Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Tổng Công ty Tài chính cổ phần Dầu khí Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (361.9 KB, 54 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
MỞ ĐẦU 3
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN TRONG
CÔNG TY TÀI CHÍNH (CTTC) 5
1.1. Khái quát chung về CTTC 5
1.1.1. Khái niệm 5
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của CTTC 6
1.2. Hoạt động huy động vốn của CTTC 8
1.2.1. Khái niệm 8
1.2.2. Các phương thức huy động vốn của CTTC 9
1.3. Hiệu quả huy động vốn của CTTC 13
1.3.1. Khái niệm 13
1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn 13
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả huy động vốn 15
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN TẠI TỔNG CÔNG TY TÀI
CHÍNH CỔ PHẦN DẦU KHÍ VIỆT NAM (PVFC) 23
2.1. Giới thiệu chung về Tổng công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam
(PVFC) 23
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển 23
2.1.2. Tình hình tổ chức sản xuất kinh doanh 24
2.1.3. Kết quả hoạt động kinh doanh những năm gần đây 28
2.2. Thực trạng hiệu quả huy động vốn tại PVFC 29
2.2.1. Thực trạng huy động vốn 29
2.2.2. Đánh giá hiệu quả huy động vốn 31
2.2.3. Hạn chế trong công tác huy động vốn 37
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG
VỐN TẠI TỔNG CÔNG TY TÀI CHÍNH CỔ PHẦN DẦU KHÍ VIỆT NAM 41
3.1. Định hướng phát triển của PVFC trong thời gian tới 41
3.1.1. Định hướng hoạt động chung 41
3.1.2. Định hướng chiến lược huy động vốn của PVFC 43


-1-
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại PVFC 44
3.2.1. Thực hiện tốt công tác phân tích thị trường huy động vốn 44
3.2.2. Đa dạng hoá các sản phẩm huy động vốn bằng cách gia tăng tiện ích
và tính chất 45
3.2.3. Sử dụng linh hoạt lãi suất như công cụ để tăng cường quy mô, điều
chỉnh cơ cấu vốn 47
3.2.4. Xây dựng chính sách tiếp cận và chăm sóc khách hàng hiệu quả 48
3.2.5. Quản lý nguồn vốn theo đúng phương pháp, mục tiêu 49
3.2.6. Đào tạo nâng cao trình độ và nghiệp vụ của cán bộ 50
3.3. Kiến nghị 51
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước 51
3.3.2. Kiến nghị với PVFC 52
KẾT LUẬN 53
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 54
-2-
MỞ ĐẦU
Năm 2011, ngành Ngân hàng đã triển khai nhiệm vụ trong bối cảnh kinh tế
thế giới phục hồi chậm và tiếp tục có những biến động phức tạp, khó lường, tác
động nhiều mặt đến nước ta. Kinh tế trong nước tăng trưởng chậm, lạm phát
tăng cao, kinh tế vĩ mô tiềm ẩn rủi ro, các tổ chức tín dụng phải đối mặt với khó
khăn về thanh khoản và nợ xấu Trong bối cảnh đó, Ngân hàng Nhà nước đã
sử dụng mệnh lệnh hành chính để buộc các tổ chức tín dụng chỉ được huy động
với lãi suất không vượt quá trần do NHNN quy định nhằm kiềm chế lạm phát và
để đạt được những mục tiêu kinh tế lớn hơn. Thêm vào đó, chính sách tiền tệ
thận trọng cũng khiến nguồn cung tiền ra thị trường hạn chế, ảnh hưởng không
nhỏ đến thanh khoản của các tổ chức tín dụng. Đây là một trong những nguyên
nhân quan trọng khiến các ngân hàng tiếp tục gặp khó trong việc huy động vốn
và đảm bảo thanh khoản trong năm 2012.
Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn vốn cũng như những khó khăn

mà các tổ chức tín dụng hiện nay đang gặp phải trong quá trình huy động vốn,
tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại
Tổng Công ty Tài chính cổ phần Dầu khí Việt Nam”.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Nguồn vốn của công ty tài chính gồm hai nguồn chủ yều là vốn tự có và
vốn huy động. Mỗi loại nguồn vốn có nội dung kinh tế và phương pháp huy
động khác nhau. Phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ tập trung vào nghiên cứu
hoạt động huy động vốn của Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt
Nam.
Phương pháp nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố kinh tế
vĩ mô và vi mô, cũng như các quy định của pháp luật nói chung và của Tổng
Công ty Tài chính cổ phần Dầu khí Việt Nam nói riêng. Do đó, phương pháp
-3-
nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong chuyên đề là phương pháp phân tích,
tổng hợp, thống kê, so sánh.
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, đề tài gồm các phần chính như sau:
Chương 1: Một số lý luận cơ bản về hiệu quả huy động vốn trong công ty
tài chính.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả huy động vốn tại Tổng Công ty Tài chính
Cổ phần Dầu khí Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu của huy động vốn
tại Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam.
-4-
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG
VỐN TRONG CÔNG TY TÀI CHÍNH (CTTC)
1.1. Khái quát chung về CTTC
1.1.1. Khái niệm
Nền kinh tế ngày càng phát triển thì nhu cầu vốn đầu tư ngày càng tăng.
Các ngân hàng thương mại thường không đáp ứng đủ nhu cầu, vì vậy từ rất sớm

