LỜI MỞ ĐẦU
Vụ tài chính tiền tệ là một trong số các cơ quan giúp cho Bộ Kế HoạchĐầu tư thực hiện chức năng quản lý nhà nước của mình. Vụ có chức năng quản
lý nhà nước trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ, xây dựng các cân đối lớn như cân
đối NSNN, cân đối tiền – hàng, tham mưu về chính sách tài chính, tiền tệ,
chính sách huy động và sử dụng nguồn lực cho đầu tư phát triển kinh tế - xã
hội một cách có hiệu quả. Kể từ khi thành lập cho tới nay, Vụ Tài Chính- Tiền
Tệ đã khơng ngừng nổ lực thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao, đạt
được những kết quả đáng khích lệ góp phần vào sự phát triển của đất nước. Có
thể thấy, Vụ Tài Chính- Tiền Tệ ngày càng đóng vai trị quan trọng trong cơng
tác điều hành, quản lý lĩnh vực tài chính, tiền tệ của đất nước. Trong thời gian
5 tuần thực tập tổng hợp tại Vụ, dưới sự hướng dẫn của chuyên viên Vũ Ngọc
Hưng và sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ, nhân viên của Vụ, tơi đã có cơ
hội được tìm hiểu về Vụ, về chức năng nhiệm vụ, tình hình cơng tác của Vụ
Tài Chính – Tiền Tệ. Qua đó, tơi đã có được những hiểu biết sâu hơn về công
tác của Vụ trong thời gian qua. Tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo THS. Đặng
Thị Lệ Xuân, anh Vũ Ngọc Hưng cùng các cán bộ Vụ Tài Chính - Tiền Tệ đã
giúp đỡ tơi hồn thành bản báo cáo này.
1
PHẦN I. TÌM HIỂU CHUNG VỀ ĐƠN VỊ THỰC TẬP
I.
TÌM HIỂU CHUNG VỀ BỘ KẾ HOẠCH - ĐẦU TƯ
1. Lịch sử hình thành và phát triển của Bộ Kế Hoạch – Đầu Tư
Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ được thành lập, ngày
31/12/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra Sắc lệnh số 78-SL thành lập ủy ban Nghiên cứu
kế hoạch kiến thiết nhằm nghiên cứu, soạn thảo và trình Chính phủ một kế
hoạch kiến thiết quốc gia về các ngành kinh tế, tài chính, xã hội và văn hóa.
Đến ngày 14 tháng 5 năm 1950, Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
ra Sắc lệnh số 68-SL thành lập Ban Kinh tế Chính phủ (thay cho ủy ban
Nghiên cứu kế hoạch kiến thiết). Ban Kinh tế Chính phủ có nhiệm vụ nghiên
cứu, soạn thảo và trình Chính phủ những đề án về chính sách, chương trình, kế
hoạch kinh tế hoặc những vấn đề quan trọng khác.
Ngày 8 tháng 10 năm 1955, Hội đồng Chính phủ đã quyết định thành lập
ủy ban Kế hoạch Quốc gia có nhiệm vụ xây dựng các dự án kế hoạch phát triển
kinh tế, văn hóa, và tiến hành thống kê kiểm tra việc thực hiện kế hoạch
Tháng 10/1960, uỷ ban Kế Hoạch Quốc gia được đổi tên thành Uỷ Ban
Kế Hoạch Nhà Nước. Qua các thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
Chính phủ đã có hàng loạt các Nghị định quy định và bổ sung chức năng cho
ủy ban Kế hoạch Nhà nước.
Ngày 27 tháng 11 năm 1986, Hội đồng Bộ trưởng có Nghị định
151/HĐBT giải thể ủy ban Phân vùng kinh tế Trung ương, giao công tác phân
vùng kinh tế cho ủy ban Kế hoạch Nhà nước.
Ngày 1 tháng 1 năm 1993, ủy ban Kế hoạch Nhà nước tiếp nhận Viện
Nghiên cứu Quản lý Kinh tế TW, đảm nhận nhiệm vụ xây dựng chính sách,
luật pháp kinh tế phục vụ cơng cuộc đổi mới.
Ngày 1 tháng 11 năm 1995, Chính phủ đã ra Nghị định số 75/CP quyết
định thành lập Bộ Kế hoạch và Đầu tư trên cơ sở hợp nhất ủy ban Kế hoạch
Nhà nước và ủy ban Nhà nước về Hợp tác và Đầu tư.
Ngày 17 tháng 8 năm 2000 Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số
99/2000/TTg giao Ban Quản lý các khu công nghiệp Việt Nam về Bộ Kế
hoạch và Đầu tư.
2
2. Chức năng nhiệm vụ chung của Bộ
Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan của Chính phủ có chức năng tham mưu
tổng hợp về xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội của cả nước, về cơ chế, chính sách quản lý kinh tế, quản lý nhà nước về
lĩnh vực đầu tư trong và ngồi nước; giúp Chính phủ phối hợp điều hành thực
hiện các mục tiêu và cân đối chủ yếu của nền kinh tế quốc dân. Bộ Kế hoạch
và Đầu tư có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Tổ chức nghiên cứu xây dựng chiến lược và quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội của cả nước và các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội
theo ngành, vùng lãnh thổ.
- Trình Chính phủ các dự án Luật, Pháp lệnh, các văn bản pháp quy có
liên quan đến cơ chế chính sách về quản lý kinh tế, khuyến khích đầu tư trong
và ngồi nước nhằm thực hiện cơ cấu kinh tế phù hợp với chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch để ổn định và phát triển kinh tế - xã hội.
- Tổng hợp các nguồn lực của cả nước kể các nguồn từ nước ngoài để
xây dựng trình Chính phủ các kế hoạch dài hạn, trung hạn, ngắn hạn về phát
triển kinh tế - xã hội của cả nước và các cân đói chủ yếu của nền kinh tế quốc
dân.
- Hướng dẫn các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, ủy
ban nhân dân các Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng và cân đối
tổng hợp kế hoạch.
- Hướng dẫn, kiểm tra các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ, ủy ban nhân dân Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương trong việc thực
hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
- Làm Chủ tịch các Hội đồng cấp Nhà nước: Xét duyệt định mức kinh tế
- kỹ thuật, xét thầu quốc gia, thẩm định thành lập doanh nghiệp nhà nước; điều
phối quản lý và sử dụng nguồn ODA; cấp giấy phép đầu tư cho các dự án hợp
tác, liên doanh.
- Trình Thủ tướng Chính phủ quyết định việc sử dụng quỹ dự trữ Nhà
nước.
- Tổ chức nghiên cứu dự báo, thu thập xử lý các thông tin về phát triển
kinh tế - xã hội.
3
- Tổ chức đào tạo lại và bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ
công chức, viên chức trực thuộc Bộ quản lý.
- Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực chiến lược phát triển, chính
sách kinh tế, quy hoạch và kế hoạch hóa phát triển.
3. Cơ cấu tổ chức của Bộ Kế Hoạch - Đầu Tư
BỘ TRƯỞNG
THỨ
TRƯỞNG
THỨ
TRƯỞNG
THỨ
TRƯỞNG
KHỐI CƠ QUAN GIÚP BỘ
THỰC HIỆN CHỨC NĂNG
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
THỨ
TRƯỞNG
THỨ
TRƯỞNG
KHỐI CÁC TỔ CHỨC HÀNH
CHÍNH SỰ NGHIỆP
Khối các cơ quan giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước gồm:
Văn phòng Bộ, Vụ Tổ chức – Cán bộ, Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân, Vụ Kinh
tế địa phương và lãnh thổ, Vụ Tài chính - Tiền tệ, Cục Phát triển Doanh nghiệp
vừa và nhỏ, Vụ Kinh tế đối ngoại, Vụ Thương mại và dịch vụ, Cục đầu tư
nước ngồi, Vụ Quản lý khu cơng nghiệp và khu chế xuất, Vụ Thẩm định và
Giám sát đầu tư, Vụ Quản lý đấu thầu, Vụ Kinh tế công nghiệp, Vụ Kinh tế
nông nghiệp, Vụ kết cấu hạ tầng và đô thị, Vụ lao động-Văn hoá- Xã hội, Vụ
Khoa học-Giáo dục-Tài nguyên và Mơi trường, Vụ Quốc phịng – An ninh, Vụ
Pháp chế, Vụ Hợp tác xã, Ban Thanh tra.
Khối tổ chức hành chính sự nghiệp gồm: Viện Chiến lược phát triển, Viện
Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh
tế - xã hội quốc gia, Tạp chí Kinh tế và dự báo, Báo Đầu tư, Trung tâm bồi
dưỡng cán bộ Kinh tế - Kế hoạch, Trung tâm Tin học, Tạp chí Khu cơng
nghiệp Việt Nam.
Từ chỗ chỉ có 55 người khi mới thành lập năm 1955, năm 1988 biên chế
của Bộ đạt số lượng cao nhất 930 người; đến cuối năm 2006 Bộ Kế hoạch và
Đầu tư có 822cán bộ cơng nhân viên, trong đó lãnh đạo Bộ có 8 người, lãnh
đạo cấp vụ và tương đương có 155 người, cán bộ, cơng chức có 658 người. Về
trình độ, có 2 người có học hàm giáo sư, 6 người có học hàm phó giáo sư, 6
người có trình độ tiến sĩ khoa học, 126 người có trình độ tiến sĩ, 91 người có
4
trình độ thạc sĩ, 550 người có trình độ đại học và cao đẳng, 153 cán bộ đảng
viên có trình độ lý luận chính trị cao cấp, 401 người có trình độ lý luận chính
trị trung cấp.
