Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Doanh nghiệp vừa và nhỏ- Công ty Cổ phần thương mại Hà My

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (544.49 KB, 55 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Lời mở đầu
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào, vốn
đều được xem là yếu tố không thể thiếu, là đòi hỏi đầu tiên bắt buộc phải có và đóng một
vai trò hết sức quan trọng đối với doanh nghiệp.
Đối với một nền kinh tế mới vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp
hoá - hiện đại hoá như nước ta hiện nay, nhu cầu về vốn để đổi mới công nghệ và phát
triển của các doanh nghiệp rất lớn. Do đó, đi tìm lời giải về vốn hay nói cách khác là các
biện pháp nâng cao khả năng huy động vốn của doanh nghiệp là vấn đề mang tính thời
sự và thiết thực đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
Là một doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực thương mại, Công Cổ phần thương
mại Hà My đương nhiên không nằm ngoài xu thế này. Trong quá trình thực tập tại Công
ty, được sự giúp đỡ và hướng dẫn rất nhiệt tình của cô giáo hướng dẫn và các anh chị
trong Công ty, em đã bước đầu được làm quen với thực tế, nghiên cứu tình hình hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, vận dụng lý luận vào thực tiễn và từ thực tiễn làm
sáng tỏ hơn những lý luận được nghiên cứu trong nhà trường.
Với mong muốn đề xuất một số giải pháp nhằm hỗ trợ phát triển loại doanh nghiệp,
khai thác tốt hơn tiềm năng kinh tế của loại hình doanh nghiệp này, em xin chọn đề
tài:
“Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Doanh nghiệp vừa và nhỏ- Công ty Cổ
phần thương mại Hà My”.
Đây là vấn đề có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh và khả năng cạnh tranh
của Công ty trên thị trường quốc tế.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề của em gồm ba phần:
SV: Nguyễn Thị Chinh BH211388- NH21.26
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Chương 1: Các hình thức huy động vốn trong Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam
Chương 2: Thực trạng huy động vốn tại công ty CPTM Hà My
Chương 3: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại công ty CPTM Hà My


Bằng những kiến thức thu thập được trong thời gian học tập ở trường và những kiến thức
có được qua học hỏi thầy cô, bạn bè, các anh chị trong công ty CPTM Hà My, đặc biệt là
sự chỉ bảo tận tình của cô giáo hướng dẫn em đã hoàn thành luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn cô, các anh chị trong công ty CPTM Hà My, các thầy cô
giáo trong khoa và bạn bè đã giúp đỡ em trong thời gian vừa qua.
SV: Nguyễn Thị Chinh BH211388- NH21.26
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG 1: CÁC HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN
TRONG DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VIỆT NAM
1.1GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1.1 Khái niệm về các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Ở hầu hết các quốc gia, DNVVN luôn chiếm trên 90% số lượng các doanh nghiệp
trong nền kinh tế. Nếu xét về lực lượng lao động thì các DNVVN tạo công ăn việc
làm cho từ 1/2 đến 2/3 lao động quốc gia (Canada 42%, Đức 50%, Pháp 47,7%, Đài
Loan 79%, Nhật 80,6%) và đóng góp từ 1/3 đến ¼ giá trị GDP hàng năm (Mỹ 39%,
Pháp 45%, Bỉ 36%, Anh 26,6%).
Hiện nay trên thế giới vẫn chưa đề ra những tiêu chuẩn chung thống nhất, rõ ràng để
xác định như thế nào là một DNVVN. Do vậy, khái DNVVN tại các nước là khác
nhau. Một số nước căn cứ vào số lượng lao động làm tiêu thức so sánh. Có nước xếp
loại DNVVN là những doanh nghiệp có số lượng lao động dưới 200 người. Tại Thái
Lan, nếu dùng dưới 100 lao động và số vốn dưới 4 triệu đôla thì được coi là
DNVVN. Ở Nhật trong ngành khai khoáng, xí nghiệp có dưới 300 lao động và vốn
dưới 300 triệu Yên là doanh nghiệp nhỏ. Với Cộng hòa Liên Bang Đức, DNVVN sử
dụng lao động nhỏ hơn 500 và doanh số hàng năm dưới 100 triệu Mac Đức. Ở Đài
Loan, doanh nghiệp có vốn dưới 4 triệu Nhân dân tệ được xem là DNVVN.
Mặc dù khái niệm DNVVN đã được biết đến trên thế giới từ những năm đầu của thế
kỷ XX, và khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ được các nước quan tâm phát triển từ
những năm 50 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, ở Việt Nam, khái niệm DNVVN được biết
đến từ những năm 1990 đến nay.

Theo thông tư liên bộ số 21/LĐTT ngày 17-6-1993 của Bộ Lao động Thương binh Xã
SV: Nguyễn Thị Chinh BH211388- NH21.26
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
hội và Bộ Tài chính, các doanh nghiệp ở Việt Nam được phân thành 5 hạng: hạng đặc
biệt, hạng I, II, III và IV dựa trên mức độ phức tạp của quản lý và hiệu quả sản xuất
kinh doanh với 8 tiêu chí rất phức tạp như vốn, công nghệ, lao động, doanh thu, lợi
nhuận… Đối tượng phân loại chủ yếu chỉ giới hạn trong các doanh nghiệp Nhà nước
với mục đích là để xếp thang bậc lương cho cán bộ quản lý doanh nghiệp.
Trước năm 1998, một số địa phương, tổ chức đã xác định DNVVN dựa trên các tiêu
chí khác nhau như: số lao động dưới 50 người, giá trị tài sản cố định dưới 10 tỷ, số dư
vốn lưu động dưới 8 tỷ đồng và doanh thu hàng tháng dưới 20 tỷ đồng. Ở thành phố
Hồ Chí Minh, những doanh nghiệp có vốn pháp định trên 1 tỷ đồng, lao động trên
100 người, và doanh thu hàng năm trên 10 tỷ đồng là doanh nghiệp vừa, còn dưới
giới hạn trên là doanh nghiệp nhỏ. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, cần phân định
doanh nghiệp vừa và nhỏ theo lĩnh vực sản xuất và dịch vụ. Trong lĩnh vực sản xuất,
doanh nghiệp có số vốn dưới 1 tỷ đồng, lao động dưới 100 người là doanh nghiệp
nhỏ; doanh nghiệp có từ 1 đến 10 tỷ đồng và số lao động từ 100 đến 500 người là
doanh nghiệp vừa. Trong thương mại dịch vụ, doanh nghiệp có số vốn dưới 500 triệu
đồng và lao động dưới 50 người là doanh nghiệp nhỏ; doanh nghiệp có số vốn từ 500
triệu đến 5 tỷ đồng và có từ 50 đến 250 lao động là doanh nghiệp vừa.
Ngày 20-6-1998, Chính phủ đã có công văn số 681/CP-KCN về việc định hướng
chiến lược và chính sách phát triển các DNVVN. Theo công văn này, DNVVN là
những doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng và lao động thường xuyên dưới 200
người. Việc áp dụng một trong hai tiêu chí hoặc cả hai tùy thuộc vào điều kiện cụ thể
của từng địa phương, từng ngành, từng lĩnh vực. Đây có thể được coi là văn bản đầu
tiên đưa ra tiêu chí xác định DNVVN.
Ngày 23-11-2001, Chính phủ ban hành Nghị định số 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát
triển DNVVN. Theo Nghị định này, DNVVN là doanh nghiệp có số vốn đăng ký dưới
10 tỷ đồng Việt Nam hoặc số lao động bình quân hàng năm dưới 300 người. Đây là

