Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Ý thức pháp luật và xây dựng ý thức pháp luật trong điều kiện nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 113 trang )

đại học quốc gia hà nội
khoa luật



ngô văn nam


í THC PHP LUT V XY DNG í THC PHP LUT
TRONG IU KIN NH NC PHP QUYN VIT NAM HIN NAY



Chuyờn ngnh: Lý lun v lch s nh nc v phỏp lut
Mó s : 60 38 01


luận văn thạc sĩ luật học


Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: GS. TS. Phạm Hồng Thái



Hà nội - 2009

đại học quốc gia hà nội
khoa luật





ngô văn nam



í THC PHP LUT V XY DNG í THC PHP LUT
TRONG IU KIN NH NC PHP QUYN VIT NAM HIN NAY





luận văn thạc sĩ luật học





Hà nội - 2009


1
LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ
và trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ tin
cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận
khoa học của luận văn chưa được công bố

trong bất kỳ công trình nào.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Ngô Văn Nam












MỤC LỤC

TRANG


2
Chƣơng 1: lý luận cơ bản về ý thức pháp luật
1.1. Khái niệm, đặc điểm, cơ cấu, chức năng, phân loại ý thức
pháp luật….…………………………………………………
1.1.1. Khái niệm ý thức pháp luật …………………………
1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của ý thức pháp luật
1.1.3. Chức năng của ý thức pháp luật

1.1.4. Cơ cấu của ý thức pháp luật
1.1.5. Phân loại ý thức pháp luật
1.2. Mối Quan hệ giữa ý thức pháp luật và pháp luật
1.2.1. Vai trò của ý thức pháp luật đối với pháp luật………………
1.2.1.1. Tác động của ý thức pháp luật đối với hoạt động xây dựng
pháp luật…………………………………………………………
1.2.1.2. Tác động của ý thức pháp luật đối với hoạt động thực hiện
pháp luật ………………………………………………………….
1.2.2. Sự tác động của pháp luật đối với ý thức pháp luật…………

Chƣơng 2: Thực trạng ý thức pháp luật ở Việt nam hiện nay
2.1 Thực trạng ý thức pháp luật của cá nhân………………………
2.1.1. Cách tiếp cận vấn đề………………………………………
2.1.2 Những biểu hiện tích cực trong ý thức pháp luật của các cá
nhân trong thời kỳ đổi mới đất nước ……………………
2.1.3. Những biểu hiện hạn chế trong ý thức pháp luật…………
2.2. Thực trạng ý thức pháp luật của cán bộ, công chức………….
2.3. Thực trạng phổ biến, giáo dục ý thức pháp luật………………
Chƣơng 3: xây dựng ý thức pháp luật trong nhà nƣớc pháp quyền ở
nƣớc ta hiện nay…………………………………
3.1. Nhà nước pháp quyền và những yêu cầu đặt ra đối với ý thức
pháp luật…………………………………………………………
3.1.1. Khái niệm Nhà nước pháp quyền…………………………
04

04
04
06
12
14

16
19
19

20

22

26


30
30
30

31
35
47
61

68



3
3.1.2 Những yêu cầu đặt ra đối với ý thức pháp luật trong nhà
nước pháp
quyền…………………………………………………………
3.2. Các Quan điểm cơ bản trong việc xây dựng ý thức pháp
luật………………………………………………………………….

3.3. Hệ thống những biện pháp chủ yếu để xây dựng ý thức pháp
luật trong điều kiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện
nay…………………………………………………………………
3.3.1. Những biện pháp kinh tế…………………………………….
3.3.2. Những biện pháp văn hóa - xã hội…………………………
3.3.3. Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng các nguyên tắc của
nhà nước pháp quyền………………………………………………
3.3.4. Tổ chức thực hiện pháp luật, nâng cao chất lượng phổ biến,
giáo dục pháp luật ………………………………………………
3.3.5. Nâng cao chất lượng, hiệu qủa áp dụng pháp luật. Tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật…….
3.3.6. Đảm bảo tính minh bạch, công khai của pháp luật …………
Kết luận







68
68

75

79


83
83

83

85

87

96
98
100

LỜI NÓI ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI


4
Đất nước ta đã trải nhiều thời kì bị xâm lược, từ ngàn năm Bắc thuộc
tới các cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong quá trình cai trị,
các nước đã đưa pháp luật phản động vào nước ta nhằm phục vụ mục đích
cai trị và nô dịch; do vậy, hình thành nên ý thức chống đối hoặc thờ ơ với
pháp luật trong nhân dân. Ý thức hệ ấy còn tồn tại trong một bộ phận không
nhỏ nhân dân hiện nay và là rào cản trong quá trình nhà nước ta đưa các chủ
trương, chính sách pháp luật vào cuộc sống. Hơn thế, trình độ dân trí nước ta
còn thấp nên để hiểu pháp luật và thi hành pháp luật là những thách thức
lớn.
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước ta đã đạt được những thành tựu
quan trọng về kinh tế-xã hội, an ninh chính trị được giữ vững, đời sống nhân
dân từng bước được cải thiện và phát triển; bộ máy nhà nước hoạt động
ngày càng hiệu quả hơn, đóng góp tích cực vào công cuộc đổi mới của đất
nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn tồn tại tình trạng vi phạm pháp luật do

thiếu ý thức pháp luật, thái độ coi thường pháp luật gây ra. Nước ta đã chính
thức trở thành thành viên của tổ chức Thương mại thế giới (WTO), yêu cầu
xây dựng một hệ thống pháp luật đầy đủ, sự tuân thủ pháp luật và những
cam kết hội nhập là một yêu cầu bức thiết đặt ra.
Xuất phát từ những yêu cầu, đòi hỏi của lý luận và thực tiễn, em xin
chọn đề tài: "Ý thức pháp luật và xây dựng ý thức pháp luật trong điều
kiện nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay" làm đề tài luận văn Thạc
sỹ luật học của mình.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Vấn đề ý thức pháp luật đã được các nhà khoa học quan tâm tìm hiểu,
nghiên cứu. Có thể kể tên một số công trình nghiên cứu về vấn đề này như:
Đề tài "Cơ sở khoa học của việc xây dựng ý thức và lối sống theo luật pháp"
trong chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX-07; một số bài
viết trên các tạp chí, như: "Làm thế nào để xây dựng ý thức pháp luật và lối
sống theo pháp luật", tác giả Đào Trí Úc - Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số


