Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




CAO THỊ NGA




V¡N HãA PH¸P LUËT CñA THÈM PH¸N
TRONG LÜNH VùC Tè TôNG HµNH CHÝNH


Chuyên ngành: L lun v lch s nh nƣớc v php lut
Mã số: 60 38 01 01



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. LS. NGUYỄN THANH BÌNH




HÀ NỘI - 2014





LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN



Cao Th Nga


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA PHÁP
LUẬT CỦA THẨM PHÁN TRONG LĨNH VỰC TỐ TỤNG
HÀNH CHÍNH 7

1.1. Cc khi niệm liên quan về văn hóa php lut trong lĩnh vực
tố tụng hnh chính 7
1.1.1. Khái niệm Văn hóa và Văn hóa pháp luật 7
1.1.2. Khái niệm văn hóa pháp luật trong lĩnh vực tố tụng hành chính 14
1.2. Khi niệm văn hóa php lut của thẩm phn trong lĩnh vực
tố tụng hnh chính 17
1.2.1. Một số quan niệm 17
1.2.2. Định nghĩa 19
1.3. Nội dung văn hóa php lut của thẩm phn trong lĩnh vực tố
tụng hnh chính 21
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VĂN HÓA PHÁP LUẬT CỦA THẨM
PHÁN TRONG LĨNH VỰC TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH 28
2.1. Tình hình văn hóa php lut của thẩm phn trong qu trình
tiến hnh tố tụng giải quyết cc khiếu kiện hnh chính 28
2.2. Thực trạng cc chuẩn mực văn hóa php lut của thẩm phn
theo quy đnh hiện hnh của Lut tố tụng hnh chính 35
2.3. Thực trạng cc gi tr văn hóa vt thể v phi vt thể về văn hóa
php lut của thẩm phn trong lĩnh vực tố tụng hnh chính 49

2.3.1. Thực trạng các giá trị văn hóa phi vật thể của thẩm phán về văn
hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính 49
2.3.2. Thực trạng các giá trị văn hóa vật thể văn hóa pháp luật của
thẩm phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính 55
2.3.3. Thực trạng bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa vật thể và phi
vật thể của văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực tố tụng
hành chính 58
2.4. Thực trạng công tc xây dựng đội ngũ Thẩm phn Tòa n 63
2.4.1. Công tác tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán 63
2.4.2. Công tác xây dựng đội ngũ Thẩm phán và đào tạo, bồi dưỡng
Thẩm phán 66

2.4.3. Công tác quản lý Thẩm phán 67
2.4.4. Công tác thực hiện chế độ, chính sách đối với đội ngũ Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao 69
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ CÁC BIỆN PHÁP NHẰM PHÁT
HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA PHÁP LUẬT CỦA THẨM
PHÁN TRONG LĨNH VỰC TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH 71
3.2. Phương hướng phát huy các giá trị của văn hóa pháp luật của
thẩm phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính 73
3.2.1. Xây dựng môi trường văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh
tố tụng hành chính theo hướng lành mạnh, phong phú, đa dạng 78
3.2.2. Phát huy các di sản văn hóa truyền thống cách mạng của văn hóa
pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính 80
3.2.3. Phát triển hệ thống thông tin đại chúng 81
3.2.4. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về văn hóa pháp
luật của thẩm phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính 82
3.3. Các giải pháp nâng cao các giá trị văn hóa pháp luật của thẩm
phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính 83
KẾT LUẬN 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 92




DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


BCHTW: Ban Chấp hành Trung ương
ĐCSVN: Đảng Cộng sản Việt Nam
HĐXX: Hội đồng xét xử
HVTP: Học viện tư pháp

TTHC: Tố tụng hành chính
XHCN: Xã hội chủ nghĩa


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề ti
Cải cách và hoàn thiện nền tư pháp quốc gia trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân là một chủ trương lớn
của Đảng và Nhà nước ta. Một nền tư pháp hiện đại, trong sạch, vững mạnh là
mục tiêu chiến lược mang tính tất yếu khách quan. Mục tiêu đó được đặt ra
luôn phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội của đất nước.
Chủ trương và mục tiêu trên đã được xác định ngày càng rõ nét kể từ
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), đặc biệt được nhấn mạnh tại các
Nghị quyết 08/2002 và Nghị quyết 49/2005 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành
Trung ương ĐCSVN (Khóa X) và tiếp tục được khẳng định một cách đầy đủ
và toàn diện hơn tại Đại hội Đại biểu toàn quốc khóa XI của Đảng ta.
Nền tư pháp quốc gia gồm nhiều nội dung, yếu tố cấu thành, song đáng
chú ý và tập trung nhất là các thành tố sau:
1. Hệ thống pháp luật;
2. Thiết chế và cơ chế về tổ chức, hoạt động tư pháp;
3. Văn hóa pháp luật, trong đó có văn hóa pháp luật của thẩm phán
trong lĩnh vực tố tụng hành chính.
Văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính là
tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần gắn với hoạt động của Thẩm phán
trong lĩnh vực tư pháp về TTHC; là sự phản ánh đời sống tinh thần, trình độ,
năng lực, tri thức, kiến thức, thẩm mỹ… của người Thẩm phán trong lĩnh vực
TTHC. Trong các lĩnh vực văn hóa pháp luật ở nước ta thì văn hóa pháp luật
trong lĩnh vực tố tụng hành chính chỉ mới được hình thành trong khoảng hơn

15 năm trở lại đây.
Bên cạnh những giá trị đích thực với các nấc thang chuẩn mực giá trị
ngày càng được củng cố và nâng cao thì văn hóa pháp luật của thẩm phán