trên thế giới các CTTC đã ra đời. Ở các tập đoàn sản xuất lớn như hãng General
Motors ở Hoa Kỳ, CTTC do hãng thành lập ngoài chức năng huy động cho công
ty mẹ còn liên kết với đại lý bán lẻ và cung ứng vốn cho họ để họ bán hàng trả
chậm cho các xí nghiệp nhỏ và vừa vay vốn với lãi xuất vừa phải hơn để mua
sắm thiết bị máy móc do chính công ty mẹ là General Motors sản xuất. Đây là
chính sách kinh doanh hai chiều thường thấy ở các công ty hoặc tập đoàn sản
xuất lớn. Ở Thụy Điển, các CTTC được thành lập từ giữa những năm 1960 và
phát triển mạnh vào những năm 1970. Các CTTC ở Nhật, Singapore, Hàn Quốc
cũng phát triển rất nhanh trong thời gian vài thập niên gần đây. Còn ở Việt Nam,
các CTTC mới được thành lập trong vòng 15 năm trở lại đây.
CTTC là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng, đã và đang đóng vai trò
quan trọng trong việc cung ứng tiền tệ, tạo lập công cụ tài chính cho thị trường.
Theo điều 2 Nghị định của Chính phủ số 81/2008/NĐ-CP ngày 29/7/2008
sửa đổi và bổ sung một số điều của Nghị định số 79/2002/NĐ-CP ngày
4/10/2002 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của CTTC:
“Công ty tài chính là loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng, với chức
năng là sử dụng vốn tự có, vốn huy động và các nguồn vốn khác để cho vay, đầu
tư; cung ứng các dịch vụ tư vấn về tài chính, tiền tệ và thực hiện một số dịch vụ
khác theo quy định của pháp luật, nhưng không được làm dịch vụ thanh toán,
không được nhận tiền gửi dưới 01 năm.
Công ty Tài chính bao gồm loại hình Công ty Tài chính tổng hợp được
thực hiện tất cả các chức năng, nghiệp vụ theo quy định và Công ty Tài chính
chuyên ngành hoạt động chủ yếu trên một số lĩnh vực như: tín dụng tiêu dùng
-5-
hoặc phát hành thẻ tín dụng và các hoạt động khác theo quy định của pháp luật,
Nghị định này và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của CTTC
Sự ra đời của CTTC là tất yếu khách quan của nền kinh tế thị trường. Với
mục tiêu ban đầu là huy động và điều hòa vốn trong nội bộ công ty mẹ, phục vụ
sự phát triển của công ty mẹ, đến nay CTTC đã trở thành loại hình doanh nghiệp

kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ hoạt động đa dạng, chỉ đứng sau ngân hàng
thương mại. CTTC thực hiện các hoạt động như: hoạt động huy động vốn, hoạt
động tín dụng, hoạt động đầu tư và các dịch vụ khác.
• Hoạt động huy động vốn
- Nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá nhân theo quy
định của Ngân hàng nhà nước;
- Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có
giá khác để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước
theo quy định của pháp luật hiện hành;
- Vay các tổ chức tài chính, tín dụng trong nước, ngoài nước và các tổ chức
tài chính quốc tế;
- Tiếp nhận vốn ủy thác của Chính phủ, các tổ chức và cá nhân trong và
ngoài nước.
• Hoạt động tín dụng
+ CTTC được cho vay dưới các hình thức:
- Cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn theo quy định của Ngân hàng
nhà nước;
- Cho vay theo ủy thác của Chính phủ, của tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước theo quy định hiện hành của Luật các tổ chức tín dụng và hợp đồng
ủy thác;
-6-
- Cho vay tiêu dùng bằng hình thức cho vay mua trả góp.
+ Chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá khác:
- CTTC được cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu, cầm cố thương phiếu,
trái phiếu và các giấy tờ có giá khác đối với tổ chức và cá nhân;
- CTTC và các tổ chức tín dụng khác được tái chiết khấu, cầm cố thương
phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác cho nhau.
+ Bảo lãnh
- CTTC được bảo lãnh bằng uy tín và khả năng tài chính của mình đối với
người nhận bảo lãnh.

• Hoạt động mở tài khoản và ngân quỹ
- CTTC được mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng nhà nước và các ngân
hàng hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Việc mở tài khoản tiền gửi tại
ngân hàng ngoài lãnh thổ Việt Nam phải được Ngân hàng nhà nước cho
phép;
- CTTC có nhận tiền gửi phải mở tài khoản tại Ngân hàng nhà nước và duy
trì tại đó số dư bình quân không thấp hơn mức quy định của Ngân hàng
nhà nước;
- Dịch vụ ngân quỹ: CTTC được thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho
khách hàng.
• Các hoạt động khác
+ Các nghiệp vụ được phép thực hiện theo đúng quy định của pháp luật hiện
hành:
- Góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và tổ chức tín dụng khác;
- Đầu tư cho các dự án theo hợp đồng;
- Tham gia thị trường tiền tệ;
- Thực hiện các dịch vụ kiều hối;
-7-
- Làm đại lý phát hành trái phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá khác
cho doanh nghiệp;
- Nhận ủy thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến tài chính, ngân
hàng, bảo hiểm và đầu tư, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của các tổ
chức, cá nhân theo hợp đồng;
- Cung ứng các dịch vụ tư vấn về ngân hàng, tài chính, tiền tệ, đầu tư cho
khách hàng;
- Cung ứng dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két,
cầm đồ và các dịch vụ khác.
+ Các nghiệp vụ được các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền cho
phép:
- Hoạt động ngoại hối: Ngân hàng nhà nước xem xét, cấp giấy phép cho

CTTC được thực hiện một số hoạt động ngoại hối theo quy định hiện
hành về quản lý ngoại hối;
- Hoạt động bao thanh toán: Ngân hàng nhà nước ban hành quy định hướng
dẫn việc thực hiện hoạt động bao thanh toán và xem xét cho phép CTTC
có đủ điều kiện thực hiện hoạt động này.
1.2. Hoạt động huy động vốn của CTTC
1.2.1. Khái niệm
Hoạt động huy động vốn là hoạt động tạo vốn từ việc nhận tiền gửi của
các tổ chức, cá nhân, từ các hoạt động thanh toán, ủy thác hoặc từ việc phát hành
các chứng từ có giá để phục vụ cho các hoạt động cho vay, đầu tư của CTTC.
Vốn là năng lực chủ yếu đối với CTTC, nó quyết định đến khả năng, quy
mô hoạt động của công ty. CTTC có nguồn vốn kinh doanh lớn cho phép mở
rộng các hình thức kinh doanh hay đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh, quyết
định khả năng thanh toán chi trả của CTTC. Nếu có nguồn vốn lớn, năng lực
-8-
thanh toán tốt thì sẽ giúp cho các CTTC giảm thiểu rủi ro và gây được uy tín
trên thị trường.
Mặt khác, hoạt động của CTTC khi có nguồn vốn lớn và dồi dào sẽ có đủ
khả năng tài chính để kinh doanh đa năng trên thị trường, thoát khỏi hình thức
kinh doanh đơn điệu, có quỹ dự trữ cần thiết tạo đà mở rộng quy mô hoạt động
tín dụng và đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả và chủ động trong việc đầu tư,
thu xếpvốn kinh doanh. Do đó, vốn của CTTC còn là một nhân tố tác động đến
sự thắng lợi trong cạnh tranh, tạo cho CTTC có một chỗ đứng vững chắc trên thị
trường.
Để có được khối lượng vốn lớn đáp ứng được yêu cầu hoạt động kinh
doanh đòi hỏi các CTTC phải đa dạng hóa được các nguồn vốn, nghĩa là phải có
tỷ trọng vốn trung và dài hạn thích hợp để thực hiện chức năng của một tổ chức
tài chính. Khi thực hiện tốt được chức năng đó, CTTC sẽ luôn giữ được lợi thế
trong cạnh tranh, uy tín của tổ chức sẽ không ngừng được nâng cao. Để tổ chức
và lựa chọn hình thức huy động vốn một cách thích hợp và có hiệu quả cần có