II. TÌM HIỂU CHUNG VỀ VỤ TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
1.
Lịch sử hình thành và phát triển của Vụ Tài Chính - Tiền Tệ
Ngày 8/10/1955 cùng với sự ra đời của Uỷ Ban Kế Hoạch Quốc Gia,
theo nghị quyết của Hội đồng Chính Phủ, Phịng Tài Chính và Thương Mại tiền thân của Vụ Tài Chính Tiền Tệ hiện nay đã được thành lập. Phịng Tài
Chính và Thương Mại có nhiệm vụ tham gia xây dựng và tổ chức thực hiện kế
hoạch khôi phục kinh tế sau chiến tranh (1955-1957) và kế hoạch 3 năm cải
tạo và phát triển kinh tế - xã hội (1958-1960), nghiên cứu trình chính phủ các
cơ chế, chế độ về tài chính, kế hoạch hố giá thành, phí lưu thơng.
Ngày 9/10/1961, Hội đồng Chính Phủ ra Nghị định số 158-CP quy định
nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Uỷ Ban Kế Hoạch Nhà Nước với
cơ cấu gồm Văn phòng, Tổng cục quản lý xây dựng cơ bản và 14 Vụ chun
mơn, trong đó có Vụ Kế hoạch Tài Chính và Giá Thành. Tổng số cán bộ của
Vụ lúc đó gồm 12 người với 1 vụ trưởng, 2 vụ phó và 9 cán bộ. Ngay sau khi
thành lập, Vụ Kế Hoạch Tài Chính và Giá Thành đã tham gia vào việc lập kế
hoạch kinh tế 5 năm lần thứ nhất và kế hoạch thời chiến giai đoạn 1966-1975.
Đến cuối những năm 70, đầu những năm 80, tên gọi của Vụ được
chuyển thành Vụ Kế Hoạch Tài Chính – Giá Thành – Giá Cả. Số lượng cán bộ
của Vụ thời kỳ này lên tới trên 30 cán bộ. Chức năng của Vụ thời kỳ này
được phân công bao gồm: tổng hợp kế hoạch giá thành, chi phí lưu thơng và
tích luỹ phát sinh của khu vực kinh tế quốc doanh; lập bảng cân đối tài chính
Nhà Nước, bảo đảm thống nhất giữa kế hoạch hiện vật và kế hoạch tài chính;
kiểm tra dự án ngân sách Nhà Nước do Bộ Tài Chính lập, kiểm tra dự án kế
hoạch tín dụng do Ngân hàng Nhà Nước lập, đảm bảo cân đối kinh tế quốc
dân; lập bảng cân đối thu chi tiền tệ của dân cư để xác định phương hướng
phát hành tiền tệ, phương hướng cân đối giữa tiền và hàng; kiểm tra dự án kế
hoạch tiền mặt của Ngân hàng Nhà nước; cùng với Uỷ ban Vật giá Nhà nước
xác định phương hướng kế hoạch giá cả.
Đến năm 1988, chủ nhiệm uỷ ban đã có quyết định sát nhập Vụ Tổng
hợp kinh tế quốc dân và Vụ Tài Chính – Giá thành – Giá cả và một bộ phận
của vụ đầu tư xây dựng, Vụ vật tư thành Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân.
5
Tuy nhiên, do địi hỏi khách quan của cơng tác hoạch định chính sách
tài chính tiền tệ, ngày 11/11/1989, Chủ nhiệm uỷ ban đã có quyết định thành
lập Vụ Tài Chính với chức năng chủ yếu gồm nghiên cứu phương hướng phát
triển nền tài chính quốc gia; xây dựng các bảng cân đối kế hoạch tổng hợp về
lĩnh vực giá trị của nền kinh tế; xây dựng và tổng hợp kế hoạch thu chi ngân
sách Nhà Nước, kế hoạch tín dụng tổng hợp, kế hoạch thu chi tiền mặt và chỉ
số giá; giúp uỷ ban trình Hội đồng Bộ trưởng phê chuẩn các chỉ tiêu thu chi
của NSNN, tín dụng, tiền mặt và chỉ số giá; kết hợp với Uỷ ban vật giá ban
hành bảng giá hiện hành kế hoạch; kiểm tra việc thực hiện các chỉ tiêu về tài
chính, tín dụng, giá cả do Hội đồng Bộ trưởng giao và chính sách đã ban hành.
Tháng 4/ 1995, Chủ nhiệm Uỷ ban đã có quyết định số 86 UB/TCCB
đổi tên Vụ thành Vụ Tài Chính - Tiền Tệ. Từ cuối những năm 90, số lượng
cán bộ ổn định vào khoảng 20 cán bộ cho đến nay.
2.
Chức năng nhiệm vụ của Vụ
Trong thời kỳ trước năm 1986, nhiệm vụ của Vụ Tài Chính - Tiền Tệ
được giao rất nặng nề và to lớn. Hàng năm, Vụ phải tham mưa cho Bộ
( UNKHNN) xây dựng được bảng cân đối tổng hợp và thu chi tiền tệ dân cư.
Đây là một trong số các cân đối lớn hàng năm Bộ phải báo cáo Bộ Chính Trị,
Ban Bí Thư và Thủ Tướng xem xét quyết định. Ngồi cân đối trên, Bộ cịn
giao cho Vụ nhiệm vụ xây dựng chỉ tiêu giá thành giá cả và phí lưu thơng hợp
lý giao cho các Bộ, ngành căn cứ trên chế độ lập kế hoạch, hạch toán và thống
kê giá thành.
Đến giai đoạn đổi mới, từ sau năm 1986, xuất phát từ chủ trương đường
lối đổi mới theo định hướng chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, nhiệm vụ của Vụ Tài Chính - Tiền Tệ cũng được thay đổi cho phù hợp
với thực tế. Các nhiệm vụ mang tính cụ thể, vi mơ trước đây đã được thay thế
dần bằng việc hoạch định các chính sách và cân đối mang tính vĩ mơ.
Tháng 4/1996, Bộ trưởng Bộ Kế Hoạch - Đầu Tư đã có quyết định số 97
BKH/TCCB, căn cứ Nghị định số 75/CP, quy định về chức năng nhiệm vụ và
tổ chức bộ máy của Vụ Tài Chính - Tiền Tệ với những nội dung chính gồm:
- Xác định phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch của lĩnh vực tài chính, tiền tệ,
giá cả.
- Xây dựng các bảng cân đối tổng hợp về tài chính - tiền tệ trong thời kỳ kế
hoạch: cân đối tài chính, cân đối ngân sách Nhà nước, cân đối tổng thể tiền
tệ, cân đối tín dụng, cân đối tiền mặt, cân đối thanh toán quốc tế, cân đối
6
ngoại tệ, cân đối tiền hàng và các giải pháp thực hiện các cân đối trên; xác
định chỉ số lạm phát dự kiến trong kỳ kế hoạch.
- Tham gia với Bộ Tài Chính phân bổ kế hoạch thu chi ngân sách trong kỳ kế
hoạch cho các Bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan khác thuộc Chính phủ và
các địa phương.
- Phối hợp với các Vụ trong Bộ, với Bộ Tài Chính và các Bộ, Ngành xác
định kinh phí cho các dự án, chương trình quốc gia( thuộc khoản chi thường
xuyên của ngân sách) và phân bổ kinh phí của các chương trình, dự án cho
các ngành địa phương, các đơn vị sử dụng.
- Nghiên cứu đề xuất các chủ trương biện pháp và cơ chế chính sách lớn trên
lĩnh vực tài chính, tiền tệ, giá cả.
- Kiểm tra, theo dõi và lập báo cáo quý, 6 tháng, 9 tháng và hàng năm việc
thực hiện kế hoạch tài chính tiền tệ, giá cả. Phối hợp với Bộ Tài Chính giải
quyết các nhu cầu đột xuất, phát sinh ngoài kế hoạch thu, chi NSNN.
- Làm đầu mối tổng hợp kế hoạch của một số cơ quan.
Ngày 19/8/2003, Bộ trưởng đã có quyết định số 608/QĐ-BKHĐT về chức
năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Vụ Tài Chính - Tiền Tệ với các nhiệm
vụ chủ yếu sau:
- Xác định phương hướng nhiệm vụ kế hoạch của lĩnh vực tài chính, tiền tệ
và giá cả từng thời kỳ kế hoạch
- Chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan xây dựng các cân đối tổng hợp về
tài chính, tiền tệ trong thời kỳ kế hoạch.
- Làm đầu mối phối hợp với Bộ Tài Chính phân bổ kế hoạch thu chi ngân
sách, đề xuất nguồn bổ sung nhu cầu phát sinh đột xuất ngoài kế hoạch.
Phối hợp phân bổ cơ cấu ngân sách Trung ương trong lĩnh vực đầu tư phát
triển. Phối hợp phân bổ vốn bổ sung dự trữ Nhà nước. Tổng hợp vốn hỗ trợ,
vốn tín dụng Nhà nước, vốn góp cổ phần liên doanh.
- Tổng hợp các chỉ tiêu giá trị nền kinh tế về tài chính, tiền tệ, tín dụng và giá
cả. Tổng hợp phương án phân bổ vốn của chương trình mục tiêu quốc gia,
phối hợp với các đơn vị phân bổ từng chương trình cụ thể. Phối hợp tổng
hợp kinh phí điều tra cơ bản. Phối hợp lập kế hoạch giải ngân, vay, trả nợ
vốn ODA.
