thời gian khảo sát chưa kháng nghị được vụ
nào.
- Về công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, lao động và những việc
khác theo quy định của pháp luật: Nhìn chung, chất lượng và hiệu quả của khâu công tác này là
khá thấp, thông thường chỉ phát hiện được các vi phạm về mặt hình thức của bản án và quyết
định của Tòa án, còn nội dung vụ án thì không phát hiện được để ban hành kiến nghị, kháng
nghị.
- Về công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án
phạt tù, công tác kiểm sát thi hành án: Một số bộ phận kiểm sát viên chưa thường xuyên theo sát
việc ra quyết định của các cơ quan Tòa án, thi hành án nên chậm phát hiện các vi phạm để kịp
thời kiến nghị, kháng nghị nên chất lượng và hiệu quả của khâu công tác này chưa được nâng
cao. Cá biệt có Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện còn có tình trạng nể nang, né tránh không đưa
vào kết luận kiểm sát những vi phạm đã được phát hiện để kháng nghị.
Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Thừa Thiên Huế
Để xảy ra những hạn chế nêu trên, có nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân cơ bản nhất vẫn
xuất phát từ đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên. Bên cạnh những mặt tích cực, Viện kiểm sát nhân dân hai cấp
tỉnh Thừa Thiên Huế vẫn đang thiếu nhiều cán bộ chuyên môn giỏi ở từng lĩnh vực công tác kiểm sát,
thiếu những đồng chí nhanh nhạy giải quyết các vấn đề khó khăn mà thực tiễn đang đặt ra, mặt khác ý
thức trách nhiệm, tính tổ chức kỷ luật chưa được phát huy tốt, ảnh hưởng nhiều đến chất lượng công tác.
Tư tưởng hữu khuynh, né tránh, ngại va chạm, ý thức tự giác, tự rèn luyện của một số cán bộ còn yếu như
ngại học, ngại nghiên cứu, làm việc cầm chừng, hiệu quả chưa cao vẫn còn tồn tại. Trình độ chuyên môn
nghiệp vụ của một số cán bộ, Kiểm sát viên thật sự không thể đáp ứng được yêu cầu công việc.
Nguyên nhân tiếp theo là việc đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán

bộ, kiểm sát viên chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Sự
phối hợp công tác giữa Viện kiểm sát nhân dân hai cấp với một số cơ quan hữu quan trong một số
trường hợp chưa chặt chẽ, nhất là trong công tác giải quyết các vụ án dân sự, hành chính, kinh tế, lao
động và những việc khác theo quy định của pháp luật. Cơ sở vật chất, trang thiết bị hoạt động chưa
đáp ứng yêu cầu làm hạn chế chất lượng, hiệu quả công tác.
Việc theo dõi, quản lý của các phòng nghiệp vụ Viện kiểm sát nhân dân tỉnh mặc dù đã có
những kết quả hết sức tích cực, tuy nhiên trong một số trường hợp cụ thể vẫn còn chưa chặt chẽ nên
không kịp thời phát hiện ra những thiếu sót, vi phạm của cấp dưới để tham mưu cho lãnh đạo Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh chỉ đạo rút kinh nghiệm hoặc có biện pháp khắc phục vi phạm kịp thời. Lãnh
đạo một số Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện chỉ quan tâm đến công tác thực hành quyền công tố,
kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự mà thiếu sự quan tâm đến các khâu công tác khác
nên việc bố trí cán bộ không phù hợp, vừa thiếu lại thường xuyên thay đổi, dẫn đến chất lượng và hiệu
quả công tác còn thấp.
Nói tóm lại, giai đoạn từ 2007 đến 2011, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế
đã đạt được nhiều thành tựu trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, các khâu công tác kiểm sát vẫn còn một
số tồn tại, vướng mắc cần phải khắc phục, giải quyết kịp thời nhằm nâng cao chất lượng công tác
kiểm sát, đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ của công cuộc cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.

Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN - QUA THỰC TIỄN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
3.1 Một số giải pháp chung
Để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. Qua thực tiễn
tỉnh Thừa Thiên Huế, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp chung như sau:
- Giải pháp thứ nhất là phải tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc đổi mới công tác tổ chức và cán bộ,
đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp, chú trọng việc giáo dục ý thức trách nhiệm, phẩm chất
đạo đức, nâng cao trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức ngành Kiểm sát
nhân dân.
- Giải pháp thứ hai là Viện kiểm sát nhân dân các cấp phải nắm vững và thực hiện
đúng, đầy đủ vai trò, chức năng, nhiệm vụ của ngành.