5
4/1993; "Xây dựng lối sống theo pháp luật nhìn từ góc độ lịch sử truyền
thống" của tác giả Vũ Minh Giang, tạp chí Nhà nước và pháp luật 1993. Các
nhà khoa học, giảng viên các cơ sở đào tạo cũng đã có nhiều bài báo về chủ
đề trên. Các giáo trình: Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Luật hành
chính của các cơ sở đào tạo luật học, hành chính cũng có một số chương đề
cập đến vấn đề ý thức pháp luật.
Các công trình nói trên đã đề cập đến những khía cạnh, những vấn đề
nhất định liên quan đến ý thức pháp luật. Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu
một cách hệ thống ý thức pháp luật và đề ra các biện pháp pháp lý xây dựng
ý thức pháp luật trong điều kiện nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay.
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên
cứu của các công trình, tài liệu khoa học trên và các tài liệu khác có liên

quan.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
3.1. Thực hiện đề tài này, luận văn đặt ra những mục đích nghiên cứu:
- Phân tích và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về ý thức pháp luật.
- Thực trạng ý thức pháp luật hiện nay
- Yêu cầu xây dựng NNPQ và các giải pháp về xây dựng ý thức pháp
luật.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Ý thức pháp luật là một vấn đề rộng lớn, phức tạp, đòi hỏi nghiên cứu
rộng, toàn diện. Trong khuôn khổ của luận văn Thạc sỹ luật học, tác giả tập
trung nghiên cứu về ý thức pháp luật, đánh giá thực trạng ý thức pháp luật
trên một số lĩnh vực, một số đối tượng và đề xuất một số các giải pháp nhằm
xây dựng ý thức pháp luật trong điều kiện nhà nước pháp quyền Việt Nam
hiện nay.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (vận dụng tổng hợp các phương pháp


6
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử ). Trong quá trình nghiên cứu luận văn
đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu cụ thể: Phân tích, tổng hợp, tổng
kết thực tiễn, tiếp cận hệ thống
6. Ý NGHĨA CỦA LUẬN VĂN
Kết quả nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
về ý thức pháp luật; đánh giá về thực trạng ý thức pháp luật của cán bộ,
công chức và người dân, từ đó tìm ra nguyên nhân và đề xuất những giải
pháp cơ bản xây dựng ý thức pháp luật. Kết quả nghiên cứu có thể làm tài
liệu tham khảo cho các đối tượng khác nhau.
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN

Ngoài Lời nói đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm ba chương:
Chương 1: Lý luận cơ bản về ý thức pháp luật
Chương 2: Thực trạng ý thức pháp luật ở Việt Nam hiện nay
Chương 3: Các giải pháp cơ bản về xây dựng ý thức pháp luật trong
nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay















7

Chƣơng 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ Ý THỨC PHÁP LUẬT

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, CƠ CẤU, CHỨC NĂNG, PHÂN LOẠI Ý
THỨC PHÁP LUẬT
1.1.1. Khái niệm ý thức pháp luật
Với tư cách là một trong những hình thái của ý thức xã hội, ý thức

pháp luật xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà nước và pháp luật, phản ánh
trực tiếp các quan hệ kinh tế, văn hoá, xã hội. Ý thức pháp luật là một trong
những hình thái của ý thức xã hội, là một trong những biểu hiện của trình độ
văn hoá xã hội dưới dạng chung nhất. Nó là sản phẩm của quá trình phát
triển của xã hội, chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của các hệ tư tưởng, quan điểm
và quan niệm trong xã hội. Nếu một xã hội mà người dân được giáo dục ý
thức pháp luật, nâng cao hiểu biết, nhận thức về pháp luật thì xã hội đó sẽ
hạn chế được vi phạm pháp luật, tội phạm. Bằng cách đó mà góp phần tích
cực vào việc hình thành, xây dựng văn hoá pháp lý cho cá nhân và toàn xã
hội.
Là một trong những bộ phận cấu thành thuộc thượng tầng kiến trúc xã
hội, ý thức pháp luật chịu sự quy định, tác động mạnh mẽ của đời sống xã
hội. Quan điểm biện chứng là không phải tất cả các quan điểm đều thể hiện
trực tiếp các quan hệ kinh tế và những nhu cầu giai cấp và của toàn xã hội.
Ví dụ, quan điểm về hình thức tổ chức quyền lực nhà nước, về tổ chức, trình
tự tư pháp và xem xét khiếu nại, về thừa kế, được hình thành không chỉ dưới
ảnh hưởng của cơ sở kinh tế, mà còn dưới ảnh hưởng của chính trị, truyền
thống, văn hoá, đạo đức, tập quán, thậm chí cả tôn giáo Các hình thái ý
thức xã hội khác ở những mức độ khác nhau tác động mạnh mẽ đến ý thức
pháp luật cũng như đối với bản thân pháp luật. Chẳng hạn, ý thức pháp luật


8
của người dân Việt Nam trong chế độ phong kiến đã chịu ảnh hưởng sâu sắc
của ý thức hệ tư tưởng nho giáo và tư tưởng chính trị - đạo đức của dân tộc
Việt. Nội dung Bộ luật Hồng đức dưới triều vua Lê Thánh Tông là một ví
dụ tiêu biểu, tư tưởng văn hoá, đạo đức nho giáo cũng như văn hoá đạo đức
dân tộc đã thể hiện sâu sắc trong bộ luật như trật tự đạo đức trong gia đình,
xã hội và cả những sự đề cao vai trò của phụ nữ và người cao tuổi.
Phạm trù ý thức pháp luật có biểu hiện rất đa dạng, phong phú, vừa có