văn bản pháp luật đầu tiên chính thức quy định về DNVVN. Từ đó đến nay, khái
SV: Nguyễn Thị Chinh BH211388- NH21.26
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
niệm DNVVN. được hiểu và áp dụng thống nhất trong cả nước. Theo đó, DNVVN
bao gồm:
− Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam.
− Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp Nhà nước.
− Các hợp tác xã thành lập và hoạt động theo Luật hợp tác xã.
− Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định số 02 /2000/NĐ-CP ngày
03/02/2000 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh.
1.1.2 Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam
Đặc điểm của các DNVVN xuất phát trước hết từ chính quy mô của doanh nghiệp.
Do đặc trưng của nền kinh tế chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên các DNVVN Việt Nam có những
đặc điểm sau:
− Các DNVVN Việt Nam thuộc nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình thức tổ
chức doanh nghiệp, bao gồm doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp và các công
ty tư nhân, các hợp tác xã. Từ đó xuất hiện sự phân biệt đối xử giữa các doanh
nghiệp thuộc các thành phần khác nhau. Điều này làm ảnh hưởng đến tâm lý,
phong cách kinh doanh của các doanh nghiệp hiện nay, đồng thời tạo ra những
điểm xuất phát về tiếp cận nguồn lực không như nhau (trong giao đất, trong vay
vốn ngân hàng…).
− Là những doanh nghiệp có quy mô vốn và lao động nhỏ, đây thường là những
doanh nghiệp khởi sự thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Đặc điểm này đã làm cho các
doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong quá trình hoạt động của mình. Nguyên
nhân là do các doanh nghiệp này chưa có kinh nghiệm huy động vốn kinh doanh.
Ngoài ra, các tổ chức cung ứng vốn xem khu vực này có nhiều rủi ro nên chưa sẵn
SV: Nguyễn Thị Chinh BH211388- NH21.26

5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
sàng cấp tín dụng.
− Khả năng quản lý hạn chế do các chủ doanh nghiệp thường là những người tự
đứng ra thành lập và vận hành doanh nghiệp. Họ là những người vừa quản lý vừa
tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh nên mức độ chuyên môn
trong quản lý không cao. Phần lớn chủ doanh nghiệp thường không được đào tạo
về quản lý chính quy hoặc không qua khóa đào tạo nào.
− Trình độ tay nghề của người lao động thấp. Các chủ DNVVN không đủ khả năng
cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn trong việc thuê lao động có tay nghề cao do
hạn chế về tài chính… Bên cạnh đó, định kiến của người lao động cũng như
những người thân của họ về khu vực này còn khá lớn. Người lao động ít được đào
tạo vì kinh phí hạn hẹp nên trình độ và kỹ năng thấp. Ngoài ra, sự không ổn định
khi làm việc cho các doanh nghiệp này, cơ hội để phát triển thấp cũng là lý do
không thu hút được lao động có kỹ năng cao.
− Khả năng về công nghệ thấp do không đủ tài chính cho nghiên cứu triển khai,
nhiều DNVVN có những sáng kiến công nghệ tiên tiến nhưng không đủ tài chính
cho việc nghiên cứu triển khai nên không thể hình thành công nghệ mới hoặc bị
các doanh nghiệp lớn mua lại với giá rẻ. Tuy nhiên, các DNVVN rất linh hoạt
trong việc thay đổi công nghệ sản xuất do giá trị của dây chuyền công nghệ
thường thấp và họ thường có những sáng kiến đổi mới công nghệ phù hợp với quy
mô của mình từ những công nghệ cũ và lạc hậu. Điều này thể hiện tính linh hoạt
trong đổi mới công nghệ và tạo nên sự khác biệt về sản phẩm để các doanh nghiệp
này có thể tồn tại trên thị trường.
− Các DNVVN Việt Nam thường sử dụng chính những diện tích đất riêng của mình
làm mặt bằng sản xuất, và cũng rất khó thuê mặt bằng sản xuất. Vì vậy, các
DNVVN rất khó khăn trong việc mở rộng sản xuất kinh doanh khi quy mô doanh
nghiệp được mở rộng. Một số doanh nghiệp thuê được đất thì gặp nhiều trở ngại
SV: Nguyễn Thị Chinh BH211388- NH21.26
6

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
trong việc giải phóng mặt bằng và đền bù.
− Khả năng tiếp cận thị trường kém, đặc biệt đối với thị trường nước ngoài. Nguyên
nhân chủ yếu là do các DNVVN thường là những doanh nghiệp mới hình thành,
khả năng tài chính cho các hoạt động tiếp thị không có và cũng chưa có nhiều
khách hàng truyền thống. Thêm vào đó, quy mô thị trường của các doanh nghiệp
này thường bó hẹp trong phạm vi địa phương, việc mở rộng ra các thị trường mới
là rất khó khăn.
1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam trong nền kinh tế thị
trường.
Với số lượng các doanh nghiệp mới thành lập ngày càng tăng nhanh, đóng góp của
khu vực DNVVN ngày càng lớn đối với toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, vai trò của các
DNVVN ngày càng lớn đối nền kinh tế xã hội Việt Nam và được thể hiện trên các
mặt sau:
Thứ nhất, DNVVN đóng góp quan trọng vào GDP và tốc độ tăng trưởng kinh tế.
DNVVN ngày càng đóng góp nhiều hơn vào tổng GDP do số lượng doanh nghiệp
ngày càng lớn và phân bổ rộng khắp trong hầu hết các ngành, các lĩnh vực. Ngoài ra,
tốc độ tăng trưởng sản xuất của khu vực DNVVN thường cao hơn so với các khu vực
doanh nghiệp khác. Cụ thể, DNVVN đang chiếm giữ vị trí đặc biệt trong một số
ngành như: hoạt động khoa học công nghệ chiếm 94,1%, sửa chữa ô tô, xe máy, đồ
dùng chiếm 93%, giáo dục đào tạo 87,5%, công nghiệp chế biến 86%, xây dựng
85,7% Đáng chú ý DNVVN tập trung mạnh vào 7 phân ngành thuộc công nghiệp
chế biến, chiếm 81% tổng giá trị sản lượng toàn ngành. Hàng năm, các DNVVN đóng
góp khoảng 40% GDP, 30% giá trị sản lượng công nghiệp, 78% tổng mức bán lẻ, …
Thứ hai, DNVVN góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Các doanh nghiệp thành
lập ở các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu vùng xa sẽ làm giảm tỷ trọng nông
nghiệp và tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ. Điều này sẽ giúp cho việc
chuyển dịch cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông
SV: Nguyễn Thị Chinh BH211388- NH21.26
7

