Tải bản đầy đủ (.pdf) (226 trang)

Quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.88 MB, 226 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI





NGUYỄN VĂN NĂM





QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC
TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC
PHÁP QUYỀN VIỆT NAM HIỆN NAY




LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC





HÀ NỘI 2012
2


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI




NGUYỄN VĂN NĂM


QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC
TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC
PHÁP QUYỀN VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số 62.38.01.01


LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC


NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
1. PGS. TS. Nguyễn Minh Đoan
2. TS. Nguyễn Quốc Hoàn



HÀ NỘI 2012
3











LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là kết quả
nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số liệu trong luận án là
trung thực, những kết luận khoa học của luận án là kết quả
của quá trình nghiên cứu độc lập và chƣa đƣợc ngƣời khác
công bố.


Tháng 8 năm 2012
TÁC GIẢ LUẬN ÁN


Nguyễn Văn Năm

4

Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI
1.1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Điều chỉnh hành vi con người, xã hội có nhiều công cụ khác nhau, trong đó,
pháp luật và đạo đức là những công cụ quan trọng bậc nhất. Bên cạnh những ưu thế

vốn có, cả pháp luật và đạo đức đều có những hạn chế nhất định, song giữa chúng
luôn có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại, bổ sung cho nhau. Chính vì vậy, để
quản lý xã hội một cách có hiệu quả, cần phải kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa pháp
luật với đạo đức.
Tuy nhiên, thực tế Việt Nam cho thấy, vị trí, vai trò của pháp luật, đạo đức
cũng như mối quan hệ giữa chúng nhìn chung chưa được nhận thức một cách đúng
đắn, đầy đủ cả từ phía nhà nước, cả từ phía xã hội. Trong cơ chế kinh tế cũ, nhận
thức về pháp luật có hai khuynh hướng, hoặc quá đề cao pháp luật, coi pháp luật là
công cụ vạn năng có thể xác lập hay xóa bỏ một quan hệ xã hội nào đó một cách
duy ý chí; hoặc lại hạ thấp vai trò của pháp luật, dẫn đến sử dụng mệnh lệnh hành
chính, các quan niệm đạo đức mới như tinh thần làm chủ tập thể, mỗi người vì mọi
người để thay thế cho pháp luật. Trong khi đó, trong một thời gian dài trước đây,
do nhận thức ấu trĩ, giáo điều về chủ nghĩa xã hội, nên đã không thấy hết được vai
trò, giá trị to lớn của truyền thống, đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc, thậm
chí nhiều quan niệm đạo đức truyền thống của dân tộc còn bị coi là tàn dư của chế
độ cũ cần phải loại bỏ. Lối suy nghĩ, tư duy và hành động đó còn ảnh hưởng không
nhỏ trong điều kiện xã hội Việt Nam hiện nay. Điều này dẫn đến, trong thực tiễn,
việc sử dụng pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội còn nhiều hạn chế, một mặt,
những ưu thế vốn có của pháp luật cũng như đạo đức không được phát huy hết, mặt
khác, sự tác động bổ sung cho nhau giữa chúng cũng không khai thác được, chính
vì vậy, hiệu quả điều chỉnh các quan hệ xã hội của cả pháp luật và đạo đức đều chưa
cao.
Hiến pháp năm 1992, được sửa đổi, bổ sung năm 2001 đã qui định: “Nhà
nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Xây dựng nhà nước pháp quyền đã
trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm của nhà nước và toàn xã hội. Trong
điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, pháp luật được đặc biệt coi trọng, giữ vai
trò thống trị trong đời sống nhà nước và xã hội, mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội
kể cả nhà nước đều phải thượng tôn pháp luật, chấp pháp nghiêm chỉnh. Tuy nhiên,
Việt Nam là một quốc gia Á Đông, chịu sự ảnh hưởng sâu sắc bởi Nho giáo, sự coi

trọng đạo lý, ứng xử theo đạo lý đã trở thành truyền thống của dân tộc. Truyền
5

thống đó ăn sâu, bám chắc trong tâm lý xã hội, nó cố kết chặt chẽ trong tư duy con
người. Có thể nói, trong điều kiện hiện nay ở nước ta, thói quen xử sự theo đạo lý
vẫn còn “ngự trị” trong lối sống của không ít người, ngược lại, thói quen xử sự theo
pháp luật vẫn chưa được hình thành. Trong điều kiện đó, việc xây dựng nhà nước
pháp quyền ở nước ta hiện nay gặp không ít khó khăn.
Qua mấy chục năm tiến hành công cuộc cải cách, xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đời sống xã hội đã có sự phát triển vượt bậc.
Tuy nhiên, cùng với nó, mặt trái của nền kinh tế thị trường và việc hợp tác, hội nhập
quốc tế cũng gây ra không ít phức tạp, đó là sự coi thường các giá trị truyền thống,
lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ, chạy theo đồng tiền, đặt vật chất, tiền bạc lên trên
hết, tìm kiếm lợi nhuận bằng mọi cách… Sự xuống cấp của đạo đức xã hội đã gây
ra những hệ lụy to lớn, làm đảo lộn các giá trị của cuộc sống, cản trở sự phát triển
của xã hội, làm xã hội vận động, phát triển một cách không lành mạnh, thiếu vững
chắc.
Do vậy, phát triển kinh tế phải đi đôi với đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội,
giải quyết hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Phát triển kinh tế phải đi
đôi với xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, giữ gìn và phát
huy các giá trị đạo đức truyền thống, thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Hiện nay, nước ta đang trong quá trình hợp tác, hội nhập sâu rộng vào đời
sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội quốc tế. Bản lĩnh, sự tự tin cũng như sự
thành công trong các quan hệ quốc tế phụ thuộc khá lớn vào nền tảng văn hóa
phong phú và đặc sắc của dân tộc. Mở cửa, hợp tác, hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng thì ảnh hưởng của điều kiện quốc tế đến đời sống kinh tế - xã hội trong nước
ngày càng lớn, trong đó, bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, cũng có không ít
những ảnh hưởng tiêu cực. “Mở cửa ra, gió mát lùa vào thì ruồi muỗi cũng bay
vào”. Chính vì vậy, cần phải có những rào cản hữu hiệu để sàng lọc, tiếp thu, học
hỏi những tinh hoa văn hóa của các dân tộc, ngăn chặn sự ảnh hưởng của những

quan điểm, tư tưởng, lối sống độc hại…Trong điều kiện đó, các giá trị đạo đức
truyền thống của dân tộc là một màng lọc có hiệu quả nhất, chúng “đóng vai trò
màng lọc và điều tiết việc sản sinh, tiếp thu cái mới, nhất là cái mới từ bên ngoài”,
bởi lẽ chúng đã được “sàng lọc, tích lũy và kế thừa qua nhiều thế hệ”, chúng đã trở
thành “thuần phong, mỹ tục và mang “khí thiêng sông núi” [123, tr.170,171]. Chính
vì vậy, việc giữ gìn,bảo tồn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc
là việc làm có ý nghĩa hết sức to lớn và vô cùng cần thiết.
6

Tất cả những phân tích trên đây cho thấy, cần phải nghiên cứu một cách sâu
sắc, toàn diện mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, đặc biệt là mối quan hệ giữa
chúng trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay, nhằm có
được những tri thức đúng đắn về vị trí, vai trò, ưu thế cũng như hạn chế của từng
yếu tố, sự tác động qua lại, hỗ trợ, bổ sung cho nhau giữa chúng Trên cơ sở đó,
đánh giá một cách khách quan, toàn diện thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật với
đạo đức ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay. Từ đó có cơ sở đề ra những giải pháp
để tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật kết hợp đạo đức, đảm bảo sự tôn
nghiêm của luật pháp, giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức, truyền thống, thuần
phong mỹ tục của dân tộc, củng cố, giữ gìn ổn định, trật tự xã hội, bảo đảm, bảo vệ
các quyền, tự do, các lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người.
1.2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức ở Việt Nam là một đề tài rất lớn, và
tương đối phức tạp. Liên quan đến đề tài này, có nhiều công trình nghiên cứu ở
những góc độ, mức độ và phạm vi khác nhau. Trong đó, bao gồm các công trình
nhiên cứu về vai trò, giá trị xã hội của đạo đức; các công trình nghiên cứu về vai
trò, giá trị xã hội của pháp luật; các công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa pháp
luật với đạo đức.
 Nhóm 1: Các công trình nghiên cứu về vai trò của đạo đức
Có thể nói, có khá nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vai trò của đạo
đức trong đời sống xã hội. Là một nội dung quan trọng của đạo đức học nên có thể

