Tải bản đầy đủ (.doc) (150 trang)

chi tiết học phần địa lý kinh tế xã hội việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (866.93 KB, 150 trang )

CHƯƠNG TRÌNH CHI TIẾT HỌC PHẦN
1. Tên học phần: ĐỊA LÍ KINH TẾ XÃ HỘI VIỆT NAM 1, 2, 3
2. Số tín chỉ: 6 (3 học phần, mỗi học phần 2 tín chỉ)
3. Trình độ: cho sinh viên năm thứ 2, 3
4. Phân bổ thời gian: Mỗi học phần có 25 tiết lên lớp, 5 tiết (thực hành, thảo luận,
kiểm tra).
5. Điều kiện tiên quyết:
Các học phần sinh viên phải học trước học phần này: Cơ sở địa lý kinh tế, ĐL tự
nhiên VN. Các học phần tiên quyết phải tích lũy trước khi học học phần này (phải
đạt

5,5 điểm mới được học học phần này):
6. Mục tiêu của học phần:
Cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản, cập nhật có hệ thống về: Các
nguồn lực phát triển kinh tế đất nước; Tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế Việt Nam
và vùng kinh tế ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, sinh viên có thể vận dụng tốt trong việc
nghiên cứu và giảng dạy địa lý kinh tế.
7. Mô tả vắn tắt nội dung: Chương trình bao gồm 6 chương, chia làm 3 học phần.
- Học phần 1: Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên; Địa lý dân cư.
- Học phần 2: Tổ chức lãnh thổ nông-lâm-ngư; công nghiệp; các ngành dịch
vụ.
- Học phần 3: Tổ chức lãnh thổ các vùng kinh tế; Phát triển kinh tế, an ninh
quốc phòng ở Biển Đông và các đảo - quần đảo.
8. Nhiệm vụ của sinh viên:
Dự lớp đầy đủ các buổi học, không được vắng mặt quá 20% tổng số tiết cho mỗi
học phần. Nghiên cứu và thảo luận tại lớp các câu hỏi hoặc bài tập. Tham dự bài
kiểm tra học phần vào giữa học kỳ. Đọc tham khảo các tài liệu được giới thiệu.
9. Tài liệu học tập:
9.1. Tài liệu, giáo trình chính: Đề cương bài giảng do giảng viên biên soạn.
9.2. Tài liệu tham khảo:
1. Lê Thông (chủ biên), Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Minh Tuệ, Địa lý kinh tế xã


hội Việt Nam, Nxb ĐHSP Hà Nội, 2004.
2. Lê Thông (chủ biên), Nguyễn Minh Tuệ, Phạm Tế Xuyên, Nguyễn Thế
Chinh, Địa lý kinh tế Việt Nam, Nxb Thống kê, 1999.
3. Vũ Tự Lập, Địa lý tự nhiên Việt Nam, Nxb GD, 1999.
4. Trần Đình Gián (chủ biên), Địa lý Việt Nam, Nxb KHXH, 1990.
1
5. Qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010, Bộ KH & ĐT,
1997.
10. Tiêu chuẩn đánh giá sinh viên:
- Kiểm tra giữa kỳ 0,4
- Thi học phần 0,6
Cộng 1,0
11. Thang điểm: A, B, C, D
12. Nội dung chi tiết học phần (lí thuyết)
ĐỊA LÝ KINH TẾ - XÃ HỘI VIỆT NAM 3 (các vùng kinh tế)
Chương 6.
TỔ CHỨC LÃNH THỔ CÁC VÙNG KINH TẾ.
A. VÙNG KINH TẾ.
1. Tính chất khách quan của vùng kinh tế.
Khi LLSX XH phát triển sẽ thúc đẩy sự phát triển của phân công LĐXH.
Phân công LĐXH được biểu hiện ở 2 hình thức cơ bản là phân công lao động theo
ngành và phân công lao động theo lãnh thổ. Phân công lao động theo lãnh thổ dẫn
tới hình thành các không gian kinh tế đặc thù - Các vùng kinh tế.
Vùng kinh tế (cũng giống như bất kỳ thực thể kinh tế nào đó) hình thành,
hoạt động & phát triển đều có tính qui luật. Con người (có thể) & cần phải nhận
thức được những qui luật vận động của nó, để trên cơ sở đó mà cải tạo & xây dựng
vùng phát triển một cách hướng đích.
Vùng là sản phẩm của quá trình phát triển phân công lao động theo lãnh thổ,
vùng kinh tế hình thành & hoạt động phù hợp với với những đặc trưng cơ bản của
một hình thái KT-XH nhất định. Nhưng cần hiểu rằng, không phải ở mọi hình thái

KT-XH trong lịch sử đều tồn tại vùng kinh tế. Cụ thể:
- Thời kỳ trước Tư bản chủ nghĩa, nền kinh tế tự nhiên là chủ yếu, LLSX còn
kém phát triển, PCLĐXH theo lãnh thổ còn thô sơ, chưa có những tiền đề vật chất
cần thiết cho việc hình thành vùng kinh tế.
- Đến thời kỳ TBCN, sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển mang tính chất
phổ biến. Thời kỳ công trường thủ công là thời kỳ bắt đầu phát triển mạnh nền sản
xuất hàng hóa, nhiều ngành mới xuất hiện, số lượng các ngành riêng biệt & độc lập
tăng lên, thị trường được mở rộng đã hình thành các vùng SX CMH' thúc đẩy mạnh
2
mẽ sự PCLĐ theo lãnh thổ. Công trường thủ công không chỉ tạo ra từng khu vực
rộng lớn mà còn CMH' những khu vực đó nữa (sự phân công theo hàng hóa). Như
vậy, đến thời kỳ công trường thủ công thì vùng kinh tế mới được hình thành Chủ
nghĩa tư bản càng phát triển càng thúc đẩy phân công lao động theo lãnh thổ phát
triển, mỗi vùng nhất định chuyên sản xuất một bộ phận của sản phẩm được hình
thành, và ta thấy "có mối quan hệ chặt chẽ giữa phân công (nói chung) và phân
công (khu vực); Tức là một khu vực nhất định chuyên chế tạo một sản phẩm, đôi
khi chuyên làm một loại sản phẩm, thậm chí làm một bộ phận nào đó của sản
phẩm". Chính PTSX Tư bản chủ nghĩa đã phá vỡ tính chất cô lập nền kinh tế tự
nhiên của chế độ phong kiến, làm cho các mối liên hệ kinh tế giữa các thị trường
dân tộc phát triển, thúc đẩy nhanh chóng thị trường thương mại quốc tế cùng với sự
bành trướng của thị trường thế giới. Như vậy, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra những mối
liên hệ có ý nghĩa thế giới & tạo ra sự phân công lao động quốc tế rất nhiều vẻ, sự
phân công lao động quốc tế này cũng tác động mạnh đến sự phân công lao động
theo lãnh thổ ở trong từng khu vực và ở từng nước tư bản.
- Sang hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa, lực lượng sản xuất tiếp tục được
phát triển, phân công lao động (nói chung) & phân công lao động theo lãnh thổ
(nói riêng) càng trở nên sâu sắc. Vùng kinh tế được hình thành nhưng khác tư bản
chủ nghĩa ở chỗ là dựa trên cơ sở nhận thức tính qui luật khách quan của sự hình
thành & phát triển vùng kinh tế và trên cơ sở vận dụng một cách sáng tạo các qui
luật kinh tế vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước mình (Tư bản chủ nghĩa, vùng kinh

tế được hình thành dưới áp lực của tự do cạnh tranh & lợi nhuận). Nhà nước xã
hội chủ nghĩa tác động có ý thức vào quá trình hình thành & phát triển vùng kinh
tế, phục vụ cho các mục tiêu phát triển KT-XH của đất nước; Nhà nước XHCN
không chỉ có khả năng xây dựng những vùng kinh tế mới, mà còn có khả năng cải
tạo những vùng kinh tế cũ một cách khoa học phù hợp với chiến lược phát triển
quốc gia.
2. Các yếu tố tạo vùng kinh tế.
• Phân công lao động theo lãnh thổ (PCLĐ). Phân công lao động theo lãnh
thổ vừa là cơ sở - vừa là động lực của sự hình thành vùng kinh tế. Phân công lao
động theo lãnh thổ được biểu hiện bằng sự tập trung các loại sản xuất riêng biệt
trên một lãnh thổ nhất định; bằng việc CMH' sản xuất của dân cư dựa vào những
điều kiện & đặc điểm sản xuất đặc thù của lãnh thổ đó; Mỗi phạm vi lãnh thổ có
chức năng sản xuất đặc thù - đó là một vùng kinh tế; Các vùng kinh tế thông qua
3
mối liên hệ kinh tế - liên kết với nhau trong một hệ thống phân công lao động theo
lãnh thổ thống nhất. Như vậy, vùng kinh tế là sự biểu hiện cụ thể của phân công lao
động xã hội theo lãnh thổ & sự phân công lao động xã hội theo lãnh thổ là yếu tố
tạo vùng cơ bản nhất.
• Yếu tố tự nhiên. Môi trường tự nhiên là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp -
thường xuyên - vĩnh viễn tới quá trình phát triển & phân bố sản xuất; từ đó ảnh
hưởng tới phương hướng - qui mô và cơ cấu sản xuất của vùng kinh tế. Những yếu
tố tự nhiên ảnh hưởng quan trọng nhất là:
- Nguồn tài nguyên khoáng sản & năng lượng. Mỗi loại tài nguyên khoáng
sản có thể đóng nhiều vai trò khác nhau & có tác động đến sự hình thành & phát
triển vùng kinh tế về nhiều mặt. (Ví dụ, than đá, dầu mỏ, khí tự nhiên, vừa là
nhiên liệu, nhưng nó cũng là nguồn nguyên liệu để sản xuất ra hàng trăm loại sản
phẩm hóa chất khác nhau). Ảnh hưởng của tài nguyên khoáng sản đối với việc hình
thành vùng kinh tế ở các mặt trữ lượng, chất lượng, sự phân bố, điều kiện khai thác,
mức độ sử dụng Việc đánh giá sự ảnh hưởng của nó cần xem xét dưới góc độ
tổng hợp, tìm ra ảnh hưởng "trội" để có thể xác định khả năng CMH' sản xuất của