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ.
Thứ ba, DNVVN làm tăng hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Với sự
tồn tại của nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành, lĩnh vực sẽ làm giảm
tính độc quyền và buộc các doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh, phải liên tục
đổi mới để tồn tại và phát triển. Với sự linh hoạt của mình, các DNVVN cũng sẽ tạo
sức ép cạnh tranh với các công ty lớn. Ngoài ra, nhiều DNVVN còn đóng vai trò là vệ
tinh cho các doanh nghiệp lớn, thúc đẩy quá trình chuyên môn hóa và phân công lao
động sản xuất, làm tăng hiệu quả của các DNVVN cũng như các công ty hợp tác.
Bên cạnh đó, DNVVN đóng góp không nhỏ vào ngân sách Nhà nước. Mặc dù đóng
góp ngân sách của DNVVN vào thu ngân sách còn nhỏ, nhưng tỷ lệ này đã tăng đáng
kể và có xu hướng tăng nhanh trong những năm gần đây từ khoảng 6,4% năm 2001
lên hơn 7,2% năm 2002.
Ngoài ra, DNVVN đóng góp vào quá trình tăng tốc độ áp dụng công nghệ mới. Với
sự linh hoạt của mình, các DNVVN là ngưới đi tiên phong trong việc áp dụng các
phát minh mới về công nghệ mới cũng như các sáng kiến về kỹ thuật. Do áp lực cạnh
tranh nên các DNVVN thường xuyên phải cải tiến công nghệ, tạo sự khác biệt để có
thể cạnh tranh thành công. Mặc dù không tạo ra được những phát minh, sáng kiến
mang tính đột phá nhưng nó là những tiền đề cho sự thay đổi về công nghệ.
Mặt khác, DNVVN đã tạo ra nhiều việc làm mới, giảm áp lực về việc làm và thất
nghiệp. Hiện nay, do tỷ lệ dân số tăng cao trong những năm trước đây nên vấn đề giải
quyết việc làm đang trở nên cấp thiết. Doanh nghiệp Nhà nước đang thực hiện sắp
xếp lại nên không những không thể thu hút thêm lao động mà còn tăng thêm số lao
động dôi dư, trong khi khu vực nước ngoài lại không tạo ra tỷ lệ việc làm đáng kể. Do
đó, phần lớn số người tham gia lực lượng lao động này trông chờ vào khu vực nông
thôn và khu vực DNVVN. Các DNVVN đã tạo ra nhiều việc làm mới với tốc độ tăng
trưởng cao, góp phần tăng thu nhập của người lao động, cải thiện đời sống kinh tế xã
SV: Nguyễn Thị Chinh BH211388- NH21.26
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

hội ngày một tốt hơn.
DNVVN còn đóng góp không nhỏ vào xuất khẩu. Với đặc điểm nền kinh tế kém phát
triển, các ngành nghề ở nông thôn chủ yếu là sản xuất nhỏ và là những ngành nghề
truyền thống, những ngành nghề có khả năng xuất khẩu như dệt may, thủy sản…
cũng có nhiều DNNVV tham gia. Vì vậy, các DNNVV là lực lượng rất quan trọng
trong việc tăng cường xuất khẩu.
DNVVN còn là tiền đề tạo ra những doanh nghiệp lớn, đồng thời làm lành mạnh môi
trường đầu tư và kinh doanh. Với những doanh nghiệp thành công, quy mô của các
doanh nghiệp sẽ được mở rộng và nhiều doanh nghiệp trong số này dần dần trở thành
những doanh nghiệp lớn. Ngoài ra, với số lượng lớn, rào cản tham gia thị trường
không lớn sẽ luôn có nghiều doanh nghiệp mới tham gia thị trường, đồng thời cũng có
nhiều doanh nghiệp phá sản do hoạt động không hiệu quả. Đối với một doanh nghiệp
quy mô nhỏ, việc tham gia hay rút lui khỏi thị trường sẽ không gây tác động lớn đến
nền kinh tế.
Cuối cùng, các DNVVN còn là tiền đề tạo ra một môi trường văn hóa kinh doanh
mang tính kinh tế thị trường, tạo ra những nhà kinh doanh giỏi. Đây là điều rất cần
thiết đối với Việt Nam hiện nay. Chúng ta đã ở trong giai đoạn kinh tế kế hoạch hóa
tập trung khá lâu, vì vậy, môi trường văn hóa kinh doanh mang tính thị trường đã có
lúc gần như không tồn tại hoặc không có cơ hội phát triển, đội ngũ doanh nhân giỏi,
có khả năng điều hành doanh nghiệp trong điều kiện quốc tế hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế rất hạn chế. Do đó, tạo ra một môi trường văn hóa kinh doanh mang tính thị
trường cũng như một đội ngũ kinh doanh giỏi là yếu tố quan trọng để Việt Nam có
thể hội nhập quốc tế thành công.
Tóm lại, với những đặc điểm vốn có và các đóng góp còn hạn chế, song khu vực
các DNVVN đã thể hiện vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế quốc dân. Vai
trò này của khu vực kinh tế này đang ngày càng tăng lên với đóng góp ngày càng
SV: Nguyễn Thị Chinh BH211388- NH21.26
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
quan trọng hơn. Do đó, để những đóng góp này ngày một rộng lớn, khắc phục được

những khó khăn về quy mô hoạt động để khu vực này tiếp tục đóng vai trò quan
trọng của mình đối với nền kinh tế và xã hội thì cần có các chính sách hỗ trợ cho các
DNVVN phát triển. Đây vừa là vấn đề tất yếu, vừa là vấn đề cấp thiết trong giai
đoạn hiện nay và sắp tới, đặc biệt là trong quá trình cạnh tranh và hội nhập quốc tế.
1.2 CÁC HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TRONG DOANH NGHIỆP
1.2.1 Mục tiêu huy động vốn của doanh nghiệp
Vốn là điều kiện không thể thiếu được để thành lập một doanh nghiệp và tiến hành
các hoạt động sản xuất kinh doanh. Mục tiêu quan trọng nhất của hoạt động huy động
vốn của doanh nghiệp là đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra thuận lợi.
Trong mọi loại hình doanh nghiệp, vốn được đầu tư vào sản xuất kinh doanh với mục
đích cơ bản là tạo ra lợi nhuận cho chủ sở hữu.
Trong nền kinh tế thị trường vốn của doanh nghiệp được coi là toàn bộ giá trị được
ứng ra ban đầu và các quá trình sản xuất tiếp theo, tức là không tham gia vào một quá
trình sản xuất riêng biệt nào mà trong suốt thời gian tồn tại của doanh nghiệp, từ lúc mới
hình thành đến lúc kết thúc.
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, mọi hoạt động từ việc xác định mục tiêu cho đầu
tư dài hạn, tìm nguồn tài trợ cho đến việc đưa ra các quyết định tài chính ngắn hạn - tức
là ba vấn đề quan trọng đầu tiên của doanh nghiệp, đều gắn liền tới các hoạt động có liên
quan đến vốn. Như vậy rõ ràng, vốn là bộ phận không thể thiếu trong quá trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp và do đó việc huy động, đảm bảo đầy đủ kịp thời vốn cho
nhu cầu sản xuất có tác động mạnh mẽ đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
Việc huy động đủ vốn đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra liên
tục từ khâu mua sắm vật tư, sản xuất, cho đến tiêu thụ sản phẩm. Hơn nữa, trong nền
kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, các doanh nghiệp muốn tồn tại phải có được các bí
SV: Nguyễn Thị Chinh BH211388- NH21.26
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
quyết, các công nghệ tiên tiến để nâng cao năng suất lao động, sản xuất ra các sản phẩm
có chất lượng cao, hạ giá thành sản phẩm… Để thực hiện được điều này, doanh nghiệp