sức ỳ to lớn lại vừa thường xuyên biến đổi do sự tác động của các hình thái
ý thức xã hội khác, nhất là trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay. Sự
biến động và tác động thường xuyên của các hiện tượng xã hội, những cảm
nhận, thái độ, quan niệm, các lý thuyết, tư duy pháp lý của con người, của
các nhóm xã hội, của nhà nước và của toàn xã hội cũng vận động không
ngừng. Sự bất bình của người dân về một quyết định không công bằng, chưa
thấu tình đạt lý của toà án hay một quyết định sai trái của cơ quan hành
chính, sự trung lập về một văn bản mới ra đời Một quan điểm mới về cách
thức, mức độ điều chỉnh của luật bảo vệ môi trường vv đều thuộc phạm trù
ý thức pháp luật.
Ý thức pháp luật được hình thành từ những quan niệm của con người
về sự cần thiết của các quy tắc xử sự mà nhà nước cần đảm bảo thực hiện,
về tính hợp pháp hay không hợp pháp của các thiết chế, chế định pháp lý
Nếu như pháp luật (xét theo nghĩa khách quan) là những chế định bề ngoài,
là hệ thống các quy phạm pháp luật, thì ý thức pháp luật là phạm trù chủ
quan, là những quan niệm, quan điểm về pháp luật, là tâm lý, cảm xúc, tâm
trạng, nguyện vọng của con người về pháp luật, về các vấn đề pháp lý nói
chung [18;248].
Trước kia, một nhà khoa học Xô viết nổi tiếng đã từng nhận định
“thái độ chủ quan của con người đối với pháp luật hiện hành và mong muốn
về những quy định pháp luật mới, được gọi là ý thức pháp luật”.[17;91] Khi
một văn bản pháp luật ra đời và được áp dụng vào thực tế cuộc sống, điều


9
luật đó có tính hợp pháp hay không hợp pháp trong cách xử sự của con
người. Nếu điều luật đó được đa số nhân dân công nhận và nghiêm túc chấp
hành thì điều luật có tính đúng đắn.
Phạm vi tác động của ý thức pháp luật rất rộng, không có lĩnh vực
hành vi pháp luật nào của con người lại không cần đến tư duy nhận thức

pháp luật – xã hội, như TS. Nguyễn Minh Đoan đã nhận xét. [2;22]
Ý thức pháp luật kiểu mới mà chúng ta đang tiếp tục phát triển hình
thành từ trong xã hội tư bản được chứa đựng trong các tác phẩm của các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác, trong cương lĩnh của các đảng công nhân.
Trong các yêu sách đấu tranh của giai cấp vô sản trong các tác phẩm của
mình, Mác và Ph. Ăng-ghen không những chỉ ra cho giai cấp vô sản những
yêu cầu pháp lý để đấu tranh nhằm xây dựng một xã hội mới, mà còn xây
dựng những khái niệm quan trọng nhất về pháp luật, tạo cơ sở cho sự phát
triển ý thức pháp luật mới sau này. Cùng với sự phát triển của hệ thống các
quan hệ xã hội mới và của pháp luật, ý thức pháp luật kiểu mới ngày càng
được phát triển và nâng cao.
Vấn đề ý thức pháp luật được nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau
như triết học, luật học, tâm lý học, xã hội học. Tuy vấn đề này còn có nhiều
quan điểm khác nhau, nhưng đa số các nhà nghiên cứu cho rằng: ý thức
pháp luật là tổng thể những tư tưởng, học thuyết, quan điểm, thái độ, tình
cảm, sự đánh giá của con người về pháp luật trên các phương diện, tiêu chí
cơ bản như: về sự cần thiết (hay không cần thiết), về vai trò, chức năng của
pháp luật, về tính công bằng hay không công bằng, đúng đắn hay không
đúng đắn của các quy định pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua trong quá
khứ, pháp luật cần phải có, về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành
vi của các cá nhân, tổ chức nhà nước và xã hội. [18;430]

1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của ý thức pháp luật


10
Là một trong những hiện tượng rộng lớn, phức tạp của đời sống pháp
luật, ý thức pháp luật có nhiều biểu hiện phong phú, được thể hiện trong các
đặc điểm cơ bản. Có nhiều cách tiếp cận về đặc điểm của ý thức pháp luật
xét từ các góc độ của các mối quan hệ giữa ý thức pháp luật và các hiện

tượng xã hội khác như: kinh tế, văn hoá - xã hội, chính trị và cả vấn đề nhà
nước. Thông qua các đặc điểm đó có thể thấy rõ nhữung nét tương đường và
những nét khác biệt so với các hình thái ý thức xã hội khác.

Đặc điểm 1: Ý thức pháp luật chịu sự quy định của tồn tại xã hội
Ngay từ thời của mình, Các - Mác đã khẳng định: “Không phải ý thức
của con người quyết định sự tồn tại của họ, trái lại, chính sự tồn tại xã hội
của họ quyết định ý thức của họ” [1;15]. Ý thức pháp luật cũng như các hình
thái ý thức xã hội khác là sản phẩm của tồn tại xã hội. Những nhận thức, thái
độ, tình cảm, quan niệm, mong muốn của con người về pháp luật, về nhà
nước suy cho cùng là do những điều kiện xã hội khách quan quy định, chi
phối. Nhìn lại xã hội phong kiến nước ta, ý thức pháp luật của người dân
chịu sự quy định, chi phối của tính chất, đặc điểm và những điều kiện kinh
tế phong kiến chủ yếu là sản xuất nông nghiệp lúa nước. Những yếu tố xã
hội khác như tư tưởng, đạo đức, tập quán chi phối lớn tới ý thức pháp luật
của người dân. Hơn thế, pháp luật có nguồn gốc du nhập và ảnh hưởng lớn
của pháp luật Trung Quốc trong quá trình Bắc thuộc và bản thân sự hà khắc,
đi ngược lại lợi ích người dân trong các quy định pháp luật nên người dân
thường có thái độ thờ ơ, coi thường và chống đối pháp luật, ứng xử chủ yếu
theo phong tục, tập quán của từng địa phương. Các phong tục, tập quán ấy
phần lớn mang tính phù hợp với trật tự quản lý xã hội của địa phương và đến
nay vẫn phát huy giá trị tích cực. Tuy nhiên, một số phong tục, tập quán lạc
hậu vẫn tồn tại song song và là rào cản trong quản lý và bảo đảm hiệu lực
thống nhất của các văn bản pháp luật.