- Nghiên cứu đề xuất các chủ trương, biện pháp, cơ chế chính sách về tài
chính, tiền tệ và giá cả. Chủ trương soạn thảo cơ chế chính sách cụ thể khi
được giao.
7
- Tham gia xây dựng và thẩm định các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế
chính sách trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ và giá cả để các bộ, ngành trình
ban hành theo thẩm quyền.
- Theo dõi, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch tài chính, tiền
tệ, giá cả,
báo cáo tình hình: tháng, quý và hàng năm, đề xuất các giải pháp xử lý
những vướng mắc trong quá trình thực hiện kế hoạch.
- Làm đầu mối tổng hợp kế hoạch của: Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước
và tồn ngành ngân hàng (trừ Ngân hàng Chính sách xã hội), Quỹ hỗ trợ
phát triển, các Quỹ tài chính, Kiểm toán Nhà nước, Uỷ ban Chứng khoán
Nhà nước
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư giao.
Nhiệm vụ của Vụ Tài Chính - Tiền Tệ ngày càng được mở rộng và đổi
mơi về nội dung, phù hợp với xu hướng đổi mới của nền kinh tế trong đó có
nhiều chức năng do Vụ chủ trì thực hiện. Vụ Tài Chính - Tiền Tệ ngày càng có
những đóng góp quan trọng vào điều hành chính sách tài chính, tiền tệ, tín
dụng.
3.Cơ cấu tổ chức của Vụ Tài Chính - Tiền Tệ
Vụ Trưởng
Vụ Phó
Vụ Phó
Nhóm tài chính
Vụ Phó
Nhóm tiền tệ
Vụ Tài Chính - Tiền Tệ được tổ chức thành 2 bộ phận là: nhóm tài chính
và nhóm tiền tệ. Nhóm tài chính có chức năng thực hiện tất cả các nhiệm vụ
được giao có liên quan tới lĩnh vực tài chính như: tham gia xây dựng kế hoạch
thu chi ngân sách, phối hợp phân bổ thu chi ngân sách, tổng hợp vốn đầu tư
phát triển, phân bổ vốn cho chương trình mục tiêu quốc gia, lập kế hoạch giải
ngân, vay, trả nợ ODA….Nhóm tiền tệ có chức năng thực hiện các nhiệm vụ
được giao có liên quan tới lĩnh vực tiền tệ như: tham gia xây dựng kế hoạch
8
cung ứng tiền tệ, xây dựng các chính sách tiền tệ, kiểm sốt, điều chỉnh lượng
cung tiền trong lưu thơng, theo dõi đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch tiền
tệ, ….Vụ làm việc theo chế độ chuyên viên. Biên chế của Vụ do Bộ trưởng Bộ
Kế hoạch và Đầu tư quyết định riêng.
PHẦN II. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA ĐƠN VỊ THỰC
TẬP
I.
TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG THỰC TẾ CỦA VỤ
Với một đội ngũ cán bộ không nhiều nhưng công việc phải triển khai thực
hiện trong suốt những năm qua của Vụ Tài Chính - Tiền Tệ là khá lớn. Với
chức năng là tham mưu cho Lãnh đạo Bộ về cơ chế, chính sách tài chính tiền tệ
và kết hợp với các Bộ xây dựng các cân đối lớn như giá, lương, tiền, cân đối
tiền tệ, cân đối ngân sách, cân đối ngoại tệ, cán cân thanh toán quốc tế...trong
thời gian qua Vụ Tài Chính - Tiền Tệ đã tham gia vào các hoạt động sau:
Thứ nhất, trong công tác xây dựng kế hoạch và cân đối NSNN
Một trong những nhiệm vụ thường xuyên của Vụ Tài Chính - Tiền Tệ là
công tác xây dựng kế hoạch và cân đối NSNN. Vụ Tài Chính - Tiền Tệ đóng
vai trị khởi đầu trong quy trình xây dựng cân đối NSNN thơng qua việc đưa ra
các định hướng và các cân đối vĩ mơ để trên cơ sở đó tính tốn các chỉ tiêu
NSNN. Vụ đã chủ động tính tốn khả năng thực hiện thu, chi NSNN, trong đó
ước thực hiện thu NSNN từ các nguồn thu nội địa, thu từ dầu thô một cách tích
cực để có căn cứ thảo luận với Bộ Tài Chính. Trong lĩnh vực này, Vụ Tài
Chính - Tiền Tệ luôn thể hiện năng lực nghiên cứu độc lập với các quan điểm
khách quan, kiên quyết và đảm bảo được các ngun tắc tài chính, góp phần
giữ vững vai trò, vị thế của Bộ Kế Hoạch - Đầu Tư trong q trình hoạch định
các chính sách kinh tế. Sự phối hợp giữa Vụ Tài Chính - Tiền Tệ , Bộ Kế
Hoạch - Đầu Tư với Vụ NSNN và các Vụ, Tổng cục của Bộ Tài Chính ngày
càng hiệu quả và đạt được những bước tiến đáng kể, thể hiện sự đồng thuận
cao trong cơng tác Tài chính và Ngân sách. Hai bên đã nhất trí tính tốn cân
đối NSNN về các nguồn thu doanh nghiệp ngoài nhà nước, thu từ khu vực có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi.
Vụ Tài Chính - Tiền Tệ đã đưa ra những cải tiến và đề xuất phương
pháp tiếp cận mới trong việc xác định khung NSNN trên cơ sở đó các kiến
nghị của Bộ Kế Hoạch - Đầu Tư thời gian qua vừa có tính tích cực vừa hiện
9
thực và vững chắc được Chính phủ chấp nhận. Trước kia, khi cân đối NSNN,
phương pháp của Bộ Tài Chính là chỉ dựa trên số liệu lịch sử của các năm thực
hiên từ đó xác định tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu và tính ra dự kiến các
chỉ tiêu cho năm kế hoạch. Vụ Tài Chính - Tiền Tệ đã đưa ra phương pháp tiếp
cận tính tốn các chỉ tiêu kế hoạch NSNN mà cơ bản là các khoản thu, chi và
thâm hụt NSNN dựa trên giá trị tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Cách tiếp cận
vĩ mô để tính tổng thu NSNN của Vụ Tài Chính - Tiền Tệ đã đưa ra mức thu
sát với thực tế hơn, điều đó chứng tỏ phương pháp đề ra là đúng đắn. Thông
qua việc sử dụng tiếp cận mới này, Vụ Tài Chính - Tiền Tệ trong q trình xây
dựng kế hoạch ngân sách hàng năm đã chứng minh khả năng thu hiện thực
thường cao hơn nhiều so với cách tính tốn của Bộ Tài Chính và do đó đã được
lãnh đạo Bộ và Chính Phủ chấp nhận. Thu NSNN từ chổ khơng đủ chi thường
xun đến có tích luỹ và đáp ứng lượng vốn lớn cho đầu tư phát triển trong đó
có chi xây dựng cơ bản. Mức thu NSNN những năm qua đã tăng dần qua các
năm. Bội chi NSNN cũng đã được tính tốn căn cứ trên GDP.
Vụ Tài Chính - Tiền Tệ cũng đã đưa ra một số nguyên tắc khác và quán
triệt trong quá trình tính tốn NSNN, trong đó có ngun tắc đẩy mạnh thu nội
địa, tạo ra sự vững chắc trong thu ngân sách bằng cách tránh thất thu và nuôi
dưỡng nguồn thu. Về chi NSNN, Vụ Tài Chính - Tiền Tệ cũng đã đề xuất và
kiên định nguyên tắc “lường thu mà chi”, có thu mới chi, khơng có thu thì cắt
giảm chi. Đây là những nguyên tắc tưởng chừng như đơn giản nhưng lại vơ
cùng quan trọng, nó đảm bảo cho sự chi tiêu đúng mức, tiết kiệm và bảo đảm
ổn định nền kinh tế, khơng để xảy ra tình trạng chi tiêu quá mức khả năng có
thể của nền kinh tế. Vụ cũng đưa ra nguyên tắc tốc độ tăng chi đầu tư phát
triển trong NSNN phải cao hơn tốc độ tăng chi thường xuyên, do vậy trong
những năm qua chi đầu tư phát triển trên tổng chi NSNN trong những năm qua
luôn đạt cao ở mức trên 28% tổng chi NSNN.
Vụ Tài Chính - Tiền Tệ đã tích cực nghiên cứu triển khai cùng Bộ Tài
Chính Kế hoạch chi tiêu trung hạn NSNN( MTEF), áp dụng thí điểm cho một
số ngành với nội dung chủ yếu: phân bổ NSNN 3 năm; chi NSNN theo mơ
hình trên xuống, dưới lên; gắn đặc biệt với các đối tượng ưu tiên. Công tác xây
dựng dự toán NSNN từng bước căn cứ vào mục tiêu, chương trình và kết quả
đầu ra đã được xác lập và đẩy mạnh.
Có thể nói, cơng tác xây dựng kế hoạch và cân đối ngân sách ngày càng
được Vụ thực hiện với chất lượng cao hơn, nguồn thu - chi được tính tốn, rà
10
sốt chặt chẽ hơn. Trong q trình thực hiện nhiệm vụ, Vụ đã đưa ra những đề
xuất cải tiến hiệu quả, phù hợp. Tuy nhiên, quản lý thu chi ngân sách vẫn cịn
nhiều bất cập như tình trạng trốn lậu thuế, thất thốt, lãng phí…Trong thời gian
tới Vụ cần chú trọng hơn công tác quản lý NSNN, triển khai áp dụng khung
khổ chi tiêu NS trung hạn.