2
trong lĩnh vực tố tụng hành chính vẫn còn nhiều biểu hiện hạn chế và nhiều
thách thức lớn, đòi hỏi phải có sự nỗ lực phấn đấu với quyết tâm cao của
Đảng, Nhà nước và nhân dân, đặc biệt là nhân tố con người trực tiếp tham gia
vào quá trình tố tụng hành chính.
Như trên đã khẳng định, Văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh
vực TTHC là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần gắn với hoạt động
của Thẩm phán trong lĩnh vực tư pháp về TTHC; là sự phản ánh đời sống tinh
thần, trình độ, năng lực, tri thức, kiến thức, thẩm mỹ… của người Thẩm phán
trong lĩnh vực TTHC. Trong các quan hệ tố tụng này có 2 nhóm nhân tố quan
trọng có vai trò to lớn đến quá trình hình thành và xác định các chuẩn giá trị
văn hóa bao gồm:
1. Nhóm cơ quan và người tiến hành tố tụng (Tòa án, Viện Kiểm sát,
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư kí tòa án );
2. Nhóm các tổ chức, cá nhân tham gia tố tụng (các đương sự, những
người tham gia tố tụng khác ).
Ngoài ra còn có các nhóm nhân tố khác như:
1. Nhóm vãn hoá của cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan;
2. Nhóm vãn hoá của công chúng (gồm cả cá nhân, tổ chức) liên quan;
3. Nhóm văn hoá của các nhóm xã hội khác tạo thành dư luận xã hội về
vụ án và giải quyết vụ án hành chính.
Những hành vi ứng xử thiếu khách quan, minh bạch, không tôn trọng
pháp luật, thiếu dân chủ bình đẳng, võ đoán, tiêu cực đều được coi là các
biểu hiện khác nhau của hiện tượng kém văn hóa, là nguy cơ trực tiếp cản trở
quá trình hình thành các chuẩn văn hóa, cản trở quá trình cải cách và hoàn

thiện nền tư pháp trong sạch, vững mạnh. Kinh nghiệm thực tế đã chứng tỏ
rằng, công cuộc cải cách bộ máy nhà nước, dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã
hội, xây dựng nhà nước pháp quyền phải đi đôi với quá trình hoàn thiện hệ
thống pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN và nâng cao trình độ văn hóa


3
pháp luật cho các cá nhân. Cả ba nhân tố đó phải được tăng cường đồng bộ,
phát triển hài hòa thì công cuộc cải cách bộ máy nhà nước mới hiệu quả, dân
chủ hóa đi vào cuộc sống một cách lành mạnh, nhà nước pháp quyền mới
từng bước được xây dựng và phát triển, hoàn thiện.
Trước yêu cầu rất cần thiết và có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự
tiến bộ xã hội, việc nghiên cứu và xây dựng nền văn hóa pháp luật nói chung
và văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính nói
riêng, đã và đang đặt ra hàng loạt nhiệm vụ hết sức cấp thiết nhằm xây dựng,
củng cố và hoàn thiện các chân giá trị văn hóa pháp luật kể cả trong lĩnh vực
tố tụng hành chính. Để đáp ứng các yêu cầu nhiệm vụ trên đòi hỏi có nhiều
hoạt động tích cực khác nhau, trong đó có hoạt động nghiên cứu lý luận và
thực tiễn về tư pháp, văn hóa pháp luật, văn hóa pháp luật của thẩm phán
trong lĩnh vực tố tụng hành chính
Vì những lý do trên, tôi chọn đề tài “Văn hóa pháp luật của thẩm phán
trong lĩnh vực tố tụng hành chính” để thực hiện luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
2.1. Trên thế giới, việc nghiên cứu văn hóa pháp luật đã xuất hiện từ lâu
đời, được trình bày dưới nhiều hình thức công trình, tác phẩm khoa học khác
nhau; dưới nhiều góc độ cũng như phương pháp và cách thức tiếp cận khác
nhau và đều nằm chung trong kho tàng lý luận của loài người về văn hóa pháp
luật, văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính
2.2. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, tình hình nghiên cứu văn
hóa pháp luật ngày càng diễn ra sôi nổi dưới nhiều góc độ khác nhau. Các

công trình nghiên cứu về văn hóa pháp luật được tiếp cận dưới nhiều phương
pháp và cách thức khác nhau tùy vào các yêu cầu và nội dung nghiên cứu cụ
thể. Hình thức, đề tài và cấp độ nghiên cứu cũng ngày càng đa dạng, phong
phú. Thông qua những Tạp chí chuyên ngành như: Nghiên cứu lập pháp, Luật
học, Dân chủ và pháp luật, Nhà nước và pháp luật các tác giả đã bày tỏ quan


4
điểm cá nhân của mình xung quanh khái niệm, vai trò, và những biện pháp
nâng cao vấn đề văn hóa pháp luật. Cụ thể như sau:
- Văn hóa pháp luật (Cấp bộ) - Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp;
- Văn hóa pháp luật - Khoa Luật, Đại học quốc gia;
- Văn hóa và đạo đức thẩm phán - Khoa luật, Đại học quốc gia;
- Thẩm quyền xét xử vụ án hành chính - sự bảo đảm công lý trong quan
hệ giữa nhà nước với công dân - Tiến sỹ Nguyễn Thanh Bình, NXB Tư pháp;
- Tư pháp trong nhà nước pháp quyền – Giáo sư Tiến sỹ Nguyễn Đăng
Dung, NXB Đại học quốc gia
Đề tài Văn hóa pháp luật cũng được nghiên cứu trong nhiều công trình
khác được công bố trên một số Tạp chí chuyên ngành luật, luận văn, luận án,
khóa luận tốt nghiệp nghiên cứu.
3. Mục đích, đối tƣợng, mục tiêu v phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và
thực tiễn vấn đề văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực tố tụng hành
chính. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp nhằm xây dựng, củng cố và phát
huy các giá trị vật chất, tinh thần của văn hóa pháp luật của thẩm phán trong
lĩnh vực tố tụng hành chính ở nước ta.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn có đối tượng nghiên cứu là các yếu tố, thành tố; các nội dung,
các quan hệ văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính
3.3. Mục tiêu của đề tài

Thông qua việc hệ thống lý luận và phân tích thực tiễn văn hoá pháp
luật của thẩm phán trong tố tụng hành chính nhằm đưa ra giải pháp hình thành
và phát triển các giá trị văn hoá của thẩm phán trong tố tụng hành chính. Góp
phần cải cách, hoàn thiện nền tư pháp trong sạch vững mạnh, với nét văn hoá
tiên tiến, văn minh, đậm đà bản sắc dân tộc.