- Giải pháp thứ ba là phải tăng cường trách nhiệm của Kiểm sát viên trong các hoạt động
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
- Giải pháp thứ tư là Viện kiểm sát nhân dân các cấp phải thường xuyên xây dựng các chuyên
đề nghiệp vụ, tổ chức các hội nghị, hội thảo, tập huấn về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp để toàn thể cán bộ, công chức học tập, rút kinh nghiệm nhằm nâng cao chất
lượng công tác kiểm sát. Tuy nhiên các hoạt động nêu trên phải được đầu tư kỹ càng, có chất lượng,
tránh tình trạng tổ chức tràn lan, cán bộ tập huấn chưa có nhiều kinh nghiệm hoặc không có kỹ năng
truyền đạt, tài liệu phổ biến sơ sài, hiệu quả thấp.
- Giải pháp thứ năm là phải xây dựng cơ chế bắt buộc thực hiện các kiến nghị của Viện
kiểm sát nhân dân.
- Giải pháp thứ sáu là cải cách chế độ tiền lương và chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công
chức ngành Kiểm sát. Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị và phương tiện làm việc cho Viện kiểm
sát nhân dân địa phương.
- Giải pháp thứ bảy là Viện kiểm sát nhân dân phải xác lập tốt mối quan hệ công tác với
các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan Nhà nước khác trong quá trình thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
3.2 Một số giải pháp cụ thể:
3.2.1 Về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự
Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân
dân có trách nhiệm bảo đảm mọi hành vi phạm tội và người phạm tội đều phải được phát hiện và
xử lý kịp thời, có căn cứ và đúng quy định của pháp luật. Không để lọt tội phạm nhưng đồng thời
không để làm oan người vô tội. Tuy nhiên, qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế, chúng tôi thấy
rằng do chưa có cơ chế tiếp nhận, quản lý tin báo, tố giác tội phạm nên có dấu hiệu bỏ lọt tội
phạm. Vì vậy, để nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các
vụ án hình sự, chúng tôi kiến nghị Viện kiểm sát nhân dân Tối cao cần thành lập “Vụ kiểm sát
việc giải quyết các tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố”, ở Viện kiểm sát nhân dân cấp
tỉnh cần thành lập “Phòng kiểm sát việc giải quyết các tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi
tố”, ở Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện thì tổ chức bộ phận chuyên trách thực hiện khâu công
tác này, nhằm tránh tình trạng bỏ lọt tội phạm.
Ngoài ra, để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ

án hình sự, qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế, chúng tôi cho rằng Kiểm sát viên cần phải tiến
hành kiểm sát điều tra ngay từ khi khởi tố vụ án. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật vẫn chưa có quy
định cụ thể về cơ chế để Kiểm sát viên có thể theo sát tiến độ điều tra, trên thực tế để tiến hành
kiểm sát, kiểm sát viên thường liên hệ với Điều tra viên để “mượn” hồ sơ, tài liệu đang điều tra
để nghiên cứu, có Điều tra viên thì phối hợp, tạo điều kiện để Kiểm sát viên tiến hành kiểm sát
nhưng có Điều tra viên lại “nại” ra các lý do khác nhau để từ chối, mà lý do thường gặp nhất là
để giữ “bí mật điều tra”. Vì vậy, chúng tôi kiến nghị Viện kiểm sát nhân dân Tối cao và Bộ Công
an cần xây dựng Thông tư hướng dẫn thực hiện quy định này nhằm thuận tiện trong quan hệ phối
hợp và góp phần nâng cao chất lượng công tác kiểm sát.
3.2.2 Về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự
Để nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án
hình sự, chúng tôi cho rằng cần phải nâng cao kỹ năng của Kiểm sát viên trong việc viết cáo
trạng; lời luận tội tại phiên tòa sơ thẩm và bài phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải
quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm.
Mặc dù có một vai trò, vị trí hết sức quan trọng nhưng qua thực tế tỉnh Thừa Thiên
Huế, chúng tôi thấy rằng kỹ năng xây dựng các văn bản nêu trên của Kiểm sát viên là chưa đáp
ứng được yêu cầu. Đối với bản Cáo trạng, theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự là phải ghi
rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm xảy ra tội phạm; thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội; hậu
quả của tội phạm; những chứng cứ xác định tội trạng của bị can, những tình tiết tăng nặng và
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nhân thân của bị can v.v. nhưng có Kiểm sát viên lại kể lể dông
dài về những tình tiết không đúng trọng tâm, trọng điểm, không nêu được các chứng cứ để xác
định tội danh của bị can.
Đối với lời luận tội, có Kiểm sát viên không phân tích đánh giá chứng cứ của vụ án, xác định
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà chỉ nêu lại nội dung của bản cáo trạng, thiếu
sự phân tích, liên hệ với thực tiễn của đời sống xã hội tại địa phương nơi xảy ra vụ án. Ngoài ra, do
không theo sát diễn biến phiên tòa, không căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra tại
phiên tòa và ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và những người
tham gia tố tụng khác tại phiên tòa nên không kịp thời sửa chữa, bổ sung vào lời luận tội, chỉ đọc lại lời
luận tội đã chuẩn bị sẵn nên không phát huy được vai trò của công tác thực hành quyền công tố tại
phiên tòa.