vùng. Các nguồn tài nguyên rừng, hải sản & nông sản cũng ảnh hưởng quan trọng
đến sự hình thành & phát triển vùng kinh tế. Cụ thể, các vùng rừng có trữ lượng gỗ
lớn có khả năng hình thành & phát triển các ngành sản xuất CMH' gắn với tài
nguyên rừng. Các nguồn cá biển, cá nước ngọt, các đặc hải sản cho phép hình thành
các vùng CMH' về CB' - khai thác - nuôi trồng các loại thủy sản đặc biệt (tôm, cua,
bào ngư, trai ngọc,.v.v.).
- Đất đai. Vùng kinh tế là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia; Khái niệm
vùng gắn liền với khái niệm phạm vi nhất định của diện tích đất đai; Đất đai là
TLSX cơ bản trong nông nghiệp, có vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp
& hình thành các vùng chuyên canh; Yếu tố tạo vùng quan trọng của đất đai là thổ
nhưỡng, vì vậy cần đánh giá ý nghĩa kinh tế của thổ nhưỡng để tạo ra các vùng
chuyên canh phù hợp; Tác dụng tạo vùng của thổ nhưỡng thể hiện ở chất đất, ở tính
chất liền dải đối với việc phát triển một loại cây trồng nào đó. Như vậy khi xem xét
yếu tố tạo vùng của đất đai, cần xem xét cả 2 mặt (thổ nhưỡng & diện tích), ngoài
ra còn xem xét thêm về địa hình, khả năng tưới tiêu
- Khí hậu. Để tạo vùng, thì khí hậu đóng vai trò quan trọng. Ảnh hưởng của
khí hậu đối với SXNN là việc bố trí các loại cây trồng - giống vật nuôi phù hợp.
Khí hậu - thổ nhưỡng là những yếu tố trội tác động mạnh mẽ đến việc hình thành
4
các vùng CMH' sản xuất nông nghiệp. Nước ta, do vị trí & hình dáng lãnh thổ kéo
dài theo nhiều vĩ độ, nằm trong vùng nhiệt đới - gió mùa, địa hình phân hóa đa
dạng. Vì vậy, ng/cứu về đất đai & khí hậu cần được đặc biệt chú ý trong quá trình
hình thành vùng kinh tế.
• Yếu tố kinh tế.
- Trung tâm công nghiệp (TTCN), thành phố lớn. Thông thường, các thành
phố lớn hay TTCN đều tạo ra quanh mình một vùng ảnh hưởng, trong đó mọi sinh
hoạt kinh tế đều do thành phố, TTCN chi phối. Vì vậy, khi nghiên cứu vùng kinh tế
phải xuất phát từ thành phố & TTCN lớn để xác định phạm vi ảnh hưởng không
gian của chúng; Tùy theo qui mô và loại hình thành phố & TTCN mà phạm vi ảnh
hưởng khác nhau, những thành phố & TTCN lớn thường là hạt nhân của vùng kinh

tế.
- Các cơ sở sản xuất nông - lâm - ngư quan trọng (SX N - L - N). Các cơ sở
SX N-L-N thường sản xuất ra nhiều loại sản phẩm, khối lượng sản phẩm lớn và có
mối quan hệ (cả bên trong & bên ngoài) phức tạp đều có tác dụng tạo vùng. Ví dụ,
hệ thống các nông trường có qui mô hoạt động rộng lớn, có thể phát triển nhiều
ngành CMH', tạo ra một phạm vi ảnh hưởng xung quanh mình. Các vùng CMH' về
cây công nghiệp, hay vùng chuyên canh lúa đều là những hạt nhân tạo vùng.
- Quan hệ kinh tế đối ngoại. Việc mở rộng quan hệ kinh tế - thương mại với
nước ngoài, hay nói một cách khác là việc đẩy mạnh xuất - nhập khẩu cũng có ảnh
hưởng đến sự hình thành, qui mô & mức độ CMH' của các vùng kinh tế. Ví dụ,
điều kiện khí hậu của nước ta thuận lợi cho phát triển các loại nông sản nhiệt đới để
xuất khẩu đổi lấy máy móc thiết bị phục vụ cho sự nghiệp CNH' & HĐH' đất nước.
Điều này đòi hỏi nước ta phải nhanh chóng xây dựng các vùng CMH' rộng lớn &
ổn định về sản xuất các nông phẩm nhiệt đới.
• Yếu tố tiến bộ khoa học - công nghệ (KH-CN). Tiến bộ của KH - CN ảnh
hưởng tới việc hình thành vùng kinh tế ở nhiều mặt. Ví dụ, ứng dụng tiến bộ của
KH - CN vào việc thăm dò, tìm kiếm, xác định trữ lượng, chất lượng tài nguyên
khoáng sản, trên cơ sở đó tạo điều kiện cho việc hình thành nhiều KCN mới. Tiến
bộ của KH - CN còn cho phép cải tạo các vùng hoang hóa, đầm lầy, thành các
vùng SX CMH' quan trọng.
• Yếu tố dân cư - dân tộc. Yếu tố dân cư thể hiện ở nguồn LĐ (lao động kĩ
thuật) có vai trò quan trọng trong việc hình thành vùng kinh tế. Thường là ở những
5
nơi có LLLĐ đông đảo, trình độ CMKT cao đều là nơi thuận lợi cho việc hình
thành & phát triển nhiều ngành sản xuất CMH' có qui trình kỹ thuật hiện đại. Yếu
tố dân tộc thể hiện trong tập quán SX và tập quán tiêu dùng cũng tạo ra những
ngành sản xuất CMH' khác nhau với những sản phẩm độc đáo. Tập quan tiêu dùng
kích thích sự phát triển các ngành nghề với những sản phẩm khác nhau phù hợp với
yêu cầu tiêu dùng của nhân dân làm cho cơ cấu sản xuất của vùng phong phú, đa
dạng, tận dụng hợp lý tiềm năng mọi mặt của vùng.

• Yếu tố lịch sử - văn hóa. Vùng mà chúng ta nghiên cứu là kết quả của một
quá trình phát triển lâu dài về lịch sử - văn hóa – xã hội. Vì vậy, khi nghiên cứu quá
trình hình thành vùng phải có quan điểm lịch sử đúng đắn. Những yếu tố tạo vùng
đều có mối quan hệ tác động qua lại với nhau trong một thể thống nhất, việc nghiên
cứu quá trình hình thành & phát triển vùng kinh tế cần phải phân tích tỉ mỉ, sâu sắc
từng yếu tố; mối quan hệ giữa chúng với nhau (cả trong trạng thái tĩnh và động).
3. Nội dung của vùng kinh tế.
Vùng kinh tế là một bộ phận kinh tế lãnh thổ đặc thù của nền KTQD có
CMH' sản xuất kết hợp chặt chẽ với phát triển tổng hợp. Như vậy, có thể hiểu vùng
kinh tế bào hàm 2 nội dung là CMH' & phát triển tổng hợp.
3.1. Chuyên môn hóa sản xuất của vùng kinh tế (CMH' SX).
Trước hết, vùng kinh tế phải là một vùng sản xuất CMH'. Sự CMH' nói lên
chức năng sản xuất cơ bản, quyết định phương hướng sản xuất chủ yếu của vùng
trong một giai đoạn nhất định. Mặt khác, CMH còn nói lên vai trò, vị trí của vùng
trong nền KTQD, xác định nhiệm vụ cơ bản mà vùng phải đảm nhận đối với cả
nước (hay với nhiều vùng) trong một thời gian tương đối dài.
- CMH' sản xuất của vùng kinh tế là dựa vào những ưu thế của vùng để phát
triển một số ngành có ý nghĩa đối với cả nước (hoặc đối với thị trường thế giới).
Những ưu thế của vùng là những điều kiện đặc thù về TN - KT - dân cư - lịch sử -
XH - VH - KH - KT & CN. Các vùng kinh tế khác nhau không chỉ về điều kiện tự
nhiên mà còn khác nhau về trình độ phát triển của LLSX, về mật độ dân số, về
nguồn lao động (đặc biệt là lao động có kĩ thuật), về cơ sở kinh tế, về CSVC - KT,
khoa học được tạo ra trong quá trình lịch sử. Sự CMH' sản xuất của vùng kinh tế
chính là sự lợi dụng những điều kiện đặc thù đó, nhằm tiết kiệm & tăng NS LĐXH,
nâng cao hiệu quả vốn đầu tư vào sản xuất - kinh doanh, tạo ra khối lượng hàng hóa
tốt - rẻ - có sức cạnh tranh, thỏa mãn nhu cầu của vùng, đáp ứng nhu cầu nhất định
6
của nền KTQD, tham gia tích cực vào hoạt động KT-XH giữa các vùng, góp phần
đẩy nhanh quá trình PCLĐXH theo lãnh thổ trên phạm vi cả nước.
Tiêu chuẩn quan trọng để xác định một ngành SX CMH' là khối lượng -