5
3.4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu các nội dung sau:
Cập nhật và phân tích các tri thức (quan niệm, quan điểm, khái niệm, kết
luận ) về văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính.
Có thể nói đây là nội dung quan trọng nhất tập hợp hệ thống cơ sở lý luận, các
kiến thức học thuật về văn hóa pháp luật trong lĩnh vực tố tụng hành chính. Với
ý nghĩa như vậy, phần này sẽ tập hợp, phân tích làm rõ các nội dung sau:
Thứ nhất, xây dựng và đưa ra cho được khái niệm “Văn hóa pháp luật
của thẩm phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính”. Để có được khái niệm này,
luận văn phải đưa ra được các cơ sở lý luận, nguyên tắc xác định khái niệm,
các yếu tố thuộc nội hàm của khái niệm, các yếu tố cấu thành khái niệm. Sau
khi đã đưa ra được định nghĩa khái niệm, một vấn đề hết sức cần thiết trình
bày các đặc điểm riêng của khái niệm để từ các chuẩn riêng này giúp chúng ta
xác định ranh giới giữa văn hóa pháp luật với văn hóa pháp luật của thẩm
phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính, đồng thời tạo sự khác biệt giữa văn
hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính với văn hóa
pháp luật của thẩm phán trong các lĩnh vực khác.
Đây chính là điểm mới và là nội dung chính có ý nghĩa lý luận của luận
văn. Nội dung này cũng được xem là một trong những nhiệm vụ chính mà
luận văn phải tập trung lý giải.
Thứ hai, sau khi đã có khái niệm, có căn cứ về mặt học thuật, luận văn
cần tập hợp và lý giải một cách có hệ thống các chuẩn giá trị của văn hóa

pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính. Các chuẩn này
vừa có ý nghĩa phổ quát vừa phản ánh nét đặc sắc của văn hóa dân tộc trong
lĩnh vực tố tụng hành chính Việt Nam.
Thứ ba, một nội dung quan trọng khác không thể thiếu đồng thời cũng
là một yêu cầu cơ bản của một luận văn Thạc sỹ là phải tập trung nghiên cứu
thực trạng, nghiên cứu mặt thực tiễn.


6
Thứ tư, từ kết quả đạt được của các nội dung trên, một phạm vi nghiên
cứu cơ bản quan trong nữa của luận văn là phải nghiên cứu và trình bày cho
được những phương hướng và các giải pháp nhằm xây dựng, hoàn thiện và
phát huy các chuẩn giá trị văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực tố
tụng hành chính ở nước ta.
4. Cơ sở l lun, cơ sở thực tiễn v phƣơng php nghiên cứu
Cơ sở lý luận nghiên cứu của đề tài là dựa trên các quan điểm của Chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương, chính sách của
Đảng về văn hóa, văn hóa pháp luật ; các tri thức khoa học có liên quan để
tiếp cận và nghiên cứu các nội dung văn hóa pháp luật và văn hóa pháp luật
của thẩm phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính. Cơ sở thực tiễn là toàn bộ
các hoạt động tố tụng hành chính của thẩm phán và người tiến hành tố tụng
khác, các cá nhân, tổ chức tham gia tố tụng trong lĩnh vực tố tụng hành chính.
Đề tài sẽ sử dụng các phương pháp sau để nghiên cứu:
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử;
- Phương pháp phân tích tổng hợp;
- Phương pháp lịch sử;
- Phương pháp so sánh;
- Phương pháp thống kê
5. Kết cấu lun văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

được bố trí và trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về văn hóa pháp luật của thẩm phán
trong lĩnh vực tố tụng hành chính
Chương 2: Thực trạng văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực
tố tụng hành chính
Chương 3: Phương hướng và các biện pháp nhằm phát huy các giá trị
văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính


7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA PHÁP LUẬT
CỦA THẨM PHÁN TRONG LĨNH VỰC TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH

1.1. Cc khi niệm liên quan về văn hóa php lut trong lĩnh vực tố
tụng hình chính
1.1.1. Khái niệm Văn hóa và Văn hóa pháp luật
Con người là từ tự nhiên mà ra, không thể tách khỏi tự nhiên để tồn tại
và phát triển. Văn hóa trước hết là một sự thích nghi chủ động và có ý thức
của con người với tự nhiên, đồng thời lại là sự phát triển của sự thích nghi ấy.
Với tính cách là một sinh vật, con người có một bản chất thứ nhất, đó là bản
chất tự nhiên. Nhưng với tính cách là một sinh vật có ý thức và sống thành xã
hội thì con người lại có bản chất thứ hai, đó là bản chất văn hóa, vượt ra khỏi
bản chất tự nhiên, điều này đưa đến quan niệm coi văn hóa là tự nhiên thứ hai
được hình thành và phát triển trên cơ sở tự nhiên thứ nhất tự tại: Là văn hóa,
những gì không phải tự nhiên.
Văn hóa là khái niệm có nội hàm rộng lớn, có thể tiếp cận dưới nhiều
góc độ khác nhau. Có nhiều định nghĩa về văn hóa đã được các học giả đề cập
và phân tích trong các công trình nghiên cứu của mình. Chủ tịch Hồ Chí
Minh, từ năm 1942, đã đưa ra một định nghĩa về văn hóa:

Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người
mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp
luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó là văn hóa. Văn hóa là sự
tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó
mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời
sống và đòi hỏi của sự tinh tồn [12, tr.431, T.3].