Thứ hai, Trong công tác xây dựng, triển khai thực hiện và theo dõi,
đánh giá thực hiện kế hoạch Tiền tệ.
Hàng năm, Vụ Tài Chính - Tiền Tệ tổng kết cơng tác triển khai thực
hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội trong đó có kế hoạch về tiền tệ, tín dụng
năm hiện tại và xây dựng kế hoạch năm tới trong khoảng từ tháng 6 đến tháng
10 trước khi Ngân hàng Nhà nước có báo cáo đánh giá tình hình tiền tệ, tín
dụng và dự kiến năm sau. Vụ Tài Chính - Tiền Tệ đưa ra những đánh giá về
tình hình tiền tệ, tín dụng trong năm và dự kiến kế hoạch về tiền tệ như: số
lượng và tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán, số lượng và tốc độ tăng dư
nợ tín dụng đối với nền kinh tế, tiền cung ứng, tiền phát hành dự kiến và một
số chỉ tiêu khác như mua ngoại tệ, tỷ giá và các chính sách lãi suất, các công
cụ tiền tệ đã được ngành Kế Hoạch dự thảo. Trong khoảng thời gian từ năm
2000- 2005, kế hoạch tiền tệ đã được Vụ xây dựng khá khả thi, góp phần ổn
định tình hình tiền tệ, giá cả, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, trong
khoảng 2 năm gần đây, việc dự báo những biến động của tình hình giá cả thế
giới và trong nước chưa lường trước được những biến động lớn. Công tác điều
hành tiền tệ chưa hợp lý. Do đó, kế hoạch tiền tệ đề ra không thực hiện được.
Tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán vượt mức kế hoạch, giá cả tăng cao.
Thứ ba, Tham gia xây dựng các văn bản pháp luật, các chính sách tài
chính, tiền tệ và đổi mới hệ thống ngân hàng
Vụ Tài Chính - Tiền Tệ đã cùng với Ngân hàng Nhà nước phối hợp
trong hoạch định và đề xuất chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng. Các chính
sách về tỷ giá, quản lý ngoại hối, chính sách lãi suất, sử dụng các cơng cụ tiền
tệ đã được Vụ nghiên cứu và đề xuất trong các giai đoạn phát triển kinh tế
như:
Các chính sách nhằm Hạn chế tác động của khủng hoảng tài chính - tiền
tệ ở các nước Đông Nam Á vào nước ta.
Những năm 1997 – 1998, các nước Đông Nam Á lâm vào cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ trầm trọng, đe doạ sự phát triển và ổn định kinh tế nước
ta. Trước tình hình đó, Vụ Tài Chính - Tiền Tệ đã được giao nhiệm vụ cố vấn
11
cho Bộ Kế Hoạch - Đầu Tư đưa ra các giải pháp hạn chế tác động của cuộc
khủng hoảng khu vực vào nước ta. Các chính sách điều chỉnh tỷ giá theo biên
độ, hạn chế nhập khẩu để giảm nhu cầu về ngoại tệ, bắt buộc các đơn vị kinh tế
có thu ngoại tệ phải bán cho Ngân hàng, hạn chế đưa ngoại tệ ra nước ngoài.
Vay và trả nợ nước ngoài được đẩy mạnh kiểm tra, giám sát…Các biện pháp
chính sách trên đã hạn chế tối đa tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng khu
vực, đảm bảo cho tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam tiếp tục được duy
trì ở mức cao thời gian 10 năm qua.
Xây dựng chính sách kích cầu nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Bước sang năm 1998 – 2000, nền kinh tế có dấu hiệu thiểu phát
do chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực. Do đó, Vụ
Tài Chính - Tiền Tệ đã cùng tham gia xây dựng giải pháp kích cầu nhằm hạn
chế thiểu phát để đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển cao. Trong
các giải pháp đó có giải pháp bơm thêm vốn vào đầu tư nhằm kích cầu sản
xuất. Các chính sách kích cầu tiêu dùng đã được ban hành. Việc mua trả góp,
mua trả chậm hàng tiêu dùng hay vay vốn để xây dựng nhà cửa hoặc mua hàng
đã được triển khai rộng.
Tham gia xây dựng hệ thống giải pháp và chính sách chống lạm phát
Vụ Tài Chính - Tiền Tệ đã đưa ra các biện pháp kiểm soát chi tiêu
NSNN, tiết kiệm chi trong chi thường xuyên và nâng cao hiệu quả trong chi
đầu tư bằng việc cắt giảm hoặc đình hoản các cơng trình đầu tư kéo dài kém
hiệu quả. Khống chế tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán, tốc độ huy động
vốn, hạn mức tín dụng và điều chỉnh linh hoạt và ổn định tương đối tỷ giá hối
đối, chính sách lãi suất dương, các công cụ tiền tệ.
Trước xu thế mở cửa hội nhập và phát triển kinh tế thị trường mạnh mẽ,
Vụ Tài Chính - Tiền Tệ đã đề xuất áp dụng tỷ giá linh hoạt theo thị trường có
điều tiết phù hợp của Nhà nước và ổn đinh từng bước. Chính sách tiền tệ đã
được vận dụng linh hoạt, thận trọng với kế hoạch tăng trưởng phương tiện
thanh toán ở mức 20 – 24% năm, nguồn vốn huy động tăng ở mức 22 – 25 %
và dư nợ tín dụng tăng ở mức 20 – 23%( năm 2005) đảm bảo cho nền kinh tế
tăng trưởng cao và vững chắc. Trong cân đối kế hoạch Vụ cũng tính tốn tới
lượng tiền cung ứng, phát hành thêm ở mức không gây tăng đột biến về tiền tệ
ra thị trường. Vụ Tài Chính - Tiền Tệ thường xuyên theo dõi tình hình biến
động giá cả và có những kiến nghị về chính sách và điều hành tiền tệ qua các
báo cáo tháng tường trình Chính phủ.
12
Vụ Tài Chính - Tiền Tệ cũng đã tập trung nghiên cứu khá cụ thể về
chính sách thuế, tài chính doanh nghiệp. Vụ đã có nhiều kiến nghị về mức
thuế, quản lý tài chính doanh nghiệp, về việc bỏ tỷ lệ kết hối ngoại tệ. Vụ đã
tham gia đóng góp vào nhiều văn bản pháp quy liên quan đến lĩnh vực ngân
hàng, tiền tệ, tín dụng. Tham gia xây dựng các Luật Ngân Sách, Các Luật thuế,
Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng, Luật Đất đai, … và hệ
thống các văn bản nghị định, thông tư hướng dẫn. Phối hợp cùng các vụ, cục
của Bộ Tài Chính như: Vụ ngân sách nhà nước, vụ hành chính sự nghiệp, vụ
tài chính đối ngoại, tổng cục thuế, kho bạc nhà nước, uỷ ban chứng khoán nhà
nước….cùng xây dựng cơ chế chính sách liên quan tới tài chính, tiền tệ.
Vụ Tài Chính - Tiền Tệ đã đóng góp phần quan trọng trong công cuộc
đổi mới hệ thống ngân hàng, cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại đặc
biệt cơ cấu tài chính của các ngân hàng thương mại nhà nước. Việc xử lý hàng
ngàn tỷ đồng nợ tồn đọng và lành mạnh hố tài chính cho các ngân hàng
thương mại nhà nước đều có sự tham gia và quyết định của Vụ Tài Chính Tiền Tệ. .
Thứ tư, Tham gia xây dựng chiến lược vay và trả nợ nước ngoài đến
năm 2010
Vào năm 1996, khi vấn đề vay và trả nợ nước ngoài được đặt ra, vấn đề
làm thế nào để quản lý tốt công tác vay và trả nợ nước ngoài và làm thế nào để
Việt Nam không gặp phải những sai lầm như một số nước khác đi vay vốn
nước ngoài và để lại gánh nặng nợ nước ngoài cho thế hệ hậu thế được đặt ra
bức thiết. Trước tình hình đó, Vụ Tài Chính - Tiền Tệ, Bộ Kế Hoạch - Đầu Tư
cùng Bộ Tài Chính và Ngân hàng Nhà nước đã cùng tham gia xây dựng chiến
lược vay và trả nợ nước ngoài đến năm 2030. Việc tính tốn vay và trả nợ
nước ngồi đã được tính tốn cho từng năm, tổng dư nợ nước ngồi, nợ của
Chính phủ, nợ của doanh nghiệp, nghĩa vụ nợ phải trả ( gốc và lãi), hạn mức
vay nợ, giới hạn an toàn và các giải pháp vay và trả nợ có hiệu quả. Tuy nhiên,
cơng tác tính tốn nợ đến năm 2030 là cực kỳ khó khăn khơng chỉ vì các số
liệu mà cịn vì chiến lược phát triển kinh tế xã hội nước ta đến 2010 cịn đang
trong q trình dự thảo, chiến lược tài chính, chiến lược huy động vốn chưa có.