nói, tất cả các giáo trình đạo đức học của các cơ sở đào tạo chuyên ngành triết học
đều đề cập đến vấn đề này. Tuy nhiên, vì giới hạn ở một giáo trình nên nhìn chung,
vấn đề này được đề cập một cách hết sức khái quát. Cũng có khá nhiều công trình
chuyên khảo chuyên sâu nghiên cứu về vấn đề này, có thể kể ra một số công trình
tiêu biểu sau đây:
Cuốn Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện
nay là một công trình được biên soạn bởi một tập thể tác giả do GS.TS Nguyễn
Trọng Chuẩn và PGS.TS Nguyễn Văn Phúc đồng chủ biên. Công trình là tập hợp
các bài viết của các tác giả, đề cập đến nhiều vấn đề, trong đó chủ yếu đề cập vai trò
của đạo đức trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường của nước ta, vấn đề giữ
gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống, vấn đề xây dựng đạo đức trong bối
cảnh phát triển nền kinh tế thị trường. Cuốn Xây dựng đạo đức mới trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của TS Trịnh Duy Huy đề cập một cách
cụ thể hơn về những giải pháp xây dựng đạo đức mới trong điều kiện kinh tế thị
7

trường ở nước ta hiện nay. Cuốn Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị
xã hội do GS.TSKH Huỳnh Khái Vinh chủ biên, đề cập các vấn đề về vai trò của lối
sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội đối với việc xây dựng con người, vấn đề kế thừa
và phát triển nếp sống, đạo đức và các giá trị truyền thống của dân tộc. Đặc biệt,
cuốn sách dành một phần quan trọng phân tích kinh nghiệm và bài học của một số
nước cho Việt Nam trong việc xây dựng lối sống, đạo đức và chuẩn giá trị xã hội.
Có thể nói, đây là những bài học quí báu cho Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
Cuốn Văn hóa đạo đức và tiến bộ xã hội do PGS Trường Lưu chủ biên, tiếp cận vấn
đề dưới góc độ văn hóa, cuốn sách đã dành những phần nhất định đề cập vấn đề đạo
đức, lối sống và vai trò của đạo đức trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Cùng
chung cách tiếp cận này có cuốn Văn hóa đạo đức, mấy vấn đề lý luận và thực tiễn
ở Việt Nam của PGS.TS Thành Duy. Cuốn Ảnh hưởng của đạo đức phong kiến
trong cán bộ lãnh đạo quản lý của Việt Nam hiện nay do TS Nguyễn Thế Kiệt chủ
biên, cuốn sách tập trung nhận diện những tàn dư của đạo đức phong kiến và ảnh

hưởng của nó đến tư duy và hành động của cán bộ, công chức nước ta hiện nay.
Cùng chủ đề này có cuốn Ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến đối với con người
Việt Nam hiện nay của TS Nguyễn Bình Yên. Công trình dành phần chủ yếu để
phân tích những ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức phong kiến trong xã hội Việt nam
hiện nay, đó là tư tưởng địa vị, đẳng cấp, bệnh gia trưởng, gia đình chủ nghĩa, cục
bộ, bản vị, trọng nam khinh nữ, coi thường lớp trẻ Sách cũng đưa ra những giải
pháp thiết thực nhằm đấu tranh khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng đạo đức
phong kiến ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
 Nhóm 2: Các công trình nghiên cứu về vai trò của pháp luật
Vai trò của pháp luật là một nội dung cơ bản của khoa học pháp lý, vì vậy
vấn đề này được đề cập ở tất cả các giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật của
các trường luật, tuy nhiên vấn đề luôn chỉ được đề cập ở mức độ hết sức khái quát.
Các công trình chuyên khảo về vấn đề này cũng khá nhiều, có thể kể ra một số công
trình tiêu biểu sau đây:
Trước hết đó là cuốn Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội của TS.
Nguyễn Minh Đoan, cuốn sách phân tích khá sâu sắc về vai trò của pháp luật đối
với nhà nước, đối với đời sống kinh tế - xã hội, đối với đường lối, chính sách của
Đảng Trong cuốn sách này, tác giả đã khẳng định một cách mạnh mẽ rằng, pháp
luật là công cụ quản lý xã hội không thể thiếu, công cụ quản lý quan trọng, có hiệu
quả nhất, tuy nhiên, nó không phải là công cụ quản lý duy nhất, công cụ quản lý vạn
năng. Cuốn Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, những vấn đề lý
8

luận và thực tiễn của PGS.TS Lê Minh Tâm đề cập giá trị xã hội của pháp luật.
Sách phân tích và luận giải khá sâu sắc để khẳng định rằng, pháp luật là sự biểu
hiện của văn minh và văn hóa; là cơ sở để đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội,
bảo đảm, bảo vệ quyền, tự do dân chủ, lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người,
bảo đảm công bằng, bình đẳng trong xã hội, là nhân tố quan trọng bảo đảm sự phát
triển bền vững của xã hội. Cuốn Pháp luật, lối sống và văn hóa công sở của
PGS.TS. Nguyễn Minh Đoan đề cập đến các vấn đề về lối sống theo pháp luật và

những vấn đề ảnh hưởng đến lối sống theo pháp luật ở nước ta hiện nay. Sách cũng
đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm xây dựng lối sống theo pháp luật ở nước
ta trong giai đoạn hiện nay. Cuốn Vai trò của pháp luật trong quá trình hình thành
nhân cách con người của TS. Nguyễn Đình Đặng Lục, sách tập trung phân tích vai
trò của pháp luật trong việc hình thành nhân cách người chưa thành niên, qua đó
sách đề cập đến nội dung, hình thức, phương tiện giáo dục pháp luật cho người chưa
thành niên.
 Nhóm 3: Các công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa pháp luật với
đạo đức, trong đó:
Một là: Các giáo trình luật học, đạo đức học
Có thể nói, các giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật của các cơ sở đào tạo
luật, giáo trình đạo đức học của các cơ sở đào tạo chuyên ngành triết học đều đề cập
tới vấn đề này. Tuy nhiên, hầu hết các giáo trình này đều chỉ đề cập vấn đề này một
cách rất khái quát, sơ lược.
Hai là: Các bài báo, tạp chí
Trên các tạp chí chuyên ngành như Nhà nước và pháp luật, Nghiên cứu lập
pháp, Luật học, Triết học có khá nhiều công trình của các tác giả đề cập tới vấn đề
này. Tác giả HoàngThị Kim Quế có hàng loạt bài nghiên cứu về mối quan hệ giữa
pháp luật và đạo đức: Mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức với việc điều chỉnh
hành vi con người trong quản lý xã hội (Tạp chí Đại học Quốc gia, chuyên đề khoa
học xã hội, số 4/1997); Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức
trong hệ thống điều chỉnh xã hội (Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7/1999); Một
số suy nghĩ về trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm đạo đức (Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, số 3/2000); Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp pháp luật và đạo
đức (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 8/2002); Vấn đề kết hợp quản lý xã hội bằng
pháp luật với giáo dục nâng cao đạo đức ở nước ta hiện nay (Tạp chí Triết học, số
12/2002); Những vấn đề hôm nay của pháp luật và đạo đức (Tạp chí Luật học số
7/2006) Tác giả Trần Hậu Thành có bài viết Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp
9


