Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Ý thức pháp luật và hoạt động tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (892.75 KB, 93 trang )


đại học quốc gia hà nội
khoa luật




nguyễn thị nh- quỳnh




ý thức pháp luật và hoạt động tuyên truyền
phổ biến giáo dục pháp luật ở n-ớc ta hiện nay





luận văn thạc sĩ luật học









Hà nội - 2009




đại học quốc gia hà nội
khoa luật



nguyễn thị nh- quỳnh



ý thức pháp luật và hoạt động tuyên truyền
phổ biến giáo dục pháp luật ở n-ớc ta hiện nay

Chuyên ngành : Lí luận và lịch sử nhà n-ớc và pháp luật
Mã số : 60 38 01



luận văn thạc sĩ luật học



Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: GS.TS Hoàng Thị Kim Quế




Hà nội - 2009


MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ Ý THỨC PHÁP LUẬT VÀ VAI
TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG TUYÊN TRUYỀN PHỔ BIẾN
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI Ý THỨC PHÁP LUẬT
8
1.1.
Ý thức pháp luật
8
1.1.1.
Khái niệm
8
1.1.2.
Đặc điểm của ý thức pháp luật

12
1.1.3.
Chức năng của ý thức pháp luật
16
1.1.4.
Cơ cấu của ý thức pháp luật
17
1.1.5.
Mối quan hệ giữa ý thức pháp luật với pháp luật và hoạt
động tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật
21
1.2.
Hoạt động tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật và vai
trò đối với ý thức pháp luật
25
1.2.1.
Hoạt động tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật
25
1.2.1.1.
Khái niệm
25
1.2.1.2.
Một số hình thức tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật
chủ yếu
26

Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TUYÊN TRUYỀN PHỔ
BIẾN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VÀ Ý THỨC PHÁP LUẬT
41
2.1.

Thực trạng các quy định pháp luật về hoạt động tuyên truyền
phổ biến giáo dục pháp luật
41
2.2.
Thực trạng về tổ chức thực hiện các hoạt động tuyên truyền
phổ biến giáo dục pháp luật
47
2.2.1.
Giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2007
47
2.2.2.
Giai đoạn từ năm 2008 đến 6 tháng đầu năm 2009
57
2.3.
Thực trạng ý thức pháp luật của người dân
60

Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN, NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG TUYÊN TRUYỀN PHỔ
BIẾN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT NHẰM GÓP PHẦN
NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP LUẬT
66
3.1.
Tính đồng bộ của hệ thống các giải pháp nâng cao chất
lượng hoạt động tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật
nhằm nâng cao ý thức pháp luật
66
3.2.
Các giải pháp chủ yếu
70

3.2.1.
Xây dựng và hoàn thiện thể chế cho công tác tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật
70
3.2.2.
Đa dạng hóa và đổi mới các hình thức, biện pháp và phương
tiện phổ biến giáo dục pháp luật
76
3.2.3.
Kiện toàn nguồn nhân lực thực hiện công tác tuyên truyền
phổ biến giáo dục pháp luật
77
3.2.4
Hoàn thiện chính sách, chế độ về quản lý và sử dụng nguồn
kinh phí phục vụ công tác phổ biến giáo dục pháp luật
80

KẾT LUẬN
83

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
84


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tình hình mới hiện nay xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đang
diễn ra mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực và nước ta đang trong quá trình tiến hành

xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân,
vì nhân dân. Một trong những đặc điểm cơ bản của học thuyết về Nhà nước
pháp quyền nói chung là yếu tố thượng tôn pháp luật. Đối với Việt Nam, pháp
luật cũng giữ một vị thế vô cùng quan trọng trong việc duy trì trật tự kỷ
cương và thúc đẩy nhà nước phát triển lớn mạnh theo định hướng xã hội chủ
nghĩa: dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh.
Nhằm phục vụ mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, tại Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng ta
đã nhấn mạnh nhiệm vụ: "Phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ luật, kỷ
cương, tăng cường pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp luật, tuyên truyền giáo
dục toàn dân, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật" [31]. Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa yêu cầu pháp luật có vị trí tối thượng trong đời sống xã hội. Đó
là một hệ thống pháp luật dân chủ được ban hành bởi cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất, phải được tuân thủ bởi chính nhà nước và mọi cá nhân, tổ chức
trong xã hội. Vì vậy, đồng thời với quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống
pháp luật, Nhà nước ta đã và đang nỗ lực tuyên truyền, phổ biến giáo dục
pháp luật và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân.
Ý thức pháp luật của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội sẽ là tiền đề
quan trọng cho sự phát triển của đất nước: từ đó để hình thành lối sống tôn
trọng pháp luật, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Ý thức pháp
luật của nhân dân Việt Nam là ý thức pháp luật của giai cấp công nhân, nông
dân và các tầng lớp khác trong xã hội có lợi ích thống nhất nhau về cơ bản nên

2
tạo ra sự thống nhất cao về ý thức pháp luật. Điều đó thể hiện sự thống nhất về
tư tưởng, chính trị của các giai cấp, tầng lớp nhân dân trong xã hội ta. Qua mỗi
thời kỳ lịch sử khác nhau thì ý thức pháp luật của nhân dân Việt Nam cũng có
sự phát triển tương ứng, tuy nhiên do bản chất lạc hậu, bảo thủ cố hữu của ý
thức pháp luật trong một số giai đoạn lịch sử nhất định thì sự thay đổi để thích
ứng với tồn tại xã hội mới của ý thức pháp luật rất là chậm chạp, đôi khi là rào