Hơn nữa, với thời hạn hơn 30 năm thì tình hình trong nước và thế giới có nhiều
biến động chưa lường hết được. Do vậy, chiến lược vay và trả nợ nước ngoài
được xây dựng đến năm 2010, và tầm nhìn đến năm 2030. Chiến lược vay và
trả nợ nước ngồi đã được Chính phủ và Bộ chính trị thơng qua năm 2004 và
13
trở thành một văn kiện quan trọng để định hướng cơng tác vay và trả nợ nước
ngồi của Nhà nước, Chính phủ, các Bộ, ngành và các địa phương trong thời
gian tới, nó là căn cứ và biện pháp bảo đảm vay và trả nợ nước ngồi có hiệu
quả, tránh được gánh nặng nợ trong tương lai.
Thứ năm, Vụ đã tiến hành phân bổ vốn cho Chương trình Mục tiêu
Quốc gia( CTMTQG), tham gia cơng tác tín dụng xố đói giảm nghèo.
Vụ đã tiến hành triển khai phân bổ nguồn vốn, khảo sát đánh giá tình hình
thực hiện, đề xuất các giải pháp quản lý Chương trình mục tiêu Quốc gia gồm:
CTMTQG về Văn hoá, CTMTQG nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn,
CTMTQG giảm nghèo, CTMTQG việc làm, CTMTQG phòng chống một số
bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm và HIV/AIDS, CTMTQG vệ sinh an toàn
thực phẩm, CTMTQG phòng chống ma tuý, CTMTQG sử dụng năng lượng
tiết kiệm và hiệu quả, CTMTQG dân số và kế hoạch hoá gia đình,CTMTQG
giáo dục và đào tạo, Chương trình 135. Từ năm 2004, Vụ Tài Chính - Tiền Tệ
đã tập trung nghiên cứu đề xuất các giải pháp tháo gỡ cho Ngân hàng Chính
sách xã hội như tăng vốn điều lệ, cơ chế tài chính cho Ngân hàng chính sách.
Thứ sáu, Tiến hành tổng hợp, phân bổ các nguồn vốn tín dụng. Năm
2007, Vụ đã tổng hợp tình hình thực hiện các dự án nhóm A, tín dụng ưu đãi
đầu tư, tín dụng chính sách và đề xuất cơ chế chính sách tháo gỡ khó khăn
trình Thủ tướng Chính phủ. Cơng tác giám sát, kiểm tra đầu tư nguồn vốn tín
dụng ưu đãi đầu tư đã được triển khai và thực hiện một cách chủ động, tháo gỡ
nhiều vướng mắc cho nhiều dự án đầu tư. Trình thủ tướng Chính phủ kiến nghị
tháo gỡ vướng mắc cho các dự án vay vốn tín dụng ưu đãi, vướng mắc về cơ
chế chính sách, vốn điều lệ, vốn cấp bù chênh lệch lãi suất cho Ngân hành Phát
triển Việt Nam và Ngân hành Chính sách Xã hội.
Thứ bảy, Góp phần lớn vào sự ra đời của hệ thống dịch vụ tiết kiệm
bưu điện
Vào năm 1995, các chuyên gia của Bộ Kế Hoạch - Đầu Tư sau một lần
khảo sát Nhật Bản và thăm công ty tiết kiệm Bưu điện Nhật Bản đã nhận thấy
đây là một mơ hình tốt có thể huy động được vốn nhàn rỗi với các khoản nhỏ
lẽ trong dân ở mọi miền đất nước để đầu tư cho phát triển vì mạng lưới bưu
cục( bưu điện) ở khắp nơi từ thành thị đến nông thôn, từ vùng đồng bằng đến
vùng núi cao, vùng sâu vùng xa. Từ đó, Vụ Tài Chính - Tiền Tệ đã chủ trì tiến
hành các cuộc hội thảo, đề án nghiên cứu và kết quả là năm 1999 công ty Dịch
14
vụ Tiết kiệm ra đời. Từ khi ra đời đến nay công ty Dịch vụ Tiết kiêm bưu điện
đã huy động được một lượng vốn khá lớn đóng góp cho đầu tư phát triển.
Ngồi ra, Vụ Tài Chính - Tiền Tệ còn triển khai nhiều đề tài khoa học
về ngân sách, tài chính, tiền tệ, tín dụng để hỗ trợ cho cơng tác hoạch định
chính sách trong lĩnh vực tài chính, tài khố, tiền tệ, ngân hàng như: nâng cao
hiệu quả chi NSNN; đổi mới phương thức cân đối NSNN; khảo sát nghiên cứu
tình hình tài chính doanh nghiệp; dự báo tiền tệ trong nền kinh tế thị trường;
cung, cầu vốn trong cơng tác kế hoạch hố; lạm phát và tăng trưởng kinh tế
trong nền kinh tế thị trường; giải pháp về vay, trả nợ nước ngồi; chính sách tỷ
giá và quản lý ngoại hối; nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng cho phát triển
nông nghiệp nông thôn..
Đến cuối năm 2007, Vụ đã trình Thủ tướng Chính phủ các báo cáo và
đề án: Báo cáo kết quả thẩm định đề án “ giải pháp huy động vốn và xã hội hoá
nguồn lực cho đầu tư phát triển” ; Báo cáo về các giải pháp chủ yếu kiểm soát
lạm phát năm 2007 ; Báo cáo đánh giá về kết quả thực hiện các giải pháp kiềm
chế lạm phát và các giải pháp cho các tháng cuối năm 2007; Một số giải pháp
kiềm chế lạm pháp; Tình hình giá cả thị trường năm 2007 và các giải pháp;
Báo cáo đánh giá 4 năm triển khai thực hiện Luật NSNN; Báo cáo đánh giá
vốn đầu tư phát triển, cải thiện môi trường kinh doanh và khả năng cạnh tranh
của nền kinh tế năm 2007 và các giải pháp cho năm 2008; Báo cáo về danh
mục các dự án vay vốn ngoại tệ và cơ chế chính sách. Các báo cáo và đề án
trình Lãnh đạo Bộ: Báo cáo đánh giá tình hình tài chính, tiền tệ 2007, dự kiến
kế hoạch 2008; Báo cáo tình hình tài chính tiền tệ hàng tháng, hàng q; Báo
cáo tình hình tiền tệ, tín dụng, tín dụng ưu đãi và tín dụng chính sách; Báo cáo
về xây dựng đề cương chiến lược phát triển Tài chính - Tiền tệ; Báo cáo về cơ
chế chính sách quản lý thị trường Chứng khoán; Báo cáo về phát triển dịch vụ
tài chính, ngân hàng năm 2007 và định hướng 2008. Các cơng việc tham mưu
cơ chế chính sách: tham gia cùng NHNN soạn thảo các văn bản quy phạm
pháp luật có liên quan tới tiền tệ, tín dụng; Tham gia xây dựng dự án luật thuế;
Tham gia dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật hải quan; Tham
gia soạn thảo Luật Bảo hiểm tiền gửi…
Hiện nay, để chuẩn bị xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội
2010 – 2020, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2010 – 2015, Vụ
Tài Chính - Tiền Tệ cũng đã và đang hoạch định chính sách tài chính, tài khố,
15
tiền tệ, tín dụng và các cân đối NSNN, cân đối tiền tệ, cán cân thanh toán cho
giai đoạn sắp tới.
II. ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CỦA VỤ TÀI
CHÍNH – TIỀN TỆ
Qua các cơng tác mà Vụ Tài Chính - Tiền Tệ đã triển khai thực hiện ta có
thể tóm tắt một số ưu điểm và tồn tại của Vụ trong thời gian qua.
1. Về ưu điểm
Vụ Tài Chính - Tiền Tệ ln chấp hành nghiêm chỉnh và thực hiện tốt
các chức năng của Bộ giao cho. Chất lượng và kết quả công tác ngày càng
được nâng cao. Vụ Tài Chính - Tiền Tệ đã chủ trì đưa ra và thực hiện các giải
pháp, chính sách về tài chính tiền tệ để ổn định và phát triển kinh tế và thực
tiễn đem lại nhiều kết quả thiết thực, nhiều thành công trong thời gian qua.
Nhiều nhiệm vụ đột xuất đã được Vụ giải quyết nhanh, kịp thời, hiệu quả và
chất lượng, công tác của Vụ không ngừng được nâng cao. Có thể khẳng định
trong mỗi sự phát triển và thành cơng của lĩnh vực tài chính, tiền tệ đều có sự
đóng góp quan trọng của Vụ Tài Chính - Tiền Tệ.
Tập thể cán bộ của Vụ Tài Chính - Tiền Tệ với trình độ cao, tinh thần
trách nhiệm cao đã thực hiện tốt những nhiệm vụ được giao, cố gắng vượt khó
khăn hồn thành nhiệm vụ đề ra mặc dù cơng tác tài chính tiền tệ ngày một
phức tạp và khó khăn với sự hội nhập ngày càng sâu rộng của nền kinh tế. Sự
phân công và kế hoạch công tác luôn được đề ra từ đầu năm đối với cả Vụ và
từng cán bộ.
Vụ đã bám sát chủ trương chính sách và chỉ thị, nghị quyết của Đảng,
Chính phủ và cấp trên, sự chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ, chủ động nghiên cứu đề
xuất được nhiều cơ chế chính sách với chất lượng ngày càng cao. Lãnh đạo
Vụ cùng cán bộ Vụ đã nỗ lực, tích cực chủ động phối hợp với các Vụ trong
Bộ, các Bộ, ngành, địa phương trên tinh thần hợp tác, đoàn kết và xây dựng,
do đó đã khắc phục được những tồn tại trong quan hệ phối hợp công tác với
các đơn vị.