luật (Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị, số 5/1998). Hai tác giả Lê Hoài Thanh và
Trần Hậu Thành có bài Về quan hệ giữa pháp luật và đạo đức (Tạp chí Khoa học
Chính trị, số 6/2000). Tác giả Hoàng Thị Hạnh có bài Góp phần tìm hiểu mối quan
hệ giữa đạo đức và pháp luật (Diễn đàn thông tin khoa học xã hội). Tác giả Thành
Duy có bài Tư tưởng Hồ Chí Minh và mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức, đạo
đức và lợi ích công dân (Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 3/1995)
Mặc dù đều là những công trình nghiên cứu chuyên sâu về quan hệ giữa
pháp luật với đạo đức, tuy nhiên, với dung lượng hạn chế của một bài tạp chí, nên
nhìn chung các tác giả đều dừng lại ở việc phân tích một vài khía cạnh của vấn đề,
không có điều kiện để giải quyết toàn diện các khía cạnh của nó.
Ba là: Các đề tài nghiên cứu khoa học
Trước hết là công trình nghiên cứu khoa học cấp Đại học Quốc gia của tiến
sĩ Hoàng Thị Kim Quế: "Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong quản lý xã
hội ở nước ta hiện nay". Công trình nghiên cứu khá toàn diện các vấn đề như vị trí,
vai trò, mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong quản lý xã hội; tính cấp thiết
khách quan của việc kết hợp pháp luật, đạo đức trong quản lý xã hội; việc kết hợp
giữa pháp luật với đạo đức trên thực tế trong một số lĩnh vực pháp luật cụ thể; trên
cơ sở đó, tác giả đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện mối quan hệ giữa pháp
luật với đạo đức. Tuy nhiên, công trình vẫn chưa giải quyết được một cách triệt để
những vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức. Mặt khác, như
chính tác giả chỉ rõ, công trình này mới chỉ bước đầu nghiên cứu những biểu hiện
việc kết hợp giữa pháp luật với đạo đức ở một số lĩnh vực pháp luật. Tiếp theo là
công trình nghiên cứu khoa học cấp khoa trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội của
Thạc sỹ Nguyễn Quốc Việt với đề tài: “Bảo lưu những giá trị đạo đức truyền thống
trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay”.Công trình đề
cập đến vấn đề rất có ý nghĩa trong điều kiện hiện nay của nước ta, đó là việc giữ
gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc trong quá trình cải
cách, đổi mới, xây dựng nhà nước pháp quyền, hợp tác và hội nhập quốc tế. Tác giả
đã luận giải các vấn đề như sự cần thiết phải bảo lưu các giá trị đạo đức truyền
thống trong quá trình hoàn thiện pháp luật; thực trạng bảo lưu các giá trị đạo đức

truyền thống ở nước ta hiện nay Tác giả cũng đề xuất nhiều giải pháp nhằm bảo
lưu các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, do giới hạn ở phạm vi một công trình nghiên cứu
khoa học cấp cơ sở nên công trình này còn nhiều hạn chế: một là, công trình chỉ tiếp
cận một khía cạnh rất hẹp của mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức như tên của
10

công trình đã chỉ rõ; hai là, sự luận giải về sự cần thiết phải bảo lưu các giá trị đạo
đức truyền thống chưa sâu sắc, bởi vậy, sẽ là khó thuyết phục khi tác giả muốn luật
hóa tất cả các giá trị đạo đức truyền thống; ba là, phương pháp, cách thức bảo lưu
các giá trị đạo đức truyền thống; các giải pháp nhằm bảo lưu các giá trị đạo đức
truyền thống trong công trình nhìn chung là còn khá đơn giản.
Tại Trường đại học Luật Hà Nội cũng có hai công trình nghiên cứu khoa học
cấp trường, đó là công trình của TS Nguyễn Minh Đoan với đề tài Những nguyên
tắc của hệ thống pháp luật Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập, trong đó có đề
cập nhóm nguyên tắc đạo đức; công trình của TS Nguyễn Quốc Hoàn với đề tài
Hành vi pháp luật - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, trong đó có đề cập sự tương
quan giữa hành vi pháp luật và hành vi đạo đức
Cũng cần phải kể đến đề tài khoa học cấp Bộ của Bộ Tư pháp Tập quán và
thực tiễn xét xử trong mối quan hệ với hệ thống pháp luật và thực tiễn pháp luật. Đề
tài được thực hiện bởi các nhà khoa học, các chuyên gia đầu ngành khoa học pháp
lý. Để thực hiện đề tài này, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ Tư pháp có
chuyên đề thông tin khoa học Mối quan hệ giữa tập tục và pháp luật. Chuyên đề tập
hợp bài viết của các tác giả là những người làm công tác thực tiễn tại các địa
phương. Chuyên đề cung cấp những thông tin về thực tiễn áp dụng tập quán trong
quá trình giải quyết các vụ việc cụ thể xảy ra trong thực tế. Các công trình này tuy
không trực tiếp đề cập đến mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, nhưng ít nhiều
nó đều có liên quan đến đề tài, bởi tập quán và đạo đức luôn có sự chồng lấn rất
đáng kể, rất nhiều tập quán trong đời sống hàng ngày là các tập quán đạo đức.
Bốn là: Các đề tài luận văn, luận án

Nhiều luận văn tốt nghiệp đại học, cao học đã giải quyết về vấn đề này. Có
thể kể đến như luận văn thạc sĩ của Hoàng Xuân Châu với đề tài Mối quan hệ giữa
pháp luật với đạo đức trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt
Nam (Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002). Luận văn đã đề cập những khía cạnh của
mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, tuy nhiên, nhìn chung còn khá hạn chế.
Tác giả luận án này cũng đã có dịp nghiên cứu mối quan hệ giữa pháp luật với đạo
đức ở Việt Nam với đề tài luận văn thạc sỹ Mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức
ở Việt Nam hiện nay. Luận văn đã được bảo vệ tháng 5.2003 tại Trường đại học
Luật Hà Nội. Tuy nhiên, như tên đề tài đã chỉ rõ, luận văn không đề cập một cách
cụ thể quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam. Vì giới hạn ở đề tài luận văn thạc sỹ, công trình chưa có điều
kiện phân tích một cách sâu sắc, có hệ thống về vai trò của pháp luật, đạo đức trong
11

quản lý xã hội. Phần trình bày về những điểm tương đồng, khác biệt và sự tác động
qua lại giữa pháp luật với đạo đức cũng còn nhiều hạn chế. Đặc biệt, trong luận văn,
tác giả không chỉ ra được những yếu tố ảnh hưởng đến quan hệ giữa pháp luật với
đạo đức, làm cho quan hệ giữa chúng trong những không gian, thời gian khác nhau
trở nên khác nhau. Vì vậy, luận văn không chỉ ra đặc thù của mối quan hệ giữa pháp
luật với đạo đức trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Luận
văn cũng chưa có điều kiện luận giải về sự cần thiết phải kết hợp giữa pháp luật với
đạo đức trong quản lý xã hội, do đó, đề tài không có cơ sở lý luận để đề xuất các
giải pháp kết hợp chặt chẽ, hài hòa pháp luật với đạo đức trong quản lý xã hội ở
Việt Nam. Tác giả Nguyễn Thúy Hoa có luận văn thạc sĩ với đề tài Kết hợp pháp
luật và đạo đức trong quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay (Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, 2006). Luận văn luận giải tính tất yếu của việc kết hợp pháp
luật và đạo đức trong quản lý nhà nước; nội dung kết hợp; thực trạng kết hợp và
một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả kết hợp pháp luật với đạo đức
trong quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, toàn bộ phần nội dung
chính của luận văn có 103 trang thì có tới khoảng 50 trang là sự sao chép từ luận

văn thạc sĩ Mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức ở Việt Nam hiện nay của
Nguyễn Văn Năm đã bảo vệ tại trường Đại học Luật Hà Nội năm 2003.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí
Minh có luận văn thạc sĩ của Lương Hồng Quang với đề tài Tư tưởng Hồ Chí Minh
về kết hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội (Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, 2002), luận văn thạc sĩ của Tạ Thị Thu Đông với đề tài Tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức và pháp luật (Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010). Những đề tài
nàyđề cập một cách khá sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức và
pháp luật; mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Các
luận văn đều phân tích khá sâu sắc các quan điểm, tư tưởng của Hồ Chủ tịch và
khẳng định, đạo đức là gốc, là cơ sở để xây dựng pháp luật tiến bộ, là nhân tố đảm
bảo việc thực hiện pháp luật, là công cụ hỗ trợ cho pháp luật trong việc giữ gìn trật
xã hội, thuần phong mỹ tục của dân tộc; ngược lại, pháp luật cũng có tác động mạnh
mẽ đến đạo đức. Pháp luật ghi nhận và đảm bảo về mặt pháp lý các chuẩn mực đạo
đức, là công cụ hữu hiệu hỗ trợ cho cái thiện đấu tranh thắng cái ác, tạo điều kiện để
các giá trị đạo đức phát triển bền vững. Chính vì vậy, luận văn khẳng định, cần phải
có sự kết hợp chặt chẽ giữa pháp luật với đạo đức trong quản lý xã hội. Có thể nói,
các luận văn đều đã đề cập trực diện nhiều khía cạnh trong mối quan hệ giữa pháp
luật với đạo đức. Tuy nhiên, vì giới hạn nghiên cứu trong phạm vi tư tưởng Hồ Chí
12