cản của sự phát triển.
Do vậy, việc nghiên cứu và nhận thức rõ bản chất, cơ cấu, chức năng
của ý thức pháp luật, mối quan hệ với pháp luật và văn hóa pháp lý là hoạt
động rất cần thiết để từ đó có những giải pháp nhằm nâng cao ý thức pháp luật.
Điều này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng đối với việc cải cách bộ
máy hành chính nhà nước, cải cách tư pháp, hoàn thiện sự điều chỉnh của pháp
luật trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
hiện nay.
Một trong những phương thức, giải pháp nhằm nâng cao ý thức pháp
luật cho nhân dân là hoạt động tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật.
Công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật trong tình hình mới hiện
nay được coi là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng là
nhiệm vụ trọng tâm của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo thống
nhất của Đảng cộng sản Việt Nam. Với rất nhiều hình thức, phương tiện tuyên
truyền phổ biến giáo dục pháp luật phong phú như hiện nay thì công tác phổ
biến giáo dục pháp luật được thực hiện một cách thường xuyên, liên tục và
kịp thời.
Trong thời gian khoảng 10 năm trở lại đây công tác phổ biến giáo dục
pháp luật không ngừng được nâng cao, hoàn thiện cả về nội dung lẫn phương
thức thực hiện và đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Hàng loạt văn
bản quy phạm pháp luật về công tác phổ biến giáo dục pháp luật được ban
hành để hướng dẫn, chỉ đạo công tác này. Đặc biệt từ năm 2002 trở đi sau khi

3
Thủ tướng chính phủ ban hành Quyết định số: 13/2003/QĐ-TTg ngày
17/01/2003 phê duyệt "Chương trình phổ biến giáo dục pháp luật giai đoạn từ
năm 2003 đến năm 2007", tiếp theo đó Bộ Tư pháp và các bộ, ngành, địa
phương liên tục ban hành các văn bản hướng dẫn công tác này tại đơn vị
thuộc sự quản lý của mình. Đồng thời rất nhiều văn bản pháp luật liên tịch
giữa các bộ, các ngành cũng ban hành đồng loạt nhằm phối hợp có hiệu quả

trong công tác phổ biến giáo dục pháp luật. Năm 2008 Thủ tướng Chính phủ
tiếp tục ban hành Quyết định số 37 ngày 12/03/2008 phê duyệt "Chương trình
phổ biến giáo dục pháp luật giai đoạn 2008 - 2012".
Các nội dung pháp luật cần tuyên truyền được phổ biến kịp thời, sâu
rộng đến toàn thể cán bộ, nhân dân cả nước. Nhìn chung thì ý thức pháp luật
của đa số cán bộ, nhân dân đã có nhiều tiến bộ: sự hiểu biết pháp luật và vận
dụng pháp luật trong đời sống văn hóa, xã hội được nâng lên rõ rệt thể hiện
qua việc chấp hành nghiêm chỉnh các chế độ, chính sách của Đảng và Nhà
nước; các vụ việc kiện tụng liên quan đến quyền, lợi ích của cán bộ, nhân dân
giảm; tình trạng tội phạm cũng đã được khắc phục; nhân dân có thể tự bảo vệ
các quyền, lợi ích cơ bản của mình nhờ có kiến thức đúng đắn về pháp luật
của mình
Tuy nhiên chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng, trong bối cảnh xã hội
luôn phát triển không ngừng, đặc biệt trong thời gian gần đây khi sự hội nhập
kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ, tốc độ phát triển của công nghệ thông tin bùng
nổ Xuất phát từ điều đó xã hội Việt Nam cũng đang và sẽ tiếp nhận nhiều
thông tin với mức độ ảnh hưởng khác nhau đến đời sống của nhân dân Việt Nam
(tác động tiêu cực hoặc tích cực). Theo đánh giá của các nhà làm công tác xây
dựng luật, bảo vệ pháp luật cho thấy bên cạnh tác động tích cực là thúc đẩy xã
hội phát triển về nhiều mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị thì còn có
những tác động tiêu cực: đời sống của một số bộ phận nhân dân trong xã hội
sống theo nếp sống không lành mạnh của các nước tư bản phát triển, tỷ lệ

4
người phạm tội trong lứa tuổi thanh thiếu niên ngày càng tăng, nhận thức về
pháp luật của người dân không đồng đều giữa khu vực thành thị và nông thôn
Như vậy, nâng cao ý thức pháp luật trong cán bộ, nhân dân nhằm hình
thành nếp sống tôn trọng pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật là một tất
yếu khách quan đặc biệt là trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong số những hoạt động, phương thức để hoàn

thiện nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ, nhân dân thì hoạt động tuyên
truyền phổ biến giáo dục pháp luật là một phương thức có vị trí, vai trò vô
cùng quan trọng. Vì vậy, các giải pháp nhằm nâng cao, hoàn thiện hoạt động
tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật sẽ là biện pháp hiệu quả góp phần
xây dựng, nâng cao ý thức pháp luật. Với tầm quan trọng và ý nghĩa lớn lao
như trên hoạt động tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật luôn nhận được
sự quan tâm sát sao của mọi cấp, mọi ngành dưới sự lãnh đạo thống nhất của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong phạm vi luận văn này, tác giả tập trung đi sâu vào phân tích,
đánh giá thực trạng ý thức pháp luật của người dân Việt Nam (trên một số
phương diện cụ thể) và những kết quả mà công tác phổ biến giáo dục pháp
luật đã đạt được trong thời gian qua. Từ đó xem xét đến tác động (tích cực,
tiêu cực) của kết quả đó đối với vấn đề nâng cao ý thức pháp luật cho nhân
dân, hình thành nếp sống sống và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật. Bên
cạnh đó nêu ra một số kiến nghị cụ thể về việc xây dựng, hoàn thiện nội dung
dự thảo Luật phổ biến giáo dục pháp luật đang được các nhà soạn thảo luật
trao đổi lấy ý kiến; các giải pháp nâng cao, hoàn thiện công tác phổ biến giáo
dục pháp luật nhằm góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán
bộ, nhân dân trong cả nước.
2. Tình hình, phạm vi nghiên cứu đề tài
Vấn đề ý thức pháp luật và hoạt hoạt động tuyên truyền phổ biến giáo
dục pháp luật của nước ta trong giai đoạn hiện nay luôn nhận được sự quan