sự phân loại nguồn vốn. Vốn của CTTC bao gồm: vốn chủ sở hữu và nợ phải
trả.
1.2.2. Các phương thức huy động vốn của CTTC
a/ Vốn chủ sở hữu:
Vốn chủ sở hữu là số vốn thuộc quyền sở hữu của chủ doanh nghiệp, của
các thành viên trong công ty liên doanh hoặc các cổ đông trong công ty cổ phần,
bao gồm: vốn chủ sở hữu bỏ ra ban đầu khi thành lập doanh nghiệp và vốn bổ
sung trong quá trình hoạt động.
 Vốn kinh doanh ban đầu: gồm có vốn pháp định và vốn điều lệ
• Vốn pháp định
Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có để có thể thành lập một doanh
nghiệp do cơ quan có thẩm quyền ấn định. Vốn pháp định sẽ khác nhau tùy theo
lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh.
-9-
Đối với CTTC, mức vốn pháp định do Chính phủ quy định. Theo Nghị
định 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006, CTTC được cấp giấy phép thành lập và
hoạt động sau ngày Nghị định 141/2006/NĐ- CP của Chính phủ có hiệu lực và
trước ngày 31/12/2008 thì phải có mức vốn pháp định là 300 tỷ đồng; CTTC
được cấp giấy phép thành lập và hoạt động sau ngày 31/12/2008 thì phải có mức
vốn pháp định là 500 tỷ đồng.
• Vốn điều lệ
Vốn điều lệ là số vốn do các thành viên, cổ đông góp hoặc cam kết góp
trong một thời hạn nhất định và được ghi vào Điều lệ công ty. Vốn điều lệ của
CTTC được đóng góp dưới các hình thức sau:
Góp vốn bằng tiền: Đối với CTTC thuộc Tổng công ty Nhà nước, CTTC
trực thuộc tổ chức tín dụng và CTTC cổ phần, vốn điều lệ được góp bằng Đồng
Việt Nam. Đối với CTTC100% vốn nước ngoài, vốn điều lệ được góp bằng
Đôla Mỹ. Đối với CTTC liên doanh, bên nước ngoài góp vốn điều lệ bằng Đôla
Mỹ, bên Việt Nam góp vốn điều lệ bằng Đồng Việt Nam. Trường hợp góp bằng
Đồng Việt Nam, số tiền góp vốn điều lệ phải được quy đổi ra Đôla Mỹ theo tỷ

giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng giữa Đồng Việt
Nam và Đôla Mỹ do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm góp vốn.
Góp vốn bằng hiện vật: Vốn điều lệ được góp bằng hiện vật phải là tài sản
có giấy tờ hợp pháp chứng minh quyền sở hữu và là tài sản cần thiết phục vụ
trực tiếp cho hoạt động của CTTC. Việc định giá và chuyển quyền sở hữu tài
sản góp vốn được thực hiện theo quy định hiện hành của pháp luật.
 Vốn bổ sung trong quá trình hoạt động:
Trong quá trình hoạt động, CTTC gia tăng vốn chủ sở hữu từ nguồn lợi
nhuận giữ lại, từ phát hành cổ phần, góp thêm, cấp thêm hoặc từ các khoản vay
trung và dài hạn có khả năng chuyển đổi thành vốn cổ phần. Nói chung vốn bổ
sung này không thường xuyên, phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của
CTTC hoặc vào từng điều kiện cấp thiết.
-10-
Vốn chủ sở hữu của CTTC tuy chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn
vốn của công ty nhưng lại có ý nghĩa rất lớn. Trước hết, đây là điều kiện pháp lý
cho sư ra đời và hoạt động của CTTC. Mặt khác, đó còn là căn cứ để tính toán
các chỉ tiêu đảm bảo an toàn và giới hạn mức cho vay, bảo lãnh.
Do tính chất thường xuyên ổn định của vốn chủ sở hữu mà CTTC có thể
sử dụng nó vào các mục đích khác nhau như mua sắm tài sản cố định, cho vay,
đầu tư, góp vốn liên doanh. Mặt khác, trong điều kiện nền kinh tế thị trường mở
cửa và mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các tổ chức tín dụng thì vốn
chủ sở hữu được xem như một trong những nhân tố căn bản đánh giá khả năng
tài chính, mức độ chịu đựng rủi ro, điều kiện để tiếp cận với các dự án đầu tư
của CTTC.
b/ Các công cụ nợ
Vốn huy động thông qua các công cụ nợ là lượng tiền mà các CTTC huy
động được trên thị trường thông qua nghiệp vụ tiền gửi và phát hành giấy tờ có
giá, đi vay và tiếp nhận vốn ủy thác. Đây là nguồn vốn chủ yếu, chiếm tỷ trọng
lớn trong toàn vộ nguồn vốn kinh doanh của CTTC, có ảnh hưởng rất lớn đến
chi phí và khả năng mở rộng kinh doanh của CTTC. Nguồn vốn này có xu