Minh nên không có điều kiện giải quyết một cách toàn diện mọi khía cạnh của mối
quan hệ này, nhiều vấn đề tác giả có đề cập, nhưng phân tích chưa thực sự sâu sắc.
Cũng cần kể đến luận văn thạc sĩ của Bùi Sĩ Hoàn với đề tài Mối quan hệ
giữa pháp luật với phong tục tập quán; luận án tiến sĩ của Trương Tiến Hưng với
đề tài Vận dụng luật tục dân tộc Chăm trong quản lý người Chăm của chính quyền
cơ sở ở tỉnh Ninh Thuận. Những công trình này tuy không trực tiếp giải quyết vấn
đề quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, tuy nhiên, như vừa đề cập, giữa pháp luật,
đạo đức và tập quán luôn có sự chồng lấn với nhau, bởi vậy, thông qua sự tác động
qua lại giữa pháp luật với tập quán, luật tục, chúng ta cũng có thể hình dung phần

nào mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức. Luận án tiến sĩ của Trương Tiến Hưng
đề cập đến vấn đề vận dụng luật tục vào quản lý nhà nước, Luận án đã đề cập đến
những yêu cầu, nguyên tắc vận dụng luật tục trong hoạt động quản lý nhà nước của
chính quyền cấp cơ sở tỉnh Ninh Thuận. Luận án đã chỉ rõ, luật tục, đạo đức, phong
tục, tập quán luôn có sự chồng lấn với nhau, khó mà phân biệt rạch ròi; luật tục
luôn chứa đựng những tiêu chí về đạo đức, luân lý Do vậy, cũng có thể quan niệm
rằng, ở một góc độ nào đó, trong sự vận dụng luật tục vào quản lý xã hội có bao
hàm trong đó sự vận dụng các chuẩn mực đạo đức. Tuy nhiên, như tên đề tài đã chỉ
rõ, luận án chỉ tập trung đề cập sự vận dụng luật tục của người Chăm, trong phạm vi
tỉnh Ninh Thuận, vì vậy, luận án không khái quát cho mọi trường hợp áp dụng luật
tục nói chung trên phạm vi cả nước.
Năm là: Các công trình chuyên khảo
Công trình của TS Phạm Duy Nghĩa Pháp luật và những nhân tố tích cực
của Nho giáo. Sách đề cập đến hệ tư tưởng Nho giáo, một hệ tư tưởng đạo đức có
ảnh hưởng sâu sắc trong xã hội Việt Nam và các nước Á đông, hệ tư tưởng đạo đức
lấy chữ “nhân” làm nền tảng. Trên cơ sở phân tích những nhân tố tích cực của Nho
giáo, tác giả khẳng định pháp luật phải được xây dựng trên nền tảng ý chí của nhân
dân, phản ánh nguyện vọng lợi ích của nhân dân, “gần với nhu cầu, mong ước và
tiếng nói của nhân dân” - những tư tưởng cốt lõi của Nho giáo. Công trình của GS
Vũ Khiêu và PGS Thành Duy: Đạo đức và pháp luật trong triết lý phát triển ở Việt
Nam. Sách do Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành, đề cập đến vấn đề pháp luật
và đạo đức ở Việt Nam một cách tương đối toàn diện, theo tiến trình lịch sử của sự
phát triển. Sách tập trung phân tích những nét đặc trưng của đạo đức và pháp luật
trong triết lý phát triển của dân tộc Việt Nam, “thứ triết lý được hình thành từ lâu
đời trong lịch sử dân tộc và đang biến đổi do tác động của các nhân tố phát triển
của xã hội hôm nay” [56, tr.6]. Có thể nói, trong từng chương của cuốn sách đều đã
13

đề cập đến vị trí, vai trò của đạo đức và pháp luật trong triết lý phát triển của dân
tộc qua các giai đoạn lịch sử của nó. Tuy nhiên, do tiếp cận vấn đề từ góc độ triết

học, cuốn sách hầu như không đề cập một cách cụ thể vai trò của đạo đức và pháp
luật trong quản lý xã hội. Cuốn sách hầu như không cung cấp cho bạn đọc những
thông tin về sự giống, khác nhau cũng như sự tương tác giữa pháp luật với đạo đức.
Tác giả Phan Văn Tỉnh cũng có công trình nghiên cứu Đạo đức truyền thống của
dân tộc là môi trường thuận lợi của việc thực hiện pháp luật trong sách Xã hội và
pháp luật. Công trình tiếp cận vấn đề trên khía cạnh vai trò của đạo đức truyền
thống trong việc đảm bảo cho pháp luật được thực hiện trong cuộc sống.
Nghiên cứu đề tài này, tác giả không thể không tìm đến công trình của
PGS.TS Hoàng Thị Kim Quế: “Pháp luật và đạo đức” do Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia ấn hành năm 2007. Có thể nói, đây là công trình nghiên cứu khá đồ sộ về
pháp luật, đạo đức cũng như mối quan hệ giữa chúng. Với dung lượng hơn 500
trang sách, công trình đã đề cập một cách khá toàn diện các vấn đề như vị trí, vai trò
của pháp luật và đạo đức trong hệ thống công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội; sự
thống nhất, sự khác biệt và sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức. Công
trình nghiên cứu cũng giới thiệu cho người đọc những nội dung cơ bản trong tư
tưởng pháp luật và đạo đức ở phương Đông, phương Tây. Cuốn sách cũng giới
thiệu với bạn đọc thực trạng đạo đức, pháp luật trong điều kiện nền kinh tế thị
trường ở nước ta hiện nay. Qua đó, cuốn sách đề xuất nhiều giải pháp nhằm tăng
cường quản lý xã hội bằng pháp luật kết hợp giáo dục thực hành đạo đức trong điều
kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đọc sách, chúng ta
thấy tác giả đề cập khá toàn diện các vấn đề xung quanh mối quan hệ giữa pháp luật
với đạo đức. Tuy nhiên, nhiều vấn đề tác giả đề cập ở mức độ chung, mang tính
khái quát. Chẳng hạn, vai trò của pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội được tác
giả đề cập một cách tương đối khái quát mà chưa đi sâu phân tích từng vai trò cụ
thể của chúng. Một số khía cạnh trong sự tương đồng, khác biệt, hay sự tác động
qua lại giữa pháp luật với đạo đức cũng chưa được tác giả phân tích chi tiết. Đặc
biệt, tác giả không luận giải các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, nhận thức
của con người ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, chính vì
vậy, không có cơ sở để phân tích mối quan hệ này trong điều kiện cụ thể xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay. Công trình cũng chưa có sự khảo sát,

đánh giá trên thực tế về mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức ở nước ta trong
điều kiện hiện nay.
14

Tóm lại, các công trình trên đây đều đã đề cập đến những khía cạnh khác
nhau xung quanh mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, tuy nhiên, chưa có công
trình nào tiếp cận mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong điều kiện xây dựng
nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay. Vì giới hạn ở những cấp độ khác nhau,
phạm vi tiếp cận khác nhau nên nhìn chung các công trình được đề cập trên đây
vẫn còn những hạn chế nhất định. Liên quan đến vấn đề mối quan hệ giữa pháp luật
với đạo đức còn rất nhiều vấn đề cần phải được tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ.
Chẳng hạn, vai trò của pháp luật cũng như đạo đức trong việc điều chỉnh các mối
quan hệ xã hội; những yếu tố ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa pháp luật với đạo
đức; tính đặc thù của mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong các điều kiện
kinh tế - xã hội khác nhau Đặc biệt, phải làm sáng tỏ những đặc thù của mối quan
hệ giữa pháp luật và đạo đức trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước
ta, đánh giá thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức ở Việt Nam hiện nay
và đề xuất các quan điểm, giải pháp kết hợp pháp luật với đạo đức nhằm nâng cao
hiệu quả điều chỉnh các quan hệ xã hội trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam hiện nay
1.3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa pháp luật với đạo
đức trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam,
- Xây dựng cơ sở cho việc đánh giá thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật
với đạo đức ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp kết hợp pháp luật và đạo đức nhằm nâng
cao hiệu quả điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong điều kiện xây dựng nhà nước
pháp quyền Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ của luận án

- Phân tích vai trò của pháp luật và đạo đức; phân tích một cách toàn diện
những điểm tương đồng và khác biệt giữa pháp luật và đạo đức;
- Phân tích sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức; những yếu tố ảnh
hưởng đến mối quan hệ giữa chúng, đặc biệt sự ảnh hưởng của việc xây dựng nhà
nước pháp quyền ở Việt Nam đến mối quan hệ giữa chúng.
- Nghiên cứu thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong điều
kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay, chỉ rõ những điểm tích
cực cần phát huy, đồng thời chỉ rõ những hạn chế, khiếm khuyết của mối quan hệ
này cũng như những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó.
15