5
tâm của mọi cấp, mọi ngành trong cả nước. Trong tình hình mới hiện nay hoạt
động tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật diễn ra rất sôi nổi và đạt được
nhiều kết quả đáng khích lệ. Với đề tài "Ý thức pháp luật và hoạt động tuyên
truyền phổ biến giáo dục pháp luật ở nước ta hiện nay" đã được nghiên cứu,
tìm hiểu dưới nhiều hình thức như luận án, luận văn, khóa luận tốt nghiệp.
Ngoài ra, vấn đề này còn được nghiên cứu, bình luận, trao đổi thông qua các

bài viết đăng trên các Tạp chí chuyên ngành như: Nghiên cứu lập pháp, Luật
học, Dân chủ và pháp luật, Nhà nước và pháp luật
Bên cạnh đó đề tài trên cũng được triển khai thành một số đề tài khoa
học cấp Bộ, cấp tỉnh như Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng, tỉnh Nam Định, Hưng
Yên, Hòa Bình, Quảng Nam, Bình Định đặc biệt trong thời gian năm năm
trở lại đây vấn đề này càng được quan tâm nghiên cứu.
Luận văn này người viết tập trung nghiên cứu những vấn đề về phương
diện lý luận chung về ý thức pháp luật và hoạt động tuyên truyền phổ biến
giáo dục pháp luật được quy định trong hệ thống các tài liệu, văn bản quy
phạm pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng. Đồng thời đưa ra một số kiến
nghị nhằm nâng cao, hoàn thiện hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật từ đó
góp phần nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ, nhân dân trong tình hình mới
hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích chung: Qua nghiên cứu đề tài, người viết mong muốn đóng
góp một số ý kiến về việc hoàn thiện, nâng cao hoạt động tuyên truyền phổ
biến giáo dục pháp luật góp phần nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ, nhân
dân trong tình hình mới hiện nay. Thông qua việc đưa ra một số kiến nghị về
các quy định của pháp luật, cách thức triển khai thực hiện trên thực tế đối với
công tác phổ biến giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp
luật trong nhân dân.

6
Mục đích cụ thể: Luận văn tìm hiểu, nghiên cứu và hướng tới các mục
tiêu cụ thể sau:
- Những vấn đề mang tính chất lý luận chung về Ý thức pháp luật và
hoạt động Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật.
- Mối quan hệ biện chứng giữa Ý thức pháp luật với Pháp luật và hoạt
động tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật.
- Vai trò của hoạt động tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật đối

với việc xây dựng, nâng cao ý thức pháp luật.
- Sự ghi nhận và quy định trong hệ thống văn bản pháp luật của Việt
Nam đối với vấn đề ý thức pháp luật và hoạt động tuyên truyền phổ biến giáo
dục pháp luật.
- Phân tích, đánh giá thực trạng ý thức pháp luật và kết quả đạt được
của hoạt động tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật của nước ta trong giai
đoạn hiện nay.
- Đưa ra một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện, nâng cao chất lượng
của hoạt động tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật nhằm góp phần xây
dựng, nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu luận văn
Luận văn được nghiên cứu và hình thành trên cơ sở vận dụng các
phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của học
thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tác giả luận văn đã sử dụng một
số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp, đối chiếu giữa lý
luận và thực tiễn
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:

7
Chương 1: Cơ sở lý luận về ý thức pháp luật và vai trò của hoạt động
tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật đối với ý thức pháp luật.
Chương 2: Thực trạng về hoạt động tuyên truyền phổ biến giáo dục
pháp luật và ý thức pháp luật.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện, nâng cao chất lượng hoạt động
tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật.







8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ Ý THỨC PHÁP LUẬT
VÀ VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG TUYÊN TRUYỀN PHỔ BIẾN
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI Ý THỨC PHÁP LUẬT

1.1. Ý THỨC PHÁP LUẬT
1.1.1. Khái niệm
Ý thức pháp luật và vấn đề xây dựng, nâng cao ý thức chấp hành pháp
luật trong cán bộ, nhân dân đang là tất yếu khách quan trong quá trình xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong tình hình mới.
Danh từ "Ý thức" tên tiếng Anh là "Consciousness" với nghĩa để chỉ
trạng thái tỉnh táo hay tất cả những tư tưởng, suy nghĩ, cảm nhận của một
người hay một số người ý thức. "Ý thức" theo diễn giải trong Từ điển Tiếng
Việt được hiểu là "ý thức sự hiểu biết tự mình cảm thấy một thứ trực giác rõ
ràng mà một người biết được đối với các việc gì xảy ra" [55].
Chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác - Lênin khi đề cập đến vấn đề
nguồn gốc, bản chất, kết cấu của ý thức quan niệm rằng: "Ý thức là sự phản
ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người thông qua lao động,
ngôn ngữ và các quan hệ xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng
xã hội" [29]. Và sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con
người là sự phản ánh một cách năng động, sáng tạo. Như vậy có thể hiểu rằng
ý thức hoàn toàn mang tính chủ động, chủ quan của một cá nhân hay một tập
thể con người.
Thông thường ý thức bao giờ cũng đứng trước một cụm từ như ý thức
pháp luật, ý thức xã hội, ý thức công dân, ý thức trách nhiệm Mọi hoạt động
của con người trong xã hội không bao giờ được thực hiện ngoài ý thức của