hướng ngày càng gia tăng phù hợp với xu hướng ổn định của nền kinh tế, việc
cải tiến và nâng cao chất lượng dịch vụ của CTTC.
 Tiền gửi
CTTC nhận tiền gửi của các tổ chức và cá nhân có kỳ hạn từ một năm trở
lên theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Đặc điểm chung của tiền gửi là
chúng phải được thanh toán khi khách hàng yêu cầu, ngay cả khi đó là tiền gửi
có kỳ hạn nhưng chưa đến hạn.
Các tổ chức, cá nhân có thu nhập tạm thờ chưa sử dụng đến trong thời hạn
trên một năm có thể gửi vào CTTC và được hưởng lãi. Người gửi tiền không
được sử dụng các hình thức thanh toán nhưng bù lại được hưởng lãi cao. Về
nguyên tắc, người gửi tiền chỉ được lĩnh tiền sau một thời hạn nhất định, khi kết
-11-
thúc hợp đồng. Nhưng trên thực tế, để cạnh tranh, CTTC thường chấp nhận việc
khách hàng có nhu cầu rút tiền trước kỳ hạn quy định (kỳ hạn thấp nhất là một
năm) bằng cách cho hưởng lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn như ngân hàng.
Trong thời gian gửi tiền, hợp đồng tiền gửi có thể được sử dụng là tài sản cầm
cố hoặc được chiết khấu để vay vốn tại các tổ chức tín dụng.
 Phát hành giấy tờ có giá
Các giấy tờ có giá là các công cụ nợ do CTTC phát hành để huy động
vốn, bao gồm: kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá
khác.
Đối tượng mua kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi là các tổ chức, cá
nhân trong nền kinh tế. Ngoài mục đích dùng số vốn nhàn rỗi hay phần thu nhập
tạm thời chưa sử dụng đến để mua, trên thực tế đây còn là một kênh đầu tư của
người có vốn trong xã hội khi họ không có khả năng và cơ hội đầu tư trực tiếp.
Với cách huy động vốn này, CTTC có khả năng tập trung một lượng vốn lớn
trong thời gian ngắn và chủ động sử dụng vốn.
 Vay các tổ chức tín dụng khác và của NHTW
Trong quá trình kinh doanh của các tổ chức tín dụng có thể xảy ra tình
trạng tạm thời thừa hoặc thiếu vốn, khi đó các tổ chức tín dụng sẽ sử dụng quan

hệ vãng lai, vay và cho vay vốn để tận dụng cơ hội kinh doanh hoặc đảm bảo
khả năng thanh toán. CTTC có thể vay vốn tại các tổ chức tài chính, tín dụng
trong nước hoặc ngoài nước, các tổ chức tài chính quốc tế hoặc vay ở ngân hàng
trung ương. NHTW là người cho vay cuối cùng trong nền kinh tế, vì vậy các tổ
chức tín dụng có thể được NHTW cho vay vốn khi cần thiết, thường là ngắn hạn
và có đảm bảo bằng giấy tờ có giá hoặc các khoản cho vay với khách hàng.
 Tiếp nhận vốn ủy thác của Chính phủ, các tổ chức và cá nhân trong
và ngoài nước
Đây là nguồn vốn mà CTTC có được do là đại lý nhận ủy thác của các tổ
chức, cá nhân trong và ngoài nước để thực hiện đầu tư có chỉ định mục đích
-12-
hoặc không chỉ định mục đích. Trong trường hợp này, CTTC sẽ được hưởng hoa
hồng phí. Tuy nhiên, trong thời gian vốn đã được CTTC tiếp nhận nhưng chưa
giải ngân hết theo kế hoạch, hoặc vốn cho vay đã thu hồi về dần nhưng chưa đến
hạn chuyển lại cho chủ đầu tư, CTTC sẽ có một lượng vốn để kinh doanh.
Ngoài các phương thức huy động vốn trên, CTTC còn có thể sử dụng vốn
khác gồm các khoản nợ khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả
1.3. Hiệu quả huy động vốn của CTTC
1.3.1. Khái niệm
Huy động vốn là một nghiệp vụ có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động
kinh doanh của CTTC. Khi CTTC huy động được một lượng vốn đầy đủ cần
thiết thì mới có thể đáp ứng được nhu cầu thanh toán, đầu tư của mình. Chính vì
thế, hiệu quả huy động vốn là một phạm trù tất yếu khách quan mà bát kỳ CTTC
nào cũng cần phải quan tâm.
Hiệu quả huy động vốn là phạm trù phản ánh trình độ và khả năng đảm
bảo thực hiện công tác huy động vốn có kết quả cao với chi phí nhỏ nhất.
Có nghĩa là, về mặt lượng, hiệu quả huy động vốn biểu hiện kết quả thu
được số lượng, thời hạn ) và chi phí bỏ ra; còn về mặt chất, nó phản ánh năng
lực và trình độ quản lý của CTTC.
Đối với một CTTC thì hiệu quả huy động vốn có mối quan hệ biện chứng

với hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty, huy động vốn tốt làm nền tảng
cho hoạt động kinh doanh đạt kết quả tốt, hoạt động kinh doanh có hiệu quả là
cơ sở thuận lợi để huy động vốn hiệu quả.
1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn
Để đánh giá hiệu quả huy động vốn của CTTC sử dụng các chỉ tiêu sau:
 Kết quả huy động vốn cao
Vốn huy động của CTTC phải đạt kết quả cao và có sự tăng trưởng ổn
định về số lượng để thỏa mãn nhu cầu tín dụng, thanh toán cũng như các hoạt
-13-
động kinh doanh khác. Tuy nhiên, vốn huy động được phải luôn ổn định về mặt
thời gian. Nếu CTTC huy động được một lượng vốn lớn, nhưng lại không ổn
định, thường xuyên có những dòng tiền lớn bị rút ra thì lượng vốn dành cho đầu
tư, cho vay sẽ không lớn, hiệu quả huy động vốn không cao, thường xuyên phải
đối đầu với vấn đề thanh khoản. Kết quả là, trong nhiều trường hợp, CTTC sẽ
gặp phải rủi ro là mất khách hàng, lợi nhuận suy giảm, mất uy tín. Ngược lại,
nếu nguồn vốn huy động được ổn định, dù nhỏ cũng có thể yên tâm sử dụng số
tiền đó vào các hoạt động chắc chắn, lâu dài và thu được lợi nhuận cao.
Chỉ tiêu này được đánh giá thông qua tốc độ tăng trưởng vốn huy động,
tốc độ tăng trưởng vốn huy động theo kỳ hạn, theo loại tiền và theo đối tượng
khách hàng. Nguồn vốn tăng đều qua các năm, có tốc độ gia tăng đều đặn là
nguồn vốn tăng trưởng ổn định.
Ngoài ra, một CTTC có kết quả huy động vốn cao thì lượng vốn huy động
phải đáp ứng được nhu cầu kinh doanh của công ty. Điều này thể hiện qua việc
so sánh nguồn vốn huy động được với các nhu cầu tín dụng, đầu tư, thanh toán
và các nhu cầu khác để thấy nguồn vốn huy động có thể đáp ứng được bao
nhiêu, công ty phải vay thêm bao nhiêu để thỏa mãn nhu cầu ấy.
Để nguồn vốn huy động có thể đáp ứng được nhu cầu kinh doanh, CTTC
phải có cơ cấu vốn hợp lý. Cơ cấu vốn huy động ở đây bao gồm cơ cấu vốn
ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, cơ cấu vốn theo nội tệ và ngoại tệ, theo tiền gửi
dân cư và tiền gửi của các tổ chức kinh tế. Cơ cấu vốn hợp lý phải đáp ứng được