Đối với bài phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án tại phiên
tòa phúc thẩm, có Kiểm sát viên chỉ nêu chung chung về quan điểm giải quyết án của Viện kiểm
sát mà không viện dẫn được các điều luật hoặc các văn bản pháp luật có liên quan để chứng minh
cho lập luận của mình. Vì vậy, chúng tôi kiến nghị lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân các cấp phải
thường xuyên bồi dưỡng, tập huấn kỹ năng viết các văn bản tố tụng nêu trên cho Kiểm sát viên,
trong đó chú trọng đến việc phân biệt các nhóm tội phạm trong các lĩnh vực an ninh, trật tự an
toàn xã hội, kinh tế và chức vụ, môi trường, ma túy thì yêu cầu xây dựng các văn bản tố tụng nêu
trên cũng có sự khác nhau.
Giải pháp tiếp theo để nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm
sát xét xử các vụ án hình sự là phải nâng cao chất lượng tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên
tòa.
Tranh luận tại phiên tòa là một hoạt động tố tụng, theo đó các bên tham gia phiên tòa,
trong đó Viện kiểm sát là một bên bắt buộc đối đáp với nhau nhằm xác định sự thật khách quan
của vụ án để giúp Hội đồng xét xử đưa ra phán quyết. Trong tranh luận, Kiểm sát viên có vị trí,
vai trò rất quan trọng, là bên buộc tội, đại diện cho Nhà nước giữ quyền công tố trước Tòa để đối
đáp với bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác.
Khi tranh luận, kiểm sát viên có trách nhiệm chứng minh sự thật khách quan của vụ án,
vừa bảo vệ quan điểm truy tố nhưng đồng thời phải tôn trọng kết quả thẩm vấn công khai tại
phiên tòa, bảo đảm tính hợp pháp, có căn cứ và dân chủ trong tranh luận, không chủ quan, áp đặt,
suy diễn về tội phạm và người phạm tội. Để làm được các nhiệm vụ nêu trên, Kiểm sát viên phải
thực sự có bản lĩnh, tự tin, sắc sảo và có kỹ năng tranh luận tại phiên tòa. Tuy nhiên, qua thực
tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế, chúng tôi thấy rằng khả năng tranh luận tại phiên toà của đa số Kiểm
sát viên còn thấp, chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp. Vì vậy, phải thường
xuyên tập huấn, nâng cao kỹ năng tranh luận tại phiên tòa cho Kiểm sát viên. Hướng dẫn cho
Kiểm sát viên phương pháp tranh luận trong từng trường hợp cụ thể, đúc rút kinh nghiệm để xây
dựng hướng dẫn tranh luận cho Kiểm sát viên. Bên cạnh đó, Kiểm sát viên được phân công thực
hành quyền công tố tại phiên toà phải nghiên cứu kỹ và nắm chắc hồ sơ vụ án, chuẩn bị tốt nội
dung xét hỏi, tranh luận với bị cáo, luật sư, người bào chữa v.v để có thể thực hiện tốt việc tranh
luận tại phiên tòa.
3.2.3 Về công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành

chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật
Kể từ khi Bộ luật tố tụng dân sự 2004 có hiệu lực (ngày 01/01/2005) cho đến ngày
01/01/2012 (ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự có hiệu lực), tức là
đúng 7 năm, Viện kiểm sát nhân dân hai cấp tỉnh Thừa Thiên Huế đã không nhận được bất kỳ khiếu
nại nào của đương sự về việc thu thập chứng cứ của Toà án để tham gia phiên toà theo quy định của Bộ
luật tố tụng dân sự 2004, trong khi đó tỷ lệ án dân sự sơ thẩm bị cấp phúc thẩm tuyên sửa, hủy là khá
nhiều, số lượng đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm án gửi đến Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân
dân các cấp ngày càng tăng. Điều này, có thể được lý giải bởi nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân
cơ bản nhất là đa số người dân không biết Toà án thu thập chứng cứ như vậy có đúng pháp luật hay
không để khiếu nại hoặc có khiếu nại thì cũng không biết phải gửi đến Viện kiểm sát để đề nghị Viện
kiểm sát tham gia phiên toà, một điều khá tế nhị khác, là liệu người dân có “dám” khiếu nại về việc thu
thập chứng cừ của Toà án hay không, khi hồ sơ và kết quả giải quyết vụ án là hoàn toàn tuỳ thuộc vào
quyết định của thẩm phán. Quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2004 như vậy, vô hình đã “loại” Viện
kiểm sát ra khỏi quá trình giải quyết vụ án dân sự. Bên cạnh đó, do không tham gia phiên toà, không có
hồ sơ vụ án, việc phát hiện các vi phạm của Toà án chỉ thông qua các bản án, quyết định của Toà án
gửi cho Viện kiểm sát, nên chất lượng và hiệu quả của công tác kiểm sát việc giải quyết án dân sự, hôn
nhân gia đình, kinh tế, lao động là khá thấp, thông thường chỉ phát hiện được các vi phạm về mặt hình
thức của bản án và quyết định của Tòa án, còn nội dung của vụ án thì không phát hiện được để ban
hành kiến nghị, kháng nghị. Do đó, vai trò, vị trí của Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết các loại
án này có thể nói là mờ nhạt, mang tính hình thức, hiệu quả thấp.
Điểm mới quan trọng của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự
(có hiệu lực từ ngày 01/01/2012) là mở rộng phạm vi các trường hợp Viện kiểm sát phải tham gia
các phiên tòa, phiên họp giải quyết các vụ, việc dân sự. Cụ thể là, Viện kiểm sát tham gia các phiên
họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; các phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến
hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử
dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể
chất, tâm thần. Khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, Viện kiểm sát thực hiện
các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp
thời, đúng pháp luật. Mặc dù mở rộng phạm vi các trường hợp Viện kiểm sát tham gia các phiên
tòa, phiên họp giải quyết các vụ việc dân sự. Tuy nhiên, tại phiên tòa, phiên họp sơ thẩm thì Kiểm