9
con người. Hay có thể nói rằng không có bất kì hiện tượng, hoạt động nào của
xã hội có thể tác động đến đời sống pháp luật nếu như không được phản ánh
vào ý thức pháp luật. Dường như ý thức pháp luật trở thành nhân tố cầu nối
mà qua đó các nhân tố khác của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn
hóa gây ảnh hưởng đến đời sống pháp luật với nhiều chiều hướng khác nhau
(tích cực hoặc tiêu cực).
Ý thức pháp luật theo cách hiểu giản đơn có thể hiểu là những nhận
thức của con người về tri thức pháp luật, thái độ đối với pháp luật. Trình độ
nhận thức pháp luật này ở mỗi chủ thể là khác nhau. Khi nghiên cứu về khái
niệm ý thức pháp luật có nhiều quan điểm được xem xét dưới nhiều góc độ,
phương diện khác nhau nhưng nhìn chung đó vẫn là các tư tưởng, thái độ, tâm
lý của một chủ thể hoặc nhóm chủ thể nhất định đối với lĩnh vực pháp luật.
Trong Từ điển Luật học, ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã
hội, gồm có hai bộ phận là tâm lý pháp luật và tư tưởng pháp luật. Tâm lý
pháp luật hình thành một cách tự phát dưới dạng tình cảm, tâm trạng, cảm xúc
đối với các hiện tượng pháp luật xảy ra trong đời sống xã hội. Tư tưởng pháp
luật là tổng hợp các quan điểm, quan niệm có tính lý luận, phản ánh các hiện
tượng pháp luật một cách sâu sắc, tự giác dưới dạng các khái niệm, các phạm
trù khoa học. Ý thức pháp luật của một người có vai trò rất quan trọng trong
việc thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật là
trách nhiệm của mỗi công dân và toàn xã hội.
Theo từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam khái niệm ý thức pháp luật
được hiểu là:
Tổng hợp những quan điểm, tư tưởng, học thuyết thể hiện
thái độ của con người, các nhóm xã hội, giai cấp đối với pháp
luật, pháp chế cũng như những quan điểm của họ về sự hợp pháp và
không hợp pháp. Sự thể hiện tập trung của ý thức pháp luật một
hình thái ý thức xã hội - là hệ tư tưởng pháp luật, tức là hệ thống


10
các quan điểm pháp luật dựa trên những lập trường khoa học và xã
hội nhất định. Ý thức pháp luật có các nội dung chủ yếu: 1) Sự hiểu
biết về pháp luật; 2) Thái độ đối với pháp luật; 3) Khả năng thực hiện
và áp dụng pháp luật. Ý thức pháp luật gắn bó mật thiết với văn hóa
pháp luật và văn hoá nói chung. Nâng cao ý thức pháp luật của mọi
thành viên trong xã hội, biến việc tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật
thành niềm tin nội tâm ở mỗi người, là bộ phận cấu thành của giáo
dục cộng sản chủ nghĩa đối với nhân dân lao động ở Việt Nam hiện
nay. Trong xã hội Việt Nam, ý thức pháp luật thống trị là ý thức
pháp luật của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Cùng với sự
phát triển của xã hội Việt Nam, ý thức pháp luật của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động sẽ trở thành một hệ thống tư tưởng và
quan điểm pháp luật chung thống nhất của toàn xã hội [58].
Các nhà khoa học pháp lý của Đại học Quốc gia Hà Nội thống nhất
theo quan niệm ý thức pháp luật là một hình thái của ý thức xã hội và dưới
dạng chung nhất là:
Ý thức pháp luật là tổng thể những tư tưởng, học thuyết,
quan điểm, thái độ, tình cảm, sự đánh giá của con người về pháp
luật trên các phương diện, tiêu chí cơ bản như: về sự cần thiết hay
không cần thiết, về vai trò, chức năng của pháp luật về tính công
bằng hay không công bằng, đúng đắn hay không đúng đắn của các
quy định pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua trong quá khứ, pháp
luật cần phải có, về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành
vi của các cá nhân, nhà nước, các tổ chức xã hội [30].
Trong văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam, khái niệm và vai trò
của ý thức pháp luật đã được giải thích như sau:
Ý thức pháp luật là một dạng nhận thức tổng hợp của con
người bao gồm hai nhóm: trí tuệ về pháp luật và ý chí pháp luật. Có


11
ý thức pháp luật của công dân, ý thức pháp luật của các tập thể, của
giai cấp, của Nhà nước, của Đảng cầm quyền. Ý thức pháp luật
đúng đắn, trong sáng của các chủ thể nêu trên là một trong những
yếu tố góp phần tạo môi trường pháp lý an toàn, lành mạnh, là biện
pháp cơ bản để tăng cường kỷ cương pháp chế của đất nước để
phòng chống có hiệu quả các biểu hiện tiêu cực trong xã hội [53].
Sự thể hiện tập trung của ý thức pháp luật một hình thái ý thức xã hội -
là hệ thống tư tưởng pháp luật, tức là hệ thống các quan điểm pháp luật dựa
trên những lập trường khoa học và xã hội nhất định. Ý thức pháp luật có các
nội dung chủ yếu: sự hiểu biết pháp luật, thái độ với pháp luật, khả năng thực
hiện và áp dụng pháp luật. Ý thức pháp luật gắn bó mật thiết với văn hóa pháp
lý và văn hóa xã hội nói chung.
Ý thức pháp luật kiểu mới được xây dựng, hoàn thiện của chúng ta hiện
nay được hình thành từ những học thuyết, quan điểm của các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác - Lênin. Nội dung này được thể hiện rõ nét qua các cương lĩnh
của các Đảng công nhân và các yêu sách đấu tranh của giai cấp vô sản. Thông
qua những tác phẩm đó các ông đã chỉ cho giai cấp vô sản thấy rằng: những
yêu cầu, đòi hỏi về mặt pháp lý để xây dựng một xã hội mới, trong đó có
những khái niệm quan trọng trong pháp luật tạo cơ sở pháp lý để phát triển ý
thức pháp luật mới. Song song với sự phát triển của xã hội khi các hệ thống
mối quan hệ xã hội mới và pháp luật thì ý thức pháp luật kiểu mới cũng ngày
càng được phát triển và nâng cao phù hợp với thời đại.
Từ những quan điểm trên chúng ta có thể hiểu khái niệm ý thức pháp
luật một cách chung nhất là tổng hợp những hiểu biết của con người về tri
thức pháp luật thông qua hệ thống các quan điểm, tư tưởng; là thái độ của con
người đối với pháp luật và thực tiễn thực hiện, áp dụng pháp luật thông qua
xử sự của con người.