cần phải có vốn để hoạt động và đầu tư.
Huy động vốn có ý nghĩa quyết định đến quy mô hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Nếu doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh nhất là trong thời đại
bùng nổ khoa học và công nghệ như ngày nay thì nhu cầu vốn lại càng trở nên quan
trọng hơn bao giờ hết và có xu thế tăng không ngừng. Nó giúp doanh nghiệp có thể chớp
được thời cơ kinh doanh và tạo lợi thế trong cạnh tranh.
Huy động vốn còn ảnh hưởng đến phạm vi hoạt động hay việc đa dạng hoá ngành
nghề kinh doanh của doanh nghiệp. Thông thường, khi muốn tham gia kinh doanh vào
một lĩnh vực mới nào, doanh nghiệp cũng phải có một lượng tiền lớn cho việc đầu tư
máy móc sản xuất, dây chuyền công nghệ, xây dựng hệ thống phân phối sản phẩm…
Nếu không có khả năng tài chính mạnh doanh nghiệp khó có thể thực hiện được hoạt
động này dù là ngay ở những bước đầu tiên như phân tích thị trường, xây dựng phương
án kinh doanh…
Cuối cùng, việc đảm bảo nguồn vốn kinh doanh còn giúp doanh nghiệp chống đỡ
được những tổn thất, rủi ro trong quá trình hoạt động, đặc biệt là những lĩnh vực kinh
doanh nhiều rủi ro như ngân hàng.
Như vậy, có thể thấy, huy động vốn là hoạt động có ý nghĩa đối với quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thực tiễn nền kinh tế trong những năm qua cũng cho
thấy doanh nghiệp nào có lượng vốn càng lớn thì càng có thế chủ động trong kinh doanh
và có thể thắng được trong cạnh tranh. Ngược lại doanh nghiệp nào thiếu vốn kinh
doanh, không có chiến lược tài trợ trước mắt cũng như lâu dài thường đánh mất vai trò
của mình trên thị trường, mất bạn hàng thường xuyên ổn định, không tạo ra sức mạnh và
hiệu quả tổng hợp trong kinh doanh.
1.2.2 Các hình thức huy động vốn
Để chủ động kinh doanh theo các phương án đầu tư đã chọn, các doanh nghiệp phải
SV: Nguyễn Thị Chinh BH211388- NH21.26
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chủ động về nguồn vốn. Do đó, việc xác định quy mô lựa chọn nguồn cung cấp vốn
kinh doanh có ý nghĩa rất quan trọng. Trong nền kinh tế thị trường, một doanh

nghiệp hoạt động chủ yếu dựa vào hai nguồn vốn: nguồn vốn chủ sở hữu và nợ phải
trả. Tương ứng với mỗi nguồn có những cách huy động vốn khác nhau.
 Đối với nguồn vốn chủ sở hữu, doanh nghiệp huy động theo các phương
pháp sau:
− Huy động vốn góp ban đầu của các chủ sở hữu: đây là nguồn vốn ban đầu do
các chủ sở hữu doanh nghiệp trực tiếp đầu tư khi thành lập doanh nghiệp. Tuỳ
theo loại hình sở hữu của doanh nghiệp mà nguồn vốn này được tạo lập theo
các hình thức khác nhau. Cụ thể: doanh nghiệp Nhà nước thì do ngân sách Nhà
nước cấp vốn; doanh nghiệp sở hữu một chủ thì vốn ban đầu là do chính chủ
sở hữu đầu tư; các doanh nghiệp thuộc sở hữu tập thể thì vốn đầu tư ban đầu
được hình thành từ sự tham gia đóng góp của các thành viên cổ đông.
Để huy động được nguồn vốn này một cách hiệu quả, doanh nghiệp có thể vận
động các nguồn tiết kiệm nhàn rỗi từ người thân, bạn bè… Ngoài ra, doanh
nghiệp cần có phương án kinh doanh khả thi và hấp dẫn nhằm thu hút các
thành viên góp vốn.
− Huy động vốn từ lợi nhuận sau thuế: trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp
có thể làm tăng nguồn vốn chủ sở hữu bằng thình thức tái đầu tư lợi nhuận thu
được. Nghĩa là lợi nhuận sẽ được đưa trở lại quá trình kinh doanh nhằm tăng
thêm nuồn vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, nguồn vốn này phụ thuộc vào quy mô
lợi nhuận kiếm được trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
Để có được nguồn vốn từ lợi nhuận sau thuế, doanh nghiệp sẽ không chia lợi
nhuận mà tái đầu tư thành vốn kinh doanh. Mặt khác, doanh nghiệp có thể chia
lợi nhuận dưới hình thức cổ phiếu cho cổ đông. Phương pháp này vừa tăng
nguồn vốn kinh doanh, vừa tạo cho các thành viên góp vốn cảm giác an toàn vì
đã nhận được kết quả từ đồng vốn mình bỏ ra.
SV: Nguyễn Thị Chinh BH211388- NH21.26
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
− Huy động nguồn vốn bổ sung bằng cách kết nạp thêm thành viên mới: khi cần
tăng thêm quy mô kinh doanh, các doanh nghiệp thuộc loại hình công ty có thể

huy động thêm vốn bằng cách kêu gọi thêm các nhà đầu tư mới. Tuy nhiên,
hình thức huy động này sẽ dẫn đến tình trạng các nhà đầu tư cũ phải phân chia
quyền kiểm soát doanh nghiệp và lợi ích kinh tế cho các nhà đầu tư mới.
Để huy động nguồn vốn này có hiệu quả, doanh nghiệp cần cân nhắc thận
trọng giữa sự tăng quy mô hoạt động với sự chia sẻ lợi nhuận; giữa sự tăng quy
mô hoạt động với lượng vốn cần tăng để tránh tình trạng lãng phí vốn và giảm
lợi nhuận được chia.
Nguồn vốn chủ sở hữu có những ưu điểm sau như: doanh nghiệp được chủ động
trong đầu tư lâu dài mà không bị áp lực về thời gian sử dụng; tạo ra năng lực tài chính
mang lại sự an toàn, uy tín trong kinh doanh; tạo ra khả năng huy động các nguồn vốn
khác.
 Nợ phải trả: là số tiền doanh nghiệp đi chiếm dụng hoặc vay mượn làm vốn
kinh doanh, và phải cam kết thanh toán cho các chủ sở hữu đó trong một thời
gian nhất định. Để bổ sung vốn cho kinh doanh, doanh nghiệp phải huy động
từ các hình thức:
− Huy động từ vốn tín dụng ngân hàng: vốn vay ngân hàng là một trong những
nguồn quan trọng để tài trợ vốn cho doanh nghiệp. Do đặc điểm luân chuyển vốn
trong quá trình kinh doanh là luôn tạo ra sự không ăn khớp về thời gian và quy mô
giữa nhu cầu vốn và khả năng tài trợ nên dẫn đến tình trạng thiếu hụt vốn. Phần
thiếu hụt này chỉ có thể giải quyết bằng nguồn vốn vay ngân hàng. Ngân hàng
thương mại có thể cung cấp vốn tương ứng với thời gian và quy mô mà doanh
nghiệp có nhu cầu dưới các hình thức sau:
 Căn cứ vào thời gian, ngân hàng có thể cho vay theo các hình thức:
Cho vay ngắn hạn: là hình thức cấp tín dụng thời hạn dưới một năm.
SV: Nguyễn Thị Chinh BH211388- NH21.26
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Cho vay trung hạn: là hình thức cấp tín dụng thời hạn từ một đến ba năm.
Cho vay dài hạn: là hình thức cấp tín dụng thời hạn trên ba năm.
 Căn cứ vào tính chất đảm bảo cho vay:

Cho vay tín chấp: là hình thức cho vay không cần tài sản đảm bảo, thường áp
dụng cho các doanh nghiệp có uy tín, thường xuyên quan hệ với ngân hàng.
Cho vay có đảm bảo: cho vay cầm cố, cho vay thế chấp tài sản, cho vay có bảo
lãnh, nghiệp vụ chiết khấu chứng từ ghi nợ.