Vụ đã mở rộng và phối hợp với một số tổ chức quốc tế trong việc xin hỗ
trợ kinh phí cơng tác chun mơn như: WB, Ausaid, Quỹ tín thác đa biên,…
Nhiều cán bộ trong Vụ đã tích cực tham gia nghiên cứu khoa học, học
tập để nâng cao kiến thức chuyên môn và đồng thời sử dụng kết quả nghiên
cứu vào phục vụ cho công tác xây dựng và hoạch định chính sách tài chính tiền tệ.
16
2. Về tồn tại và hạn chế.
Lực lượng cán bộ của Vụ cịn q mỏng so với lượng cơng việc ngày
một nhiều và khó. Hiện nay, tổng cán bộ của Vụ là 19 người, có nhiều cán bộ
đang đi cơng tác và học tập ở nước ngồi. Do đó, dù đã nỗ lực thực hiện nhưng
kết quả đạt được cũng cịn có mặt chưa đáp ứng được hết địi hỏi hiện nay của
Bộ, của nền kinh tế.
Trong tập thể vẫn còn một vài cán bộ chưa chấp hành đúng nội quy giờ
giấc của Vụ, cơng việc hồn thành chưa đúng tiến độ.
Một số lĩnh vực thuộc chức năng, nhiệm vụ được giao nhưng cịn chưa
thực hiện tốt
Chế độ thơng tin, báo cáo phục vụ cho công tác tổng hợp của Vụ cịn
nhiều hạn chế, tính cập nhật và chính xác của thơng tin chưa thật cao gây khó
khăn cho việc tính tốn tổng hợp và dự báo để đưa ra các định hướng, các chỉ
tiêu kế hoạch và các giải pháp thúc đẩy thực hiện hay tháo gỡ các vướng mắc,
khó khăn gặp phải.
Cơng tác phối hợp với các cơ quan khác có liên quan trong một số lĩnh
vực cịn bị động, chưa thật sự hiệu quả và cịn có phần chồng chéo về chức
năng. Chức năng, nhiệm vụ của Vụ Tài Chính – Tiền Tệ thuộc Bộ Kế Hoạch
Đầu Tư với các Vụ thuộc Bộ Tài Chính cịn chưa phân định rõ ràng, có phần
trùng lặp, chồng chéo trong việc tính tốn các chỉ tiêu thu, chi NSNN, phân bổ
cơ cấu ngân sách Trung ương, tổng hợp vốn hỗ trợ, vốn tín dụng Nhà
Nước…..Do đó, sự phối hợp chưa mang lại hiệu quả cao, chưa đạt được sự
thống nhất về tài chính, tiền tệ.
III. PHƯƠNG HƯỚNG CƠNG TÁC CỦA VỤ TRONG NĂM 2008
Trong năm 2008, thực hiện các chức năng, nhiệm vụ đã được được lãnh
đạo Bộ giao, trên cơ sở chương trình hành động của Chính phủ để thực hiện kế
hoạch phát triển KTXH 5 năm 2006 – 2010 và kế hoạch năm 2008 của Bộ Kế
Hoạch - Đầu Tư, thực hiện các Nghị quyết của Đảng, của Quốc Hội, Vụ Tài
Chính - Tiền Tệ xây dựng chương trình cơng tác năm 2008 bao gồm các nội
dung chính sau:
- Ổn định tổ chức của Vụ
- Tiếp tục nghiên cứu các cơ chế, chính sách để thực hiện kế hoạch tài
chính, tiền tệ năm 2008; chuẩn bị các báo cáo hàng tháng, quý, năm.
- Đánh giá tình hình thực hiện tiền tệ tín dụng 2008 và xây dựng kế hoạch
tiền tệ tín dụng 2009
17
- Báo cáo về chính sách tiền tệ, tín dụng trong tình hình hội nhập kinh tế
quốc tế
- Tham gia với Bộ Tài chính về cân đối NSNN và cơ chế điều hành chính
sách tài chính theo chức năng nhiệm vụ mới.
- Triển khai đánh giá, giám sát về tín dụng ưu đãi đầu tư và tín dụng chính
sách.
- Phối hợp với các ngành kiểm sốt tình hình biến động giá cả trong năm và
đề xuất các giải pháp để bình ổn giá và khuyến khích phát triển sản xuất
kinh doanh
- Tiến hành tổ chức một số cuộc công tác địa phương và làm việc với các
bộ ngành để kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện NSNN, phân bổ
và sử dụng vốn đối với các CTMTQG, kiểm tra việc giải ngân các dự án
nhóm A và huy động sử dụng vốn tín dụng ưu đãi nhà nước và tín dụng
chính sách xã hội
- Tiếp tục tham gia xây dựng các luật, nghị định, thông tư và các cơ chế tài
chính
- Nghiên cứu về phát triển thị trường vốn và thị trường tài chính ở Việt
Nam
- Tiếp tục bổ sung và triển khai chương trình hành động về vay và trả nợ
nước ngoài
- Xây dựng Nghị định về xã hội hoá đầu tư trong 4 lĩnh vực: văn hoá, thể
thao, y tế, giáo dục.
- Tiếp tục nghiên cứu và đề xuất cơ chế, chính sách về quản lý tài chính các
CTMTQG giai đoạn 2006 – 2010
- Triển khai nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế và các công việc khác do
lãnh đạo Bộ giao
PHẦN III. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ CỦA
VIỆT NAM HIỆN NAY
I. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Trong những năm qua, kinh tế vĩ mô của nước ta tương đối ổn định, các
cân đối chủ yếu đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Tình hình tài chính
tiền tệ có nhiều cải thiện, tiềm lực tài chính quốc gia và ngân sách nhà nước
ngày càng được tăng cường. Chính sách tiền tệ được điều hành linh hoạt theo
18
cơ chế thị trường, ổn định được giá trị đồng tiền, giữ được cán cân thanh toán
liên tục thặng dư.
1. Tình hình tài chính, tiền tệ của Việt Nam giai đoạn 2001- 2005.
Tài chính quốc gia tiếp tục được củng cố và cải thiện, góp phần ổn định
kinh tế vĩ mô và khai thác tốt hơn các nguồn tài lực. Tổng thu cân đối ngân
sách nhà nước 5 năm tăng 19.1% / năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế và
tốc độ tăng giá cộng lại. Tính chung cho 5 năm, tổng thu cân đối NSNN đạt
xấp xỉ 778 nghìn tỷ đồng, tăng 158 nghìn tỷ đồng so với mục tiêu kế hoạch
( vượt 25.1%). Tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước bình quân đạt 24.4%
GDP, vượt mục tiêu đề ra là 20 – 21%.
Cơ cấu thu ngân sách bước đầu chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các
nguồn thu ổn định từ nền sản xuất trong nước, giảm tỷ trọng các nguồn thu từ
yếu tố bên ngồi. Tỷ trọng thu nội địa( khơng kể dầu thơ) đã được nâng lên từ
50.9% năm 2000 lên 53.1% năm 200. Tỷ trọng thu từ xuất nhập khẩu từ 20.9%
năm 2000 giảm xuống còn 17.5% năm 2005.
Nhờ tăng thu, các khoản chi ngân sách đều có những cải thiện đáng kể
như: chi đầu tư phát triển, chi cải cách tiền lương, chi sự nghiệp kinh tế và phát
triển văn hoá, giáo dục, y tế, xố đói giảm nghèo và các khoản chi đột xuất,
khắc phục thiên tai…Tổng chi NSNN 5 năm tăng 19.4%/ năm. Tính chung 5
năm, tổng chi ngân sách nhà nước đạt xấp xỉ 980 nghìn tỷ đồng, tăng trên 230
nghìn tỷ đồng so với mục tiêu kế hoạch đề ra.
Cơ cấu chi ngân sách nhà nước có bước chuyển biến tích cực. Tính chung
5 năm, chi đầu tư phát triển chiếm 28% tổng chi NSNN và tương đương 8.6%
GDP. Chi cho giáo dục và đào tạo tăng từ 15% năm 2000 lên 18% năm 2005
tổng chi NSNN, đạt 5.6% GDP, cao hơn mức bình quân Châu Á( 3.8% GDP).
Chi sự nghiệp y tế, văn hoá, xã hội năm 2005 gấp 2.2- 2.5 lần so với năm
2000.
Bội chi ngân sách được duy trì ổn định, trung bình hàng năm 4.85% GDP.
Dư nợ Chính phủ, dư nợ nước ngồi dưới 35% GDP, đảm bảo an ninh tài
chính quốc gia hiện nay và thời gian trung hạn tới.
Trong 5 năm qua, nhiều cơ chế chính sách liên quan tới lĩnh vực tài chính
ngân sách tiếp tục được hồn thiện. Hệ thống chính sách động viên tài chính
được đổi mới góp phần giải phóng và khơi thơng mọi nguồn lực của đất nước
để phát triển kinh tế, xã hội. Các sắc thuế quan trọng như thế VAT, thuế tiêu
thụ đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp đã được điều chỉnh bổ sung, sửa đổi
19
cho phù hợp với tình hình thực tế và thơng lệ quốc tế. Các sắc thuế đều được
điều chỉnh theo hướng đơn giản hoá thủ tục nộp thuế, tăng cường khả năng
kiểm tra, kiểm soát nhằm chống thất thu và gian lận, giảm bớt các mức thuế
suất, tăng tính tự giác của người nộp thuế.