12
1.1.2. Đặc điểm của ý thức pháp luật
a) Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, ý thức pháp luật chịu sự
quy định của tồn tại xã hội, nhưng nó cũng có tính độc lập tương đối
Thứ nhất, ý thức pháp luật thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội:
Trong mỗi xã hội theo từng thời kỳ lịch sử phát triển khác nhau thì tồn
tại xã hội bao giờ cũng tương ứng với ý thức xã hội nhất định. Tuy nhiên, xã
hội luôn phát triển không ngừng và sự tương xứng này không phải lúc nào
cũng hài hòa và cân xứng về mọi phương diện lý luận cũng như thực tiễn. Bởi
vì, xuất phát từ những yếu tố tâm lý pháp luật mà những thói quen, truyền
thống, phong tục, tập quán luôn đóng vai trò quan trọng trong tiềm thức của
mỗi con người.
Do vậy, trên thực tế theo sự biến đổi của xã hội cho dù tồn tại xã hội cũ
mất đi nhưng ý thức xã hội trong đó có ý thức pháp luật do nó sinh ra vẫn tồn
tại dai dẳng trong xã hội. Ví dụ, biểu hiện của tâm lý pháp luật của thời kỳ
phong kiến như sự tồn tại của lối làm việc mang tính chất quan liêu, hách dịch
trong công tác quản lý hành chính nhà nước đã ăn sâu vào tiềm thức và trở
thành một thói quen dai dẳng trong tiềm thức của người dân nên điều này vẫn
tồn tại trong xã hội hiện nay. Mặc dù chúng ta đã thực hiện cơ chế quản lý hành
chính "một cửa" nhưng dường như tâm lý pháp luật của một số bộ phận cán bộ
vẫn bị ảnh hưởng của nếp nghĩ và cách làm cũ, vì nhiều nguyên nhân chủ quan
và khách quan nó vẫn đang tồn tại trong xã hội gây ảnh hưởng tiêu cực đến
hoạt động quản lý xã hội của Nhà nước.
Bên cạnh đó còn có một thực tế là ý thức pháp luật của người dân trong
xã hội phong kiến chịu sự quy định, chi phối của nền kinh tế bóc lột cùng với
những yếu tố xã hội khác như tư tưởng, đạo đức, tập quán đầy tính hà khắc, đi
ngược lại lợi ích của người dân. Từ đó dần hình thành tâm lý của người dân
trong xã hội phong kiến thường có thái độ thờ ơ, coi thường pháp luật, chống

13

đối, phản kháng lại pháp luật, ứng xử chủ yếu theo tập quán, phong tục địa
phương, hay chúng ta vẫn thường gọi là "phép Vua thua lệ làng".
Khi tiến hành nghiên cứu về vấn đề này một giáo sư nổi tiếng đã dày
công nghiên cứu lịch sử và pháp luật Việt Nam đã khẳng định rằng một trong
những nguyên nhân quan trọng dẫn đến thái độ pháp luật đó là người dân Việt
Nam phải sống quá lâu trong thời kỳ đô hộ, phong kiến, thực dân. Vậy nên,
dưới con mắt của người dân:
Pháp luật theo họ là công cụ của kẻ thống trị, của ngoại
bang chỉ để trấn áp, trừng trị và phục vụ thiểu số người. Bất tuân
pháp luật là sự phản ứng của người Việt trước kiểu pháp luật ấy.
Chính vì vậy họ không tìm thấy trong pháp luật trước đây những
giá trị phản ánh lợi ích của mình nên đã hình thành một phản xạ
luôn đặt pháp luật trong tư thế đối lập [41].
Vì lẽ đó, song song với sự phát triển mọi mặt của xã hội thì tồn tại xã
hội đã có những thay đổi để phù hợp với tình hình mới, nhưng ý thức pháp
luật cũ với bản chất vốn có là thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội thay
đổi rất chậm chạp, ở một số khía cạnh là ít biến đổi.
Để thay đổi nhận thức pháp luật của cán bộ, nhân dân trong tình hình
mới đặc biệt là các đối tượng dân tộc thiểu số, đồng bào miền núi vùng sâu
vùng xa, hay đội ngũ cán bộ, công chức đã quen với nếp nghĩ cũ là vấn đề
không hề đơn giản. Do đó, những người thực hiện công tác phổ biến giáo dục
pháp luật đối với các đối tượng như vậy phải thực sự am hiểu phong tục, tập
quán của người dân ở địa phương đó mới có thể đạt hiệu quả như mong muốn.
Thứ hai, ý thức pháp luật mặc dù lệ thuộc rất nhiều vào tồn tại xã hội và
chịu sự quy định của nó nhưng vẫn có tính độc lập tương đối:
Theo tư tưởng chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin
thì vật chất quyết định ý thức. Nhưng chỉ xét cho đến cùng của thế giới này thì