8
Cách định nghĩa văn hóa này là khá toàn diện, thể hiện được sự nguồn
gốc, chức năng của văn hóa, đồng thời cũng phản ánh tính kế thừa từ thế hệ này
sang thế hệ khác, thời kỳ lịch sử này sang thời kỳ lịch sử khác của văn hóa.
Theo định nghĩa của UNESCO thì:
Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát sống động
mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và các cộng đồng) đã diễn
ra trong quá khứ, cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng
bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền
thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên nó từng dân tộc tự khẳng
định bản sắc riêng của mình [23, tr.23].
Văn hóa pháp luật là thuật ngữ dùng để mô tả mối quan hệ gắn bó
khăng khít giữa các giá trị pháp luật và các giá trị về văn hóa, là tổng thể các
hoạt động hàm chứa các giá trị pháp luật được hình thành trên cơ sở trí thức
pháp luật, lòng tin, tình cảm đối với pháp luật và hành vi pháp lý thực tiễn.
Khái niệm Văn hóa pháp luật hay nền văn hóa pháp luật vẫn còn có
nhiều cách hiểu khác nhau. GS. TS Lê Minh Tâm cho rằng:
Văn hóa pháp luật là tổng thể những giá trị vật chất và tinh
thần mà con người sáng tạo ra trong lĩnh vực pháp luật bao gồm hệ
thống qui phạm pháp luật được ban hành trong các thời kỳ lịch sử,

những tư tưởng, quan điểm, luận điểm, nguyên lí, nguyên tắc, những
tác phẩm văn hóa pháp luật, những kinh nghiệm và thói quen tích lũy
được trong quá trình xây dựng và thực thi pháp luật [18, tr.18].
Theo quan điểm của TS Phạm Duy Nghĩa thì “văn hóa pháp luật là một
cách nhìn về luật pháp, đặt pháp luật trong những tương quan đa chiều với
khoa học hành vi, cách nghĩ, cách ứng xử, tôn giáo, niềm tin, các đặc tính
nhân học của các cộng đồng và tộc người” [13, tr.1]. Một quan điểm khác của
GS.TS Hoàng Thị Kim Quế thì:


9
Văn hóa pháp luật là hệ thống các yếu tố vật chất và tinh thần
thuộc hệ thống tác động của pháp luật được thể hiện trong ý chí và
hành vi của con người… Văn hóa pháp luật thể hiện ở trình độ cao
của sự tôn trọng pháp luật, trình độ tri thức pháp luật của nhân dân;
thực trạng có chất lượng của quá trình lập pháp và thực hiện pháp luật,
các phương thức hoạt động pháp luật đặc thù như của các cơ quan
pháp luật, kiểm tra hiến pháp…; kết quả của hoạt động pháp luật dưới
dạng sản phẩm tinh thần và vật chất do con người xây dựng như luật,
hệ thống lập pháp, thực tiễn tư pháp và hành pháp [15, tr.7].
Bản thân khái niệm văn hoá pháp luật có nhiều nghĩa, được thể hiện
ở: trình độ của tư duy pháp lý, trình độ cảm nhận, nhận thức về thực tiễn
pháp luật; mức độ tôn trọng pháp luật; trình độ tri thức pháp luật của nhân
dân; thực trạng của quá trình lập pháp và thực hiện pháp luật có chất lượng;
các phương thức hoạt động pháp luật đặc thù (như của các cơ quan pháp
luật, kiểm tra hiến pháp…); kết quả của hoạt động pháp luật dưới dạng sản
phẩm tinh thần và vật chất do con người xây dựng như: luật, hệ thống lập
pháp, thực tiễn tư pháp…
Một cách tiếp cận khác về văn hoá pháp luật, theo đó, văn hoá pháp
luật là quá trình và kết quả hoạt động sáng tạo của con người trong lĩnh vực

pháp luật, thể hiện trong việc xây dựng, khẳng định và giữ gìn những giá trị
pháp lý. Văn hoá pháp luật của cá nhân chính là trình độ ý thức pháp luật,
trình độ của cá nhân về sử dụng pháp luật trong các hoạt động thực tiễn của
mình. Văn hóa pháp luật của xã hội là toàn bộ lĩnh vực vật chất và tinh thần
của văn hóa pháp luật, thực tiễn pháp lý trong các giai đoạn lịch sử. Văn hóa
pháp luật xã hội là trạng thái và đặc thù của ý thức pháp luật, hệ thống thông
tin pháp luật, trình độ phát triển của pháp luật, trật tự pháp luật và tình trạng
pháp chế trong xã hội. Đối với nhà nước và xã hội, có văn hoá pháp luật nghề


10
nghiệp, đạo đức nghề nghiệp – một bộ phận cấu thành của văn hoá pháp luật.
Các lĩnh vực của văn hoá pháp luật cũng rất đa dạng, bao gồm: văn hoá lập
pháp, văn hoá trong thực hiện pháp luật; văn hoá phổ biến, giáo dục pháp
luật; trong khoa học pháp lý và đào tạo luật vv…
Văn hoá pháp luật có các đặc điểm của văn hoá nói chung, các đặc
điểm riêng của mình và luôn có mối quan hệ mật thiết với các dạng văn hoá
khác. Mối tương quan và sự tác động giữa văn hoá pháp luật và các hình thái
văn hoá xã hội khác là điều dễ hiểu vì bản thân các quy phạm pháp luật luôn
nằm trong mối liên hệ với các loại quy tắc xã hội khác, các quan hệ pháp luật
cũng nằm trong hệ thống các quan hệ xã hội khác.
Từ các cách tiếp cận văn hóa pháp luật nêu trên, chúng ta có thể hiểu
trong cơ cấu của văn hoá pháp luật có các yếu tố văn hoá cơ bản sau: pháp
luật với tư cách là một hệ thống các quy phạm thể hiện ý chí nhà nước, mệnh
lệnh nhà nước; các quan hệ pháp luật; các thiết chế pháp luật (như hệ thống
các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội) đảm bảo sự kiểm soát pháp luật, sự
điều chỉnh và sự thực hiện pháp luật; ý thức pháp luật; hành vi pháp luật. Hay
nói một cách ngắn gọn, các yếu tố cấu thành của văn hoá pháp luật bao gồm:
ý thức pháp luật; nền pháp luật; trình độ, kỹ năng, nghệ thuật sử dụng công cụ
pháp luật. Ba yếu tố này có mối quan hệ biện chứng, tác động lẫn nhau, làm

tiền đề, điều kiện cho nhau phát triển, sự lạc hậu, trì trệ của yếu tố này sẽ là
lực cản của yếu tố kia.
Như trên đã nêu, các bộ phận cấu thành của văn hoá pháp luật là ý thức
pháp luật, nền pháp luật, hành vi pháp luật và sử dụng pháp luật. Ý thức pháp
luật là những tư tưởng, quan điểm, nhận thức và tâm lý, tình cảm về pháp luật
của con người. Có thể nói:
Ý thức pháp luật là tổng thể những tư tưởng, học thuyết, quan
điểm, thái độ, tình cảm, sự đánh giá của con người về pháp luật trên