Căn cứ vào hình thức cho vay:
Cho vay từng lần: mỗi lần vay vốn khách hàng và tổ chức tín dụng thực hiện
thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng.
Cho vay theo hạn mức tín dụng: Tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và
thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất
định.
Cho vay theo dự án đầu tư: Tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn để
thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự
án đầu tư phục vụ đời sống.
Cho vay trả góp: khi vay vốn, tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả
thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo
nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay.
Nguồn vốn tín dụng có những ưu điểm như: đáp ứng kịp thời nhu vầu vốn kinh
doanh; lãi suất vay được hạch toán vào chi phí kinh doanh, nên có sự chia sẻ về lợi
ích kinh tế giữa các nhà đầu tư và Nhà nước; dù tăng vốn nhưng các ngân hàng không
chi phối trực tiếp sự quản lý và điều hành kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên,
khi sử dụng phương thức huy động này, doanh nghiệp phải có tài sản đảm bảo cho số
tiền vay, nghĩa là doanh nghiệp phải thanh toán cho ngân hàng đúng hạn. Do đó, số
tiền vay không phải là vô hạn và quy mô vốn vay phụ thuộc vào độ tín nhiệm của
SV: Nguyễn Thị Chinh BH211388- NH21.26
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
người đi vay.
− Huy động vốn từ tín dụng thương mại: nguồn vốn này hình thành trong quan hệ
mua bán chịu giữa các doanh nghiệp với nhau. Đây là loại hình tín dụng ngắn hạn,

nó thường được thực hiện giữa các doanh nghiệp khi có sự tín nhiệm và thiết lập
được quan hệ cung ứng thường xuyên. Do chu kỳ sản xuất kinh doanh và luân
chuyển vốn giữa các doanh nghiệp có sự tách biệt nên sẽ dẫn đến hiện tượng,
trong cùng một thời điểm, một doanh nghiệp đang có sẵn một lượng hàng cần bán
trong khi một doanh nghiệp khác đang cần mua lượng hàng ấy. Trong trường hợp
này, trên cơ sở quen biết, tín nhiệm nhau, họ có thể thỏa thuận quan hệ vay mượn.
Như vậy, người mua dù chưa đủ tiền nhưng vẫn có được lượng hàng cần và sẽ
hoàn trả cho người bán theo thời hạn thoả thuận.
− Nguồn vốn CTTC: thuê mua tài chính là một phương thức tài trợ tín dụng trung
hạn hay dài hạn không thể hủy ngang. Theo đó, người cho thuê cam kết mua tài
sản, thiết bị theo yêu cầu của người đi thuê hoặc người cho thuê cung cấp tài sản
của họ cho người đi thuê. Như vậy người cho thuê nắm giữ quyền sở hữu pháp lý,
còn người đi thuê ngoài các lợi ích như gia tăng năng lực sản xuất, tiết kiệm thời
gian và công sức để hoàn thành thủ tục mua tài sản nếu không đi thuê tài chính…
còn giải quyết vấn đề đổi mới công nghệ. Ngoài ra, phương thức này có ưu điểm
như bên đi thuê nhận tài sản (100% vốn vay) mà không phải thế chấp giá trị tài
sản, còn bên cho thuê thì hạn chế được rủi ro, đảm bảo vốn vay được sử dụng
đúng mục đích, an toàn. Theo hình thức này, doanh nghiệp cần vốn trang bị máy
móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác… sẽ được các công ty
CTTC đáp ứng.
Nguồn vốu ưu đãi của Nhà nước: là một trong các kênh huy động vốn của
DNVVN, các nguồn vốu ưu đãi của Nhà nước hiện nay được cung cấp cho các
doanh nghiệp thông qua các Quỹ hỗ trợ phát triển, Quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Các quỹ
SV: Nguyễn Thị Chinh BH211388- NH21.26
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
này là các tổ chức tài chính của Nhà nước Việt Nam, được thành lập với mục đích
cung cấp tín dụng ưu đãi cho các dự án vay vốn đầu tư nếu đáp ứng một số điều
kiện nhất định.
− Các nguồn vốn chiếm dụng hợp pháp như tiền lương, bảo hiểm xã hội, tiền thuế

chưa nộp, các khoản thanh toán khác là những nguồn vốn mà doanh nghiệp có
thể sử dụng trong một thời gian ngắn nhằm giải quyết phần nào nhu cầu vốn trong
quá trình kinh doanh. Tuy nhiên, với việc chiếm dụng này, phải lưu ý đến khả
năng thanh toán kịp thời các khoản nợ khi đến hạn, các quy định về pháp luật mà
doanh nghiệp phải tuân thủ như thời hạn nộp thuế, xử phạt…
Tóm lại, hoạt động trong điều kiện môi trường đã có các nguồn vốn tiềm năng cho
kinh doanh, việc lựa chọn hình thức huy động vốn, số lượng vốn huy động tuỳ thuộc
vào điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp, khả năng và hiệu quả của từng nguồn
vốn cấp. Mỗi hình thức huy động có những điểm mạnh, điểm yếu khác nhau nên
doanh nghiệp sẽ phải cân nhắc cẩn thận trước khi quyết định hình thức huy động vốn
sao cho có hiệu quả nhất trong quá trình kinh doanh.
1.2.3 Kết quả huy động vốn của doanh nghiệp
Trong cách hình thức huy động vốn của doanh nghiệp, hình thức huy động vốn chủ sở
hữu mang lại kết quả lớn nhất. Bởi vì đây là nguồn vốn ban đầu do các chủ doanh
nghiệp góp lại để đưa doanh nghiệp đi vào hoạt động. Nếu vốn góp chủ sở hữu không
đủ để duy trì tất cả các hoạt động của doanh nghiệp thì các chủ doanh nghiệp sẽ nghĩ
đến các hình thức huy động vốn khác. Hình thức mà các chủ doanh nghiệp thường áp
dụng là vay vốn ngân hang. Tuy nhiên hình thức huy động vốn này thường ít mang lại
hiệu quả cao bởi thường các ngân hang đều yêu cầu các khoản tài sản thế chấp và lãi
suất ngân hang tương đối cao. Mặc dù trong những năm gần đây các ngân hàng đã
chú trọng đến việc cấp vốn cho doanh nghiệp nhưng những rào cản như tài sản thế
chấp, lãi suất cao… đã gây không ít khó khăn cho doanh nghiệp.
SV: Nguyễn Thị Chinh BH211388- NH21.26
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
1.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả huy động vốn
Trong nền kinh tế thị trường, khả năng huy động vốn của doanh nghiệp chịu tác
động của nhiều nhân tố, cả nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan.
1.2.4.1. Nhân tố chủ quan.
Nhân tố củ quan ảnh hưởng lớn tới kết quả huy động vốn của doanh nghiệp chính là