- Đề xuất các quan điểm, giải pháp kết hợp pháp luật và đạo đức nhằm nâng
cao hiệu quả điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong điều kiện xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của một luận án tiến sĩ, đề tài giới hạn nghiên cứu trong
phạm vi sau đây:
- Nghiên cứu mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong phạm vi không
gian ở Việt Nam, có lưu ý đến việc tiếp thu kinh nghiệm xử lý mối quan hệ này ở
một số nước trên thế giới.
- Nghiên cứu mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong điều kiện xây
dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam
- Nghiên cứu thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong thời
gian từ sau khi tiến hành đổi mới, đặc biệt từ sau khi có sự sửa đổi, bổ sung một số
điều của Hiến pháp năm 1992 về việc xây dựng nhà nước pháp quyền, có lưu ý đến
việc tiếp thu kinh nghiệm xử lý mối quan hệ này trong lịch sử dân tộc.
1.4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa
Mác- Lênin, vận dụng triệt để các quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử như quan điểm về mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng với

kiến trúc thượng tầng, quan hệ giữa tồn tại xã hội với ý thức xã hội, quan hệ giữa
các hình thái ý thức xã hội
Luận án cũng được tiến hành trên cơ sở quán triệt sâu sắc tư tưởng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về vai trò của pháp luật, đạo đức, sự kết hợp giữa pháp luật với
đạo đức trong quản lý xã hội, đặc biệt là tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai
trò của đạo đức đối với việc hoàn thiện nhân cách, phẩm chất con người.
Luận án cũng được tiến hành trên cơ sở quán triệt sâu sắc các quan điểm,
đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về vai trò của pháp luật và đạo đức, sự kết
hợp giữa pháp luật với đạo đức trong quản lý xã hội.
Luận án được thực hiện dựa trên cách tiếp cận:
- Cách tiếp cận giá trị: coi đạo đức và pháp luật là những giá trị xã hội, chúng có tác
dụng to lớn trong đời sống con người.
- Cách tiếp cận liên ngành: đề tài được nghiên cứu với sự phối kết hợp của nhiều
ngành khoa học khác nhau như Luật học, Triết học, Sử học, Xã hội học.
- Cách tiếp cận đồng đại, lịch đại: pháp luật và đạo đức luôn được xem xét đồng đại,
đồng thời cũng được xem xét theo sự biến đổi qua các giai đoạn lịch sử của chúng.
16

- Cách tiếp cận thực tiễn: Đề tài được nghiên cứu gắn với thực tiễn xây dựng nhà
nước pháp quyền Việt Nam. Các luận cứ khoa học được nghiên cứu cả từ góc độ lý
luận và thông qua điều tra dư luận xã hội.
Tác giả đã vận dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, phương
pháp duy vật lịch sử và các phương pháp cụ thể như phân tích và tổng hợp, giải
thích, so sánh, tổng kết thực tiễn để lý giải các vấn đề đã được đặt ra
1.5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là công trình nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc về mối quan hệ
giữa pháp luật và đạo đức trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam
hiện nay. Luận án có những đóng góp mới về khoa học sau đây:
- Một là, phân tích toàn diện, sâu sắc vai trò của đạo đức, pháp luật trong đời sống
xã hội. Với cách nhìn mới, luận án đã góp phần hoàn thiện lý luận về vai trò của

pháp luật và đạo đức trong đời sống xã hội.
- Hai là, xây dựng được khái niệm quan hệ giữa pháp luật và đạo đức; phân tích sâu
sắc bản chất, hình thức, phương pháp thể hiện và xu hướng vận động của mối quan
hệ giữa chúng.
- Ba là, luận giải những ảnh hưởng của việc xây dựng nhà nước pháp quyền đến
mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức ở Việt Nam cũng như chỉ rõ những đặc điểm
cơ bản của mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong điều kiện xây dựng nhà
nước pháp quyền Việt Nam hiện nay.
- Bốn là, phân tích một cách sâu sắc và toàn diện những thành tựu cũng như hạn
chế của mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức ở nước ta hiện nay. Luận án là công
trình quán xuyến toàn bộ thực trạng quan hệ giữa pháp luật và đạo đức ở nước ta
hiện nay.
- Năm là, đề xuất được những quan điểm cơ bản chỉ đạo việc kết hợp pháp luật và
đạo đức, cũng như những giải pháp rất thiết thực và khả thi nhằm kết hợp chặt chẽ
pháp luật và đạo đức để quản lý xã hội trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp
quyền Việt Nam. Các giải pháp được đề xuất không chỉ có ý nghĩa trong giai đoạn
hiện nay mà còn có ý nghĩa sâu sắc về lâu dài như: đổi mới nhận thức vai trò của
pháp luật và đạo đức; tiếp thu kinh nghiệm của dân tộc và các nước; đổi mới tư duy
xây dựng pháp luật; thay đổi tư duy về một số biện pháp chế tài; coi trọng việc xây
dựng chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp; lồng ghép giáo dục pháp luật, đạo đức trong
gia đình, nhà trường; tăng cường công tác hòa giải ở cơ sở; coi trọng khía cạnh giáo
dục cải tạo khi áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước…
1.6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần bổ sung, hoàn thiện và làm sâu sắc
những vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, qua đó góp phần
17

phát triển, hoàn thiện những tri thức lý luận về nhà nước pháp luật nói riêng, Luật
học, Đạo đức học nói chung
Luận án là tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà nghiên cứu và giảng dạy

khoa học pháp lý cũng như các nhà hoạt động thực tiễn.
Các giải pháp mà luận án đề xuất góp phần hoàn thiện chính sách về kế thừa
và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc trong quản lý xã hội trong
điều kiện hiện nay. Nó cũng góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật, trọng tâm là
pháp luật về các lĩnh vực hôn nhân, gia đình, dân sự, hình sự, văn hóa, xã hội, cán
bộ, công chức, viên chức
Các giải pháp mà luận án đưa ra có giá trị tham khảo đối với các cơ quan có
thẩm quyền trong quá trình tổ chức thực hiện, bảo vệ pháp luật.
1.7. Kết cấu của luận án
Luận án được kết cấu 5 chương:
Chương 1: Tổng quan về đề tài
Chương 2: Đạo đức và pháp luật - những công cụ quan trọng trong điều
chỉnh quan hệ xã hội
Chương 3: Những vấn đề lý luận cơ bản về quan hệ giữa pháp luật và đạo
đức trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
Chương 4: Thực trạng quan hệ giữa pháp luật và đạo đức ở Việt Nam hiện
nay
Chương 5: Quan điểm, giải pháp kết hợp pháp luật với đạo đức nhằm nâng
cao hiệu quả điều chỉnh quan hệ xã hội trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam hiện nay

18

Chƣơng 2
ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT - NHỮNG CÔNG CỤ QUAN TRỌNG
TRONG ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ XÃ HỘI
Để quản lý các mặt khác nhau của đời sống xã hội, có nhiều công cụ khác
nhau như pháp luật, đạo đức, phong tục tập quán, tín điều tôn giáo, lệ làng, hương
ước, qui tắc của các cộng đồng dân cư, tổ chức xã hội… Trong đó, pháp luật và đạo
đức là những công cụ quan trọng nhất, nó không chỉ điều chỉnh hầu hết các quan hệ