11
Trong thời kỳ cơ chế quản lý tập trung, bao cấp, ý thức pháp luật
mang nặng tính bình quân chủ nghĩa, người dân còn e dè, ngại ngùng sử
dụng pháp luật, tâm lý coi thường hoặc thờ ơ với pháp luật. Đến thời kinh tế

thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền, tự cuộc sống đã rèn luyện cho
con người ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật bởi họ thấy điều đó là cần
thiết, pháp luật thể hiện nhiều hơn các lợi ích của họ. Nhưng từ một phương
diện khác, do sự thôi thúc của đồng tiền, lợi nhuận hặc những lý do phi kinh
tế khác, nhiều người cũng không ngần ngại bất cập pháp luật hoặc có thái độ
bất cần, coi thường các quy định pháp luật. Đấy là những biểu hiện về sự
quy định của tốn tại xã hội – tức là những điều kiện kinh tế, văn hoá, đạo
đức, công nghệ, kỹ thuật và kể cả các vấn đề pháp luật, nhà nước đối với ý
thức pháp luật.
Yêu cầu của một xã hội văn minh, hiện đại, trên cơ sở phát huy, phát
triển những giá trị của văn hoá truyền thống, các văn bản luật phải được ban
hành đồng bộ và thực hiện thống nhất trên phạm vi lãnh thổ quốc gia. Nước
ta đang trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, mọi công dân có quyền tự do kinh doanh theo pháp luật, khuyến
khích làm giàu chính đáng đã có tác động mạnh mẽ đến ý thức pháp luật
của các cá nhân với những biểu hiện như: quan tâm đến pháp luật nhiều hơn,
tuân thủ pháp luật và luôn có mong muốn về một nền pháp luật nhân văn,
một nền tư pháp công bằng, mọi công dân bình đẳng trước pháp luật. Bên
cạnh những mặt tích cực, trong nền kinh tế thị trường cũng có những hiện
tượng tiêu cực trong lĩnh vực ý thức pháp luật của một bộ phận dân cư như:
coi thường, bất chấp, lạng lách pháp luật, vi phạm những chuẩn mực đạo
đức để thu lợi nhuận tối đa

Đặc điểm 2: Tính độc lập tương đối của ý thức pháp luật


12
Cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, ý thức pháp luật là sự
phản ánh của tồn tại xã hội nên nó chịu sự quy định của tồn tại xã hội; tuy
nhiên ý thức pháp luật cũng có tính độc lập tương đối đối với tồn tại xã hội.

Tính độc lập tương đối của ý thức pháp luật được thể hiện ở những
điểm cơ bản sau: tính lạc hậu, tính tiên phong, tính kế thừa, sự tác động trở
lại tồn tại xã hội và các hình thái ý thức xã hội khác.
- Ý thức pháp luật thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. Thực tế đã
chứng minh, khi tồn tại xã hội cũ đã mất đi nhưng ý thức nói chung trong đó
có ý thức pháp luật do nó sinh ra vẫn còn tồn tại dai dẳng trong một thời
gian dài những tàn dư của quá khứ được giữ lại, đặc biệt trong lĩnh vực tâm
lý pháp luật, nơi mà các thói quen và truyền thống đóng vai trò to lớn, phép
vua thua lệ làng.
Tính lạc hậu này được thể hiện cả trong lĩnh vực tư tưởng pháp luật,
cả trong lĩnh vực tâm lý pháp luật như trong cách suy nghĩ, cách đánh giá,
quan niệm, những đòi hỏi về pháp luật của nhiều người vẫn chưa theo kịp tư
duy hiện đại, điều kiện kinh tế, văn hoá - xã hội hiện đại. Tư duy điều hành
công việc nhà nước theo kiểu thời chiến cũng cón rơi rớt lại ở nhiều cán bộ
hành chính nhà nước, hay như tư duy về nhà nước phải bao cấp các hoạt
động xã hội, tư duy của cơ chế “xin – cho” trong việc giải quyết các công
việc của dân; thái độ coi thường pháp luật, tư tưởng cát cứ, phép vua thua lệ
làng
Sự lạc hậu của ý thức pháp luật còn được thể hiện ở tâm lý pháp luật
phong kiến như sự thờ ơ, phủ nhận đối với pháp luật, biết hành vi đó bị pháp
luật cấm nhưng vẫn cố tình phạm tội và coi chuyện đó là chuyện bình
thường chứ không hề run sợ trước hành vi sai trái của mình, tâm lý luôn
muốn chống đối pháp luật. Tâm lý này không chỉ ở người dân mà cả trong
một bộ phận cán bộ nhà nước có liên quan đến pháp luật, dấu ấn của những
tư tưởng pháp luật thời bao cấp vẫn còn đậm nét như soạn thảo các quy định


13
pháp luật chủ yếu coi trọng yếu tố quản lý nhà nước mà ít chú ý đến sự
thuận lợi cho người dân - những đối tượng phải thi hành pháp luật.

Tâm lý pháp luật của thời chiến tranh, quản lý tập trung bao cấp vẫn
còn ngự trị trong tư tưởng, thái độ và biểu hiện thành những hành vi không
hợp pháp hoặc không hợp đạo đức, Chúng ta bắt gặp chúng ở trong cung
cách quản lý, giải quyết các vụ việc pháp lý của một bộ phận không nhỏ các
cán bộ hành chính hoặc trong hành vi pháp luật của các cá nhân. Việc dồn
khó khăn về thủ tục pháp lý trong một số quy định pháp luật là một biểu
hiện, nhưng công cuộc cải cách thủ tục hành chính những năm gần đây đã
khắc phục được rất nhiều hiện tượng này.

Tính tiên phong của ý thức pháp luật
Trong lịch sử, những quan điểm chính trị – pháp lý của Các - Mác,
Lênin đã có tính tiên phong, mang tầm nhìn sâu rộng về xu thế phát triển tất
yếu của xã hội. Trong những điều kiện xã hội nhất định, tư tưởng của con
người, đặc biệt là những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt lên trước sự
phát triển của tồn tại xã hội. Nhìn lại lịch sử, những quan điểm chính trị –
pháp lý của Các - Mác, Lênin, chủ tịch Hồ Chí Minh đã có tính tiên phong,
mang tầm nhìn sâu rộng về xu thế phát triển tất yếu của xã hội. Những quan
điểm về nhà nước pháp quyền của chủ tịch Hồ Chí Minh, đặc biệt là về Hiến
pháp, về quản lý xã hội bằng pháp luật đã hình thành từ rất sớm. Năm 1919
trong bản "Yêu sách của nhân dân An Nam" gửi tới hội nghị Vécxây, Bác
Hồ đã viết: phải thay chế độ sắc lệnh bằng chế độ các đạo luật, và "Bảy xin
hiến pháp ban hành. Trăm điều phải có thần linh pháp quyền" [10;438]. Đây
chính là kết quả của quá trình hoạt động cách mạng tìm đường đấu tranh giải
phóng dân tộc của Người, kế thừa các tinh hoa văn hoá pháp lý của nhân
loại vào điều kiện của Việt nam.
- Tính kế thừa của ý thức pháp luật