sát viên chỉ phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của
Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ
khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.
Tương tự như vậy, đối với công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, Luật
tố tụng hành chính 2010 (có hiệu lực từ ngày 01/07/2011) cũng quy định Kiểm sát viên chỉ phát
biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của thẩm phán,
Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng hành chính ở phiên tòa sơ
thẩm.
Qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế, chúng tôi thấy rằng do Kiểm sát viên chỉ phát biểu
ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng mà không phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về
việc giải quyết toàn bộ vụ án (tức không phát biểu quan điểm về nội dung vụ án) nên Kiểm sát
viên chỉ nghiên cứu về mặt pháp luật tố tụng mà không nghiên cứu về mặt pháp luật nội dung
của vụ án nên không thể ban hành kháng nghị về mặt nội dung của vụ án được. Vì vậy, chất
lượng và hiệu quả của công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình,
kinh tế, hành chính còn khá thấp.
Để góp phần nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn
nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật, chúng
tôi cho rằng cần sửa đổi các quy định của pháp luật theo hướng tại các phiên tòa, phiên họp sơ thẩm các
vụ án dân sự, hành chính Kiểm sát viên phải phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, có như vậy
Viện kiểm sát mới có thể ban hành được các kiến nghị, kháng nghị, cùng Tòa án giải quyết các loại án
này một cách kịp thời, đúng quy định của pháp luật.
3.2.4 Về công tác kiểm sát việc thi hành án
Trong lĩnh vực thi hành án hình sự, để nâng cao chất lượng công tác kiểm sát, Viện kiểm sát
nhân dân phải tăng cường phối hợp với các ngành Công an, Toà án để quản lý và nắm chắc các trường
hợp người bị kết án phạt tù đã có quyết định thi hành án nhưng chưa thi hành để tổ chức đưa đi thi hành
theo quy định của pháp luật. Đồng thời phải chú ý, tập trung kiểm sát những trường hợp được hoãn,
tạm đình chỉ thi hành án phạt tù để yêu cầu cơ quan có trách nhiệm đưa ra thi hành đối với những
trường hợp không còn đủ điều kiện nữa. Chú trọng kiểm sát việc chấp hành pháp luật trong việc thi
hành các hình phạt bổ sung theo quy định của Bộ luật hình sự. Ngoài thực hiện nhiệm vụ kiểm sát thi
hành án phạt tù, Viện kiểm sát nhân dân các cấp phải tăng cường hơn nữa công tác kiểm sát việc thi

hành các hình phạt khác ngoài hình phạt tù theo quy định của pháp luật.
Trong lĩnh vực thi hành án dân sự, để nâng cao chất lượng công tác kiểm sát, Viện
kiểm sát nhân dân phải nắm chắc các bản án, quyết định về dân sự đã có hiệu lực pháp luật. Chủ
động kiểm sát chặt chẽ việc phân loại những việc có điều kiện thi hành và không có điều kiện
của cơ quan thi hành án, trực tiếp xác minh điều kiện thi hành án số vụ việc cơ quan thi hành án
phân loại không có điều kiện thi hành án để từ đó yêu cầu cơ quan thi hành án đưa ra thi hành án
đối với những trường hợp có điều kiện thi hành. Phối hợp với cơ quan thi hành án báo cáo cơ
quan có thẩm quyền xử lý dứt điểm những việc không có điều kiện thi hành án, rà soát những
bản án, quyết định dân sự còn nhận thức khác nhau để kiến nghị biện pháp khắc phục. Chú trọng
kiểm sát những việc phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế (kê biên, định giá, bán đấu giá tài sản
thi hành án). Kiểm sát chặt chẽ việc xét miễn, giảm án phí, tiền phạt. Tăng cường việc yêu cầu
cung cấp hồ sơ thi hành án để kiểm sát, trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ mà đánh giá toàn diện,
khách quan việc thi hành án, trong trường hợp cần thiết thì tiến hành xác minh để có kết luận
chính xác về vi phạm của cơ quan thi hành án và chấp hành viên. Nâng cao hơn nữa chất lượng
các kháng nghị, kiến nghị, chú trọng kiến nghị tổng hợp đối với cơ quan quản lý thi hành án dân
sự.
3.2.5 Về công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp
hành án phạt tù
Để làm tốt công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án
phạt tù. Các Kiểm sát viên phải nắm và quản lý chặt chẽ tình hình chấp hành pháp luật của các nhà tạm
giữ, trại tạm giam, trại giam khi được phân công kiểm sát, xây dựng hồ sơ, quản lý tình hình chấp hành
pháp luật ở các trại này. Xây dựng kế hoạch cụ thể, chi tiết để tiến hành kiểm sát thường kỳ và bất
thường tại các nhà tạm giữ, trại tạm giam, trại giam, bảo đảm đúng chế độ với người bị tạm giữ, tạm
giam và chấp hành án phạt tù. Trong quá trình kiểm sát phải áp dụng các biện pháp thích hợp để phát
hiện các vi phạm để kiến nghị, kháng nghị, yêu cầu khắc phục vi phạm. Kiểm sát chặt chẽ các hồ sơ
phạm nhân đề nghị xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù và xét đặc xá theo đúng quy định của
pháp luật. Thường xuyên theo dõi hồ sơ người bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành án phạt tù nhằm bảo
đảm không để xảy ra các trường hợp giam, giữ quá hạn.
Tóm lại, để nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân nói chung và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế

×