chất lượng sản phẩm hàng hóa xuất ra ngoài vùng Người ta thường sử dụng
các chỉ tiêu sau:
(1) Tỷ trọng (%) sản phẩm hàng hóa xuất ra ngoài vùng của một ngành nào
đó chiếm trong toàn bộ sản phẩm của ngành đó ở trong vùng.
(2) Tỷ trọng (%) sản phẩm xuất ra ngoài vùng của một ngành nào đó chiếm
trong toàn bộ sản phẩm - trao đổi giữa các vùng của ngành nào đó trong cả nước.
(3) Tỷ trọng (%) sản phẩm của một ngành SX nào đó của vùng chiếm trong
toàn bộ sản phẩm của ngành đó trong cả nước (tính theo đơn vị tự nhiên và giá
trị).
(4) Tỷ trọng (%) giá trị sản lượng của một ngành nào đó của vùng chiếm
trong tổng giá trị sản lượng của vùng.
Chỉ tiêu (1) & (2) cho phép xác định vị trí của một ngành nào đó trong sự
PCLĐXH theo lãnh thổ của vùng và của toàn quốc. Chỉ tiêu (3) & (4) cho phép xác
định vị trí của một ngành nào đó trong nền KTQD của vùng và của toàn quốc. Kết
hợp cả 4 chỉ tiêu trên cho phép phát hiện các ngành sản xuất CMH' chủ yếu & trình
độ CMH' của chúng trong vùng kinh tế.
3.2. Phát triển tổng hợp nền kinh tế của vùng.
- Phát triển tổng hợp là bản chất của vùng kinh tế theo định hướng XHCN,
nó xác định cơ cấu kinh tế hợp lý nhất của vùng & phản ánh các mối quan hệ kinh
tế trong nội vùng. Phát triển tổng hợp nền kinh tế của vùng tức là mỗi vùng kinh tế
phải là một tổng thể kinh tế đa ngành - đa lĩnh vực phát triển mạnh mẽ - cân đối,
hỗ trợ nhau trong sản xuất - kinh doanh, trong khai thác - sử dụng hợp lý tài
nguyên thiên nhiên - lao động; đảm bảo cho vùng có thể tự túc được phần lớn nhu
cầu của mình; mặt khác có thể làm tốt trách nhiệm đã được phân công đối với nền
kinh tế của cả nước.
- Phát triển tổng hợp nền kinh tế của vùng là sự phát triển cân đối - tối ưu
của các ngành kinh tế có trong vùng; Phải đảm bảo cho hướng CMH' của vùng phát
triển thuận lợi nhất, đạt hiệu quả cao nhất. CMH' sản xuất kết hợp với phát triển
tổng hợp chính là thực hiện sự kết hợp giữa lợi ích của vùng với lợi ích của cả nước
7

(đây cũng là tính ưu việt của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường - định
hướng XHCN). Muốn phát triển tổng hợp nền kinh tế của vùng, cần xác định rõ số
lượng ngành kinh tế & cơ cấu kinh tế của vùng (số lượng ngành & cơ cấu kinh tế
thường rất khác nhau tùy thuộc vào sự CMH' & trình độ phát triển của LLSX). Bên
cạnh các ngành sản xuất CMH', cần phát triển hợp lý một tổng hợp thể các ngành
kinh tế khác; Mục đích là tạo ra sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của vùng; phát triển
cân đối các ngành trong nội vùng nhằm hợp lý hóa các mối liên hệ (trong & ngoài)
vùng ở tất cả các khâu của quá trình sản xuất
Lưu ý, phát triển tổng hợp của vùng kinh tế không phải là sự phát triển của
một tập hợp đơn giản các ngành kinh tế khác nhau chỉ có liên hệ với nhau về mặt
cùng chung một lãnh thổ phân bố; mà là một sự kết hợp xã hội của sản xuất trong
phạm vi một vùng kinh tế. Giữa các ngành của tổng hợp thể kinh tế vùng có sự phụ
thuộc lẫn nhau theo một tỉ lệ nhất định, khiến chúng phát triển một cách cân đối,
nhịp nhàng theo một kế hoạch thống nhất. Tất nhiên, mối liên hệ đó không phải
hình thành ngay trong cùng một lúc, mà nó hình thành dần dần theo sự phát triển
của LLSX của vùng. Cho nên, việc xác định cơ cấu kinh tế của vùng theo nguyên
tắc tương lai là phải dự báo được những khả năng biến động để tìm ra các giải pháp
đảm bảo cho sự phát triển tổng hợp - hợp lý của vùng. CMH' sản xuất kết hợp chặt
chẽ với phát triển tổng hợp nền kinh tế của vùng tạo thành tổng hợp thể kinh tế của
vùng.
● Tổng hợp thể kinh tế vùng bao gồm 3 nhóm ngành chủ yếu sau:
+ Các ngành SX CMH’. Các ngành sản xuất CMH' của vùng là những
ngành đóng vai trò chủ yếu trong nền kinh tế vùng; quyết định phương hướng sản
xuất chủ yếu; quyết định vị trí của vùng trong sự PCLĐ theo lãnh thổ (giữa vùng &
cả nước); quyết định việc hình thành tổng hợp thể kinh tế của vùng & việc tổ chức
- quản lý kinh tế của vùng. Những ngành này hình thành & phát triển trên cơ sở các
điều kiện thuận lợi nhất của vùng & tạo ra sản phẩm hàng hóa có ý nghĩa quốc gia
& quốc tế; Sản phẩm hàng hóa phải có chất lượng cao, giá thành hạ, đủ sức cạnh
tranh; thỏa mãn nhu cầu cả nước hay của nhiều vùng khác, là ngành chiếm tỉ trọng
tương đối lớn trong cơ cấu kinh tế của vùng (hoặc cả nước).

+ Các ngành sản xuất bổ trợ. Là những ngành chủ yếu phát triển để trực
tiếp phục vụ cho các ngành sản xuất CMH' vùng, những ngành này có mối liên hệ,
gắn bó với các ngành sản xuất CMH'. Có thể nói, không có các ngành bổ trợ thì
các ngành sản xuất CMH' không thể phát triển được; nhưng sự phát triển của các
8
ngành bổ trợ lại do các ngành sản xuất CMH' vùng qui định, các ngành này phát
sinh, tồn tại & phát triển tùy thuộc vào hướng sản xuất CMH' của vùng.
Các ngành sản xuất bổ trợ thường bao gồm: Các ngành khai thác và làm
giàu nguyên liệu cung cấp cho các ngành sản xuất CMH'; Các ngành cung cấp thiết
bị, vật liệu, nhiên liệu, năng lượng cho các ngành sản xuất CMH'; Các ngành có
liên hệ chặt chẽ với các ngành sản xuất CMH' về qui trình công nghệ.
+ Các ngành sản xuất phụ: Bao gồm những ngành không có liên quan trực
tiếp với các ngành sản xuất CMH' vùng, nhưng lại rất cần thiết cho sự phát triển
vùng, vì những ngành này có thể đáp ứng một phần quan trọng nhu cầu sản xuất có
tính chất địa phương dựa trên nguồn nguyên liệu nhỏ có tại địa phương. Các ngành
này thường bao gồm: Các ngành sử dụng các phế liệu & phế phẩm của ngành sản
xuất CMH'; Các cơ sở sản xuất VLXD, các cơ sở CB' & sửa chữa máy móc dùng
trong địa phương.
4. Các loại vùng kinh tế (KT).
a. Vùng kinh tế ngành.
Vùng kinh tế ngành là vùng mà ở đó phân bố tập trung một ngành sản xuất
nhất định (vùng nông nghiệp, vùng công nghiệp). Vùng kinh tế ngành cũng có tính
chất tổng hợp của nó (ngoài các ngành sản xuất CMH', còn có cả một cơ cấu các
ngành phát triển hỗ trợ). Vùng kinh tế ngành là cơ sở để hoạch định chính sách phát
triển & phân bố của các ngành, là cơ sở để kết hợp kế hoạch hóa & quản lý theo
ngành - theo lãnh thổ.
b. Vùng kinh tế tổng hợp.
Đây là vùng kinh tế đa ngành, phát triển cân đối, nhịp nhàng, nó là một phần
tử - cơ cấu của nền kinh tế quốc gia. Sự CMH' của vùng kinh tế tổng hợp được qui
định bởi các vùng kinh tế đa ngành tồn tại trong vùng kinh tế tổng hợp, sự CMH'

của chúng còn có ý nghĩa đối với cả các vùng kinh tế tổng hợp khác.
Khi lực lượng sản xuất càng phát triển, thì PC LĐXH (cả PCLĐ theo ngành)
càng sâu sắc sẽ làm cho cơ cấu kinh tế của các vùng kinh tế tổng hợp càng phức
tạp. Khi đó, CMH' của các vùng kinh tế tổng hợp trở thành sự CMH' của các ngành
kinh tế trong vùng, số lượng các ngành CMH' sẽ tăng lên.
Vùng kinh tế tổng hợp bao gồm 2 loại:
9
+ Vùng kinh tế cơ bản. Là vùng có diện tích rộng; có nhiều ngành sản xuất
CMH' và sự phát triển tổng hợp của vùng phức tạp hơn so với vùng kinh tế hành
chính. Là vùng chỉ có ý nghĩa & chức năng kinh tế, giúp cho việc nghiên cứu & lập
các chương trình kế hoạch dài hạn về phát triển kinh tế có tầm cỡ quốc gia; giúp
cho việc phân bố hợp lý LLSX trong cả nước & giữa các vùng; xây dựng mối liên
hệ kinh tế giữa các vùng và cả nước, tạo điều kiện khai thác tốt mọi nguồn tài
nguyên, lao động, cơ sở vật chất kỹ thuật của đất nước; hình thành & điều tiết các
cân đối lãnh thổ lớn; định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ.
+ Vùng kinh tế hành chính. Là vùng có cả chức năng kinh tế lẫn hành chính,
là sự thống nhất giữa quản lý kinh tế với quản lý hành chính, là vùng được xây
dựng theo nguyên tắc kinh tế (ranh giới kinh tế - hành chính thống nhất). Do ý
nghĩa & chức năng kinh tế, nên vùng kinh tế hành chính cũng có đầy đủ 2 chức
năng cơ bản của một vùng kinh tế tổng hợp (CMH' sản xuất & phát triển tổng hợp).
Bản thân vùng kinh tế hành chính cũng là một tổng hợp thể kinh tế lãnh thổ, nhưng
do ý nghĩa & chức năng hành chính của nó cho nên mỗi vùng kinh tế hành chính là
một đơn vị kinh tế trong phân cấp quản lý của Nhà nước, có ngân sách riêng, có thị
trường địa phương. Những cơ quan-chính quyền của vùng kinh tế hành chính thực
hiện cả 2 chức năng là quản lý hành chính & quản lý kinh tế.
B. NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN VÙNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM
1. Quan niệm về vùng
Trên thực tế, có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về vùng kinh tế với mục
đích & tiêu chí khác nhau. Song, dù qui mô của vùng có thể lớn-nhó khác nhau thì
đều có những điểm chung là trong một lãnh thổ đều có ranh giới nhất định (dù