14
Tính kế thừa của ý thức pháp luật trong quá trình phát triển: ý thức

pháp luật phản ánh sự tồn tại của một xã hội của một thời đại nào đó. Trong
xã hội phong kiến, ý thức pháp luật của con người rất là hạn chế, chỉ một
phần nhỏ số người được biết chữ thì có thể biết chút ít về pháp luật. Còn
phần đông người dân đều mù chữ, cho nên pháp luật được thực thi một cách
không công bằng, không đúng đắn, thiếu sự thống nhất. Song nó cũng kế
thừa những yếu tố nhất định thuộc ý thức pháp luật của thời đại trước đó, tất
nhiên những yếu tố được kế thừa có thể là tiến bộ hoặc không tiến bộ. Ví dụ:
tập quán pháp là những tập quán lưu truyền trong xã hội phù hợp với lợi ích
của giai cấp thống trị đã được nhà nước thừa nhận làm cho chúng trở thành
những quy tắc xử sự chung và được nhà nước đảm bảo thực hiện. Đây là
hình thức pháp luật xuất hiện sớm nhất và được sử dụng nhiều nhất trong
các Nhà nước chủ nô, Nhà nước phong kiến và hiện nay còn được sử dụng ở
những Nhà nước tư sản có chế độ quân chủ lập hiến, nhưng với mức độ nhất
định và trong phạm vi hẹp hơn so với các Nhà nước trước đây.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chúng ta đã và đang nghiên cứu để
học tập kế thừa chọn lọc các tư tưởng, học thuyết về nhà nước, pháp luật, về
cách tổ chức quyền lực nhà nước và xây dựng, thực thi pháp luật của các
quốc gia phát triển trên thế giới. Ví dụ, kế thừa các kỹ thuật pháp lý về xây
dựng pháp luật, các quan điểm khoa học về tổ chức hoạt động giám sát,
thanh tra, các loại hình dịch vụ pháp lý, tranh tụng tại phiên toà vv…
- Sự tác động trở lại của ý thức pháp luật đối với tồn tại xã hội và
đối với các hình thái ý thức xã hội khác
Sự phụ thuộc vào tồn tại xã hội của ý thức pháp luật cũng chỉ mang
tính tương đối, ý thức pháp luật đến lượt mình có tác động trở lại vô cùng
đối với sự tồn tại xã hội, với ý thức chính trị, đạo đức và các yếu tố thượng
tầng kiến trúc chính trị - pháp lý như nhà nước và pháp luật, tuỳ thuộc vào ý
thức pháp luật tiến bộ hay lạc hậu mà sự tác động của nó có thể là thúc đẩy
hay tìm kìm hãm sự phát triển của xã hội. Tư tưởng, lý luận, quan điểm, thái



15
độ đúng đắn, phù hợp tiến bộ xã hội, sự tôn trọng và ý thức chấp hành pháp
luật sẽ có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế, văn hoá, đạo đức của xã
hội. Ngược lại, những tư tưởng, lý thuyết sai lầm, những quan niệm lệch lạc,
thái độ coi thường pháp luật, hành vi vi phạm pháp luật có tác động tiêu
cực đến sự phát triển xã hội, đến môi trường văn hoá pháp lý và văn hoá đạo
đức.
Các hình thái ý thức xã hội khác có ảnh hưởng to lớn đến ý thức pháp
luật và người lại, ý thức pháp luật cũng tác động mạnh mẽ đến các hình thái
ý thức xã hội khác như đạo đức, khoa học, chính trị ý thức pháp luật góp
phần rèn luyện, nâng cao ý thức đạo đức và thực hành đạo đức của các cá
nhân nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hội nhập như hiện nay.ở
một xã hội mà ý thức pháp luật của người dân càng cao thì tội phạm càng ít,
từ đó tạo thuận lợi cho xã hội phát triển. Ý thức pháp luật do vậy có vai trò
to lớn trong việc giáo dục ý thức và hành vi của con người, hỗ trợ cho họ
trong các quan hệ pháp luật hay xã hội mà họ tham gia. Để từng bước xây
dựng ý thức tôn trọng pháp luật của các cá nhân, cần thường xuyên phổ
biến, giáo dục pháp luật, xây dựng môi trường thuận lợi cho những hành vi
hợp pháp.
Đặc điểm 3:
Ý thức pháp luật là hiện tượng mang tính giai cấp, tính dân tộc.
Là sự phản ánh đời sống xã hội, đời sống pháp luật nên ý thức pháp
luật tất yếu mang tính dân tộc, tính giai cấp tương ứng với mỗi thời kỳ lịch
sử. Mỗi quốc gia chỉ có một hệ thống pháp luật có thể tồn tại nhiều hệ thống
ý thức pháp luật khác nhau. Đó là những tư tưởng, học thuyết, trường phái,
quan điểm, nhận thức, thái độ về pháp luật của các cá nhân, các nhóm xã hội
rất đa dạng về tính chất. Xét từ phương diện cơ cấu xã hội, trong một quốc
gia theo đó, tồn tại nhiều hệ thống ý thức pháp luật, như: ý thức pháp luật
của giai cấp thống trị; ý thức pháp luật của giai cấp bị trị; ý thức pháp luật
của tầng lớp trung gian.



16
Về nguyên tắc, hệ thống pháp luật, bao gồm các quy định, các nguyên
tắc pháp luật, các lĩnh vực pháp luật, và cả việc thực hiện, áp dụng pháp luật
của quốc gia truớc hết thể hiện ý thức pháp luật của giai cấp thống trị. Đồng
thời cũng phần nào thể hiện ý thức pháp luật của các tầng lớp, các nhóm xã
hội. Điều này được thể hiện rõ nét trong các kiểu pháp luật chủ nô, phong
kiến. Nhưng trong xã hội ta giữa giai cấp công nhân, nông dân và các tầng
lớp lao động phải có lợi ích thống nhất với nhau về cơ bản, do dó, ý thức
pháp luật tương đối thống nhất. Nó phản ánh sự thống nhất về chính trị, tư
tưởng của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội ta. Nhà nước ta là nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân,
pháp luật thể hiện ý chí của nhân dân lao động.