xã hội cơ bản, quan trọng, chủ yếu của đời sống xã hội mà còn có tác động mạnh
mẽ đến cả các công cụ điều chỉnh khác. Để tìm hiểu mối quan hệ giữa pháp luật với
đạo đức, trước hết cần làm sáng tỏ vai trò của từng yếu tố trong đời sống xã hội.
2.1. Pháp luật và vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội
Pháp luật đã xuất hiện và tồn tại trong đời sống xã hội từ hàng nghìn năm,
tuy nhiên, qua các thời kỳ lịch sử, do điều kiện, hoàn cảnh, năng lực nhận thức, nhu
cầu, mục đích, lợi ích… khác nhau, nên nhận thức về pháp luật không hoàn toàn
thống nhất.
Trong lịch sử, trên thế giới đã từng tồn tại nhiều trường phái quan điểm khác
nhau về pháp luật như trường phái pháp luật tự nhiên, trường phái pháp luật thực
định, trường phái xã hội học pháp luật… Bên cạnh những luận điểm hợp lý, có giá
trị, các trường phái này đều chưa thoát khỏi những vướng mắc, hạn chế nhất định.
Cũng như ở các nước trên thế giới, ở Việt Nam hiện nay, pháp luật được hiểu theo
nhiều nghĩa khác nhau. Theo nghĩa hẹp, pháp luật thường được hiểu là hệ thống qui
tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan
hệ xã hội [113, tr.66; 51, tr.288]. Đây là cách hiểu đã trở thành truyền thống và hết
sức phổ biến trong các cơ sở đào tạo, nghiên cứu luật học ở Việt Nam cho đến thời
điểm hiện nay. Mở rộng hơn, pháp luật được hiểu là “tổng thể các qui tắc xử sự và
các nguyên tắc, định hướng, mục đích pháp luật, do các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của nhà nước và phản ánh
những nhu cầu xã hội khách quan, điển hình, phổ biến để điều chỉnh các quan hệ xã
hội trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội” [102, tr.11]. Như vậy, theo những
cách hiểu này, pháp luật được hiểu đồng nhất với pháp luật thực định, pháp luật đó
là những gì do nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội, quản lý xã hội.
Tuy nhiên, “pháp luật hiện hành (thực định) chỉ là một phần và thường là xơ cứng;
hoạt động của các nhà lập pháp và của thẩm phán cũng là những sự kiện xã hội và
án lệ là một bộ phận quan trọng của pháp luật” [102, tr.6].
19

Thiết nghĩ, trong điều kiện ngày nay, nghiên cứu về pháp luật cần phải tiếp

cận theo hướng mở, tức là, chắt lọc, kế thừa những hạt nhân hợp lý của tất cả các lý
thuyết về pháp luật trong lịch sử. “Cần chú trọng pháp luật thực định, pháp luật
phải phù hợp lý trí, công bằng, với các quyền tự nhiên của con người, pháp luật
phải được kiểm nghiệm từ trong thực tiễn, đồng thời cũng nên luôn hướng tới pháp
luật lý tưởng” [92, tr.10]. Nói một cách cụ thể hơn, khi nghiên cứu và tìm hiểu pháp
luật, không chỉ đóng khung trong hệ thống pháp luật thực định của nhà nước, mà
cần phải “nghiên cứu đánh giá cả đầu vào, đầu ra, cả pháp luật ở trạng thái tĩnh và
trạng thái động của pháp luật” [92, tr.11]. Bởi lẽ, “pháp luật tồn tại và phát triển
trên cả ba lĩnh vực: hệ thống qui phạm pháp luật, tư tưởng pháp luật, ý thức pháp
luật và văn hóa pháp luật, thực tiễn pháp luật (trong các hình thức thực hiện pháp
luật, các quan hệ pháp luật…)” [92, tr.11; 121, tr.294-297]. Tiếp cận theo cách này,
pháp luật được nhìn nhận một cách sống động, từ hiện thực của cuộc sống, thông
qua hoạt động của nhà lập pháp, pháp luật được hình thành, chúng được thể hiện
trong những hình thức xác định, và từ trong những hình thức đó, chúng lại đi vào
thực tiễn đời sống thông qua hành vi của con người. Tóm lại, pháp luật cần được
nhận thức cả từ góc độ ý thức (ý thức pháp luật), cả từ góc độ thể chế (hệ thống
pháp luật thực định), cả từ góc độ thực tiễn (việc thực hiện và áp dụng pháp luật).
Mặc dù có thể được quan niệm một cách khác nhau qua các thời đại, các khu
vực, các dân tộc, nhưng nhìn chung, pháp luật vẫn luôn được xác định là công cụ
không thể thiếu, công cụ quan trọng nhất, có hiệu quả nhất để điều chỉnh hành vi
con người trong các mối quan hệ xã hội, tổ chức và quản lý đời sống xã hội.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, sự ra đời, tồn tại của pháp luật
trong đời sống xã hội là một tất yếu khách quan. Trong điều kiện mông muội, dã
man của xã hội nguyên thủy, người ta tiến hành sản xuất kiếm ăn chung và phân
phối bình quân, lợi ích của mọi người là hoàn toàn như nhau, xã hội không có kẻ
giàu, người nghèo. Để quản lý một xã hội có sự đồng nhất về mặt lợi ích như thế,
con người đã biết đến đạo đức, phong tục tập quán, các tín điều tôn giáo… Khi xã
hội phát triển lên một trình độ cao hơn, chế độ sở hữu tư nhân xuất hiện, xã hội
phân hóa thành kẻ giàu, người nghèo, lợi ích của các thành viên trong xã hội trở nên
khác nhau, thậm chí đối lập nhau, sự tranh giành quyền lợi vì thế là một điều khó có

thể tránh khỏi. Xã hội trở thành bấn loạn, đạo đức, phong tục tập quán, tín điều tôn
giáo… không còn phát huy vai trò giữ gìn ổn định, trật tự xã hội như trước kia.
Trong bối cảnh đó, pháp luật với những ưu thế riêng có của nó đã từng bước xuất
hiện, đáp ứng được những đòi hỏi của xã hội. Pháp luật xuất hiện một cách hoàn
20

toàn khách quan, sự ra đời của pháp luật hoàn toàn là một quá trình lịch sử tự nhiên.
Nó ra đời và tồn tại là do yêu cầu, đòi hỏi tự thân của đời sống xã hội, khi xã hội đã
vượt qua thời đại mông muội, dã man, bước vào thời đại văn minh. Sự ra đời và tồn
tại của pháp luật trong điều kiện đạo đức, phong tục tập quán, các qui phạm xã hội
khác vẫn song song tồn tại, điều đó chứng tỏ sự cần thiết của nó đối với đời sống xã
hội, chứng tỏ pháp luật là công cụ không thể thiếu [26, tr.7], công cụ quan trọng
nhất trong quản lý xã hội. Đặc biệt, trong điều kiện đời sống xã hội ngày càng trở
nên phức tạp, các mối quan hệ xã hội ngày càng trở nên đa dạng thì sự tồn tại của
pháp luật càng trở nên cần thiết, tất yếu. “Một nhà nước không thể để một ngày
không có pháp luật” [72, tr.159], bởi vì, nếu tình trạng không có pháp luật xảy ra,
chắc chắn xã hội sẽ trở thành hỗn loạn.
Với tính cách là công cụ điều chỉnh hành vi con người, điều chỉnh các mối
quan hệ xã hội, quản lý xã hội, pháp luật thể hiện những vai trò nổi bật sau đây:
Một là, pháp luật là công cụ để thiết lập và tăng cường quyền lực nhà nước,
công cụ tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước.
Trước hết, pháp luật tạo lập cơ sở pháp lý vững chắc cho sự tồn tại của nhà
nước. Sự hợp pháp tạo ra cho chính quyền một sự “chính danh”, tạo ra thế và lực
cho nhà nước, tạo cho nhà nước tư cách và khả năng cai quản xã hội. Sự hợp pháp
không chỉ có ý nghĩa đối với bản thân chính quyền mà còn có ý nghĩa chi phối
mạnh mẽ đối với cả những lực lượng chống đối chính quyền, nhiều khi nó còn có
khả năng ngăn cản các âm mưu chính biến. Bởi vì, chính quyền giành được bằng
các biện pháp trái pháp luật là không “chính danh”, một khi “danh bất chính” sẽ dẫn
đến “ngôn bất thuận”, chính quyền đó khó có thể đủ tư cách cai quản xã hội. Chính
vì vậy, ngay từ hàng nghìn năm trước, các chính quyền nhà nước cho dù được tạo

nên bằng con đường nào thì sự tồn tại của nó đều cần đến một sự hợp pháp. Trong
lời nói đầu của bộ luật mang tên mình, vua Hammurabi đã dõng dạc khẳng định:
“Thần Mácđúc ra lệnh cho trẫm thống trị muôn dân” [79, tr.302-303]. Các vị
hoàng đế phong kiến Trung Quốc khi ban hành pháp luật đều viện dẫn đến mệnh
trời: “phụng thiên thừa vận”. Trong điều kiện của xã hội dân chủ, nhà nước là do
nhân dân thiết lập ra, “các chính phủ phải được thành lập gồm những người lấy
nguồn gốc quyền lực chính đáng của mình từ sự nhất trí của nhân dân”, “thay mặt
và được sự ủy quyền của những người dân lương thiện” [38, tr.9,14], sự tồn tại và
hoạt động của nhà nước phải trên cơ sở và trong khuôn khổ của hiến pháp, văn bản
thể hiện tập trung ý chí của nhân dân. Ngày nay, trên thực tế, sau những cuộc đấu
tranh giành chính quyền, lực lượng nào giành được chính quyền cũng luôn tìm cách
21