tối đa nhu cầu sử dụng vốn, không có tình trạng bất hợp lý giữa vốn huy động
với nhu cầu sử dụng vốn.
 Chi phí vốn hợp lý
Để tối đa hóa lợi nhuận, các CTTC phải tối thiểu hóa chi phí vốn. Do đó,
phương pháp xác định chi phí vốn rất hữu ích cho công ty để xây dựng chính
sách kinh doanh có hiệu quả. Xác định được chi phí vốn sẽ tính toán được hiệu
-14-
quả của hoạt động huy động vốn, điều đó quyết định đến phương thức sử dụng
vốn và lợi nhuận kinh doanh của công ty.
Chi phí huy động vốn bao gồm các chi phí trả lãi, chi phí quản lý và các
chi phí khác có liên quan, trong đó chi phí trả lãi chiếm tỷ trọng lớn nhất. Để
đánh giá hiệu quả của hoạt động huy động vốn, ta xem xét chi phí trả lãi trong
mối quan hệ với lượng vốn huy động. Tỷ trọng chi phí trả lãi trên tổng vốn huy
động phản ánh để huy động được một đồng vốn, công ty phải bỏ ra bao nhiêu
đồng chi phí huy động.
Quản lý chi phí vốn là hoạt động thường xuyên và quan trọng của mỗi
CTTC vì mỗi sự thay đổi về cơ cấu vốn hay lãi suất đều có thể làm thay đổi chi
phí trả lãi, từ đó ảnh hưởng đến thu nhập ròng của CTTC.
Có hai lý do chủ yếu là CTTC quan tâm khi xác định chi phí huy động
vốn:
- Tính toán tương đối chính xác chi phí huy động vốn là yếu tố cơ bản để
xác định mức lợi nhuận mà CTTC cần thu được từ các tài sản cố định.
- Loại hình nguồn vốn mà CTTC huy động được và việc sử dụng nguồn
vốn này ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất và rủi ro vốn.
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả huy động vốn
Các tổ chức tín dụng nói chung với tính chất kinh doanh tiền tệ và dịch vụ
tài chính là một hoạt động kinh doanh có điều kiện theo quy định của pháp luật,
theo đó có rất nhiều những điều kiện được đặt ra mà một tổ chức tín dụng phải
tuân thủ: đó là điều kiện về vốn điều lệ, về cổ đông - cổ phiếu - cổ phần, về các
tỷ lệ an toàn, về hệ thống quản trị - kiểm soát và điều hành, về các hoạt động

nghiệp vụ cụ thể (như: huy động vốn, cho vay, bảo lãnh, cam kết, thanh toán
quốc tế, ngoại hối, đầu tư, thẻ, dịch vụ,…), về mạng lưới kinh doanh, hệ thống
công nghệ thông tin, về chế độ thông tin báo cáo, về cơ sở vật chất kỹ thuật, …
CTTC cũng không nằm ngoài quy luật đó. Hoạt động huy động vốn của CTTC
-15-
chịu tác động chi phối của nhiều yếu tố. Ta có thể đưa ra một số nhóm nhân tố
điển hình như sau:
a/ Nhân tố chủ quan:
 Lãi suất huy động vốn
Các chính sách về lãi suất tiền gửi, tỷ lệ hoa hồng và các chi phí dịch vụ
được coi là giá cả của các sản phẩm dịch vụ tài chính. CTTC sử dụng hệ thống
lãi suất tiền gửi như một công cụ quan trọng trong việc huy động tiền gửi và
thay đổi quy mô vốn.
Vốn huy động từ tiền gửi của khách hàng có quy mô rất lớn trong nguồn
vốn của CTTC, thường chiếm khoảng 50% tỷ trọng nguồn vốn và là mục tiêu
tăng trưởng hàng năm của CTTC. Tiền gửi thường nhạy cảm với biến động về
lãi suất. Lãi suất cao là nhân tố kịch thích doanh nghiệp, dân cư gửi tiền. Tuy
nhiên, khi lãi suât huy động tăng cao kéo theo lãi suất cho vay cũng sẽ tăng cao
tương ứng, gây ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của CTTC.
 Hình thức huy động vốn
Các cá nhân và tổ chức gửi tiền với nhiều mục địch khác nhau, có người
vì mục đích bảo đảm an toàn, có người vì mục đích lấy lãi để tiêu dùng, có
người gửi tiền để đồng vón ngày càng được sinh sôi nảy nở. Xuất phát từ đặc
tính gửi tiền hoặc đặc tính từ phía tổ chức, cá nhân gửi tiền vào cho các tổ chức
tín dụng, các CTTC phải nắm bắt được các nhu cầu đó, nhằm phân tích đặc tính
khách hàng, đưa ra các hình thức huy động đa dạng nhằm phục vụ tốt hơn nhu
cầu của khách hàng, tăng khả năng cạnh tranh của mình. Khi có nhiều hình thức
huy động sẽ tạo nhiều cơ hội cho khách hàng lựa chọn hình thức phù hợp nhất
với nhu cầu gửi tiền của mình, bảo đảm sử dụng có hiệu quả nhất nguồn tiền
nhàn rỗi của mình. Điều này sẽ đáp ứng những nhu cầu khắt khe, thỏa mãn được