1.1.3. Chức năng của ý thức pháp luật
Chức năng của ý thức pháp luật là các phương thức hoạt động cơ bản
của ý thức pháp luật. Như trên đã nêu, một trong các đặc điểm của ý thức xã
hội là sự phản ánh đời sống pháp luật. Ý thức pháp luật phản ánh các điều
kiện kinh tế - xã hội cần được điều chỉnh bằng pháp luật trong xã hội có
phân chia giai cấp. Thông qua sự phản ánh này chúng ta có được thông tin
về hệ thống văn bản pháp luật, tình trạng pháp chế, văn hoá pháp lý, tình
hình áp dụng pháp luật. Từ các thông tin đó của ý thức pháp luật chúng ta
nhận thức được thực trạng của đời sống pháp luật, đây là chức năng nhận
thức của ý thức pháp luật.
Chức năng của ý thức pháp luật thể hiện vai trò, giá trị xã hội và tính
sống động của ý thức pháp luật. Chức năng của ý thức pháp luật được hiểu
là những phương thức hoạt động cơ bản của ý thức pháp luật. Ý thức pháp
luật là hiện tượng xã hội phức tạp, sự vận động của các yếu tố trong cơ cấu
của nó cững phức tạp và phong phú. Trong khoa học pháp lý thường quan

niệm ý thức pháp luật có những chức năng cơ bản như: chức năng mô hình


17
hóa pháp lý, chức năng điều chỉnh hành vi của con người. Ngoài ra còn có
những cách xác định khác.
Nhờ có ý thức pháp luật mà đánh giá được các mô hình nào là cần
thiết và tất yếu để hướng hành vi, cách xử sự, các quan hệ xã hội phát triển
có kết quả. Đó là chức năng mô hình hóa pháp lý của ý thức pháp luật. Trên
cơ sở nhận thức đúng đắn về lợi ích, trách nhiệm của cá nhân, của tập thể và
toàn xã hội sẽ tạo cho các chủ thể ý thức tự điều chỉnh hành vi của mình cho
phù hợp với lợi ích của chủ thể khác cũng như với lợi ích chung của toàn xã
hội. Không dừng lại ở đó, ý thức pháp luật cao còn tạo cho các chủ thể thái
độ tích cực, đấu tranh với các hành vi, hiện tượng vi phạm pháp luật. ý thức
pháp luật trên cơ sở mô hình hoá các hành vi nhất định đã định hướng cho
hành vi của chủ thể. Tuy nhiên cần phải chú ý đến một điều là ý thức pháp
luật thấp, nhận thức không đúng đắn về lợi ích và trách nhiệm của chủ thể
thì ý thức pháp luật, có thể làm cho hành vi của chủ thể trở nên sai lệch với
các yêu cầu của pháp luật hiện hành.
Ý thức pháp luật định hướng cho hành vi của con người phù hợp hay
không phù hợp với yêu cầu của pháp luật hiện hành, hoặc làm cho hành vi
của con người trở nên không phù hợp với các yêu cầu đó. Như vậy ý thức
pháp luật có chức năng điều chỉnh hành vi của con người.
Các chức năng trên của ý thức pháp luật liên hệ chặt chẽ với nhau và
tác động trong một cơ chế thống nhất, chúng bao gồm cả yếu tố đánh giá và
dự báo xã hội. ý thức pháp luật luôn chứa đựng sự đánh giá hiện thực khách
quan, hành vi xử sự của con người dưới lăng kính pháp lý, đồng thời cùng
với việc đưa ra nguyên tắc mô hình hóa pháp lý cũng như trong thực hiện
pháp luật.


1.1.4. Cơ cấu của ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật là một hiện tượng chính trị - pháp lý phức tạp. Căn
cứ vào những tiêu chí khác nhau có thể chia ý thức pháp luật ra những bộ


18
phận cấu thành khác nhau. Mỗi cách phân chia có ý nghĩa nhất định nhằm
khám phá bản chất, đặc điểm và vai trò của ý thức pháp luật. Trong khoa
học luật học tồn tại những quan điểm khác nhau về cơ cấu ý thức pháp luật.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, ý thức pháp luật cấu thành từ hai yếu tố: hệ tư
tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật. Quan điểm thứ hai coi ý thức pháp luật
gồm 3 yếu tố: hệ tư tưởng pháp luật, tâm lý pháp luật và yếu tố hành vi.
Tuy vậy, theo quan điểm được thừa nhận chung, cơ cấu của ý thức
pháp luật bao gồm hai bộ phận cấu thành cơ bản đó là hệ tư tưởng pháp luật
và tâm lý pháp luật. Quan điểm này được thể hiện trong nhiều công trình
khoa học, ví dụ như trong các giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp
luật của GS. TS. Phạm Hồng Thái cùng đồng chủ biên là PGS. TS. Đinh
Văn Mậu, PGS. TS. Hoàng Thị Kim Quế vv… Đôi khi hai bộ phận này còn
được gọi là hai trình độ, mức độ thể hiện của ý thức pháp luật. Bản thân tác
giả luận văn cũng tán đồng với quan điểm này và xét trên phương diện triết
học về các hình thái ý thức xã hội, người ta cũng xác định cơ cấu (hay trình
độ, mức độ) của ý thức xã hội là bao gồm hệ tư tưởng xã hội và tâm lý xã
hội. Ý thức pháp luật cũng như các hình thái ý thức xã hội khác như đạo
đức, khoa học, chính trị bên cạnh sự khác biệt, tất yếu cũng có nhiều nét
tương đồng.
Hệ tư tưởng pháp luật là tổng thể những quan điểm, tư tưởng, học
thuyết các khái niệm về pháp luật, về nhà nước. Hệ tưởng pháp luật là sự
phản ánh toàn diện đời sống pháp luật bằng sự khái quát thành lý luận, thành
các học thuyết về Nhà nước và pháp luật. Đây không phải là sự phản ánh
trực tiếp ở mức độ cảm giác mà là sự phản ánh tự giác, có mục đích, có tổ

chức của hoạt động tư duy lý luận. Một hệ tư tưởng pháp luật cao bao giờ
cũng đi liền với tri thức pháp luật cao mang tính khoa học có thể vượt lên
trước cả tồn tại xã hội thực hiện vai trò hướng dẫn, chỉ đạo. Nội dung phản
ánh, luận giải trong tư tưởng pháp luật bao quát hầu hết các lĩnh vực cơ bản
của đời sống nhà nước và pháp luật: vai trò, giá trị, chức năng của pháp luật;