hợp pháp hóa sự tồn tại của chính quyền đó bằng cách tổ chức bầu cử quốc hội,
soạn thảo hiến pháp và tổ chức bộ máy nhà nước trên cơ sở của hiến pháp.
Pháp luật là công cụ bảo vệ nhà nước trước sự phản kháng, chống đối của
các thế lực thù địch. Theo Lênin, “chính quyền là thiên đường”, vì vậy, các lực
lượng không cầm quyền luôn tìm đủ mọi cách hòng lật đổ chính quyền đương thời,
giành chính quyền về tay mình. Sự chống đối ấy có lúc bùng lên một cách dữ dội,
có lúc lại âm ỷ chờ thời. Trong điều kiện đó, pháp luật là công cụ sắc bén để nhà
nước tự bảo vệ mình. Pháp luật là công cụ của giai cấp cầm quyền chống lại sự
phản kháng, chống đối của các lực lượng đối lập, thù địch, đảm bảo cho sự tồn tại
vững chắc của chính quyền. Pháp luật là công cụ để ngăn chặn các hành vi coi
thường chính quyền, làm suy giảm uy tín và sức mạnh của chính quyền, chống đối,
nhằm lật đổ chính quyền. Nhờ có pháp luật, nhà nước được bảo vệ an toàn, tính tôn
nghiêm của chính quyền được nâng cao. Nhờ có pháp luật, các nhân viên nhà nước
được sống, làm việc trong môi trường an toàn, trật tự, tạo tiền đề để thực hiện tốt
chức năng tổ chức và quản lý các mặt của đời sống xã hội. Chính vì vậy, nhìn chung
pháp luật của các nhà nước đều qui định các tội chống chính quyền, nhằm lật đổ
chính quyền là một trong những tội phạm nguy hiểm nhất, bị trừng trị nghiêm khắc

nhất.
Pháp luật là cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Để bộ máy nhà nước hoạt động nhịp nhàng, đồng bộ, có hiệu lực, hiệu quả thì nó
cần phải được tổ chức và hoạt động trên cơ sở của pháp luật và trong khuôn khổ của
pháp luật. Có thể nói, pháp luật là công cụ quan trọng nhất để tổ chức bộ máy nhà
nước, qui định con đường hình thành, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ quyền
hạn của các cơ quan, nhân viên nhà nước, xác lập mối quan hệ công tác giữa các cơ
quan, nhân viên nhà nước với nhau, giữa cơ quan, nhân viên nhà nước với các cá
nhân, tổ chức trong xã hội… Nhờ có pháp luật, việc tổ chức bộ máy nhà nước trở
nên khoa học, bộ máy nhà nước trở nên nhịp nhàng, đồng bộ, tránh được sự chồng
chéo, trùng lặp hoặc bỏ trống trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Đồng thời, pháp luật là công cụ để nhà nước tổ chức và quản lý các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội. Quản lý xã hội là công việc khó khăn, phức tạp, đòi
hỏi phải được thực hiện trên cơ sở một hệ thống thể chế rõ ràng, minh bạch. Dưới
góc độ này, pháp luật thiết lập khuôn khổ, giới hạn cho hoạt động của bộ máy nhà
nước, thiết lập hình thức, phương pháp, nguyên tắc, cách thức hoạt động, giúp cho
các cơ quan, nhân viên nhà nước thực hiện chức năng quản lý xã hội một cách dễ
dàng, có hiệu quả.
22

Pháp luật là cơ sở để xây dựng bộ máy công chức, viên chức, nhân viên nhà
nước “vừa hồng, vừa chuyên”. Bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh là ở đội
ngũ nhân viên nhà nước trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất tốt, có năng lực, có
kinh nghiệm, tinh thông nghiệp vụ. Bằng các qui định cụ thể, pháp luật xác định rõ
quyền hạn và trách nhiệm của mỗi cán bộ, nhân viên nhà nước, xác định rõ nghĩa
vụ, bổn phận của họ. Qua đó, pháp luật thể hiện vai trò quan trọng trong việc giáo
dục ý thức trách nhiệm, tinh thần, thái độ của đội ngũ cán bộ, nhân viên nhà nước
trong quá trình thực thi công vụ. Pháp luật là cơ sở để mỗi cán bộ, nhân viên nhà
nước rèn luyện ý thức pháp luật, xây dựng lối sống theo pháp luật, ý thức thượng
tôn pháp luật, tinh thần “phụng công thủ pháp”. Mặt khác, pháp luật là động lực

mạnh mẽ thúc đẩy các nhân viên nhà nước nỗ lực học tập, hoàn thiện và nâng cao
tri thức pháp luật, tri thức chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của
công việc trong cương vị được giao đảm trách.
Pháp luật là công cụ quan trọng để kiểm soát quyền lực nhà nước. Theo
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhà nước là một thiết chế phải có và hết sức
cần thiết trong xã hội có sự phân chia giai cấp. “Nhà nước là rất cần thiết cho cuộc
sống của con người. Cho đến hiện nay và một tương lai cho cả sau này con người
không thể sống thiếu nhà nước, trong một trạng thái vô chính phủ, ít nhất là cho
đến khi xây dựng xong chủ nghĩa cộng sản” [10, tr.25]. Thomas Hopbes, nhà triết
học nổi tiếng của Anh thế kỷ thứ 17 đã viết “Cuộc sống mà không có nhà nước hiệu
lực để duy trì trật tự thì rất đơn độc, nghèo nàn, đồi bại, tàn bạo và ngắn ngủi”,
ông khẳng định, trong trạng thái tự nhiên không có nhà nước con người rơi vào
trạng thái hỗn loạn, đó là một “cuộc chiến con người chống lại con người”. Tuy
nhiên, “chúng ta cũng cần phải nhận ra rằng nhà nước luôn luôn có xu hướng lạm
quyền” [10, tr.25], xâm phạm các quyền con người, các giá trị con người, điều mà
Mác gọi là sự tha hóa của nhà nước. “Tham nhũng, độc tài, chuyên chế trở thành
những bệnh chung của mọi xã hội có nhà nước” [10, tr.25]. Chính vì vậy, kiểm soát
và hạn chế quyền lực nhà nước là một tất yếu của cuộc sống. Có nhiều công cụ,
phương tiện để thực hiện việc kiểm soát và hạn chế quyền lực nhà nước, trong đó
pháp luật là công cụ, phương tiện quan trọng bậc nhất. Pháp luật qui định sự phân
công, phân cấp giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Nói cách khác, pháp luật
qui định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan, nhân viên nhà nước. Một
cơ quan không thể làm tất cả mọi việc cho dù đó là cơ quan tối cao. Nhờ có các qui
định cụ thể trong pháp luật, các cơ quan, nhân viên nhà nước xác định được một
cách rõ ràng quyền hạn và trách nhiệm của mình, nắm bắt được hình thức, phương
23

pháp, trình tự thủ tục tiến hành hoạt động. Thông qua pháp luật, các cơ quan, nhân
viên nhà nước biết được một cách rõ ràng trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể, họ được
làm gì, không được làm gì, phải làm gì, phải làm như thế nào… Thiết nghĩ, ở nước