"cứng" hay "mềm"), trong đó có sự tác động tương hỗ giữa các yếu tố tự nhiên -
môi trường - con người (bao gồm cả sản xuất & tiêu thụ). Như vậy có thể quan
niệm về vùng như sau: "Vùng là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia có một sắc thái
đặc thù nhất định, hoạt động như một hệ thống do có mối quan hệ tương đối chặt
chẽ giữa các thành phần tạo nên nó, cũng như mối quan hệ có chọn lọc với không
gian các cấp bên ngoài".
Với quan niệm trên, có thể thấy rằng:
- Vùng là một hệ thống, bao gồm các mối liên hệ của các bộ phận cấu thành
với các dạng liên hệ địa lý - kỹ thuật - KT - XH bên trong hệ thống cũng như bên
ngoài hệ thống.
10
- Vùng có qui mô khác nhau, sự tồn tại của cùng là khách quan có tính lịch
sử (qui mô & số lượng vùng có thể thay đổi theo các giai đoạn phát triển của đất
nước).
- Vùng tồn tại do yêu cầu phát triển của nền KTQD; Tính khách quan của
vùng được cụ thể hóa thông quan những nguyên tắc do con người tạo ra.
- Vùng là cơ sở để hoạch định các chiến lược, các kế hoạch phát triển theo
lãnh thổ cũng như để quản lý các quá trình phát triển KT - XH của mỗi vùng.
2. Hệ thống vùng của nước ta qua các giai đoạn phát triển.
a. Những nhận biết ban đầu về vùng KT đến đầu những năm 60 (thế kỉ
XX).
- Giữa TK 15 (khi khoa học địa lý mới phát triển) ở nước ta "Dư địa chí" của
Nguyễn Trãi ra đời (1435) với một loạt công trình nghiên cứu theo địa vực hành
chính, tiếp cận với quan điểm dân tộc, độc lập, tự chủ được biên soạn; Mỗi đơn vị
(địa phương) đều đề cập tới vị trí địa lý, ranh giới, qui mô lãnh thổ, tổ chức xã hội,
tình hình kinh tế với những đặc thù của riêng mình.
- Giữa TK 17, Lê Quí Đôn đã nghiên cứu trọn vẹn một địa phương (Thuận
Hóa, Q.Nam).
- Trải qua các triều đại phong kiến, cũng có nhiều công trình chuyên khảo
chú ý đến lĩnh vực nghiên cứu địa phương như: " Lịch triều hiến chương; Đại Nam

nhất thống chí, ". Xét dưới góc độ địa lý hành chính, mỗi triều đại phân chia lãnh
thổ ra thành những đơn vị nhiều cấp khác nhau để thuận tiện cho việc quản lý &
bảo vệ an ninh. Ví dụ: Từ thời Hai Bà Trưng (nước ta chia ra các quận, huyện với
65 thành trì); dưới các triều Lý, Trần, Hồ (các bộ phận lãnh thổ mang tên là Lộ);
đời Lê (Lộ đổi thành Trấn. Cả nước có 5 Đạo (mỗi Đạo lại bao gồm nhiều Phủ,
Châu, Huyện), đến đời Nguyễn (Trấn đổi thành Tỉnh); thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân
tranh (Đàng trong-Đàng ngoài).
- Thời kỳ Pháp thuộc, Pháp chia lãnh thổ nước ta (Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam
Kỳ).
- Sau 1954, các khu tự trị được thành lập như "Khu tự trị Việt Bắc (1956),
Khu tự trị Thái-Mèo (1955) và năm 1962 đổi thành Khu tự trị Tây Bắc
Như vậy, tùy từng thời kỳ, tùy theo mục đích chính trị - kinh tế - quân sự mà
các đơn vị hành chính được gộp lại thành những đơn vị hành chính dưới cấp quốc
11
gia. Việc hình thành các đơn vị hành chính này đó là do nhu cầu quản lý đất nước,
cần có nhiều cấp, trong đó nổi lên cấp quản lý trung gian giữa quốc gia và tỉnh -
tạm gọi là vùng.
b. Giai đoạn 1960 - 1975. Giai đoạn này, việc nghiên cứu & phân vùng diễn
ra chủ yếu ở M.Bắc (từ Vĩnh Linh) với đặc trưng chính về kinh tế N - L - N. Chia
thành 2 thời kỳ:
* Thời kỳ 1960 - 1970: Việc phân vùng, qui hoạch tập trung chủ yếu vào
những vấn đề nhỏ lẻ từng vùng cụ thể (chủ yếu là PVNN). UB KH Nhà nước phối
hợp với Bộ NN nghiên cứu và PVNN ở miền Bắc VN (chia 4 vùng NN lớn: Tây
Bắc, Đông Bắc, Đồng bằng sông Hồng & Khu IV cũ). Tổng cục Lâm nghiệp đã tổ
chức, điều tra và tiến tới phân vùng lâm nghiệp làm cơ sở cho phát triển ngành.
Năm 1968, UB XD cơ bản Nhà nước triển khai nghiên cứu qui hoạch các điểm
công nghiệp ở miền Bắc VN.
* Thời kỳ 1971 - 1975 (phương án 2 vùng kinh tế cơ bản).
- Một số vùng kinh tế mới được hình thành ở TDMN', Nhà nước tiến hành qui
hoạch các vùng chuyên canh cây công nghiệp. Ngành lâm nghiệp qui hoạch một số

vùng CMH' giấy, sợi, gỗ trụ mỏ Trong công nghiệp tiếp tục nghiên cứu địa điểm
bố trí các công trình lớn. Thời kỳ này cũng tiến hành qui hoạch một số huyện, thị
xã trọng điểm. Nhìn chung thời kỳ này, công tác qui hoạch vẫn tập trung chủ yếu
vào phục vụ cho SX nông - lâm.
- Cuối những năm 1960, trong giáo trình giảng dạy về vùng ở trường ĐHSP-
HN, dựa trên quan điểm vùng của trường phái Địa lý Xô viết hiện đại, GS Trần
Đình Gián phân chia lãnh thổ nước ta thành 2 vùng kinh tế cơ bản với 4 á vùng
theo ranh giới chính trị hồi đó. Vận dụng NQ ĐH Đảng III, Ông chia M.Bắc thành
4 vùng kinh tế hành chính, đồng thời đề ra một hệ thống 3 cấp: Vùng KT - XH lớn;
vùng kinh tế - hành chính tỉnh (hay liên tỉnh); vùng kinh tế cơ sở huyện (hay liên
huyện). Ba cấp đó giống như một hệ thống động lực, hoạt động vừa có phân cấp -
vừa có phối hợp nhằm xây dựng nền KT-XH thống nhất & đa dạng.
Cấp vùng KT-XH lớn phải đủ tiềm lực để trang bị kỹ thuật & đổi mới kỹ
thuật - công nghệ cho nền KTQD trong phạm vi lãnh thổ của mình. Có mạng lưới
năng lượng, nguyên liệu, lương thực cùng các cơ sở chế tạo & thiết bị cơ bản ở
mức độ thích hợp; Có hệ thống nghiên cứu & ĐT hoàn chỉnh (gồm các trường ĐH,
CĐ & KT dạy nghề) qui mô thích hợp.
12
Cấp vùng kinh tế hành chính tỉnh (liên tỉnh) với qui mô lãnh thổ hợp lý là
điểm hội tụ của nền KT TW & ĐP, nhằm hình thành cơ cấu công - NN thích hợp,
qui mô vừa và nhỏ.
Cấp vùng kinh tế cơ sở huyện (liên huyện) là những đơn vị HC, KT-XH,
quản lý & tổ chức giữa ngành với lãnh thổ; Mục tiêu là xây dựng cơ cấu N - L - N,
tiểu thủ công nghiệp & công nghiệp, kết hợp truyền thống địa phương, lấy qui mô
nhỏ là chính, từng bước thực hiện CNH' N - L - N ở địa phương.
c. Giai đoạn 1976 - 1980. Ngay sau 1975, một chương trình phân vùng qui
hoạch đã được tiển khai trong cả nước theo quan điểm tổng hợp.
- Năm 1976 trên cơ sở 38 tỉnh - TP, cả nước được chia thành 7 vùng NN -
CNCB', hệ thống 7 vùng NN - CNCB' là cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch phát
triển N - L, hình thành các vùng CMH' : Cụ thể: (1) TDMNPB' (9 tỉnh): quế, hồi,