14
vật chất mới quyết định ý thức. Bởi lẽ, trong từng giai đoạn, thời điểm cụ thể

thì vai trò của ý thức vô cùng quan trọng. Do vậy, chúng ta không nên tuyệt đối
hóa mối quan hệ vật chất quyết định ý thức mà cũng phải thừa nhận tính độc
lập tương đối của ý thức.
Trong một số điều kiện nhất định ý thức pháp luật vẫn có tính vượt
trội hơn so với sự phát triển của tồn tại xã hội, đặc biệt là tư tưởng pháp luật
khoa học. Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh
tế - xã hội của các quốc gia. Bởi lẽ, nếu như đó là những tư tưởng của các nhà
cầm quyền sẽ có nhiều cơ hội thuận lợi để thể hiện thành pháp luật và tạo ra
những biến đổi vượt trội trong đời sống. Ví dụ, những tư tưởng, quan điểm
của C. Mác về pháp luật vượt lên trước thời đại mà ông đang sống. Đó là dự
báo về pháp luật kiểu mới - pháp luật xã hội chủ nghĩa của xã hội ngày nay.
Hay tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về con đường phát triển
của Việt Nam là Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân do dân và vì dân.
Thứ ba, ý thức pháp luật phản ánh tồn tại xã hội của một thời đại nào
đó, song nó cũng kế thừa những yếu tố nhất định thuộc về ý thức pháp luật
của thời đại trước đó. Tuy nhiên sự kế thừa đó có thể là tiêu cực hoặc tích cực.
Tích cực, đó là sự nhận thức đúng đắn đối với tri thức pháp luật và xử
sự tuân theo sự định hướng của các quy phạm pháp luật đáp ứng được các yêu
cầu mà pháp luật đặt ra.
Tiêu cực, đó là sự kế thừa ý thức pháp luật của người dân về thái độ,
tâm lý, hiểu biết pháp luật, chấp hành pháp luật đi ngược lại với xu thế hiện
đại. Ví dụ như những tàn dư của chế độ phong kiến lạc hậu để lại trong ý thức
pháp luật của một bộ phận không nhỏ người dân trong xã hội như phân tích ở
trên là yếu tố kìm hãm sự phát triển của đất nước trong tình hình mới.
Thứ tư, ý thức pháp luật tác động trở lại đối với tồn tại xã hội, với ý
thức chính trị, đạo đức và các yếu tố thuộc thượng tầng kiến trúc pháp lý như
nhà nước và pháp luật.

15
Sự tác động trở lại này có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì nó có thể

thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của các hiện tượng nêu trên phụ thuộc
vào ý thức pháp luật tiến bộ hay lạc hậu. Ý thức pháp luật cao thể hiện trình
độ hiểu biết đúng đắn về tri thức pháp luật, xử sự phù hợp với các yêu cầu của
pháp luật tức là hoạt động thực thi, áp dụng pháp luật trên thực tế phát huy
hiệu quả mong muốn theo đúng sự định hướng của nhà nước.
Đồng thời, ý thức pháp luật cao đặc biệt ý thức pháp luật chuyên ngành
của những người xây dựng luật cao thì sẽ đảm bảo cho quá trình xây dựng,
ban hành các văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với thực tế khách quan và
tính khả thi trong quá trình thực thi, áp dụng. Ngược lại, ý thức pháp luật
kém, không hiểu biết đúng về tri thức pháp luật, thái độ coi thường, thờ ơ với
pháp luật và xử sự không đáp ứng được các yêu cầu pháp luật đặt ra thì đương
nhiên điều này sẽ kìm hãm sự phát triển của pháp luật cũng như các hiện
tượng chính trị, đạo đức và các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng pháp lý.
Do vậy, một trong những yêu cầu của công tác giáo dục pháp luật là
phải biết phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực để thúc đẩy xã hội
phát triển.
b) Ý thức pháp luật mang tính giai cấp
Vị thế xã hội của mỗi giai cấp nhất định trong xã hội sẽ quyết định
đến thế giới quan pháp lý của họ. Chính vị trí xã hội đó sẽ tạo ra thế giới quan
pháp lý tương ứng. Tuy nhiên, mỗi quốc gia chỉ tồn tại một hệ thống pháp
luật chung thống nhất nhưng về ý thức pháp luật lại tồn tại nhiều hệ thống của
giai cấp thống trị, giai cấp bị trị hay giai cấp trung gian.
Về nguyên tắc, chỉ có ý thức pháp luật của giai cấp thống trị là được
thể hiện thành pháp luật. Thông thường trong lịch sử từ trước đến nay thì ý
thức pháp luật của giai cấp thống trị và giai cấp bị trị là mâu thuẫn với nhau
về quyền, lợi ích của họ trong xã hội.

16
Đối với nước ta thì ý thức pháp luật của giai cấp công nhân, nông dân
và tầng lớp khác trong xã hội có lợi ích thống nhất nhau về cơ bản nên tạo ra

sự thống nhất cao về ý thức pháp luật. Điều đó thể hiện sự thống nhất về tư
tưởng, chính trị của các giai cấp, tầng lớp nhân dân trong xã hội ta.
1.1.3. Chức năng của ý thức pháp luật
a) Chức năng nhận thức
Các quy phạm pháp luật hiện hành cũng như các quy phạm pháp luật
cần ban hành để có thể tạo dựng các quan điểm, quan niệm và lòng tin vào
chúng thì đòi hỏi phải phân tích, đánh giá hiện thực khách quan và nhận thức
được hiện thực đó vào ý thức pháp luật. Quá trình phản ánh thực tế khách
quan phải đảm bảo tính năng động, sáng tạo của ý thức thì mới có giá trị tạo
ra những tri thức có ý nghĩa.
Ý thức pháp luật phải nhận thức các quá trình phát triển kinh tế - xã
hội, các giá trị đạo đức và các giá trị văn hóa - xã hội khác trong xã hội đã
được thể chế hóa hoặc sẽ được thể chế hóa thông qua các quy phạm pháp luật.
Sự nhận thức đúng đắn của ý thức pháp luật về hiện thực khách quan giúp cho
quá trình xây dựng, thực thi và áp dụng pháp luật thống nhất hiệu quả.
Để phản ánh đúng hiện thực đời sống kinh tế ý thức pháp luật phải
được xây dựng trên cơ sở kinh tế ở nước ta hiện nay là nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược,
kế hoạch. Tuy rằng pháp luật là hiện tượng khách quan nhưng sự ra đời, hình
thành và phát triển của nó phải thông qua nhân tố chủ quan là con người hay
nói cách khác là thông qua ý thức pháp luật của con người.
b) Chức năng mô hình hóa pháp lý
Quá trình nhận thức hiện thực khách quan của ý thức pháp luật tạo nên
các mô hình hành vi nhất định mà ý thức pháp luật cho rằng nó là cần thiết và
tất yếu để điều chỉnh quan hệ xã hội phát triển có kết quả theo định hướng của