ta tư tưởng các cơ quan, nhân viên công quyền chỉ được làm những gì mà pháp luật
cho phép cần phải được thể chế hóa thành một nguyên tắc pháp luật. Thông qua
pháp luật, có thể dễ dàng kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan, nhân viên
nhà nước, xác định được tính chất hợp pháp, bất hợp pháp trong hành vi của họ.
Pháp luật qui định chế độ kiểm tra, giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan trong bộ
máy nhà nước. Pháp luật qui định vai trò của công dân và các thiết chế xã hội trong
việc kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhân viên nhà nước… Pháp luật qui
định quyền tham gia quản lý nhà nước của công dân, quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí, miting, biểu tình, lập hội…, quyền khiếu nại, tố cáo những hành vi lạm
quyền, xâm hại quyền lợi của nhân dân. Pháp luật qui định chế độ trách nhiệm giữa
các cơ quan nhà nước với nhau cũng như giữa chúng với nhân dân. Pháp luật qui
định các biện pháp chế tài nghiêm khắc đối với hành vi lạm quyền, tha hóa… của
các cơ quan, nhân viên công quyền. Dựa vào pháp luật có thể đánh giá khả năng
hoàn thành nhiệm vụ, qui kết tình trạng trốn tránh trách nhiệm, thoái thác nhiệm vụ
hay lạm quyền, vượt quyền trong hành vi của nhà chức trách, nhờ đó có điều kiện
để ngăn chặn, giảm thiểu, xóa bỏ những hiện tượng này. Pháp luật qui định thời
gian nắm giữ quyền hạn, chức vụ; pháp luật qui định điều kiện tuyển dụng, phẩm
chất tư cách của nhân viên nhà nước, chế độ thi cử, thăng, giáng, khảo hạch, thuyên
chuyển, điều động… đối với họ. Như vậy, một mặt, pháp luật tạo nên khung pháp
lý, hành lang pháp lý cho tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, mặt khác,
pháp luật là công cụ quan trọng để giới hạn và kiểm soát quyền lực nhà nước.
Hai là, pháp luật là khuôn mẫu ứng xử của mọi cá nhân, tổ chức trong xã
hội.
Con người, trong đời sống xã hội luôn có những nhu cầu, lợi ích, mục đích
nhất định. Để thoả mãn nhu cầu, lợi ích của mình, mỗi chủ thể có những phương
pháp, cách thức riêng. Trong cùng một điều kiện hoàn cảnh, các chủ thể xử sự
không giống nhau, trong đó có những xử sự phù hợp với yêu cầu của xã hội, nhưng
cũng có những xử sự làm tổn hại tới lợi ích của chủ thể khác, đi ngược lại mong
muốn chung của cộng đồng, gây mất ổn định, trật tự xã hội. Chính vì vậy, để xã hội
tồn tại trong ổn định, trật tự, các quyền, lợi ích của các thành viên trong cộng đồng

được bảo đảm và bảo vệ, đòi hỏi xử sự của mỗi người phải dựa trên những chuẩn
24

mực nhất định, theo những khuôn mẫu nhất định. Có nhiều loại chuẩn mực cho
hành vi con người, trong đó pháp luật là một loại chuẩn mực quan trọng.
Khi xã hội phân chia thành giai cấp, pháp luật ra đời và trở thành loại qui tắc
xử sự phổ biến trong xã hội, qui tắc ứng xử của mọi thành viên trong xã hội, qui tắc
sinh hoạt công cộng trong đời sống hàng ngày. Nó mô hình hóa các quan hệ xã hội
thành các khuôn mẫu, chuẩn mực cho hành vi ứng xử của con người, để họ bắt
chước làm theo khi ở trong điều kiện hoàn cảnh nhất định. Nó “vạch ra những hình
thức nhất định của hành vi”, “định hướng hành vi của cá nhân hay nhóm xã hội
trong những điều kiện nhất định”; nó “qui định những mục tiêu cơ bản, những giới
hạn, những điều kiện và những hình thức ứng xử trong những lĩnh vực quan trọng
nhất của đời sống” [119, tr.106,107]. Pháp luật như là “hành lang”, “đường biên”
cho ứng xử của con người, nó “nói lên giới hạn cần thiết mà nhà nước qui định để
mọi người (chủ thể) có thể xử sự một cách tự do trong khuôn khổ cho phép” [113,
tr.71]. Nhờ có pháp luật, các thành viên trong xã hội nắm bắt được những hành vi
nào là hợp pháp, được khuyến khích, hành vi nào là bắt buộc, hành vi nào bị ngăn
cấm để từ đó có cách ứng xử phù hợp khi bắt gặp một tình huống cụ thể nào đó.
Dưới góc độ xã hội, có thể nói, pháp luật là kết quả của sự “chọn lọc” và “đào thải”
một cách tự nhiên các cách xử sự trong xã hội, trải qua bao biến cố xã hội, bỏ qua
và vượt lên những yếu tố ngẫu nhiên, không hợp lý, để giữ lại những cách xử sự
phổ biến, hợp lý, khách quan [50, tr.214].
Ba là, pháp luật có vai trò giáo dục mạnh mẽ
Có thể khẳng định rằng, pháp luật là sự thể chế hóa, là kênh truyền tải chính
thức chủ trương, đường lối chính sách của lực lượng cầm quyền đến toàn xã hội.
Thông qua pháp luật, giai cấp cầm quyền truyền bá mang tính áp đặt các quan điểm,
chủ trương, đường lối của mình lên toàn xã hội, bắt toàn thể xã hội phải phục tùng
quan điểm, đường lối đó. Như vậy, pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất để thực hiện
quyền lực tư tưởng của giai cấp cầm quyền đối với toàn xã hội.

Với tính chất công khai của mình, một khi pháp luật đã được công bố, bắt
buộc các thành viên trong xã hội phải nắm bắt được chúng. Mặt khác, chính yêu cầu
của đời sống buộc con người phải có những tri thức nhất định về pháp luật, đồng
thời nhờ tham gia vào đời sống mà con người dần dần tích lũy được các tri thức
pháp luật. Vì vậy, có thể nói rằng, pháp luật vừa là cơ sở, vừa là động lực, vừa là
mục đích của nhận thức pháp luật. Với tính cách là hệ thống qui tắc xử sự, pháp luật
cung cấp cho chủ thể tri thức về cách thức ứng xử khi họ ở trong hoàn cảnh, tình
huống nào đó. Thông qua các qui định trong pháp luật hiện hành, các cá nhân, tổ
25

chức trong xã hội biết mình được làm gì, không được làm gì, phải làm gì, phải làm
như thế nào, hậu quả phải gánh chịu như thế nào khi làm trái điều đó. Thông qua
pháp luật, thông qua hoạt động thực tiễn, thông qua giao tiếp hàng ngày, người ta
biết được như thế nào là hợp pháp, như thế nào là trái pháp luật. Nói cách khác, hệ
thống pháp luật thực định là chất liệu cũng như nội dung quan trọng của tri thức
pháp luật.
Pháp luật là cơ sở hình thành ý thức tuân thủ pháp luật, thái độ tôn trọng
pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật. Bằng việc qui định các biện pháp cưỡng
chế nhà nước, pháp luật tạo ra một “chướng ngại vật” có sức cản trở mạnh mẽ đối
với những chủ thể thực hiện pháp luật không nghiêm chỉnh. Qua đó, pháp luật tạo ra
động lực thúc đẩy việc hình thành thói quen suy nghĩ và hành động hợp pháp, hình
thành lối sống theo pháp luật ở mỗi người. Tất nhiên, “ý nghĩa giáo dục còn thể
hiện ở việc pháp luật qui định những hình thức và mức độ khen thưởng, khuyến
khích vật chất và tinh thần đối với những thành viên có nhiều cống hiến cho nhà
nước và xã hội” [113, tr.345].
Như vậy, bản thân pháp luật tự nó có vai trò giáo dục, hoạt động giáo dục
pháp luật chẳng qua chỉ là nhằm phát huy và làm sâu sắc thêm ý nghĩa giáo dục vốn
có của pháp luật mà thôi. Chính nhờ vai trò này mà bản thân pháp luật, trong nhiều
trường hợp có được sự tuân thủ khá nghiêm chỉnh, bởi vậy, vai trò giáo dục của
pháp luật có ý nghĩa to lớn.

Bốn là, pháp luật điều tiết và định hướng sự phát triển của các quan hệ xã
hội.
Đây là một vai trò hết sức quan trọng của pháp luật. Có thể nói, pháp luật
sinh ra là để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, tuy nhiên, nó không điều chỉnh tất
cả các mối quan hệ xã hội. Pháp luật chỉ điều chỉnh những quan hệ xã hội cơ bản,
điển hình, phổ biến. Sự điều chỉnh bằng pháp luật đối với các quan hệ xã hội nhằm
đảm bảo cho chúng diễn ra trong vòng “trật tự” [66, tr.260], theo mục đích, định
hướng của nhà nước. Bằng pháp luật, nhà nước thể hiện một cách chính thức quan
điểm của mình về sự khẳng định hay phủ định đối với các quan hệ xã hội cụ thể.
Đời sống xã hội vốn có qui luật tự nhiên của nó, trong tính chất tự nhiên của
cuộc sống, luôn bao hàm hiện tượng tự phát, sự bắt chước, thói tùy tiện, sự vô
nguyên tắc, tình trạng kẻ mạnh hà hiếp kẻ yếu, cá lớn nuốt cá bé… Chính vì vậy, xã
hội cần có pháp luật để đưa các quan hệ xã hội vào những khuôn khổ, trật tự và
định hướng sự phát triển cho chúng. Đúng như Giáo sư Đào Trí Úc quan niệm
[122], cuộc sống như dòng chảy tự nhiên, còn pháp luật như hai bờ của dòng chảy

×