chi phí vốn, cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Vốn là nhân tố cần thiết của sản xuất. Cũng
như bất kỳ một nhân tố nào khác, để sử dụng vốn, doanh nghiệp cần phải bỏ ra một chi
phí nhất định. Chi phí của mỗi nhân tố cấu thành gọi là chi phí nhân tố cấu thành của loại
vốn cụ thể đó.
Chi phí vốn là một nhân tố ảnh hưởng lớn đến khả năng huy động vốn của doanh
nghiệp. Đây chính là khoản tiền mà doanh nghiệp phải bỏ ra để được sử dụng vốn hay
chính là tỷ lệ sinh lợi cần thiết mà người chủ sở hữu của khoản tiền đó yêu cầu. Các nhà
đầu tư chỉ chấp nhận cung cấp vốn cho doanh nghiệp khi họ được trả một khoản lãi xứng
đáng và thông thường những người này luôn mong muốn một lãi suất cao. Tuy nhiên,
nhà doanh nghiệp không thể trả lãi suất quá cao cho nhà đầu tư, họ luôn phải cân nhắc
sao cho lợi nhuận thu được từ nguồn vốn huy động đó không làm giảm số lợi nhuận dành
cho chủ sở hữu doanh nghiệp. Do đó, các doanh nghiệp luôn có xu hướng tìm kiếm
những nguồn vốn có chi phí thấp.
Tuy nhiên, một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hiếm khi chỉ sử dụng một
nguồn vốn để tài trợ cho toàn bộ hoạt động kinh doanh của mình ngay cả khi đó là nguồn
có chi phí thấp hơn các nguồn khác. Thông thường, trong một doanh nghiệp có hai loại
vốn cơ bản là vốn chủ sở hữu và vốn vay. Một doanh nghiệp ít nợ, nhiều vốn tự có sẽ
làm cho các bạn hàng tin tưởng bỏ vốn ra cho vay hay góp vốn cùng đầu tư. Nhưng
nguồn vốn này không nên ở mức quá lớn. Chủ doanh nghiệp nên có một phần dự trữ để
đề phòng rủi ro hoặc để phát triển khuyếch trương kinh doanh khi có thời cơ. Mặt khác,
với việc tăng vốn thông qua vay nợ, chủ doanh nghiệp có thể tăng được thu nhập trên
SV: Nguyễn Thị Chinh BH211388- NH21.26
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
vốn chủ sở hữu mà vẵn nắm quyền kiểm soát và điều hành doanh nghiệp. Song, nếu tỷ lệ
nợ quá cao, doanh nghiệp dễ bị rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Do đó, trong
quản trị tài chính, các nhà quản lý phải xây dựng được cơ cấu vốn tối ưu, đảm bảo một tỷ
lệ hợp lý giữa vốn chủ sở hữu và nợ vay sao cho lợi ích thu được là cao nhất. Đó là cơ
cấu hướng tới sự cân bằng giữa rủi ro và lãi suất và nhờ đó tối đa hoá giá trị của doanh
nghiệp.

Trên cơ sở cơ cấu tối ưu (cơ cấu mục tiêu) được thiết lập phù hợp với tình hình cụ
thể của doanh nghiệp, các nhà quản lý mới tiến hành huy động vốn theo cách giữ cơ cấu
vốn thực tế theo cơ cấu vốn tối ưu sao cho lợi nhuận thu được là cao nhất. Có bốn nhân
tố chủ yếu tác động đến những quyết định về cơ cấu vốn của doanh nghiệp:
- Rủi ro trong kinh doanh được coi là một trong những nhân tố có tác động đến
việc lựa chọn nguồn tài trợ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Rủi ro đề cập
đến ở đây là rủi ro cố hữu của tài sản của doanh nghiệp nếu doanh nghiệp không sử dụng
nợ. Như vậy, đối với những doanh nghiệp hoạt động trong những lĩnh vực có rủi ro kinh
doanh lớn thì việc sử dụng nợ nhiều không phải là một giải pháp huy động tối ưu.
- Nhân tố thứ hai là vấn đề thuế thu nhập doanh nghiệp. Trong trường hợp thuế suất
thuế thu nhập của doanh nghiệp cao thì việc sử dụng nợ nhiều hơn sẽ có lợi vì khi sử
dụng nợ, phần lãi vay phải trả được tính vào chi phí hợp lý, hợp lệ trước khi tính thuế thu
nhập doanh nghiệp và nhờ đó hạ thấp được chi phí thực tế của nợ. {Chi phí nợ sau thuế =
Chi phí nợ trước thuế*(1- thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp)}.
- Khả năng huy động vốn của doanh nghiệp trong điều kiện thị trường thay đổi hay
khả năng linh hoạt tài chính của doanh nghiệp cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu
vốn của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có khả năng đảm bảo một nguồn vốn ổn định
để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh của mình trong thời gian dài, sẽ dễ dàng hơn
trong việc kêu gọi nguồn tài trợ từ các nhà đầu tư. Thật vậy, khi đánh giá đặc điểm này
chúng ta có thể thấy rõ ràng là những nhà cung cấp vốn muốn tăng cường tài trợ cho
SV: Nguyễn Thị Chinh BH211388- NH21.26
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
những doanh nghiệp có thể tự chủ về tài chính hơn là những doanh nghiệp thụ động, và
do đó ảnh hưởng tới cơ cấu vốn của doanh nghiệp.
- Nhân tố thứ tư liên quan đến quan điểm của các nhà quản lý về việc sử dụng vốn.
Có những nhà quản lý sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm sử dụng nhiều nợ hơn để tăng lợi
nhuận song có những người lại thích sử dụng nhiều vốn chủ sở hữu hơn vì mục tiêu an
toàn cho doanh nghiệp.
Bốn nhân tố trên quyết định rất lớn đến mục tiêu cơ cấu vốn của doanh nghiệp.