Cơ cấu phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính đã có nhiều chuyển biến
tích cực, đảm bảo nguồn lực tài chính để thực hiện các mục tiêu định hướng
phát triển kinh tế xã hội quan trọng và thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế có
hiệu quả. Định mức chi hành chính sự nghiệp đã được điều chỉnh bước đầu đáp
ứng yêu cầu cơ bản về chi hành chính và chi sự nghiệp giáo dục, y tế, văn
hố…Bên cạnh đó việc thay đổi định mức chi, khốn biên chế và khốn chi
hành chính và chế độ tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu đã
tạo ra những thay đổi cả về tư duy hoạt động quản lý chi tiêu ngân sách. Thủ
tục chi ngân sách nhà nước qua hệ thống kho bạc từng bước được sửa đổi theo
hướng đơn giản hố, cắt giảm các khâu và thủ tục khơng cần thiết.
Chính sách tiền tệ được điều hành linh hoạt, vừa kiểm sốt được lạm phát
vừa hỗ trợ tích cực cho quá trình tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Tốc độ tăng tổng phương tiện thanh tốn nhìn chung phù hợp với mức biến
động của giá cả và tăng trưởng kinh tế, bình quân hàng năm tăng 22.5%.
Nguồn vốn huy động tăng bình quân hàng năm 24% tương đương với kế hoạch
đề ra là 20-25%. Dư nợ cho vay tồn nền kinh tế bình qn tăng 27.6%, cao
hơn kế hoạch đề ra 22%. Tín dụng bằng ngoại tệ tăng nhanh nhất với tốc độ
tăng bình quân năm 33.7%.
Đến cuối năm 2005, nợ xấu chiếm khoảng 4% tổng dư nợ tín dụng, giảm
mạnh so với những năm đầu của kế hoạch 5 năm.
Lãi suất tiếp tục được tự do hoá, tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng
chủ động điều chỉnh lãi suất huy động và cho vay phù hợp. Việc giảm tỷ lệ kết
hối ngoại tệ xuống 0% được coi là một bước đi tích cực trong tiến trình tự do
hố thị trường tài chính tiền tệ, đảm bảo cho việc thực hiện các cam kết quốc tế
trong quá trình hội nhập.
Hệ thống giá cả cơ bản được duy trì ổn định, quan hệ cung cầu phù hợp,
lạm phát nằm trong tầm kiểm soát, chỉ số giá bình qn 5 năm 5.1%.
2.Tình hình tài chính tiền tệ của Việt Nam năm 2006, 2007
2.1. Về tài chính và cân đối NSNN
Tình hình tài chính và thực hiện NSNN nhìn chung thuận lợi. Thu NSNN
vượt dự tốn, năm 2006 đạt 258.6 nghìn tỷ đồng, tăng 8.7% so với dự toán,
20
bằng 26% GDP, là mức cao nhất so với các năm trước. Năm 2007 đạt 287.9
nghìn tỷ đồng, bằng 25.2% GDP, tăng 11.5% so với năm 2006, trong đó thu
nội địa đạt 159.5 nghìn tỷ đồng, thu từ dầu thơ đạt 68.5 nghìn tỷ đồng, thu từ
hoạt động xuất nhập khẩu đạt 56.5 nghìn tỷ đồng. Cơ cấu thu có tiến bộ hơn
những năm trước, năm 2006 so với 2007, thu nội địa từ 52.1% tăng lên 55.4%,
thu từ dầu thô giảm từ 30.3% xuống 23.8%.
Tổng chi NSNN năm 2006 đạt 315.6 nghìn tỷ đồng, tăng 7.2% so với dự
tốn, trong đó chi đầu tư phát triển đạt 89.1 nghìn tỷ đồng, tăng 14.2% so với
dự toán, chiếm tỷ trọng 28.2% tổng chi NSNN và bằng 8.5% GDP. Năm 2007,
tổng chi NSNN đạt 268.34 nghìn tỷ đồng, tăng 14.6% so với 2006, trong đó
chi đầu tư phát triển trên 101.5 nghìn tỷ đồng, tăng 17.5% so với thực hiện
năm 2006.
Bội chi ngân sách năm 2006 đạt 48.5 nghìn tỷ đồng, bằng 4.98% GDP,
năm 2007 bội chi ngân sách đạt 56.5 nghìn tỷ đồng, bằng 4.94% GDP.
2.2.Về chính sách tiền tệ, kiểm soát lạm phát và cán cân thanh toán quốc tế.
Năm 2006, tổng phương tiện thanh toán tăng 25% so với năm 2005, nguồn
vốn huy động của toàn ngành ngân hành năm 2006 tăng 25%( kế hoạch tăng
20 – 25%), dư nợ cho vay toàn nền kinh tế năm 2006 tăng 21%, thấp hơn tốc
độ tăng nguồn vốn huy động 4% tổng dư nợ. Dư nợ nước ngoài của quốc gia
đến năm 2006 bằng 31.7% GDP, nằm trong giới hạn an toàn cho phép. Các
khoản trả nợ đều được thanh tốn đúng hạn. Tuy nhiên, nếu tính theo các tiêu
chí thơng lệ của thế giới thì tỷ lệ nợi xấu còn cao. Chỉ số giá tiêu dùng cả năm
2006 tăng 7.2 – 7.5%, thấp hơn mức tăng giá của năm 2005.
Năm 2007, với áp lực tăng trưởng tín dụng cho phát triển kinh tế và sức
ép từ luồng vốn nước ngoài, tốc độ tăng trưởng tiền tệ cả năm 2007 ở mức cao,
lên tới 35.1% so với tháng 12/2006. Nguồn vốn huy động tăng 35.1% so với
tháng 12/2006 và lên mức 1.009 nghìn tỷ. Dư nợ năm 2007 đạt 886.643 nghìn
tỷ đồng, tăng 27.8% so với cuối năm 2006. Tốc độ tăng trưởng tiền tệ và tín
dụng năm 2007 ở mức cao so với trung bình thời kỳ 2001 – 2006 sẽ có tác
động tiêu cực đến mặt bằng giá cả và kiểm sốt lạm phát khơng những trong
năm nay và có thể kéo dài sang các năm tiếp theo. Năm 2007 tốc độ tăng giá
tiêu dùng cao hơn nhiều so với các năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng tăng
7.32%, trong đó giá tăng chủ yếu tập trung vào 2 nhóm hàng là ăn uống tăng
10.57% và vật liệu xây dựng tăng 9.66%. Về cán cân thanh toán quốc tế: cán
21
cân thương mại năm 2006 thâm hụt 4 tỷ USD, bằng 10.4% kinh ngạch xuất
khẩu, thấp hơn nhiều so với các năm trước. Năm 2007, thâm hụt cán cân
thương mại là 9 tỷ USD cao hơn nhiều so với những năm trước, nguyên nhân
là do tăng nhập khẩu máy móc thiết bị, vật tư, nguyên vật liệu phục vụ cho sản
xuất. Về khả năng trả nợ của Việt Nam hiện nay được đánh giá là khả quan. Tỷ
lệ nợ nước ngoài/GDP là <35%. Nguồn dự trữ ngoại hối của nước ta hiện nay
so với nợ là ở mức tương đối an toàn và liên tục được cải thiện qua các năm.
II. NHỮNG TỒN TẠI, HẠN CHẾ
Chỉ số giá tiêu dùng tăng cao trong năm nay đã ảnh hưởng xấu tới sản
xuất và đời sống của nhân dân. Lạm phát tăng cao do các nguyên nhân sau:
- Luồng ngoại tệ đưa vào nước ta tăng nhanh trong khi khả năng can thiệp
của Ngân hàng Nhà nước trong điều hành chính sách tiền tệ hạn chế vì mục
tiêu tiếp tục duy trì sự ổn định tỷ giá nhằm thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu.
- Tốc độ tăng trưởng tín dụng rất cao là để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh
tế và ổn định lãi suất.
- Hoạt động của thị trường liên ngân hàng chưa thật sự hiệu quả, chưa tạo
được kênh điều tiết vốn giữa các ngân hàng thừa vốn với các ngân hàng
thiếu vốn
- Do giá những đầu vào quan trọng tăng cao như giá xăng dầu, sắt thép, xi
măng…
- Điều hành tiền tệ chưa hợp lý làm tăng nhu cầu có khả năng thanh tốn trên
thị trường và những tồn tại trong cơng tác quản lý bình ổn thị trường và giá
cả. Tăng trưởng tiền tệ ở mức cao trong khi đó các kênh đầu tư khác gặp
nhiều khó khăn, năng lực sản xuất kinh doanh chưa được mở rộng tương
ứng đã dẫn tới mất cân đối cung cầu hàng - tiền, đẩy mặt bằng giá cả tăng
cao. Vậy yếu tố tiền tệ đóng một vai trị khơng nhỏ giải thích cho sự tăng
giá cao trong thời gian qua. Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện
nhiều biện pháp rút bớt lượng tiền trong lưu thông, kiềm chế gia tăng tổng
phương tiện thanh tốn và dư nợ tín dụng. Ngân hàng Nhà nước đã thực
hiện rút bớt một lượng tương đối lớn vốn khả dụng dư thừa của các tổ chức
tín dụng thơng qua nghiệp vụ thị trường mở, hạn chế cho vay có bảo đảm
bằng cầm cố giấy tờ có giá. Điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, giữ ổn
định mức lãi suất chính thức do Ngân hàng Nhà nước cơng bố. Thực hiện
bình ổn giá xăng dầu sau khi thực hiện cơ chế thị trường đối với mặt hàng
xăng, …Mặc dù đã theo dõi diễn biến thị trường liên tục và đề ra các giải
22
pháp kiềm chế tăng giá, chống lạm phát song những giải pháp này cịn tỏ ra
chưa thật sự có hiệu quả do chưa thực sự đi đúng vào nguyên nhân tăng giá
do tổng phương tiện tăng quá nhanh, chỉ số giá tiêu dùng vẫn tiếp tục tăng
cao trong những tháng gần đây.