mong muốn của khách hàng, từ đó số lượng người gửi tiền cũng như số lượng
tiền gửi sẽ tăng lên.
 Mạng lưới hoạt động
-16-
Để mở rộng quy mô, tăng cường phát triển nguồn vốn, CTTC không thể
không mở rộng mạng lưới hoạt động kinh doanh. Mạng lưới hoạt động rộng rãi
sẽ tạo điều kiện cho CTTC tiếp xúc được nhiều khách hàng hơn, từ đó thu hút
được nhiều vốn nhàn rỗi trong dân cư hơn. Việc mở thêm các chi nhánh, các
phòng giao dịch rất quan trọng, nhưng CTTC cũng nên cân nhắc kỹ địa điểm mở
rộng mạng lưới, bởi mỗi địa điểm khác nhau có lợi thế cạnh tranh hoàn toàn
khác nhau. Thường các địa điểm nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm, các
trung tâm thương mại, các khu công nghiệp, các địa điểm du lịch và khu đông
dân cư sẽ thuận lợi trong việc thu hút nguồn vốn hơn.
 Hoạt động marketing
Hoạt động marketing đóng vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động
kinh doanh của CTTC nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng. Nhiệm
vụ của hoạt động marketing là nghiên cứu thị trường, thiết kế các sản phẩm phù
hợp với từng đối tượng khách hàng và thực hiện các hoạt động khuếch trương,
quảng cáo giúp khách hàng nhận biết về sản phẩm, về hình ảnh và thương hiệu
của công ty. Khi hoat động marketing được thực hiện tốt, hình ảnh và thương
hiệu của công ty sẽ được nâng lên, tạo sự khác biệt với các đối thủ trên thị
trường, nâng cao tính cạnh tranh, đưa đến sự tin tưởng, tâm lý yên tâm cho
khách hàng. Chính việc xây dựng thương hiệu mạnh sẽ nân cao vị thế hoạt động,
sự chuyên nghiệp của CTTC trên thị trường, góp phần nâng cao hiệu quả kinh
doanh của CTTC.
CTTC kinh doanh tiền tệ, hay nói cách khác là kinh doanh quyền sử dụng
tiền, là tài sản liên quan trực tiếp tới đời sống vật chất lẫn tinh thần, nhu cầu và
sự thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Do vậy, thương hiệu của công ty là yếu tố
có ảnh hưởng rát lớn đến quyết định đầu tư của khách hàng. Trên thực tế, một tổ
chức tín dụng có thương hiệu mạnh sẽ dễ dàng thu hút vốn hơn nhiều so với các

tổ chức tín dụng khác, từ việc phát hành giấy tờ có giá, đi vay tổ chức tín dụng
khác hay huy động tiền gửi từ các doanh nghiệp và cá nhân.
-17-
 Công nghệ
Công nghệ là một trong những nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển
của bất cứ doanh nghiệp nào, trong đó có các CTTC. Những thay đổi và tiến bộ
công nghệ ứng dụng trong hoạt động tín dụng cho phép các tổ chức tín dụng có
sự cải thiện về chất lượng dịch vụ nói chung và đặc biệt là hoạt động huy động
vốn nói riêng. Chất lượng dịch vụ huy động vốn phụ thuộc vào việc các CTTC
đáp ứng được các yêu cầu, chuẩn mực quốc tế, đòi hỏi công nghệ phải không
ngừng cải tiến, hiện đại hóa để trở thành công cụ hỗ trợ đắc lực trong các hoạt
động kinh doanh. Từ đó CTTC có thể nâng cao khả năng cạnh tranh, đồng nghĩa
với việc có thể tiếp cận một cách có hiệu quả, nhanh chóng và triệt để hơn với
các nguồn vốn có thể huy động được, nâng cao khả năng huy động vốn.
 Hiệu quả hoạt động sử dụng vốn
Việc sử dụng vốn có ảnh hưởng nhất định đến công tác huy động vốn.
CTTC sử dụng vốn một cách hiệu quả, mang lại nguồn lợi cao sẽ nâng cao uy
tín của công ty, khiến khách hàng yên tâm vì đã hợp tác hoặc gửi tiền vào công
ty. Việc sử dụng vốn và huy động vốn song hành cũng mang lại hiệu quả chính
là luồng chảy sinh ra lợi nhuận lớn. Bên cạnh các hoạt động cho vay, đầu tư, các
CTTC còn đứng ra làm trung gian thu xếp vốn cho các dự án và thu phí từ hoạt
động đó.
 Các dịch vụ kèm theo
Các sản phẩm của CTTC là sản phẩm dịch vụ, bên cạnh các nghiệp vụ chính thì
các CTTC còn có các dịch vụ đi kèm. Trong công tác huy động vốn, các tổ chức
tín dụng tổ chức được tốt các dịch vụ kèm theo các hình thức huy động của mình
sẽ có khả năng thu hút được nhiều khách hàng hơn và điều đó được xem là một
trong những biện pháp nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả hoat động của tổ
chức tín dụng.
 Chiến lược, chính sách kinh doanh

-18-
Hệ thống các chính sách của công ty có liên quan đến hoạt động huy động
vốn bao gồm:
- Chính sách về giá cả, lãi suất tiền gửi, tỷ lệ hoa hồng, chi phí dịch vụ hay
còn gọi chung là chính sách giá các sản phẩm và dịch vụ tài chính. Hệ thống lãi
suất tiền gửi là một công cụ quan trọng trong việc huy động tiền gửi, thay đổi
quy mô vốn.
- Các chính sách liên quan đến sản phẩm và dịch vụ tiền gửi nhằm đánh giá
các loại sản phẩm dịch vụ cung ứng và chất lượng các dịch vụ đó: chất lượng tài
khoản, kỳ hạn và các dịch vụ có liên quan đến tiền gửi.
- Các chính sách trong phục vụ và giao tiếp với khách hàng để thấy được
hình ảnh của công ty. Thái độ phục vụ thân thiện, chu đáo của nhân viên, hệ
thống thanh toán được bố trí khoa học là những điều cần thiết để giữ vững khách
hàng và có thêm những khách hàng mới.
 Trình độ cán bộ quản lý và đội ngũ nhân viên
Người cán bộ quản lý như “đầu tầu” của CTTC, là người hoạch định các
chiến lược kinh doanh, phương hướng hoạt động, thậm chí phong cách, thái độ
làm việc của người quản lý là hình ảnh cho cấp dưới noi theo. Người cán bộ
quản lý có trình độ cao và thái độ làm việc nghiêm túc, nhanh nhạy, cẩn trọng
trong công việc quyết định phần lớn đến sự thành công trong hoạt động kinh
doanh nói chung và việc huy động vốn nói riêng.
Các nghiệp vụ kinh doanh trong lĩnh vực tài chính tiền tệ ngày càng nhiều
và phức tạp. Do đó, để việc huy động vốn đạt hiệu quả cao thì đội ngũ cán bộ
nhân viên của CTTC, đặc biệt là nhân viên kế toán, nhân viên giao dịch phải có
trình độ chuyên môn cao, nắm vững quy trình làm việc, sử dụng thành thạo các
trang thiết bị, đồng thời cần có đạo đức nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm cao
và thái độ làm việc cẩn trọng.
b/ Nhân tố khách quan
-19-
 Môi trường kinh tế