sơn, chè, trẩu, thuốc lá, hoa quả cận nhiệt, ngô, sắn, trâu, bò, dê. (2) Đồng bằng
sông Hồng (6 tỉnh): lúa gạo, lạc, đậu tương, mía, cói, đay, rau, chăn nuôi lấy thịt.
(3) BTBộ (3 tỉnh): gỗ, lạc, hồ tiêu. (4) DHNTBộ (4 tỉnh): mía, bông, đào lộn hột,
quế, tiêu, lạc, lúa gạo, khoai, bò, lợn. (5) Tây Nguyên (3 tỉnh): cà phê, cao su, chè,
dâu tằm, ngô, trâu, bò. (6) ĐNBộ (4 tỉnh): cao su, cà phê, hồ tiêu, lạc, đậu tương,
mía, ngô. (7) Đồng bằng sông Cửu Long (9 tỉnh): lúa gạo, đậu tương, mía, cây ăn
quả, lợn, vịt, tôm, cá.
- Năm 1977, UBPV KT TW được thành lập. Vụ phân vùng qui hoạch của
UBKH Nhà nước được tách ra & đổi tên thành Viện phân vùng qui hoạch TW là cơ
quan thường trực của UB phân vùng kinh tế TW. Cả nước đã hình thành hệ thống
tổ chức ngành từ TW đến địa phương, toàn bộ quá trình phân vùng qui hoạch được
tiến hành dưới sự chỉ đạo của CP & UBND các cấp.
d. Giai đoạn 1981 - 1985 (phương án 4 vùng kinh tế cơ bản). Năm 1982,
được sự giúp đỡ của Liên Xô (cũ), lần đầu tiên chúng ta lập sơ đồ phân bố LLSX
giai đoạn 1986 - 2000, đây là quá trình nghiên cứu tương đối tổng hợp và toàn diện.
Với 40 tỉnh - TP - đặc khu, lãnh thổ nước ta được chia thành 4 vùng KT cơ bản với
7 tiểu vùng NN - CNCB’:
Vùng Bắc Bộ (16 tỉnh), chia 2 tiểu vùng là TDMN' (10 tỉnh) và ĐBSH (6
tỉnh), gồm: Hà Tuyên, Hoàng Liên Sơn, Lai Châu, Quảng Ninh, Sơn La, Lạng Sơn,
Vĩnh Phú, Cao Bằng, Bắc Thái, Hà Bắc, Hà Nam Ninh, Hà Nội, Hà Sơn Bình, Hải
Hưng, Hải Phòng, Thái Bình.
Vùng Bắc Trung Bộ (3 tỉnh) Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên.
13
Vùng Nam Trung Bộ (7 tỉnh), 2 tiểu vùng là DH khu V và Tây Nguyên
(Quảng Nam-Đà Nẵng, Phú Khánh, Nghĩa Bình, Thuận Hải, Lâm Đồng, Đắc Lắc,
Gia Lai-Kon Tum).
Vùng Nam Bộ (14 tỉnh), 2 tiểu vùng là Đ.Nam Bộ & Tây Nam Bộ (Đồng
Nai, TPHCM, Bà Rịa - Vũng Tàu, Sông Bé, Tây Ninh, An Giang, Bến Tre, Cửu
Long, Đồng Tháp, Hậu Giang, Kiên Giang, Long An, Tiền Giang, Minh Hải).
▪ Những căn cứ để phân chia hệ thống 4 vùng kinh tế cơ bản:

- Có cơ cấu tài nguyên nhất định trên lãnh thổ để đảm bảo việc CMH' & phát
triển tổng hợp nền kinh tế.
- Có nguồn lao động đủ để đảm bảo kết hợp TNTN - LLLĐ - TLSX.
- Có vị trí, chức năng nhất định trong nền kinh tế cả nước trên cơ sở CMH'
& phát triển tổng hợp.
- Có TP, TTCN (hoặc thể tổng hợp SX - lãnh thổ) là hạt nhân tạo vùng.
- Có hệ thống GTVT đảm bảo mối liên hệ nội vùng, liên vùng, khu vực &
TG.
▪ Phương án 4 vùng được đưa vào GD ở bậc Phổ thông và Đại học trong
giáo trình ĐL KTXH- VN. Giai đoạn này Nhà nước đã triển khai đồng bộ các khâu
cần thiết của công tác qui hoạch như điều tra cơ bản, phân tích thực trạng, dự báo
và xây dựng phương hướng phát triển, các phương hướng phát triển N - L - N;
phân bố công nghiệp & các công trình then chốt… là những căn cứ cơ bản để xây
dựng kế hoạch phát triển kinh tế & qui hoạch ở các giai đoạn sau.
▪ Về phương pháp tiếp cận: Bước đầu đã nghiên cứu lý thuyết phân vùng,
nguyên tắc, hệ thống chỉ tiêu, các thuật ngữ chuyên ngành Một loạt vấn đề tổng
hợp được nghiên cứu như (hệ số vùng, tính toán hiệu quả sản xuất, hiệu quả xã
hội). Đã xây dựng được hệ thống phương pháp chỉ dẫn xây dựng qui hoạch (các
vùng & các ngành), xây dựng hệ thống bản đồ, hệ thống bảng biểu, chỉ tiêu kinh tế
tổng hợp, chỉ tiêu ngành
e. Giai đoạn 1986 đến nay. Khi sang nền kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN thì cơ cấu nền KTQD có những chuyển biến mạnh (cả về chất & về lượng),
nhiều yếu tố mới xuất hiện, đồng thời những khó khăn, thách thức cũng nảy sinh.
Do yêu cầu của việc mở cửa nền kinh tế và hội nhập với khu vực & quốc tế, đòi hỏi
chúng ta phải có một chiến lược phát triển phù hợp. Trước tình hình đó, Thủ tướng
14
CP đã chỉ thị cho UBKH Nhà nước chủ trì phối hợp với các ngành TW nghiên cứu
qui hoạch 8 vùng KT lớn & 3 vùng KTTĐ, hỗ trợ tất cả các tỉnh, TP XD qui hoạch
tổng thể phát triển KT-XH đến 2010.
● Từ 1986 - 2000.

- Hệ thống 8 vùng KT lớn được gộp từ 61 tỉnh - TP của cả nước
Đông Bắc (11 tỉnh): Quảng Ninh, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Giang, Phú Thọ,
Thái Nguyên, Bắc Kạn, Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái.
Tây Bắc (3 tỉnh) Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình.
Đồng bằng sông Hồng (11 tỉnh, Tp) TP Hà Nội, Hải Phòng, Hưng Yên, Hải
Dương, Hà Tây (cũ), Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Hà Nam, Bắc Ninh, Vĩnh
Phúc.
Bắc Trung Bộ (6 tỉnh) Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng
Trị, T-T-Huế.
DH Nam Trung Bộ (6 tỉnh,Tp) Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình
Định, Phú Yên, Khánh Hòa.
Tây Nguyên (4 tỉnh) Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Lâm Đồng.
Đông Nam Bộ (8 tỉnh, Tp) là TPHCM, Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước,
Tây Ninh, đặc khu BR-Vũng Tàu, Ninh Thuận, Bình Thuận.
Đồng bằng sông Cửu Long (12 tỉnh) là Cần Thơ, Long An, Tiền Giang, Bến
Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, An Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu,
Sóc Trăng.
- Ba vùng kinh tế trọng điểm là (KTTĐ):
Vùng KTTĐ Bắc Bộ (5 tỉnh-TP): TP Hà Nội, Hải Dương, Hưng Yên, Hải
Phòng, Quảng Ninh, 3 đô thị chính đồng thời là 3 cực phát triển (Hà Nội - Hải
Phòng - Quảng Ninh).
Vùng KTTĐMT (4 tỉnh-TP): T-T-Huế, TP Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng
Ngãi.
Vùng KTTĐP'N (4 tỉnh-TP): TPHCM, Đồng Nai, BR-Vũng Tàu, Bình
Dương. Ba cực tạo thành tam giác phát triển là TPHCM - Biên Hòa - Vũng Tàu.
● Từ 2001 đến nay.
15
- Hệ thống 6 vùng & trọng điểm KT được gộp từ 64 tỉnh - TP của cả nước
TD - MN'PB' (15 tỉnh): Đông Bắc (11 tỉnh: Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Giang,
Phú Thọ, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, và

Quảng Ninh). Tây Bắc (4 tỉnh: Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình, TP Điện Biên (tách từ
tỉnh Sơn La 1/2004).
Đồng bằng sông Hồng & trọng điểm Bắc Bộ (12 tỉnh, Tp) TP Hà Nội, Hải
Phòng, Hưng Yên, Hải Dương, Hà Tây (cũ), Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Hà
Nam, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh.
Bắc Trung Bộ, DH Nam Trung Bộ và KTTĐ miền Trung (14 tỉnh, TP): Bắc
Trung Bộ (6 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa
Thiên Huế). DH Nam trung Bộ (8 tỉnh-Tp: Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi,
Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận)
Tây Nguyên (5 tỉnh): Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Lâm Đồng, Đắc Nông.
Đông Nam Bộ & trọng điểm kinh tế (8 tỉnh, TP) là TP HCM, Đồng Nai, Bình
Dương, Bình Phước, Tây Ninh, đặc khu BR-Vũng Tàu, Long An.
Đồng bằng sông Cửu Long (13 tỉnh, TP) Cần Thơ, Tiền Giang, Bến Tre, Trà
Vinh, Vĩnh Long, An Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc
Trăng, Hậu Giang, Long An.
- Ba vùng KTTĐ là:
Vùng KTTĐ Bắc Bộ (8 tỉnh - TP): TP Hà Nội, Hải Dương, Hưng Yên, Hải
Phòng, Quảng Ninh, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hà Tây (cũ). Ba đô thị chính đồng thời
là 3 cực phát triển (Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh).
Vùng KTTĐ miền Trung (5 tỉnh - TP): Thừa Thiên Huế, TP Đà Nẵng, Quảng
Nam, Quảng Ngãi, Bình Định.
Vùng KTTĐ phía Nam (8 tỉnh - TP): TPHCM, Đồng Nai, BR-Vũng Tàu,
Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Long An và Tiền Giang. Ba cực tạo thành
tam giác phát triển là TPHCM - Biên Hòa – Vũng Tàu.
- Ngoài 2 cấp vùng trên, 64 tỉnh - TP cũng được xác định là cấp qui hoạch
phát triển KT-XH đến 2010 và 2020.
- Trong khuôn khổ chương trình khoa học cấp Nhà nước (Mã số KX-03, đề
tài KX-03-02) đã đề xuất chia lãnh thổ nước ta thành các dải lớn. Đó là: (1) Dải
16
đồng bằng ven biển (bao gồm cả vùng biển và hải đảo quốc gia). (2) Dải TD &