19
cách thức xây dựng, kỹ thuật xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật; quan
điểm về các loại nguồn pháp luật; các quyền và nghĩa vụ pháp lý; hoạt động
đào tạo, giáo dục pháp luật vv Tư tưởng pháp luật của nhân loại đã có bề
dầy lịch sử và thường xuyên có sự kế thừa, bổ sung, hoàn thiện phù hợp với
sự tiến bộ xã hội. Trong lịch sử đã có nhiều hệ tư tưởng pháp luật tiêu biểu
như tư tưởng pháp luật Arixtot, Platon, Khổng Tử, Hàn phi Tử; Hêghen,
Monteskiơ; học thuyết Mác – Lênin về nhà nước và pháp luật, tư tưởng nhà
nước pháp quyền Hồ Chí Minh vv
- Tâm lý pháp luật:
Tâm lý pháp luật được hình thành tự phát dưới dạng tâm trạng, cảm
xúc, thái độ, tình cảm đối với pháp luật và các hiện tượng pháp luật. Nó thể
hiện mối quan hệ, thái độ của chủ thể đối với pháp luật và đời sống pháp
luật. Sự tồn tại của tâm lý pháp luật luôn gắn với những đặc điểm tâm lý của
con người. Những hiện tượng pháp luật trong đời sống xã hội tác động lên
tâm lý mỗi người, mỗi cộng đồng khác nhau và hình thành ở họ những cách
xử sự khác nhau. Tâm lý pháp luật bao giờ cũng mang tính bền vững, bảo
thủ hơn so với tư tưởng pháp luật vì nó gắn bó chặt chẽ với truyền thống, tập
quán, thói quen của cá nhân hoặc cộng đồng.
So với tư tưởng, học thuyết pháp luật, tâm lý pháp luật được hình
thành một cách tự phát, thiếu tính hệ thống, ví dụ: tình cảm đối với vấn đề
công bằng, nỗi sợ hãi trước hình phạt, sự đồng tình hay phản đói với bản án
mà Toà đã tuyên cho bị cáo. Thái độ quan tâm, phẫn nộ hay trung lập, lãnh

đạm, thờ ơ đối với các hành vi vi phạm pháp luật đều là những biểu hiện
đa dạng, nhạy cảm về tâm lý pháp luật của các cá nhân [18;439].
Tâm lý pháp luật có ảnh hưởng lớn đến thái độ của chủ thể đối với
pháp luật. Khi chủ thể nhận thức được sự cần thiết của pháp luật, tin tưởng
vào sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật thì họ tự giác tuân thủ pháp
luật. Còn nếu chủ thể có trình độ hiểu biết pháp luật thấp, xem thường pháp
luật thì có thể có những hành vi vi phạm pháp luật. Hoặc cũng có những chủ


20
thể miễn cưỡng chấp hành các quy định của pháp luật do sợ hãi.[3;27] Do
vậy phải có những biện pháp thích hợp trong phổ biến giáo dục pháp luật để
hình thành trong mỗi công dân tâm lý pháp luật đúng đắn, tạo cho họ niềm
tin vào pháp luật để họ có thói quen sống và làm việc theo pháp luật, biết
đấu tranh với những biểu hiện và hành vi vi phạm pháp luật.

1.1.5. Phân loại ý thức pháp luật
Phân loại ý thức pháp luật dựa vào nhiều tiêu chí khác nhau, mỗi cách
phân loại có ý nghĩa lý luận và thực tiễn nhất định.
a. Căn cứ vào mức độ nhận thức, có thể chia ý thức pháp luật thành: ý
thức pháp luật thông thường, ý thức pháp luật mang tính lý luận và ý thức
pháp luật mang tính nghề nghiệp.
Ý thức pháp luật thông thường là những quan niệm, nhận thức, tri
thức; tình cảm, thái độ của con người hình thành một cách trực tiếp trong
hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được khái quát hoá ở trình độ lý luận.
Ý thức pháp luật thông thường nhìn chung mới chỉ phản ánh những hiện
tượng pháp lý - xã hội bên ngoài, chưa đi sâu vào bản chất, nội dung bên
trong của các hiện tượng pháp luật. Nhưng chính ý thức pháp luật thông
thường lại phản ánh một cách sinh đông, trực tiếp, chân thực các hiện tượng
pháp lý do vậy có ý nghĩa to lớn cho việc xây dựng pháp luật và thực hiện,

áp dụng pháp luật.
Đồng thời ý thức pháp luật thông thường hay phổ thông còn có ý
nghĩa cho công tác nghiên cứu khoa học, hình thành ý tưởng mới cho các
nhà khoa học và các nhà quản lý, áp dụng pháp luật bởi lẽ nó mang tính
chân thật, thiết thực về các vấn đề pháp luật. Ví dụ, sự bất bình của người
dân trong việc giải quyết các vụ án hành chính, sự dây dưa của các cơ quan
chức năng trong việc xử lý một số vụ tham nhũng, chính những sự phản ứng
đó của người dân sẽ đem lại cho người nghiên cứu, nhà quản lý những ý
tưởng mới, những phát hiện mới để hoàn thiện việc nghiên cứu hay trong


21
việc xây dựng, áp dụng pháp luật. Tuy là trình độ thấp so với ý thức pháp
luật lý luận nhưng những tri thức kinh nghiệm phong phú, gần gũi với cuộc
sống sinh động của ý thức pháp luật thông thường có vai trò quan trọng, là
tiền đề cho sự hình thành các ý tưởng khoa học, các lý thuyết khoa học về
pháp luật [6;423-425].
Khi nói một người có ý thức pháp luật thông thường nghĩa là anh ta
chỉ có hiểu biết nhất định về các quy phạm pháp luật hiện hành, có kinh
nghiệm giải quyết các vụ việc pháp lý cụ thể nhưng chưa có những tri thức
pháp luật sâu sắc mang tính lý luận, mang tính hệ thống.
Ý thức pháp luật mang tính lý luận thể hiện dưới dạng các học thuyết,
quan điểm về pháp luật, về nhà nước như quan điểm về bản chất của pháp
luật, mối quan hệ qua lại của pháp luật và các hiện tượng xã hội khác, vai trò
điều chỉnh của pháp luật trong xã hội, mối quan hệ giữa pháp luật với các
hiện tượng xã hội khác như chính trị, đạo đức, văn hoá. Những quan điểm
về pháp luật của ý thức pháp luật mang tính lý luận thường có tính khái quát
hoá, tính hệ thống, được xây dựng trên cơ sở khoa học và đúc kết từ thực
tiễn. Nó giúp cho hoạt động soạn thảo, xây dựng các dự án pháp luật phản
ánh được các lợi ích và nhu cầu của xã hội.