Tình hình thu chi và phân bổ NSNN cịn nhiều bất cập.
Trong quản lý thu chi ngân sách nhà nước, tình trạng trốn lậu thuế vẫn
chưa được khắc phục, các thủ tục hành chính trong việc kê khai, nộp thuế cịn
nhiều bất hợp lý, tình trạng lãng phí, thất thoát trong chi tiêu ngân sách chưa
được khắc phục.
Nguồn thu NSNN chưa thật ổn định. Đến 2005, 45.8% tổng thu NSNN
vẫn cịn phụ thuộc vào các yếu tố bên ngồi, trong đó thu từ dầu thơ chiếm
28.3%, thu từ thuế xuất nhập khẩu 17.5%.
Cơ cấu chi tiêu ngân sách, chi thường xuyên vẫn còn chiếm tỷ lệ lớn, chi
cho sự nghiệp y tế, giáo dục… cịn ít. Chi tiêu ngân sách cịn nhiều lãng phí,
thất thốt, vẫn đang chủ yếu phân bổ dựa vào đầu vào.
Công tác dự baớ và xây dựng dự toán hàng năm chưa sát thực tế, thực
hiện thu, chi ngân sách hàng năm đều vượt quá cao so với dự toán ban đầu, gây
bị động trong các cân đối lớn. Tiêu chí phân bổ NSNN chưa rõ ràng, hiệu quả
sử dụng vốn ngân sách chưa cao.
Khung khổ chi ngân sách trung hạn chỉ mới dừng ở nghiên cứu và thí
điểm, chưa được áp dụng rộng rãi nên nguồn lực ngân sách vẫn chưa gắn kết
với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội.
Quá trình phân cấp ngân sách mặc dầu đã có nhiều cải tiến kể từ khi
thực hiện luật NSNN mới, song vẫn còn nhiều tồn tại, vướng mắc. Việc phân
cấp chưa được thực hiện một cách cương quyết, triệt để. Việc quyết định các
mức hỗ trợ cho ngân sách địa phương và ngân sách trung ương chưa có các
tiêu chí xác định một cách rõ ràng, minh bạch. Quá trình phân cấp chưa đi đôi
với việc nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ tại địa phương.
Việc xây dựng định mức chi ngân sách vẫn chủ yếu dựa trên các yếu tố
đầu vào mà chưa tính đến các hiệu quả đầu ra của các khoản chi tiêu. Đây là
một trong những nguyên nhân chính dẫn tới trình trạng chi tiêu ngân sách lãng
phí, hiệu quả thấp. Việc tính tốn tỷ lệ điều tiết ngân sách cũng như mức hỗ trợ
từ ngân sách trung ương cho ngân sách địa phương vẫn chưa có căn cứ tiêu chí
xác định rõ ràng. Tính tốn vẫn chủ yếu dựa trên cơ sở nhu cầu đề xuất của địa
phương, khả năng cân đối của ngân sách trung ương và tình hình ngân sách
23
của các năm trước. Do vậy vẫn xảy ra tình trạng các tỉnh nghèo nhận được hỗ
trợ với tỷ lệ thấp hơn các tỉnh giàu, các tỉnh đông dân được hỗ trợ có tỷ lệ thấp
hơn các tỉnh ít dân.
Hệ thống ngân hàng và tài chính cịn nhiều rủi ro, chưa phát triển tương
xứng và chưa đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế về mặt giá trị. Dịch vụ
ngân hàng chưa phát triển đa dạng nên nguồn thu chủ yếu của các ngân hàng
thương mại vẫn trông chờ vào việc cho vay, đặc biệt đối với ngân hàng thương
mại nhà nước.
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của các ngân hàng quốc doanh
mới đạt 4.4 – 6.2% còn khoảng cách khá xa so với yêu cầu tối thiểu 8%. Chất
lượng tín dụng chưa cao, tỷ lệ nợ xấu tuy đã giảm nhưng cịn khá cao nếu tính
theo chuẩn quốc tế. Tài chính doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp lớn chưa thật
sự lành mạnh, tình trạng thua lỗ, nợ nần còn phổ biến, chậm được giải quyết.
Thị trường tài chính chỉ mới bắt đầu hình thành và phát triển.
Các sản phẩm trên thị trường chưa nhiều, số lượng công ty niêm yết có
khả năng tài chính tốt cịn khiêm tốn, chưa thu hút được sự tham gia tích cực
của các công ty cổ phần. Việc huy động các nguồn lực tài chính đáp ứng vốn
cho đầu tư phát triển còn hạn chế, nhiều tiềm năng vốn trong nước và nước
ngoài chưa được khai thác tốt. Tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư so với tổng sản phẩm
trong nước tuy đã có bước cải thiện đáng kể nhưng vẫn cịn thấp so với khả
năng, cịn có thể huy động nhiều hơn để đáp ứng yêu cầu phát triển. Nguồn
vốn nhàn rỗi trong dân cư còn chưa được huy động hết.
Trong những năm qua, thị trường tài chính thế giới có nhiều biến động
lớn, tuy chưa ảnh hưởng lớn tới thị trường chứng khoán Việt Nam nhưng cũng
tạo ảnh hưởng tâm lý nhất định đến các nhà đầu tư. Do vậy thị trường tài chính
đặc biệt là thị trường chứng khốn của Việt Nam có phần bị chững lại. Sự chu
chuyển vốn giữa các thị trường tiền tệ, chứng khoán và bảo hiểm ngày càng trở
nên phức tạp, khó kiểm sốt. Do tính chất liên thơng giữa các thị trường nên
một cơ quan khó có thể nắm bắt được đầy đủ thông tin về sự chu chuyển luồng
vốn ra vào giữa các thị trường cũng như quy mô của các luồng vốn gián tiếp
vào các thị trường tài chính. Do vậy yêu cầu phải có sự phối hợp nhịp nhàng
giữa các cơ quan để có thể quản lý tốt thị trường tài chính và thúc đẩy thị
trường này phát triển.
Giải ngân vốn ODA, vốn tín dụng phát triển cịn diễn ra chậm chạp, đặc
biệt là trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, trong ngành GTVT. Giải ngân hỗ lãi
suất sau dầu tư đạt rất thấp, chỉ bằng 8% kế hoạch năm 2007. Có nhiều nguyên
24
nhân dẫn tới tiến độ giải ngân chậm trong đó có nhiều nguyên nhân đã tồn tại
và kéo dài cho tới nay vẫn chưa có hướng giải quyết triệt để như:
- Chậm trể trong việc lập và phê duyệt thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán, xây
dựng đơn giá thi cơng hoặc hồn tất hồ sơ thanh tốn mặc dù đã có khối lượng
thi cơng cơng trình.
- Ách tắc trong giải phóng mặt bằng, thực hiện tái định cư của hầu hết các dự
án nhóm A
- Năng lực yếu kém của tư vấn, nhà thầu
- Vốn tham gia của chủ đầu tư ở mức thấp
- Thời gian nghiệm thu, hoàn tất hồ sơ thanh tốn kéo dài
- Cơng tác phối hợp giữa các ngành, các cấp ở một số nơi còn chưa chặt chẽ,
chưa kịp thời trong giải ngân cũng như giám sát việc thực hiện dự án.
Các chương trình mục tiêu quốc gia vẫn còn nhiều hạn chế.
Cơ chế cho các địa phương tự phân bổ và cấp phát kinh phí cho các dự án
thuộc các chương trình mục tiêu dẫn đến tình trạng việc phân bổ kinh phí cho
các dự án còn phân tán, dàn trải, hiệu quả thấp. Việc thực hiện CTMTQG thiếu
sự gắn kết giữa trung ương với địa phương. Cơ chế tài chính của CTMTQG
chưa khuyến khích việc đa dạng hố các nguồn đầu tư và đảm bảo nguồn tài
chính liên tục.
Hệ thống các chính sách và các quy định về thuế cho đến nay vẫn chưa
hoàn chỉnh, chưa bao quát hết các nguồn thu, có quá nhiều mức thuế suất.
Nguồn thu từ thuế hiện nay vẫn chủ yếu là từ thuế gián thu, thu từ thuế trực thu
cịn rất ít nên thuế vẫn chưa thực sự phát huy được tác dụng điều tiết của mình.
Chính sách miễn giảm thuế áp dụng trên diện q rộng gây khó khăn cho việc
triển khai thực hiện, dể nảy sinh tiêu cực, tác động làm sai lệch cơ cấu kinh tế
và mơi trường bình đẳng trong đầu tư kinh doanh. Mặc dầu thuế suất một số
mặt hàng được thay đổi linh hoạt nhằm tăng thu, song điều này cũng đặt ra vấn
đề về tính dễ tiên liệu của chính sách thuế. Trong một chừng mực nhất định
những thay đổi đột ngột trong chính sách thuế có ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như độ tin cậy của chính
sách nói chung.
25