MN' (chia ra thành 2 dải TD và dải MN').
- Năm 1998, Chính phủ đã phê duyệt chương trình phát triển KT-XH các xã
đặc biệt khó khăn ở MN' vùng sâu, vùng xa (QĐ số 135/1998/QĐ-TTg ngày
31/07/1998). Loại vùng khó khăn gồm 2356 xã (2002) của 49 tỉnh là một loại vùng
không liền khoảnh và là sự tập hợp của các xã, một cấp trong hệ thống 4 cấp hành
chính của VN.
▪ Dựa theo cách phân chia trên, có thể rút ra một số nhận định: Mỗi hệ
thống vùng được phân chia đều dựa trên một hệ thống chỉ tiêu phục vụ cho một số
mục đích trong một giai đoạn nhất định. Mục đích của phân vùng là hình thành hệ
thống vùng để làm căn cứ cho các kế hoạch phát triển lãnh thổ, phục vụ cho việc
xây dựng cơ chế - chính sách, đảm bảo sự phát triển bền vững và hiệu quả trong cả
nước. Căn cứ chủ yếu để phân vùng là các lãnh thổ có sự đồng nhất ở mức độ nhất
định về tự nhiên, dân cư & xã hội; cùng chịu sự chi phối của cơ chế thị trường,
cùng đảm nhận một nhiệm vụ nào đó đối với nền kinh tế trong tương lai.
C. CÁC VÙNG KINH TẾ.
1. Trung du - miền núi phía Bắc (TDMN'PB')
17
1.1. Vị trí địa lý (VTĐL) .
Phạm vi lãnh thổ bao gồm 15 tỉnh. Trong đó Đông Bắc (11) và Tây Bắc (4).
Diện tích 101.579.000 km
2
(30,66% diện tích cả nước), Đ.Bắc: 64.025.200 km
2
,
Tây Bắc: 37.553.800 km
2
. Dân số (2005): 11.925.000 người (Đ.Bắc 9.458.500
người và Tây Bắc 2.606.900 người). Mật độ dân số (Đ.Bắc 148 người/km
2
, Tây

Bắc chỉ 69 người/km
2
). P.Bắc giáp với ĐN Trung Quốc có cửa khẩu quốc tế
(Móng Cái, Đồng Đăng, Lào Cai) là điều kiện thuận lợi để giao lưu, hội nhập khoa
học - công nghệ, trao đổi phát triển kinh tế của vùng với các nước trên lục địa.
P.Tây giáp với Lào. P.Nam giáp ĐBSH với nhiều đô thị, hải cảng lớn (Hà Nội, Hải
Phòng, Cái Lân), đó là cơ sở để đẩy mạnh phát triển KT-XH của vùng.
1.2. Tài nguyên thiên nhiên (TNTN).
● Đông Bắc.
▪ Than đá: Nằm trên địa hình các cánh cung, Đông Bắc có thế mạnh đầu tiên
là than đá với 3 dải than lớn Cẩm Phả, Hòn Gai và Mạo Khê - Uông Bí. Trữ lượng
thăm dò 3,5 tỉ tấn. ngoài ra còn có ở một số địa điểm khác như Phấn mễ, Làng Cẩm
(Thái Nguyên) ~ 80 triệu tấn, than nâu (Lạng Sơn) ~ 100 triệu tấn, than Bố Hạ (Bắc
Giang)
▪ Khoáng sản KL và phi KL: Đá vôi hàng tỉ tấn phân bố hầu khắp các tỉnh;
Đất sét cao lanh để SX gạch không nung Giếng Đáy (Quảng Ninh); Apatit (Lào
Cai) 2,1 tỉ tấn; Quặng sắt ở Thái Nguyên, Hà Giang, Yên Bái 136 triệu tấn;
Mangan ở Cao Bằng 1,5 triệu tấn; Titan lẫn trong quặng sắt Manhêtit ở Thái
Nguyên 39,0 vạn tấn; Thiếc (Cao bằng, Tuyên Quang); Bô xít (Lạng Sơn); Chì -
kẽm (Bắc Kạn) Các mỏ này phần lớn vẫn còn ở dạng tiềm năng, do công nghệ và
nguồn vốn còn hạn chế, mới khai thác một phần quặng sắt và thiếc.
Ngoài ra, Đông Bắc cũng có một số khoáng sản khác qui mô nhỏ, nhưng có
vai trò quan trọng, dùng làm chất phụ gia, hoặc chất trợ dung cho công nghệ CB'.
Bảng 6.1. Một số khoáng sản chủ yếu của Đông Bắc.
Khoáng
sản
Đơn vị
Tr.lượng
C.N
% so

cả
nước
Vùng phân bố
Than
antraxit
Tỉ tấn 3,5 90
Quảng Ninh
Than mỡ Triệu tấn 7,1 56 Phấn Mễ,Làng Cẩm (Thái Nguyên)
18
Than nâu Triệu tấn 100,0 - Na Dương (Lạng Sơn)
Sắt Triệu tấn 136,0 16,9
Làng Lếch, Quang Xá (Yên Bái) Tùng
Bá (Hà Giang)
Mangan Triệu tấn 1,4 - Tốc Tát (Cao Bằng)
Titan Ngàn tấn 390,9 64
Nằm trong quặng sắt núi Chúa
(Th.Nguyên)
Thiếc Triệu tấn 10,0
Tĩnh Túc (C.Bằng), Sơn Dương
(T.Quang)
Apatit Tỉ tấn 2,1 Lào Cai
Bảng 6.2. Một số tài nguyên khoáng sản có qui mô nhỏ của Đông Bắc.
Khoáng
sản
Vùng phân bố Sử dụng
Amiăng Khuổi Hân (Cao Bằng) Cách nhiệt, cách điện
Angtimon Quảng Ninh, Hà Giang
Sơn. Men tráng, thủy
tinh
Cát Đảo Quan Lạn (Quảng Ninh) Thủy tinh

Mica
La Phù (Phú Thọ), Làng Mục (Yên
Bái)
Vật cách điện, cách nhiệt.
Phenphat Thạch Khoán (Phú Thọ)
Công nghiệp sứ và thủy
tinh
Fluorit Bình Đường (Cao Bằng) Trợ dung cho luyện nhôm
Quaczit Thanh Sơn (Phú Thọ) Gạch chịu lửa
Vonfram Lẫn trong quặng thiếc Công nghiệp chế tạo máy
▪ Tài nguyên đất cho sản xuất nông - lâm:
Cơ cấu: đất nông nghiệp (15,3%), lâm nghiệp (55,5%), đất CD-TC (4,4%),
đất chưa sử dụng (24,8% - 1,6 triệu ha), như vậy đất chưa sử dụng còn khá lớn
(trong đó ~ 10% có thể phát triển cây lâu năm, 75% cho lâm nghiệp).
Các loại đất chính: Đất đỏ đá vôi phân bố theo các cánh cung, nhiều nhất ở
Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai, thích hợp với cây thuốc lá, đỗ tương,
ngô, bông, Đất feralit đỏ - vàng trên đá sa diệp thạch, phân bố chủ yếu ở Thái
Nguyên, Tuyên Quang, Phú Thọ, Yên Bái, Bắc Giang thích hợp với cây chè, trẩu,
sở. Đất phù sa cổ, phân bố chủ yếu ở các tỉnh giáp với ĐBSH, thích hợp với cây
công nghiệp hàng năm (đậu tương, thuốc lá, lạc). Ngoài ra, ở các thung lũng, ven
sông còn có một ít đất phù sa là nơi gieo trồng cây lương thực và cây màu khác
Bảng 6.3. Cơ cấu sử dụng đất của Đông Bắc và Tây Bắc tại thời điểm 01/01/2006
19
Tổng Cơ cấu sử dụng (%)
Đất
nông
nghiệp
Đất lâm
nghiệp
Đất