Trong những thời kỳ khác nhau, tuỳ thuộc vào những điều kiện cụ thể của nền kinh tế và
của chính doanh nghiệp, các nhà quản lý sẽ đưa ra một cơ cấu vốn tối ưu để trên cơ sở đó
doanh nghiệp tìm kiếm các nguồn tài trợ cho phù hợp.
Thông thường, các doanh nghiệp luôn hướng tới cơ cấu vốn có chi phí trung bình
của vốn là thấp nhất. Việc xác định chi phí vốn trung bình (WACC) của doanh nghiệp
dựa trên chi phí nhân tố cấu thành của nguồn vốn đó bao gồm chi phí nợ vay sau thuế
(Kd.(1-t), với t là thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp), chi phí cổ phiếu ưu tiên (Kp) và
chi phí lợi nhuận giữ lại (Ks) theo công thức:
WACC = Wd.Kd.(1-t) + Ws.Ks + Wp.Kp
Với Wd, Ws, Wp tương ứng là tỷ trọng của nợ vay, cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu
tiên.
Do mỗi nguồn vốn huy động có chi phí khác nhau nên với cùng một lượng vốn
được huy động nhưng tỷ lệ của các nguồn vốn khác nhau thì chi phí trung bình của vốn
cũng khác nhau.Vì thế, khi quyết định lựa chọn một nguồn vốn nào đó cho kế hoạch tài
trợ của mình, doanh nghiệp luôn luôn phải cân nhắc chi phí và tỷ trọng của chúng sao
cho chi phí trung bình của vốn là thấp nhất. Như vậy, rõ ràng là chi phí vốn và cơ cấu
vốn có ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp tới việc huy động vốn của doanh nghiệp. Doanh
nghiệp sẽ huy động nguồn vốn nào, với quy mô là bao nhiêu không chỉ phụ thuộc vào
chi phí phải trả cho nguồn vốn đó mà còn phụ thuộc vào cơ cấu vốn tối ưu mà doanh
nghiệp đã đặt ra.
SV: Nguyễn Thị Chinh BH211388- NH21.26
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
1.2.4.2 Nhân tố khách quan.
Khả năng huy động vốn của doanh nghiệp phụ thuộc vào những nhân tố bên trong-
những nhân tố của chính bản thân doanh nghiệp. Đó là điều hoàn toàn dễ hiểu như đã
được trình bày ở trên. Tuy nhiên, bên cạnh những nhân tố mang tính chất chủ quan đó,
trong quá trình hoạt động, chính sách huy động vốn của doanh nghiệp còn chịu tác động
của những nhân tố khách quan sau:
 Chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước.

Chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước là một nhân tố có tác động trực tiếp đến
mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, và vì
thế tất nhiên ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn. Trên cơ sở pháp luật kinh tế và các
chính sách kinh tế, Nhà nước tạo môi trường và hành lang cho các doanh nghiệp phát
triển sản xuất kinh doanh và hướng các hoạt động đó theo kế hoạch kinh tế vĩ mô.
Đây là nhân tố mà các doanh nghiệp bắt buộc phải nắm rõ và tuân thủ vô điều kiện
với tư cách là một pháp nhân đối với những quy định của pháp luật. Việc huy động vốn
từ những nguồn nào, theo phương thức gì, với quy mô bao nhiêu… đều phải thực hiện
theo cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước được thể chế hoá bằng các quy định, nghị
định của Chính và các văn bản pháp luật khác. Ví dụ như theo quy định của Luật Doanh
nghiệp thì các doanh nghiệp Nhà nước hoặc công ty cổ phần có thể huy động vốn bằng
cách phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu, trong khi công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ được
phép tăng vốn bằng cách gọi thêm vốn góp từ các thành viên hoặc kết nạp thêm thành
viên mới, hoặc trích từ quỹ của công ty chứ không được phép phát hành cổ phiếu hay trái
phiếu. Hoặc theo nghị định số 27/1999/NĐ-CP ngày 20/4/1999 sửa đổi, bổ sung “ Quy
chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với doanh nghiệp Nhà nước ” ban
hành kèm theo Nghị định số 59/CP ngày 03/10/1996 của Chính phủ, doanh nghiệp Nhà
nước được quyền vay vốn của các tổ chức tín dụng (các ngân hàng thương mại, các Công
SV: Nguyễn Thị Chinh BH211388- NH21.26
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
ty tài chính… ), các doanh nghiệp khác, các cá nhân ( kể cả cán bộ công nhân viên trong
doanh nghiệp) để đầu tư phát triển nhưng lãi suất huy động vốn không được cao hơn lãi
suất cho vay do ngân hàng Nhà nước công bố cùng thời điểm theo từng ngành nghề, thời
hạn vay. Điều này rõ ràng ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của những doanh
nghiệp có nhu cầu mở rộng quy mô kinh doanh nhưng đã huy động hết những nguồn có
chi phí thấp hơn lãi suất cho vay của ngân hàng.
Ngoài ra, chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước trong mỗi thời kỳ cũng ảnh
hưởng không nhỏ đến khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Trong những giai đoạn
Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt thì việc vay vốn ngân hàng để bổ sung

cho nguồn vốn kinh doanh là khá khó khăn đối với doanh nghiệp do lãi suất cho vay cao
đồng thời các thủ tục xin vay cũng chặt chẽ hơn. Thêm vào đó với các chính sách khuyến
khích hay hạn chế phát triển đối với một ngành nghề nào đó cũng sẽ tạo điều kiện hoặc
hạn chế khă năng huy động vốn của các doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề đó. Đây là
yếu tố vĩ mô, có ảnh hưởng khá lớn đến khả năng huy động vốn của doanh nghiệp.
 Các yếu tố của nền kinh tế.
Là một chủ thể của nền kinh tế, mọi hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là hoạt
động huy động vốn gắn bó chặt chẽ và chịu ảnh hưởng của các nhân tố trong nền kinh tế
như lãi suất ngân hàng, thuế, thu nhập dân cư.
- Lãi suất ngân hàng là nhân tố đầu tiên mà mọi doanh nghiệp phải cân nhắc khi lựa
chọn nguồn vốn cho kế hoạch tài trợ của mình. Đây là nhân tố ảnh hưởng đến chi phí đầu
tư của doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp phải tính toán hiệu quả đầu tư và yếu tố lãi
suất tiền vay. Thông thường, khi lãi suất ngân hàng quá cao thì cơ hội đầu tư ít đi và vì
thế nhu cầu huy động vốn của doanh nghiệp cũng giảm theo.
- Thuế thu nhập doanh nghiệp ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn nguồn tài trợ cho
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong trường hợp thuế thu nhập doanh
nghiệp khá cao thì doanh nghiệp có xu hướng thích sử dụng nợ hơn vì lãi nợ vay được
SV: Nguyễn Thị Chinh BH211388- NH21.26
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
tính vào chi phí hợp lý hợp lệ trước khi tính thuế. Do đó việc tăng tỷ trọng nợ trong cơ
cấu vốn sẽ làm giảm chi phí vốn của doanh nghiệp.
- Thu nhập dân cư cũng là một nhân tố tác động đến khả năng huy động vốn của
doanh nghiệp. Thu nhập của dân cư ở mức cao đồng nghĩa với khả năng tích luỹ cao và
kết quả là lượng vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế dồi dào. Điều này tạo điều kiện cho
doanh nghiệp có thể huy động vốn một cách dễ dàng hơn thông qua các công cụ của thị
trường vốn như cổ phiếu, trái phiếu hoặc các công cụ có thể chuyển đổi đặc biệt là ở
những nước có thị trường tài chính phát triển hoàn thiện.
Ngoài những yếu tố cơ bản trên, khả năng huy động vốn của doanh nghiệp còn
phụ thuộc vào một số nhân tố khác như: yếu tố thị trường, yếu tố cạnh tranh cạnh tranh,