Nếu ý thức pháp luật thông thường mới chỉ phản ánh mối liên hệ bên
ngoài, chưa đi vào bản chất bên trong của pháp luật thì ý thức pháp luật
mang tính lý luận phản ánh những vấn đề bản chất của pháp luật như giá trị
xã hội của pháp luật, các nguyên lý hình thành và áp dụng pháp luật, kỹ
thuật pháp lý, tính chất của các quan hệ pháp luật vv…
Ý thức pháp luật nghề nghiệp là ý thức pháp luật của những người có
hoạt động liên quan trực tiếp đến pháp luật: từ xây dựng pháp luật, áp dụng
pháp luật, giải thích pháp luật, tư vấn pháp luật, đào tạo, nghiên cứu pháp
luật vv Trước hết là ý thức pháp luật của các nhà làm luật, các nhà áp dụng
pháp luật như thẩm phán, của các luật sư, kiểm sát viên, thanh tra viên, các
luật gia vv Các chủ thể của ý thức pháp luật nghề nghiệp còn bao gồm tất


22
cả các cán bộ quản lý hành chính mà công việc hàng ngày của họ có liên
quan đến việc áp dụng pháp luật vào những trường hợp cụ thể.
So với ý thức pháp luật thông thường và ý thức pháp luật lý luận ở
trên, ý thức pháp luật nghề nghiệp có những đặc trưng nhất định. Trước hết
đó là tính chất chuyên môn nghiệp vụ sâu, rộng hơn xuất phát từ yêu cầu
nghề nghiệp của họ. Tiếp đến là các kỹ năng phân tích, kỹ năng vận dụng,
nghệ thuật vận dụng vào những tình huống, những vấn đề thực tế đặt ra.
Tính chuyên nghiệp, kỹ năng áp dụng, giải thích các vấn đề pháp luật, kinh
nghiệm nghề nghiệp và cả thói quen trong các thao tác pháp lý. Để làm được
điều đó, đòi hỏi ở người áp dụng pháp luật một vốn tri thức, kinh nghiệm, kỹ
năng và bản lĩnh nghề nghiệp cao.
b. Căn cứ vào chủ thể, có thể chia ý thức pháp luật thành: ý thức
pháp luật cá nhân, ý thức pháp luật nhóm và ý thức pháp luật xã hội.
+ Ý thức pháp luật cá nhân là những tư tưởng, quan điểm, khái niệm,
tâm lý pháp luật của mỗi công dân. Ý thức pháp luật cá nhân không hoàn
toàn giống nhau, bởi nó phụ thuộc vào các yếu tố khách quan như điều kiện

chính trị, kinh tế - xã hội và các yếu tố chủ quan của họ. Có thể cũng chính
là anh A nhưng ngày hôm qua đã có ý thức coi thường quy định pháp luật
giao thông nhưng đến ngày kia anh ta lại nhận thức lại và có ý thức tôn
trọng luật giao thông. Đó có thể do nhiều lý do như sau khi thấy một người
khác bị xử phạt vi phạm, hoặc được phổ biến, giải thích luật giao thông hoặc
lý do, tác động khác.
+ Ý thức pháp luật xã hội là ý thức pháp luật của bộ phận tiên tiến, đại
diện cho xã hội. Nội dung của ý thức pháp luật xã hội thể hiện các quan
điểm, tư duy khoa học về pháp luật, đã và đang được phổ biến trong xã hội,
tác động đến ý thức, hành vi pháp luật trên diện rộng. Ví dụ như hiện nay,
trong xã hội đã và đang tồn tại, đang tác động mạnh về tinh thần thượng tôn
pháp luật, ý thức pháp luật nhân văn trong nhà nước pháp quyền, ý thức về


23
dân chủ, công khai, minh bạch, ý thức về đầu tranh chống các vi phạm pháp
luật, đặc biệt đối với tệ nạn tham nhũng vv…
+ Ý thức pháp luật nhóm phản ánh những đặc điểm của các nhóm xã
hội tương ứng. Đó là những quan điểm, nhận thức, tư tưởng tình cảm pháp
luật của một nhóm người nhất định trong xã hội. Các nhóm xã hội được liên
kết với nhau theo những tiêu chuẩn, lợi ích nhất định và trong những điều
kiện sống có nhiều nét tương đồng. Do vậy, các nhóm xã hội có những quan
niệm, tư duy, thái độ, cách đánh giá, những yêu cầu đối với pháp luật tương
đối giống nhau. Ví dụ, ý thức pháp luật của giới văn nghệ sỹ, giới thầy
thuốc, giới sinh viên vv… đều có những đặc trưng riêng.

1.2. MỐI QUAN HỆ GIỮA Ý THỨC PHÁP LUẬT VÀ PHÁP LUẬT
1.2.1. Vai trò của ý thức pháp luật đối với pháp luật
Pháp luật và ý thức pháp luật có mối quan hệ biện chứng, tác động,
ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự tồn tại và phát triển của nhau. Mối quan hệ này

được thể hiện trong xây dựng pháp luật, trong thực hiện và áp dụng pháp
luật ý thức pháp luật hiện hữu trong công việc soạn thảo, ban hành các văn
bản pháp luật, các quyết định áp dụng pháp luật, trong cả hành vi pháp luật
của mỗi chủ thể pháp luật. Không có một hiện tượng xã hội nào có thể được
thể hiện dưới dạng quy phạm pháp luật thành quyền và nghĩa vụ pháp lý
chừng nào chúng chưa được đi qua ý thức của con người. Đến lượt mình,
các quy định pháp luật muốn thực hiện được cũng phải trải qua ý thức của
con người tức là sự thực hiện pháp luật chính là quá trình đưa quy phạm vào
ý thức pháp luật của các cá nhân [19;2]. Mối quan hệ giữa ý thức pháp luật
và pháp luật được thể hiện trong sự tác động qua lại giữa chúng theo các
chiều hướng khác nhau trong quá trình pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội.
Vai trò của thức pháp luật đối với pháp luật được thể hiện trong hoạt
động xây dựng pháp luật, trong thực hiện pháp luật, đặc biệt là trong áp
dụng pháp luật. Ý thức pháp luật có ở tất cả các giai đoạn của cơ chế điều

×