chuyên
dùng
Đất

Đất chưa
sử dụng
CẢ NƯỚC 33121,2 28,4 43,6 4,2 1,8 22,0
Đông Bắc 6402,4 15,3 55,5 3,2 1,2 24,8
Lào Cai 638,4 12,1 44,8 2,0 0,5 40,6
Lạng Sơn 833,1 13,5 46,2 1,8 0,7 37,8
Quảng Ninh 609,9 9,0 49,5 5,1 1,5 34,9
Hà Giang 794,6 18,6 47,3 1,1 0,8 32,2
Yên Bái 689,9 11,5 64,8 1,5 0,6 21,6
Bắc Kạn 486,8 7,7 68,4 2,2 0,5 21,2
Th Nguyên 354,7 26,4 46,6 5,4 2,6 19,0
Phú Thọ 352,8 27.9 46,9 5,9 2,5 16,8
Bắc Giang 382,7 32,5 34,2 13,1 5,5 14,7
T. Quang 587,0 11,9 76,1 2,2 0,9 8,9
Cao Bằng 672,5 12,4 76,5 1,6 0,7 8,8
Tây Bắc 3753,4 13,3 47,3 1,1 0,9 37,4
Lai Châu 911,2 8,5 39,6 0,5 0,3 51,1
Sơn La 1417,5 17,5 40,8 1,0 0,5 40,2
Hòa Bình 468,4 11,9 51,9 3,5 4,4 28,3
Điện Biên 956,3 12,4 61,9 0,7 0,3 24,7
▪ Tài nguyên rừng của vùng còn rất ít (do khai thác quá mức trước đây), chủ
yếu là rừng thứ sinh, xa van, cây bụi. Vùng đang khôi phục lại vốn rừng để phục vụ
cho KCN Quảng Ninh, cho nguyên liệu giấy, cho môi sinh, trong rừng còn có
nhiều dược liệu như quế (Quảng Ninh), hồi (Lạng Sơn, Cao Bằng), sa nhân, tam
thất (Lào Cai, Hà Giang), cây ăn quả á nhiệt đới (Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai).
Đông Bắc cũng có nhiều đồng cỏ liền dải trong các thung lũng, trên các đồi thấp, là

cơ sở để phát triển chăn nuôi (trâu, bò, dê, ngựa,.v.v.)
▪ Khí hậu nhiệt đới pha trộn á nhiệt đới. Do địa hình cánh cung mở ra ở biên
giới đón gió lạnh từ phương Bắc tràn xuống, là vùng có mùa Đông lạnh nhất nước
ta. Mùa Hè nóng - ẩm, nhiệt độ cao. Khí hậu thích hợp với cây trồng - vật nuôi
nhiệt và á nhiệt đới (chè, hồi ).
▪ Tài nguyên biển, vùng có vịnh Bái Tử Long và vịnh Hạ Long với > 3.000
đảo, biển nông, trữ lượng cá không nhiều so với vùng biển khác, muốn đánh cá
phải ra khơi. Ở trong lộng nhiều nhất là sò, ốc. Ở đảo Cô Tô rất thuận lợi cho nuôi
20
trai ngọc. Ở đảo Rều (Cẩm Phả) nuôi khỉ làm dược liệu. Hạ Long và Bái Tử Long
là cảnh quan rất hấp dẫn khách du lịch
● Tây Bắc. Là vùng có địa hình núi cao, hiểm trở, cắt xẻ, nhiều sông suối,
thung lũng sâu. Độ cao TB > 1.000m, nghiêng từ TB - ĐN. Phía Đông là khối núi
Hoàng Liên Sơn cao sừng sững (có đỉnh Phan xi păng 3.143m). Đại bộ phận lãnh
thổ thuộc lưu vực S.Đà, ba phía đều là những dãy núi cao; Giáp biên giới với TQ
có những đỉnh như Phu Lu Tum (2.090m), Phu La Sin (2.348m), Phu Nam San
(2.453m), Phu Đen Đin (2.181m), Phu Si Lung (3.076m), Với biên giới Việt -
Lào có những đỉnh Khoang La San (1.865m), San Cho Cay (1.934m), Phu Nam
Khe (1.860m), Phu Sai Liên (1.728m), Dải núi đá vôi chạy liên tục từ Phong Thổ
- Sìn Hồ - Tủa Chùa - Tuần Giáo (Lai Châu) - Thuận Châu - Mai Sơn - Yên Châu -
Mộc Châu (Sơn La) về Lạc Thủy (Hòa Bình).
▪ Sông Đà và phụ lưu chứa nguồn thủy năng rất lớn với ~ 120 tỉ m
3
/năm, lưu
lượng 3,63 m
3
/s, trữ năng lý thuyết 260 - 270 tỉ kwh, trữ năng kinh tế 50 - 60 tỉ
kwh. Ngoài thuỷ điện Hòa Bình (1.920MW), còn có khoảng 4 - 5 địa điểm có công
suất tương đương hoặc lớn hơn như Tạ Bú (2.400MW) đã khởi công 12/2005 - dự
kiến 2010 phát điện tổ máy số 1.

▪ Nguồn nước nóng khá phong phú, phân bố theo các đứt gãy kiến tạo, đây là
nguồn nhiệt lớn sử dụng để chữa bệnh (Lai Châu, Sơn La có 16 điểm, Hòa Bình có
Kim Bôi).
▪ Than ~ 10 triệu tấn (Điện Biên); Ni ken đã phát hiện ở Bản Phúc, Bản Sang
và Tạ Khoa; Đồng (Vạn Chài - Suối Chát) 980 tấn; Vàng sa khoáng dọc sông Đà.
Đất hiếm là nguyên liệu khoáng duy nhất có ở Tây Bắc có giá trị trong nhiều ngành
CN hiện đại, đã phát hiện các mỏ như mỏ Đông Pao (Phong Thổ - Lai Châu) trữ
lượng 5,5 triệu tấn (cùng với đất hiếm còn có friorit 6,1 triệu tấn, barit 12,7 triệu
tấn); mỏ Năm Xe (Lai Châu) thuộc đất hiếm nhóm nặng 874.660 tấn. Ngoài ra,
còn có Tan & Asbét (khoáng sản phi kim loại), Tan dùng trong công nghệ gốm, sứ,
sản xuất giấy, sơn, cao su có ở Sơn La, Hòa Bình 1.780 tấn. Asbét (100.000 tấn)
dùng trong CN SX vật liệu cách điện, nhiệt, cách âm, chống cháy, chịu được axit
và kiềm (găng tay, quần áo chống cháy, má phanh ô tô ).
▪ Đất chủ yếu là đất feralít đỏ - vàng phong hóa từ đá vôi và sa diệp thạch, có
một ít đất bồi tụ trong các thung lũng và ven sông. Trong cơ cấu sử dụng: đất NN
(13,3%), đất lâm nghiệp (47,3%), đất CD-TC (2,01%), đất chưa sử dụng (37,4%
21
tương đương với 1,4 triệu ha). Như vậy, đây là vùng đất hoang hóa còn rất lớn, về
chất lượng, các loại đất đều khá tốt, song do địa hình dốc cho nên các loại đất đỏ -
vàng ở các sườn núi có xu hướng thoái hóa nhanh (do việc trồng cây hàng năm, du
canh, du cư, khai thác rừng bừa bãi). Hoạt động nông nghiệp của Tây Bắc tập
trung chủ yếu ở một số cao nguyên đất đỏ đá vôi (Mộc Châu, Nà Sản, Tà Phình):
trồng ngô, cây CN hàng năm (bông, đậu tương), cây ăn quả (mận, đào). Các sườn
đồi diệp thạch trồng chè, sơn, trẩu, sở Đất thung lũng được xây dựng theo hệ
thống bậc thang để trồng lúa (Mường Thanh, Quang Huy, Bình Lư, ). Trên các
cao nguyên và thung lũng còn là địa bàn phát triển chăn nuôi trâu, bò qui mô lớn.
▪ Khí hậu. Yếu tố địa hình làm cho khí hậu của Tây Bắc có những nét khác
với Đông Bắc (mặc dù cùng vĩ tuyến); Gió Đông Bắc lạnh đến muộn hơn; lạnh do
2 yếu tố (lạnh theo vĩ tuyến & độ cao) nên nhiệt độ về mùa đông thường thấp hơn ở
Đông Bắc. Những ngày mà nhiệt độ xuống thấp thì ở những vùng núi cao thường

có tuyết phủ, băng giá (Sa Pa, đỉnh Hoàng Liên Sơn) Yếu tố lạnh này cho phép
trồng các cây ưa lạnh. Khí hậu của vùng cũng gây ra những khó khăn lớn như trên
các cao nguyên thường thiếu nước cho sinh hoạt và SX về mùa khô.
1.3. Tài nguyên nhân văn.
1.3.1. Về lịch sử, văn hóa và dân tộc:
Vùng Phong Châu (Phú Thọ) được coi là cái nôi của cộng đồng DT Việt
Nam; Có VH Hòa Bình, Bắc Sơn nổi tiếng còn để lại nhiều di chỉ có giá trị về lịch
sử và kiến trúc. Các di tích còn được bảo tồn rất có giá trị về khoa học, về giáo dục
truyền thống như đền Hùng, chùa Yên Tử, Côn Sơn, Kiếp Bạc kèm với nó là
những lễ, hội truyền thống (Hội đền Hùng) các diệu hát lượn, hát ví, dân ca của
các dân tộc Tày, Nùng, Thái, Mường Đông Bắc là căn cứ địa CM trong kháng
chiến chống Pháp với những địa danh nổi tiếng đã trở thành di tích CM: Việt Bắc,
Phay Khắt, Nà Ngần, hang Pắc Bó, Tân Trào, Suối Lênin, đường số 4, Tây Bắc
có Điên Biên lịch sử.
Trong vùng tập trung nhiều dân tộc khác nhau như Tày, Nùng, Dao (Đông
Bắc), Mường, Thái, H'Mông (Tây Bắc). Mỗi dân tộc có sắc thái VH rất độc đáo
phản ánh tập quán SX, sinh hoạt của riêng mình, tạo nên một tổng thể VH đa dạng
và phong phú. Những giá trị về lịch sử - VH kết hợp với phong cảnh tự nhiên như
Sa Pa, Tam Đảo, thác Bản Dốc, Đầu Đẳng, động Tam Thanh, Nhị Thanh đã trở
thành tiềm năng to lớn đối với kinh tế dịch vụ - du lịch.
22
1.3.2. Về dân cư - lao động (DC - LĐ).
● Đông Bắc. Dân số (2005) là 9.354,7 ngàn người, mật độ 148 người/km
2
.
Tỉ lệ dân đô thị 19,29 % (cả nước 26,88%). Vùng có 30 dân tộc khác nhau, đông
nhất là người Việt (66,1%), Tày (12,4%), Nùng (7,3%), Dao (4,5%), H'Mông
(3,8%) dân số. Có một số dân tộc hầu như chỉ cư trú tập trung tại đây như Tày
93%, Sán Chay 98%, Sán Dìu 95%, Nùng 95% Dân số phân bố không đều, mật
độ giảm dần từ vùng trung du lên miền núi: Bắc Giang (417 ng/km