11
các phương diện, tiêu chí cơ bản như: Về sự cần thiết (hay không
cần thiết), về vai trò, chức năng của pháp luật, về tính công bằng
hay không công bằng, đúng đắn hay không đúng đắn của các qui
định pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua trong quá khứ, pháp luật
cần phải có, về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi
của các cá nhân, nhà nước, các tổ chức xã hội [16, tr. 430].
Hệ thống pháp luật được thể hiện với ý nghĩa là các sản phẩm vật
chất của ý thức pháp luật, bao gồm hệ thống pháp luật thành văn và không
thành văn cũng như hệ thống tổ chức và hoạt động của các thiết chế lập
pháp, hành pháp, tư pháp. Hành vi, cách ứng xử theo pháp luật của mỗi cá
nhân trong đời sống hàng ngày cũng như trình độ vận dụng công cụ pháp
luật của Nhà nước trong quá trình quản lý xã hội là một kết quả tất yếu của
quá trình nhận thức, chắt lọc kiến thức pháp luật và là yếu tố không thể
thiếu được của văn hóa pháp luật.
Văn hoá pháp luật chỉ bao gồm bộ phận ý thức pháp luật phù hợp với
các nguyên tắc, các yêu cầu của pháp luật. Ý thức pháp luật có vị trí quan
trọng trong cơ chế điều chỉnh pháp luật và trong sự phát triển của nhà nước,
pháp luật và văn hóa xã hội. Không có một hoạt động nào của con người lại
có thể thực hiện ngoài ý thức con người, không có một quyết định văn bản

pháp luật nào, không có một quan hệ pháp lý nào có thể thực hiện ngoài tâm
lý pháp luật và tư tưởng pháp luật của con người. Ý thức pháp luật là bộ phận
cấu thành cơ bản của văn hoá pháp lý, song văn hoá pháp luật chỉ bao gồm bộ
phận ý thức pháp luật phù hợp đúng các yêu cầu của pháp luật. Văn hoá pháp
luật chính là một trạng thái tốt của ý thức pháp luật.
- Văn hoá pháp luật là sự thống nhất giữa những yếu tố hình thức và nội
dung trong xây dựng và thực hành pháp luật một cách có văn hoá và đạo đức
Trong thực tiễn, khi nói đến văn hoá pháp luật thường được hiểu, được
quy về những yếu tố mang tính hình thức trong các hoạt động pháp luật. Theo


12
đó, nói đến văn hoá pháp luật là nói đến những yếu tố như cung cách giao
tiếp, hành xử, cách phát ngôn, cách thức ăn mặc, trang phục, cách thiết kế, bài
trí công sở vv…Quan niệm này đúng nhưng chưa toàn diện, bao quát hết
phạm trù văn hoá pháp luật. Đôi khi cũng theo góc độ hình thức đó, văn hoá
pháp luật lại được quan niệm chỉ ở vị thế như là những yếu tố bổ trợ –
“những phụ liệu - linh kiện” có tính chất phụ họa, trang điểm, đánh bóng cho
hoạt động pháp luật. Nếu quan niệm như vậy thì sẽ làm mất đi mối liên hệ
mật thiết giữa phạm trù hình thức và nội dung trong hoạt động pháp luật.
Trong khi đó, giữa cái nội dung và cái mà đôi khi chỉ cho là hình thức như
nêu trên lại là một thể thống nhất hữu cơ, phụ thuộc, ảnh hưởng lẫn nhau để
đạt được mục đích, ý nghĩa và chức năng của văn hoá pháp luật.
Chức năng của văn hoá pháp luật suy cho cùng là nhằm đạt tới những
hành vi hợp pháp trên cơ sở văn hoá đạo đức. Thực hành pháp luật phải trên
cơ sở đạo đức (đạo đức truyền thống dân tộc và đạo đức tiến bộ của nhân
loại). Liên hệ vào lĩnh vực văn hoá xét xử, một phiên toà có văn hoá chính là
một phiên toà tuân thủ nghiêm ngặt các quy định pháp luật tố tụng và các
chuẩn mực văn hoá giao tiếp phù hợp bản sắc văn hoá dân tộc, văn hoá nhân
loại. Văn hoá pháp luật của những người tham gia hoạt động tư pháp được thể

hiện thông qua ý thức pháp luật của họ, ý thức và hành vi văn hoá, tôn trọng
và tuân thủ pháp luật, thái độ đúng mực trong việc tiếp nhận và thi hành các
quyết định của các cơ quan tư pháp. Thẩm phán, luật sư, công tố viên giữ vai
trò quan trọng, định hướng, được thể hiện ở ý thức pháp luật, trình độ chuyên
môn, kỹ năng nghề nghiệp trong hoạt động tư pháp. Đối với luật sư, thái độ
ứng xử có văn hoá là một trong những điều kiện để hành nghề luật sư một
cách nghiêm túc, hiệu quả, đạt được sự tôn trọng, tín nhiệm của khách hàng.
Biểu hiện tập trung nhất của văn hóa xét xử, suy cho cùng, chính là xét xử
đúng pháp luật với sản phẩm là những quyết định thấu tình đạt lý.