Môi trường kinh tế bao gồm các yếu tố như: thu nhập bình quân đầu
người, tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế cá nhân, tỷ lệ lạm phát, chính
sách đầu tư, tiết kiệm của Chính phủ
Môi trường kinh tế có tác động rất mạnh mẽ đến công tác huy động vốn
của CTTC. Khi nền kinh tế trong nước rơi vào suy thoái, thu nhập giảm sút, lạm
phát và thất nghiệp tăng cao, hoạt động của các doanh nghiệp sụt giảm thì khả
năng thu hút vốn và sử dụng nguồn vốn sẽ không thuận lợi, đồng thời ảnh hưởng
đến cơ cấu, chất lượng vốn. Cụ thể là tỷ lệ lạm phát tăng cao làm đồng tiền trở
nên mất giá, khi đó người dân sẽ không gửi tiền tiết kiệm mà họ sẽ mua hàng
hóa dự trữ. Điều này làm giảm khoản mục tiền gửi. Hơn nữa, CTTC muốn huy
động được vốn thì phải bỏ ra chi phí cao hơn, nguồn huy động không ổn định,
do đó nguồn vốn mà CTTC huy động được sẽ kém chất lượng.
 Môi trường chính trị, pháp luật
Kinh doanh tiền tệ là ngành kinh doanh chịu sự giám sát chặt chẽ của
pháp luật và các cơ quan chức năng của Chính phủ cũng như Ngân hàng Nhà
nước. Hoạt động của CTTC chịu sự điều chỉnh của nhiều luật, pháp lệnh, nghị
định, thông tư có liên quan. Nhìn chung, hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt
động của các tổ chức tín dụng khá phức tạp, việc hướng dẫn thực hiện thường có
độ trễ nhất định. Tuy nhiên, môi trường pháp lý ổn định sẽ gây tâm lý tin tưởng
vào sự điều hành của Nhà nước, dẫn đến việc khách hàng yên tâm hơn khi gửi
tiền vào CTTC, đem lại cho CTTC nhiều cơ hội kinh doanh.
 Môi trường kỹ thuật – công nghệ
Công nghệ là một trong những nhân tố ảnh hưởng lớn đến sự phát triển
hoạt động kinh doanh của CTTC. Những thay đổi và tiến bộ của công nghệ ứng
dụng trong hoạt động ngân hàng cho phép đổi mới lớn trong hoạt động kinh
doanh và huy động vốn. Hiện nay các CTTC đã lựa chọn đúng hướng đầu tư vào
công nghệ, nên có những cơ sở dữ liệu, phần mềm ứng dụng hoạt động hiệu quả.
-20-
Nhưng nhìn chung, công nghệ vẫn tồn tại những khó khăn, vướng mắc như sự
phát triển chưa đồng đều về công nghệ, hiệu quả phần mềm chưa đáp ứng được

yêu cầu quản lý, tốc độ xử lý chậm, không theo kịp sự phát triển hoạt động kinh
doanh, thiếu các chuyên gia giỏi trong lĩnh vực công nghệ làm việc trong ngành
tài chính ngân hàng.
 Môi trường cạnh tranh
Việc cạnh tranh nguồn vốn giữa các tổ chức tín dụng diễn ra rất gay gắt
và mạnh mẽ trong những năm qua. Các CTTC không chỉ đối mặt với các đối thủ
như các ngân hàng mà còn phải cạnh tranh thu hút vốn với các kênh khác như
đầu tư cổ phiếu, đầu tư vàng, đầu tư bất động sản, bảo hiểm nhân thọ Điều này
đòi hỏi các CTTC phải không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh bằng nhiều
hình thức hơn, quyết liệt hơn, chính sách khách hàng phải hấp dẫn hơn, mở rộng
mạng lưới, phát triển thị trường
 Môi trường văn hóa – xã hội
Môi trường văn hóa xã hội gồm các yếu tố như cách nhận thức, trình độ
dân trí, trình độ văn hóa, lối sống, thói quen sử dụng và cất trữ tiền, sự hiểu biết
của dân chúng về các CTTC. Những điều đó đều ảnh hưởng đến hoạt động huy
động vốn và cơ cấu nguồn vốn của CTTC. Ở các nước đang phát triển như Việt
Nam, người dân có thói quen tích trữ vàng, điều này làm cho việc thu hút nguồn
vốn của CTTC từ dân cư bị hạn chế. Mặt khác, tâm lý người dân của ảnh hưởng
rất lớn đến hành vi và nhu cầu của họ với các sản phẩm dịch vụ của CTTC. Ví
dụ, nếu người dân có tâm lý không tin tưởng vào CTTC thì họ sẽ không gửi tiền
mà sẽ cất trữ dưới dạng tiền mặt, vàng, bất động sản hoặc họ có thể rút tiền
gửi một cách ồ ạt. Tất cá những biểu hiện đó sẽ là khó khăn cho CTTC khi
muốn tăng cường huy động vốn.
 Thời vụ tiêu dùng
Thời vụ tiêu dùng cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt
động huy động vốn của CTTC trong một thời gian nhất định. Vào thời vụ tiêu
-21-
dùng thì nói chung tiền gửi có xu hướng giảm đi, chẳng hạn vào dịp Tết âm lịch
thì tiền gửi sẽ giảm đi cho dân chúng có nhu cầu rút tiền để sắm tết.
 Cơ chế chính sách