2
), Thái Nguyên
(318 ng/km
2
), Phú Thọ (379 ng/km
2
), Quảng Ninh (179 ng/km
2
) - gắn với các
TTCN lớn; Trong khi đó ở Bắc Kạn (62 ng/km
2
), Cao Bằng (77 ng/km
2
), Hà Giang
(86 ng/km
2
).
Trình độ học vấn của dân cư và nguồn nhân lực nhìn chung khá cao. Tổng số
nguồn nhân lực đã tốt nghiệp

PTCS là 53,7% (Đồng bằng sông Hồng 68,9%, cả
nước 45%); Số người đã tốt nghiệp PTTH

14,5%, nguồn nhân lực tập trung trong
nhóm tuổi 15 - 29, đây là lợi thế trong việc phát triển CN - tiếp thu kỹ thuật mới.
Tuy nhiên, vùng còn khoảng 7,43% số người không biết chữ (chủ yếu là đồng bào
dân tộc ít người). Đội ngũ LĐ có trình độ từ sơ cấp trở lên 16,22%, thấp hơn mức
TB cả nước & vùng KTTĐ Bắc Bộ (23,6%). Trong số đó, có ~ 8,0 vạn người có
trình độ từ CĐ, ĐH trở lên, trong số này 50% làm việc trong ngành GD, YT, quản
lý nhà nước. Về LĐ, vùng trung du nhìn chung đủ để phát triển kinh tế, ở khu vực

miền núi nhìn chung thiếu.
● Tây Bắc. Dân số (2005) 2563,1 ngàn người, mật độ 69 ng/km
2
(thấp nhất
cả nước). Tỉ lệ dân thành thị 13,31%. Dân số phân bố không đều, tập trung đông
nhất là các thị xã, thị trấn, thị tứ và trên các trục giao thông: TX Lai Châu (307
ng/km
2
), TX Sơn La (156 ng/km
2
), TX Hòa Bình (124 ng/km
2
), thị trấn Mộc Châu
(202 ng/km
2
) Trái lại, ở vùng núi cao, mật độ dân cư rất thấp: Mường Tè (7
ng/km
2
), Mường Lay (13 ng/km
2
), Sìn Hồ (25 ng/km
2
)
Bảng 6.4: Trình độ học vấn & chuyên môn kĩ thuật của Đông Bắc & Tây Bắc năm
2002. (%)
Tỉnh
Tỉ lệ chưa biết
chữ trong độ tuổi

Tỉ lệ LĐ có trình

độ từ sơ cấp trở
lên
Tỉ lệ LĐ có trình độ
từ công nhân KT trở
lên
Đông Bắc 7,43 16,22 12,20
Quảng Ninh 1,55 25,50 19,02
Tuyên Quang 12,40 19,05 17,38
23
Thái Nguyên 3,81 19,69 14,16
Lào Cai 15,30 16,07 13,53
Lạng Sơn 3,78 15,37 12,62
Phú Thọ 2,12 16,52 12,00
Cao Bằng 20,45 14.02 11,80
Bắc Giang 3,27 14,77 8,66
Yên Bái 12,77 10,16 8.44
Bắc Kạn 9,33 9,71 8,09
Hà Giang 19,47 6,89 5,51
Tây Bắc 18,09 10,93 8,79
LaiChâu,ĐiệnBiên 22,78 12,60 10,83
Hòa Bình 5,50 10,92 8,26
Sơn La 26,33 9,84 7.92
Về nguồn lao động: số người trong độ tuổi lao động 96,8 vạn người, đang
làm việc trong các ngành KTQD 87,8 vạn (90,7%), chưa có việc làm (9,3%). Lao
động trong nông nghiệp 76,6%; công nghiệp (cả TTCN & dịch vụ) 23,4%. Số
người (trên & dưới) độ tuổi lao động có khả năng tham gia lao động khoảng 16,3
vạn người (chiếm 18,8% LLLĐ). Trình độ học vấn của dân cư & nguồn nhân lực
thuộc loại thấp nhất cả nước. Tỉ lệ chưa biết chữ trong độ tuổi lao động 18,09% (cả
nước 3,4%); lao động có trình độ sơ cấp trở lên 10,09% (cả nước 19,7%); Cán bộ
có trình độ CĐ, ĐH trở lên chỉ chiếm 1,72%.

1.3.3. Về các loại hình quần cư.
Loại hình quần cư ở TDMN'PB' đặc trưng cho nền SX nông - lâm của các
dân tộc. Có 2 loại dạng chính là làng (của người Việt) và bản (Tày, Nùng, H'Mông,
Dao, Mường ). Các bản thường phân bố ven bờ suối, dọc thung lũng, trên các
cánh đồng, bồn địa, men sườn đồi hướng về đường GT hay con suối. Ngoài ra, còn
một số ít các dân tộc sống du canh du cư, chủ yếu là người H'Mông và Dao, hiện
nay phần lớn đã định cư. Trong quá trình khai thác kinh tế, đã xuất hiện nhiều nông
- lâm trường, các khu vực khai thác tài - CB' nguyên (chủ yếu của người Việt) đã
xuất hiện nhiều điểm dân cư mới kiểu thị tứ, thị trấn, thị xã mang sắc thái đô thị
miền núi.
1.4. Hiện trạng phát triển kinh tế - xã hội (KT - XH.)
1.4.1. Tình hình phát triển.
● Đông Bắc. Được khai thác sớm từ thời Pháp thuộc, vì vậy tài nguyên đã bị
suy giảm nhiều & môi trường bị xáo trộn. (Trong thời kì Pháp thuộc, Pháp đầu tư
24
vào Đông Bắc chiếm 40 - 52% tổng số vốn đầu tư ở cả Đông Dương, Pháp đã lấy
đi 27,7 triệu tấn than, 21,73 vạn tấn thiếc, 60 vạn tấn quặng sắt & mangan, 31,55
vạn tấn phốt phát & hàng triệu m
3
gỗ quí).
Từ 1990 đến nay kinh tế đã đạt được những kết quả nhất định; Năm 2002,
GDP đạt 21.579 tỉ đồng (4,05% GDP cả nước), GDP/người/tháng đến năm 2004 đã
đạt 379.900 đồng (bằng 74,8% mức TB của cả nước).
Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch: tăng tỉ trọng CN - XD từ 20,6% (1990) lên
26,3% (2002), tương tự vậy N - L - N giảm từ 46,5% xuống 33,6% và dịch vụ
32,9% và 32,8%. Vùng tập trung nhiều xí nghiệp CN nặng - qui mô lớn của cả
nước (năng lượng, luyện kim, cơ khí, hóa chất, VLXD). Đã hình thành những
TTCN CMH' (luyện kim đen Thái Nguyên, hóa chất Việt Trì - Lâm Thao, khai thác
than Hòn Gai, Cẩm Phả, phân bón Bắc Giang,.v.v.
● Tây Bắc. Khai phá muộn hơn, nhưng việc khai thác tài nguyên ở đây có

nhiều vấn đề đáng lo ngại, nhất là tài nguyên rừng đã bị khai thác quá mức. Độ che
phủ của rừng còn rất ít, đã ảnh hưởng đến việc giữ đất, giữ nước và gây ra nhiều
hậu quả nghiêm trọng cho đời sống & sản xuất của nhân dân (lũ lụt ở Sơn La).
Tây Bắc là vùng có tiềm năng thủy điện lớn nhất cả nước, đã khai thác thủy
điện Hòa Bình (1.920MW), đang XD thủy điện Sơn La (2.400MW). Các nguồn tài
nguyên khác khai thác nhỏ, có ý nghĩa địa phương như CNCB' đường mía (Điện
Biên), chè (Mộc Châu), Tam Đường (L.Cai), Cửu Long (H.Bình), khai thác than
(Điện Biên, S.La), CB' sữa (Mộc Châu).
GDP năm 2002 mới chỉ đạt 10.784 tỉ đồng (2% GDP cả nước); tăng trưởng
kinh tế chỉ bằng 74,4% mức TB cả nước. GDP/người (tính cả khu vực SX điện Hòa
Bình) 3,2 triệu đồng/năm (bằng 47% mức TB cả nước). Nếu tách thủy điện Hòa
Bình ra, thì GDP/người chỉ đạt 74.000 đồng/người/tháng. Đến năm 2004:
GDP/người/tháng đã tăng lên 265.700 đồng (cũng chỉ bằng 54,85% mức TB của cả
nước). Cơ cấu kinh tế tuy có bước chuyển biến, song chủ yếu vẫn là nông - lâm
(56%), CN-XD (14%), dịch vụ (30%).
1.4.2. Các ngành kinh tế chủ yếu.
a. Công nghiệp (CN):
● Đông Bắc. Giá trị gia tăng của công nghiệp chiếm 5,8% so với cả nước.
Những ngành chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu công nghiệp của vùng là Nhiên liệu
(26,7%); sản xuất VLXD (13,8%); thực phẩm (10,3%); hóa chất (8,5%); luyện kim
25

×