13
- Văn hoá pháp luật không phải là sự lắp ghép cơ học giữa yếu tố văn
hoá và yếu tố pháp luật.
Sở dĩ như vậy là vì, về bản chất, pháp luật là hiện tượng văn hoá, trong
văn hoá có chứa đựng pháp luật, một sản phẩm chắt lọc của văn hoá. Văn hoá
pháp luật là sự nhận thức sâu sắc pháp luật, sự vận dụng đúng đắn pháp luật.
Mọi sự bất chấp pháp luật, lạng lách pháp luật, bẻ cong pháp luật đều là sự vận
dụng pháp luật không có văn hóa. Sự thật là những quyết định độc quyền, độc
đoán không tính toán tới cái đúng, cái tốt, cái đẹp lâu bền, cái ích cũng là chưa
có văn hoá. Pháp luật, đạo đức chính là giá trị tiêu biểu nhất của văn hoá. Văn
hóa chín muồi tất yếu sẽ sản sinh ra pháp luật. Hoạt động xét xử, giải quyết các
tranh chấp đúng pháp luật và phù hợp lẽ công bằng, đạo đức xã hội, vì lợi ích
chính đáng của con người chính là những giá trị tiêu biểu của văn hoá.
Văn hóa pháp luật, cũng như các loại văn hoá khác, đều cần được đánh
giá, tất nhiên sự đánh giá này chỉ là tương đối. Các chủ thể khác nhau sẽ có
cách đánh giá khác nhau về các thành tựu của văn hóa pháp luật trong lĩnh
vực nhà nước và pháp luật. Lịch sử có chọn lọc và thừa nhận những tiêu chí
văn minh chung trong sự xác định trình độ văn hoá và trên cơ sở này thiết lập
khả năng để xác định và nâng cao văn hóa pháp luật. Đó là các tiêu chí:

- Sự hình thành nhận thức, tình cảm về pháp luật và pháp chế;
- Sự đạt được, lĩnh hội được tư duy pháp lý logic;
- Hoàn thiện, nâng cao trình độ của hoạt động chuyên nghiệp của các
cơ quan pháp luật (lập pháp, hành pháp, tư pháp);
- Tăng cường chất lượng và khối lượng về sự thực hiện pháp luật của
cư dân;
- Sự phân chia ba nhánh quyền lực: lập pháp, hành pháp và tư pháp;
- Hoạt động nghiên cứu các nguồn, các thành tựu của văn hoá pháp luật
và thực tiễn pháp luật;
Pháp luật ngoài việc được nhìn nhận là những định chế thì còn có xu


14
hướng được nhìn dưới góc độ văn hóa nhằm vượt lên những bất đồng, khác
biệt, để hợp tác xây dựng nên những qui tắc ứng xử mới – những qui tắc có
khả năng đem lại lợi ích cho các bên tham gia và cho toàn xã hội.
Lâu nay pháp luật thường được nhìn nhận dưới góc độ là
những định chế có tính chất “quan phương” từ phía nhà nước hay
nói cách khác pháp luật được hiểu là tổng thể các qui tắc xử sự do
nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, ngày nay trong bối cảnh toàn
cầu hóa, tồn tại một xu hướng tiếp cận pháp luật khác – xu hướng
nhìn pháp dưới góc độ văn hóa, mục đích là nhằm vượt lên những
bất đồng, khác biệt, để hợp tác xây dựng nên những qui tắc ứng xử
mới –những qui tắc có khả năng đem lại lợi ích cho các bên tham
gia và cho toàn xã hội [20].
1.1.2. Khái niệm văn hóa pháp luật trong lĩnh vực tố tụng hành chính
Văn hóa nói chung, văn hóa trong quá trình giải quyết vụ án hành chính
nói riêng là một phạm trù ý thức thuộc thượng tầng kiến trúc xã hội, là một
trong những quyền, tự do bắt nguồn từ phẩm giá của con người. Công ước

Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, 1966 đã xác định:
Theo tuyên ngôn thế giới về quyền con người thì chỉ có thể
đạt được lý tưởng về con người tự do không phải chịu sợ hãi và
thiếu thốn, nếu tạo được những điều kiện để mỗi người có thể
hưởng các quyền dân sự và chính trị cũng như các quyền kinh tế, xã
hội văn hoá của mình [11].
Với ý nghĩa như vậy, văn hóa vừa là một giá trị nhân văn cao quý, vừa
là một phạm trù nghiên cứu của khoa học xã hội nói chung, vừa là của khoa
học pháp lý nói riêng – trong đó có bộ phận (ngành) khoa học luật TTHC.
Việc nghiên cứu vấn đề văn hóa trong quá trình giải quyết vụ án hành
chính đã xuất hiện từ rất sớm trên thế giới. Ở châu Âu, cách đây hàng trăm


15
năm đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa pháp luật và văn
hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực TTHC. Chúng được nghiên cứu
dưới nhiều cấp độ khác nhau, hình thức biểu hiện khác nhau và với nhiều
phương pháp, cách thức tiếp cận vô cùng đa dạng và phong phú. Điều đáng
chú ý là hệ thống lý luận và tri thức này nhanh chóng được vận dụng, áp dụng
và làm cơ sở cho việc hình thành hệ văn hóa với các chuẩn giá trị mẫu mực
cho các đối tượng khác nhau trong các quan hệ TTHC. Cùng với các chuẩn
giá trị xã hội khác (đạo đức, quy tắc ứng xử, quy chế pháp lý…), các chuẩn
giá trị văn hóa trong TTHC đã tạo nên nền văn minh tư pháp mới của châu Âu
hiện đại, đồng thời có ảnh hưởng lan tỏa nhanh chóng trên phạm vi thế giới.
Ở Hoa Kỳ, ngay từ những thập niên giữa của Thế kỷ thứ XVIII trở đi, người
ta đã bàn nhiều về một nền văn minh tư pháp hiện đại, minh bạch, chuẩn xác,
năng động, hiệu quả, phục vụ tối đa cho lợi ích của con người nhất là yếu tố
con người tham gia trực tiếp vào quá trình tư pháp (xét xử của Tòa án). Nền
văn minh tư pháp đó có sự tham gia cấu thành đáng kể của văn hóa pháp luật
Hoa Kỳ, nền văn hóa pháp luật tranh tụng mẫu mực theo xu hướng bảo đảm

tối đa các quyền, tự do bắt nguồn từ phẩm giá của con người.
Ở Việt Nam, cùng với các giá trị văn hóa truyền thống, Đảng và Nhà
nước ta luôn đề cao và bảo đảm các quyền con người, đã có nhiều biện pháp
tích cực xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh của dân, do dân và
vì dân với nét văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam.
Trong tổng thể nói chung về khái niệm văn hóa, có những sáng tạo
trong lịch sử tư pháp và diễn biến trong quá trình giải quyết vụ án hành chính
thì được gọi là văn hóa trong quá trình giải quyết vụ án hành chính (hay còn
gọi là văn hóa TTHC, văn hóa pháp đình hành chính…)
Xét về nhân tố con người thì văn hóa pháp luật trong quá trình xét
xử hành chính liên quan đến các nhóm xã hội thuộc quan hệ TTHC. Mỗi