17
xã hội cũng như là phù hợp với quy luật khách quan. Mô hình pháp lý đó chỉ
rõ những việc con người được phép tự do hành động, hành động đòi hỏi kèm
theo một số điều kiện nhất định, không được phép hành động hoặc cấm thực

hiện một số hành vi nhất định không phù hợp với pháp luật.
Từ đó con người nhận thức được rằng mình sẽ phải xử sự như thế nào
khi ở vào những hoàn cảnh, điều kiện mà pháp luật đã dự trù trước sao cho
phù hợp với yêu cầu của các quy phạm pháp luật. Sau đó, các mô hình hành
vi đó sẽ được ghi nhận bằng các quy tắc xử sự trong các văn bản quy phạm
pháp luật.
c) Chức năng điều chỉnh
Ý thức pháp luật định hướng cho các hành vi của con người phù hợp
với các yêu cầu của hệ thống pháp luật hiện hành hoặc làm cho các hành vi
trở nên sai lệch với các yêu cầu đó. Ý thức pháp luật đúng đắn sẽ giúp con
người thực hiện các hành vi xử sự của mình phù hợp và đáp ứng được các yêu
cầu, đòi hỏi của pháp luật. Ngược lại, ý thức pháp luật nhận thức không đúng sẽ
dẫn đến các hành vi ứng xử sai lệnh không đáp ứng được yêu cầu của pháp luật.
Các chức năng của ý thức pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ và tác
động qua lại lẫn nhau. Ý thức pháp luật nhận thức hiện thực khách quan để
hình thành các mô hình hóa hành vi và sau khi được ghi nhận bằng các quy
tắc xử sự trong các quy phạm pháp luật thì ý thức pháp luật lại điều chỉnh
hành vi của con người tuân theo các yêu cầu của pháp luật.
1.1.4. Cơ cấu của ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật là một hiện tượng chính trị - pháp lý có cơ cấu phức
tạp. Dựa trên từng căn cứ nhất định có nhiều cách để phân chia ý thức pháp
luật với các bộ phận cấu thành khác nhau. Và mỗi cách phân chia này sẽ có ý
nghĩa nhất định đối với việc nhận thức bản chất, đặc điểm và vai trò của ý
thức pháp luật.

18
* Căn cứ vào tính chất nội dung: Ý thức pháp luật có thể chia ra
thành hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật
Hệ tư tưởng pháp luật là tổng thể những tư tưởng, quan điểm và học
thuyết về pháp luật. Những vấn đề lý luận về hoạt động xây dựng pháp luật,

về giá trị xã hội và chức năng của pháp luật, sự bình đẳng chân chính của tất
cả các thành viên trong xã hội, mối liên hệ mật thiết giữa quyền và nghĩa vụ,
pháp chế trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước , là những sản
phẩm thuộc hệ tư tưởng pháp luật.
Tâm lý pháp luật được hình thành một cách tự phát dưới dạng tâm
trạng, xúc cảm, thái độ, tình cảm đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lý
khác. Những tâm trạng, thái độ, xúc cảm, tình cảm pháp luật được hình thành
dưới tác động của sự giao tiếp của con người. Sự tồn tại của tâm lý pháp luật
gắn với những đặc điểm vốn có của tâm lý con người, là biểu hiện của sự định
hướng giá trị xã hội của một nhóm người tương ứng có ý nghĩa quan trọng để
nhận định trình độ ý thức pháp luật của những cá nhân cụ thể.
Xuất phát từ đặc điểm của tâm lý pháp luật là những cảm xúc được
hình một cách tự nhiên thông qua quá trình giao tiếp. Do vậy, so với tư tưởng
pháp luật thì tâm lý pháp luật là bộ phận bền vững hơn, bảo thủ hơn. Tâm lý
pháp luật gắn bó chặt chẽ với truyền thống, tập quán, thói quen của con
người, hình thành một cách chậm chạp và ít biến đổi.
Tuy nhiên, giữa tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật lại có mối quan
hệ biện chứng gắn bó chặt chẽ với nhau. Mức độ xúc cảm, tình cảm pháp luật
của mỗi con người phụ thuộc vào trình độ tư tưởng pháp luật của người đó.
Ngược lại, sự phát triển của tư tưởng pháp luật cũng chịu ảnh hưởng nhất
định của tâm lý pháp luật, bởi đó chính là tiền đề của những tư tưởng pháp
luật mà cá nhân đó có thể đạt tới.

19
* Căn cứ vào mức độ và phạm vi nhận thức: Ý thức pháp luật có thể
chia thành ý thức pháp luật thông thường và ý thức pháp luật mang tính lý luận.
Ý thức pháp luật thông thường phản ánh mối liên hệ bên ngoài, có tính
chất cục bộ của hiện tượng pháp luật, chưa đi sâu vào bản chất bên trong của
hiện tượng. Trong trường hợp này chủ thể đó mới chỉ có những hiểu biết nhất
định về các quy định pháp luật cũng như kinh nghiệm trong việc giải quyết các