Hiện nay cơ chế chính sách của Nhà nước con thiếu sự nhất quán và
không ổn định, thủ tục rườm rà gây tốn kém thời gian, chi phí và là rào cản đối
với các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nước ngoài. Khi cơ chế thông
thoáng sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển, thu hút đầu tư nước ngoài, giảm
thất nghiệp, tăng nguồn tiết kiệm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động vốn
của CTTC. Đồng thời, trong hoạt động tài chính ngân hàng đòi hỏi tình hình cơ
chế chính sách phải ổn định thì mới an toàn và việc các CTTC tuân thủ cơ chế
chính sách sẽ tạo niềm tin đối với khách hàng.
Trên đây là những nhân tố chính ảnh hưởng đến quy mô và chất lượng
nguồn vốn huy động của CTTC. Để nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn,
các CTTC cần nghiên cứu và đề ra các chính sách và hoạt động một cách tích
cực, có lợi, hiệu quả nhất đối với công tác huy động vốn.
-22-
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN TẠI TỔNG
CÔNG TY TÀI CHÍNH CỔ PHẦN DẦU KHÍ VIỆT NAM (PVFC)
2.1. Giới thiệu chung về Tổng công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam
(PVFC)
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Tên Công ty : Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam
Tên giao dịch quốc tế : Petro Vietnam Finance Corporation
Tên viết tắt : PVFC
Trụ sở chính : 22 Ngô Quyền – Hoàn Kiếm – Hà Nội
Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam (PVFC) là một tổ
chức tín dụng phi ngân hàng, tiền thân là Công ty Tài chính Dầu khí, và là đơn
vị thành viên của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam, được thành lập theo
quyết định số 04/2000/QĐ-VPCP ngày 30 tháng 3 năm 2000 của Bộ trưởng,
Chủ nhiệm văn phòng chính phủ, bắt đầu đi vào hoạt động từ ngày 19/6/2000
với phương châm hoạt động “Vì sự phát triển vững mạnh của Tập đoàn Dầu khí
Quốc gia Việt Nam”.
Năm 2008, PVFC chính thức chuyển đổi mô hình hoạt động thành Tổng

công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam. Đây là bước chuyển mình từ công
ty 100% vốn Nhà nước thành Tổng Công ty cổ phần. Ngày 18/3/2008, Tổng
công ty Tài chính cổ phần Dầu khí Việt Nam chính thức ra mắt và công bố cổ
đông chiến lược nước ngoài là Tập đoàn tài chính Morgan Stanley, đánh dấu
bước ngoặt quan trọng sau gần 8 năm hình thành và phát triển. Morgan Stanley
là một trong những tập đoàn tài chính hàng đầu thế giới với tổng tài sản lên đến
1.200 tỷ USD, hoạt động ở 33 quốc gia. Với việc tham gia của cổ đông Morgan
Stanley, PVFC là tổ chức tín dụng đầu tiên của Việt Nam sau khi cổ phần hoá đã
lựa chọn được cổ đông chiến lược nước ngoài. Đây là một thành công khẳng
định sự tín nhiệm của thương hiệu PVFC.
Qua hơn 11 năm xây dựng và phát triển, đến nay, PVFC đã trở thành một
định chế tài chính mạnh của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN) và là
-23-
một trong những tổ chức tín dụng có tốc độ phát triển nhanh. Thương hiệu
PVFC đã được khẳng định trên thị trường tài chính trong nước và bước đầu
vươn ra thế giới.
Cơ cấu thành phần cổ đông:
Tính đến 31/12/2011 vốn điều lệ của PVFC là 6.000 tỷ đồng, tương ứng
600.000.000 cổ phần, mệnh giá 1 cổ phần là 10.000 đồng, trong đó Công ty mẹ
của Tổng Công ty là Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) nắm giữ 78% vốn điều
lệ, cổ đông chiến lược là Tập đoàn tài chính Morgan Stanley chiếm 10%.
Bảng 1: Cơ cấu thành phần cổ đông
STT Nội dung Vốn sở hữu Tỷ lệ (%)
I. Vốn điều lệ 6.000.000.000.000 100%
II. Cơ cấu cổ đông
1.
Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt
Nam
4.680.000.000.000 78%
2.

Tập đoàn tài chính Morgan
Stanley
(Morgan Stanley International
Holdings INC)
600.000.000.000 10%
3. Cổ đông tổ chức và cá nhân khác 720.000.000.000 12%
(Nguồn: Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam)
2.1.2. Tình hình tổ chức sản xuất kinh doanh
2.1.2.1. Ngành, nghề kinh doanh chủ yếu của PVFC
Công ty tài chính là loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng, với chức
năng là sử dụng vốn tự có, vốn huy động và các nguồn vốn khác để cho vay, đầu
tư; cung ứng các dịch vụ tư vấn về tài chính, tiền tệ và thực hiện một số dịch vụ
khác theo quy định của pháp luật, nhưng không được làm dịch vụ thanh toán,
không được nhận tiền gửi dưới một năm.
Với vai trò là công ty tài chính trực thuộc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia
Việt Nam (PVN), nhiệm vụ chính của PVFC phải thực hiện là thu xếp nguồn
-24-
vốn cho PVN, PVFC đã chủ động hợp tác với các tổ chức tín dụng, định chế tài
chính lớn trong và ngoài nước; xây dựng và triển khai kế hoạch, thu xếp vốn kịp
thời, đáp ứng nhu cầu về vốn cho PVN và các đơn vị thành viên triển khai các
dự án đầu tư đúng tiến độ, bảo đảm yêu cầu tăng trưởng của ngành Dầu khí, tư
vấn cổ phần hoá các doanh nghiệp dầu khí, quản trị sinh lời các nguồn tài chính
to lớn của Tập đoàn; tham gia thực hiện tốt chính sách nhân viên của Tập đoàn.
Cụ thể Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam (PVFC) đăng ký
kinh doanh những ngành nghề chủ yếu sau:
 Huy động vốn:
- Nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của các tổ chức theo quy
định của Ngân hàng Nhà nước;
- Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu; chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có
giá khác để huy động vốn của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước theo quy

định của pháp luật hiện hành;
- Vay vốn của các tổ chức tài chính, tín dụng trong nước, ngoài nước và
các tổ chức tài chính quốc tế;
- Tiếp nhận vốn ủy thác của Chính phủ, của các tổ chức và cá nhân trong
và ngoài nước.
 Hoạt động tín dụng:
- Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn theo quy định của Ngân hàng Nhà
nước; cho vay theo ủy thác của Chính phủ, của tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước theo quy định hiện hành của Luật các tổ chức tín dụng và hợp đồng ủy
thác;
- Bảo lãnh bằng uy tín và khả năng tài chính của mình đối với người nhận
bảo lãnh theo quy định của pháp luật.
- Cấp tín dụng dưới các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà
nước.
-25-

×