16
nhóm như vậy có các chuẩn giá trị văn hóa của mình đồng thời có sự tác
động tương hỗ và hướng tới hình thành một loại (bộ phận) văn hóa cụ thể:
Văn hóa TTHC.
Như vậy, chỉ tính riêng nhân tố này thì văn hóa TTHC có những nhóm sau:
- Nhóm văn hóa của cơ quan và người tiến hành TTHC;
- Nhóm văn hóa của người tham gia TTHC;
- Nhóm văn hóa của cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan;
- Nhóm văn hóa của công chúng (gồm cá nhân, tổ chức) liên quan;
- Nhóm văn hóa của các nhóm xã hội khác tạo thành dư luận xã hội về
vụ án và giải quyết vụ án hành chính.
Trong các nhóm trên, trong điều kiện một nền tư pháp xét hỏi của Việt
Nam, có một loại chủ thể của nhóm văn hóa của người tham gia tố tụng cần
có sự chú ý đặc biệt bởi tính chất đặc biệt của chủ thể này, đó là văn hóa của
người bị kiện trong vụ án hành chính.
Xét về thể loại, văn hóa pháp luật trong lĩnh vực TTHC cũng như các
bộ phận văn hóa khác. Đó là văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể trong

quá trình xét xử hành chính. Văn hóa vật thể thông thường được biểu hiện
dưới dạng vật chất như trụ sở, phương tiện, thiết bị … của văn phòng, trụ
sở cơ quan; cấu trúc, kiến trúc và cách bài trí, sự phù hợp và tiện dụng của
chúng… Còn văn hóa phi vật thể thể hiện dưới các dạng như hệ thống văn
bản pháp luật TTHC (thuộc hệ chữ viết), các tác phẩm văn học nghệ thuật
về TTHC, các chuẩn mực ứng xử của các bên cũng như các biểu hiện về
truyền khẩu… thuộc phạm vi trên.
Văn hóa pháp luật trong lĩnh vực TTHC Việt Nam mới bắt đầu nhen
nhóm và hình thành trong khoảng mười lăm năm trở lại đây. Các chuẩn giá trị
văn hóa như vậy rõ ràng là hết sức non trẻ, chưa đậm nét, chưa ảnh hưởng và
tác động tích cực đến ý thức con người, đến những bên tham gia vào quá trình


17
giải quyết vụ án hành chính. Chính vì vậy, mọi hành vi ứng xử thiếu khách
quan, minh bạch, không tôn trọng pháp luật hoặc luật không khả thi, thiếu
bình đẳng dân chủ, võ đoán tiêu cực… trong quá trình này đều được coi là các
biểu hiện khác nhau của hiện tượng kém văn hóa, là nguy cơ trực tiếp cản trở
quá trình hình thành các chuẩn giá trị văn hóa, cản trở sự nghiệp cải cách và
hoàn thiện nền tư pháp quốc gia trong sạch, vững mạnh.
Từ những phân tích trên, tôi xin đưa khái niệm: Văn hóa pháp luật trong
lĩnh vực TTHC là hệ thống các yếu tố vật chất và tinh thần thuộc hệ thống tác
động của pháp luật được thể hiện trong ý chí và hành vi của con người trong lĩnh
vực TTHC. Nó thể hiện ở trình độ cao của sự tôn trọng pháp luật, trình độ tri thức
pháp luật của những người tiến hành TTHC và những người tham gia TTHC.
1.2. Khi niệm văn hóa php lut của thẩm phn trong lĩnh vực tố
tụng hành chính
1.2.1. Một số quan niệm
Văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực TTHC là một nội
dung cụ thể của văn hóa pháp luật và nói chung là của văn hóa. Do vậy,

văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực TTHC vừa mang những
giá trị chung của văn hóa vừa có những nội dung, yếu tố cấu thành, đặc
điểm riêng… của nó.
Về quan niệm, theo từ điển Việt Nam có một loạt các khái niệm văn
hóa được đưa ra:
Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh
thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử; là một hệ
thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác
giữa con người với môi trường tự nhiên xã hội; là những hoạt động
của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu đời sống tinh thần (nói tổng
quát); là tri thức, kiến thức khoa học (nói khái quát); là trình độ cao


18
trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh; là cụm từ để chỉ một
nền văn hóa của một thời kỳ lịch sử cổ xưa, được xác định trên cơ
sở một tổng thể những di vật có những đặc điểm giống nhau [7].
Trong thực tiễn có nhiều cách định nghĩa khác nhau về văn hóa. Có ý
kiến cho rằng văn hóa là cách ứng xử của con người; là các giá trị vật chất mà
con người xây dựng và tôn tạo nên hay văn hóa là những gì liên quan đến đời
sống của con người mang yếu tố hay có ý nghĩa về mặt tâm linh…
Tuy hình thức thể hiện của quan niệm văn hóa có khác nhau nhưng đều
có chung những nội dung nhất định. Nội dung của văn hóa là khá đa dạng và
phong phú gồm cả yếu tố không gian, thời gian (quá khứ, hiện tại và tương
lai), vật chất và tinh thần, vật thể và phi vật thể, là thế giới quan hay năng lực,
phẩm chất (nhân sinh quan) của con người… và cũng vì có nội hàm phức tạp
như vậy nên khi nghiên cứu văn hóa cũng sẽ có nhiều cách tiếp cận khác
nhau, với góc nhìn, phương pháp và cách thức nghiên cứu khác nhau. Mọi nội
hàm của văn hóa luôn liên quan, gắn bó với đời sống, hoạt động của con

người trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
Văn hóa bắt nguồn từ hoạt động của con người, từ lao động, sản xuất,
chiến đấu… của con người và rồi trở lại phục vụ cho con người, tôn thêm vẻ
đẹp của con người và khi đạt đến một giá trị nhất định hay các chuẩn mực xác
định được thừa nhận chung nó thành văn hóa.
Với ý nghĩa như vậy, văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực
TTHC vừa là văn hóa cụ thể gắn với hoạt động của thẩm phán, vừa liên quan
đến văn hóa pháp luật trong lĩnh vực TTHC. Nó vừa mang nội dung văn hóa
nói chung vừa có những nét đặc thù của một loại văn hóa cụ thể, hay nói một
cách khác nội hàm của văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực TTHC
cũng như nội hàm của văn hóa nói chung nhưng mang bản sắc riêng của một
dạng văn hóa cụ thể.


19
Tuy nhiên, trong lĩnh vực nghiên cứu vấn đề văn hóa pháp luật của
thẩm phán trong lĩnh vực TTHC ở nước ta là hết sức mới mẻ. Cho đến nay
hầu như chưa có bất kỳ một hoạt động nghiên cứu nào về văn hóa pháp luật
của thẩm phán trong lĩnh vực TTHC của bất kì cá nhân nhà khoa học hay tổ
chức nghiên cứu nào. Trong lúc đó, TTHC lại là một trong ba lĩnh vực tạo
nên nền tố tụng, nền tư pháp Việt Nam.
Như vậy, việc nghiên cứu văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh
vực TTHC ở nước ta hiện nay là rất cần thiết và phải thực hiện ngay. Đây là
một yêu cầu có tính khách quan và rất cấp thiết cho công cuộc cải cách nền tư
pháp nước nhà, có ý nghĩa cho sự tiến bộ và văn minh xã hội.
1.2.2. Định nghĩa
Từ những trình bày như vậy có thể nêu định nghĩa như sau: “Văn hóa
pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực TTHC là tổng thể những giá trị vật
chất và tinh thần gắn với hoạt động của Thẩm phán trong lĩnh vực TTHC; là
sự phản ánh đời sống tinh thần, trình độ, năng lực, tri thức, kiến thức, thẩm

mỹ… của người Thẩm phán trong lĩnh vực TTHC”.
Trước hết cũng như các loại văn hóa khác, văn hóa pháp luật của thẩm
phán trong lĩnh vực TTHC được hình thành và chịu sự tác động của điều kiện
sinh hoạt vật chất và môi trường xã hội, điều kiện hoạt động nghề nghiệp của
nó. Nói cách khác là do điều kiện kinh tế và bản chất, nội dung nền tư pháp
quốc gia tác động, chi phối trong quá trình hình thành, tồn tại và phát triển. Ở
mỗi thời đại, khu vực, quốc gia khác nhau thì văn hóa pháp luật nói chung,
văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực TTHC nói riêng là có sự khác
nhau. Hiện nay, đại đa số các nước trên thế giới đều áp dụng nền tư pháp
tranh tụng, do đó văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực TTHC ở
những nước này mang bản sắc của nền tư pháp tranh tụng, biết nghe lẽ phải,
biết xác định giá trị chân lý thuộc về phía nào trong các bên đối tụng, qua đó


20
mà tôn trọng và bảo vệ công lý, bảo vệ lẽ phải, bảo vệ pháp luật (mà suy cho
cùng pháp luật đặt ra cũng chỉ vì công lý, bảo vệ công lý). Văn hóa pháp luật
của thẩm phán trong lĩnh vực TTHC của nền tư pháp tranh tụng chính là văn
hóa của vị trọng tài “cầm cân, nảy mực”, biết nhìn nhận chính xác, khách
quan các chuẩn mực, các nấc thang của “cán cân công lý” và không bao giờ
trở thành một bên, hoặc ít ra là nghiêng về một bên đối tụng trong quá trình
giải quyết vụ án hành chính. Văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực
TTHC của nền tư pháp tranh tụng được đa số các nước trên thế giới nhìn nhận
là ưu việt nhất từ trước đến nay. Ở nước ta hiện nay, trong quá trình cải cách
tư pháp chúng ta cũng đang phấn đấu hướng tới một nền tư pháp tranh tụng.
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị Đảng cộng sản
Việt Nam vạch rõ “bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả
tranh tụng tại phiên tòa” [3], đây là hướng đi đúng đắn của nền tư pháp nước
nhà, vừa nhằm hướng tới xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh
vừa phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của thời đại, phù hợp với quá trình

hội nhập kinh tế quốc tế, hòa nhập với cộng đồng thế giới của đất nước.
Nói như trên không có nghĩa là văn hóa pháp luật, văn hóa pháp luật
của thẩm phán trong lĩnh vực TTHC ở những nước có nền tư pháp xét hỏi là
không tốt, là kém cỏi. Văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực TTHC
của nền tư pháp xét hỏi mang bản sắc riêng, có chuẩn mực và giá trị riêng của
nó. Từ xa xưa, dưới thời đại phong kiến Trung Quốc, bằng khát vọng hướng
tới một nền tư pháp cao đẹp, khát vọng về tự do và công lý, người ta đã tạo
dựng nên hình tượng Bao Công - một vị Thẩm phán lý tưởng là một biểu
tượng văn hóa pháp luật của thẩm phán mẫu mực để mọi người, mọi Thẩm
phán noi theo. Rõ ràng Bao Công là nét đẹp, là tựu trung văn hóa pháp luật
của thẩm phán của nền tư pháp xét hỏi điển hình. Trên thực tế đã có không ít
Thẩm phán đã làm theo được, đạt được một số chuẩn và giá trị nhất định của
hình tượng Bao Công.

×