vụ việc pháp lý. Nhưng chủ thể đó chưa có được những kiến thức sâu sắc có tính
chất lý luận, tính hệ thống về pháp luật. Điều này giống như khi đối tượng được
tuyên truyền văn bản pháp luật họ mới chỉ nắm bắt được tinh thần chung của văn
bản đó, chứ chưa thể hiểu và nắm bắt được nội dung chi tiết của văn bản đó.
Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong quá trình thực thi công vụ
dần dần trong họ cũng hình thành nên những cách thức, phương pháp giải
quyết đối với một hay một số vụ việc tương tự - nó trở thành thói quen trong
họ. Xét về bản chất sâu xa chưa hẳn toàn bộ đội ngũ này đã thực sự am hiểu
về bản chất, nội dung sâu sắc của các quy phạm pháp luật đó.
Ý thức pháp luật mang tính lý luận tồn tại dưới dạng các học thuyết, quan
điểm về pháp luật. Ý thức pháp luật mang tính lý luận bao gồm những quan
điểm về bản chất của pháp luật, sự tác động qua lại của pháp luật với các hiện
tượng khác trong xã hội, vai trò của cơ chế điều chỉnh của pháp luật trong xã hội.
So với ý thức pháp luật thông thường thì ý thức pháp luật mang tính lý
luận ở một tầm nhận thức cao hơn, sâu hơn.
* Căn cứ và chủ thể mang ý thức pháp luật: Ý thức pháp luật được
chia thành ba bộ phận cấu thành: ý thức pháp luật xã hội, ý thức pháp luật
nhóm và ý thức pháp luật cá nhân
Ý thức pháp luật xã hội là ý thức pháp luật của đại bộ phận tiên tiến
đại diện cho xã hội. Ý thức pháp luật xã hội có cơ sở khoa học cao, nó chứa
đựng những khái niệm khoa học về bản chất, vai trò, các đặc trưng, chức

20
năng của pháp luật và được hình thành dưới tác động trực tiếp của khoa học
pháp lý. Ý thức pháp luật của các nhóm xã hội và của mọi thành viên trong xã
hội chịu ảnh hưởng rất nhiều của ý thức pháp luật xã hội.
Ý thức pháp luật nhóm phản ánh những đặc điểm của các nhóm xã hội
tương ứng: đó là những quan điểm, tư tưởng, nhận thức, tình cảm pháp luật
của một nhóm người nhất định trong xã hội. Sự giống nhau về điều kiện sống,
lợi ích đã tạo các thành viên trong nhóm có khái niệm, nhận thức, thái độ

pháp luật tương đối giống nhau. Ví dụ như các Câu lạc bộ pháp luật, Hội nông
dân, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội phụ nữ…
Ý thức pháp luật cá nhân là những khái niệm, quan điểm, tâm trạng.
tình cảm pháp lý của mỗi cá nhân. Và không phải mọi ý thức cá nhân đều đạt
đến trình độ ý thức pháp luật xã hội, mỗi cá nhân có một trình độ ý thức pháp
luật khác nhau. Tùy thuộc vào môi trường, điều kiện, hoàn cảnh sống cũng
như môi trường giáo dục đào tạo đặc biệt là lĩnh vực pháp luật của các cá
nhân sẽ hình thành trình độ nhận thức khác nhau về pháp luật. Có thể nói rằng
một chủ thể được đào tạo trong môi trường pháp luật để sau này trở thành
những người làm việc tại các cơ quan bảo vệ pháp luật tầm nhận thức về pháp
luật và ý thức chấp hành pháp luật của họ sẽ khác hẳn với những người không
được hoặc đào tạo không chuyên sâu về pháp luật. Tuy nhiên, chúng ta cũng
không nên tuyệt đối hóa quan niệm này vì nếu xét về phương diện lý luận
điều này tương đối là chuẩn mực. Nhưng xét ở phương diện thực tiễn thực thi,
áp dụng pháp luật trong chừng mực nhất định thì điều này lại ngược lại hoàn
toàn khi chính những người được đào tạo chuyên sâu về pháp luật và làm
công tác pháp luật lại thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật.
Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng của công tác giáo dục pháp luật là giúp
mỗi cá nhân nâng cao trình độ của ý thức pháp luật lên ngang bằng với ý thức
pháp luật xã hội và hành động phù hợp với các yêu cầu của pháp luật nhằm
đảm bảo duy trì và phát triển xã hội theo đúng định hướng của nhà nước.

21
Đồng thời liên quan đến vấn đề ý thức pháp luật cá nhân, chúng ta còn
phải xem xét đến khía cạnh ý thức pháp luật của các luật gia. Đây là ý thức
pháp luật mang tính chất nghề nghiệp - được hình thành trong quá trình đào
tạo, học tập cũng như thực tế công tác của họ. Chất lượng hoạt động của các
luật gia phụ thuộc rất lớn vào trình độ ý thức pháp luật nghề nghiệp của các
luật gia. Do vậy, nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả của công tác xây
dựng luật, thực thi luật, bảo vệ pháp luật thì chúng ta phải đào tạo được đội

ngũ luật gia không chỉ có trình độ chuyên môn cao mà còn phải là những
người có phẩm chất đạo đức tốt. Công tác giáo dục đào tạo đội ngũ luật gia
của ngành tư pháp vẫn đang được tập trung ngày càng mạnh mẽ, không
những là đào tạo đảm bảo về số lượng mà chất lượng luôn được nâng cao,
hoàn thiện phù hợp với tình hình mới hiện nay.
1.1.5. Mối quan hệ giữa ý thức pháp luật với pháp luật và hoạt
động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật
a) Mối quan hệ với pháp luật
"Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành (hoặc
thừa nhận) và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã
hội, là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm tạo ra trật tự và ổn định
trong xã hội" [30].
Pháp luật do nhà nước ban hành và phản ánh ý chí chủ quan - ý thức
pháp luật của giai cấp cầm quyền trong xã hội. Pháp luật đảm bảo trật tự xã
hội bằng cách: điều chỉnh các quan hệ xã hội đưa chúng vào những phạm vi,
khuôn mẫu để định hướng chúng phát triển theo định hướng của Nhà nước.
Song song với chức năng phản ánh xã hội, pháp luật còn tác động vào
ý thức con người làm cho con người hình thành nên những xử sự phù hợp với
với yêu cầu của các quy phạm pháp luật. Điều đó có nghĩa là pháp luật có
được thực hiện trên thực tế hay không phụ thuộc vào tư tưởng, tình cảm, thái
độ đối với pháp luật của các cá nhân, tổ chức trong xã hội.

×