tỷ giá… Thị trường chính là nơi hoạt động của doanh nghiệp. Trong môi trường này, các
doanh nghiệp phải luôn tự đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, đồng thời còn phải
cạnh tranh với rất nhiều doanh nghiệp khác để chiếm lĩnh thị trường. Vì vậy, quá trình
huy động vốn của doanh nghiệp không thể bỏ qua yếu tố thị trường và cạnh tranh. Riêng
đối với doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực xuất nhập khẩu thì sự biến động của tỷ giá
cũng là một yếu tố không thể bỏ qua. Do các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
gắn liền với việc sử dụng ngoại tệ nên việc tỷ giá lên cao hay xuống thấp đều gây ảnh
hưởng đến lượng vốn mà doanh nghiệp đang nắm giữ. Doanh nghiệp cần phải phân tích
những yếu tố này, xem xét tình trạng hiện tại, dự đoán tình hình trong tương lai để lựa
chọn phương án huy động vốn cho thích hợp nhằm tạo được lợi thế của mình trên thị
trường.
SV: Nguyễn Thị Chinh BH211388- NH21.26
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI
CÔNG TY CỔ PHẦN THƯƠNG MẠI HÀ MY
2.1 GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÔNG TY CPTM HÀ MY
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển
Công Ty Cổ Phần Thương Mại Hà My thành lập năm 2005 theo giấy phép đăng ký kinh
doanh số 0103008059 do Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Hà Nội cấp ngày 07/06/2005.
Công ty là một Công ty thương mại hạch toán độc lập, có tư cách pháp nhân, được mở
tài khoản và sử dụng con dấu riêng, chịu sự quản lý toàn diện của UBND Quận Hoàn
Kiếm Hà Nội và sự hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ của Sở Thương mại thành phố Hà
Nội cũng như Sở kế hoạch và đầu tư Hà Nội.
* Tên tiếng Việt: Công ty cổ phần thương mại Hà My
* Tên giao dịch: Công ty cổ phần thương mại Hà My
* Tên tiếng Anh: Ha My Trading Joint Stock Company
* Địa chỉ đăng ký kinh doanh: Số 52 Ngõ Huyện, Hoàn Kiếm, Hà Nội
* Văn phòng chính: số 152 Tôn Đức Thắng, Đống Đa, Hà Nội
* Các chi nhánh:

- Số 17 Lê Văn Lương, Cầu Giấy, Hà Nội
- Số 57 Tôn Đức Thắng, Đống Đa, Hà Nội
- Số 51 - Ngõ 106 Hoàng Quốc Việt - Cầu Giấy - Hà Nội
Khi mới thành lập, công ty chí có quy mô cơ sở, hoạt động sản xuất nhỏ, nhân công 05
người, cơ sở vật chất trung bình > 30 m
2
.
SV: Nguyễn Thị Chinh BH211388- NH21.26
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Sau hơn 07 năm hoạt động, hiện nay Công Ty CPTM Hà My là một trong những công ty
hàng đầu về lĩnh vực trang trí nội thất, với 03 Showroom lớn nhất thị trường Hà Nội,
diện tích mỗi showroom đạt 300-350 m
2
, đội ngũ nhân viên lên tới hơn 50 người.
Trong thời gian qua, công ty CPTM Hà My đã tạo dựng một hệ thống khách hàng thân
thiết, một hệ thống các Showroom phân phối rộng khắp các sản phẩm Mành Rèm, trang
trí nội ngoại thất trên thị trường Hà Nội và các tỉnh khu vực phía bắc.
Công ty CPTM Hà My là nhà cung cấp dịch vụ trang trí nội ngoại thất lớn tại Hà Nội và
là người đồng hành tin cậy của rất nhiều khách hàng từ nhà dân, những tòa nhà cao tầng,
khu biệt thự, khu resort…
Ngoài ra, công Ty CPTM Hà My còn là đối tác chiến lược của nhiều nhà cung cấp nước
ngoài như: Thái Lan, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, Singapore…
Công ty đầu tư thêm các trang thiết bị máy móc chuyên dụng đáp ứng nhu cầu sản xuất,
thi công chính xác cao, an toàn, tiết kiệm thời gian, tiện ích kinh tế.
Với mong muốn mang lại vẻ đẹp hoàn mỹ cho những ngôi nhà, phát triển, quảng bá
thương hiệu MÀNH RÈM HÀ MY. Tất cả các cán bộ, công nhân viên công ty cùng bắt
tay nhau học tập, làm việc và tâm niệm rằng chỉ có thể phát triển lớn mạnh bằng cách
đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của khách hàng một cách chuyên nghiệp và chất lượng cao.
2.1.2 Cơ cấu tổ chức

Dưới sự chỉ đạo của Tổng giám đốc, công ty CPTM Hà My gồm các phòng ban như
sau:
 Phòng tổ chức hành chính
 Phòng kế toán tài chính
 Phòng kinh doanh
 Phòng quản lý dự án
 Phòng tư vấn giám sát kỹ thuật
 Bộ phận sản xuất trực tiếp
SV: Nguyễn Thị Chinh BH211388- NH21.26
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
2.1.3 Các hoạt động chủ yếu
 Sản xuất và cung cấp các sản phẩm " Mành rèm cao cấp".
 Tư vấn thiết kế nội thất cho các công trình.
 Thi công hoàn thiện – trang trí nội ngoại thất.
 Sản xuất, mua bán các sản phẩm nội thất văn phòng, trường học như Bàn ghế,
tủ hồ sơ, hệ thống vách ngăn, đồ chơi trẻ em mẫu giáo…
 Xuất nhập khẩu, sản phẩm nội thất, vật liệu xây dựng.
2.1.4 Tình hình hoạt động kinh doanh những năm gần đây
2.1.4.1 Tình hình kinh doanh nói chung
Công ty CPTM Hà My ra đời và phát triển vào thời kỳ đất nước đang trên công cuộc đổi
mới, vào lúc Việt Nam ra nhập tổ chức thương mại thế giới. Khi nền kinh tế Việt Nam
đã hội nhập được với nền kinh tế thế giới, nền jinh tế Việt Nam từng bước đạt được
những thành tựu đáng kể. Khi đó, ngành trang trí nội ngoại thất cũng có nhiều cơ hội
phát triển. Và công ty CPTM Hà My cũng không nằm ngoài số đó. Mặc dù đôi lúc nền
kinh tế cũng gặp phải nhiều biến động, ảnh hưởng tới sự kinh doanh chung của các
doanh nghiệp nói chung và công ty CPTM Hà My nói riêng. Tuy nhiên, nhờ sự năng
động trong quản lý của ban lãnh đạo và nỗ lực phấn đấu của các cán bộ công nhân viên,
Công ty đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, phản ánh qua những số liệu cụ thể
sau:

Bảng 1: Doanh thu công ty CPTM Hà My qua các năm
Tiêu chí
Năm 2008 (tỷ đ) Năm 2009 (tỷ đ) Năm 2010 (tỷ đ)
Vốn điều lệ 7.2 tỷ 8.5 tỷ 9.8 tỷ
Doanh thu 12 tỷ 13,6 tỷ 15,45 tỷ
Nguồn: P. TCKT công ty CPTM Hà My
Nhìn vào bảng trên ta thấy, mặc dù vào lúc nền kinh tế gặp khủng hoảng, tình hình kinh
doanh của công ty vẫn tương đối tốt, kết quả kinh doanh vẫn tăng đều qua các năm.
Năm 2009, doanh thu công ty tăng 13.3% so với năm 2008, doanh thu năm 2010 tăng
SV: Nguyễn Thị Chinh BH211388- NH21.26
25

×