Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

Nghiên cứu sinh sản nhân tạo cá lăng vàng (Mystus nemurus) tại Khánh Hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.35 MB, 36 trang )

1

MỞ ĐẦU

Khi nền kinh tế ngày càng phát triển, mức sống của người dân được cải thiện và
nâng cao, thì thực phẩm cũng phải đáp ứng theo nhu cầu phát triển của xã hội. Trong
đó thịt cá ngày càng được nhiều người ưa chuộng vì cá là nguồn thực phẩm giàu dinh
dưỡng, giàu prôtein, ít cholesterol, nhiều acid béo không no (HUFA,PUFA), nên cá
dần dần được thay thế cho thịt của gia súc, gia cầm. Do đó, bên cạnh những loài cá đã
được nuôi phổ biến thì việc đưa vào nuôi một số loài cá mới là điều cần thiết.
Trong số những loài cá nước ngọt tiềm năng thì cá lăng là loài cá được nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm do chúng là một trong những loài cá quý hiếm, tốc độ tăng
trưởng nhanh, thịt ngon, có giá trị kinh tế. Bên cạnh đó sản lượng loài cá này ngoài tự
nhiên đang sụt giảm nghiêm trọng và hiện vẫn chưa có biện pháp thích hợp để bảo vệ
nguồn lợi này.
Xuất phát từ thực tế trên và giúp sinh viên hoàn thành khóa học, Khoa nuôi
trồng thủy sản_trường Đại Học Nha Trang đã phân công tôi thực hiện đề tài tốt
nghiệp:”Nghiên cứu sinh sản nhân tạo cá lăng vàng (Mystus nemurus) tại Khánh
Hòa” với các nội dung chính sau:
- Kỹ thuật nuôi vỗ cá bố mẹ
- Kỹ thuật cho đẻ nhân tạo
- Kỹ thuật ấp nở trứng cá
Báo cáo được hoàn thành với sự cố gắng và nỗ lực của bản thân trong suốt quá
trình thực tập. Song do thời gian thực tập có hạn nên báo cáo của tôi sẽ không tránh
khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý chân thành từ phía Thầy cô và các
bạn.
Nha Trang, tháng 11 năm 2007
SVTH
Vũ Thị Hậu





2

PHẦN 1
TỔNG QUAN

1. NGUỒN GỐC, PHÂN BỐ VÀ HÌNH THÁI NGOÀI CÁ LĂNG VÀNG
1.1 Nguồn gốc và phân bố
Cá lăng vàng phân bố ở các nước thuộc vùng Đông Nam Á, chủ yếu ở Malaysia,
Indonesia, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam [2]
Ở Việt Nam, cá lăng vàng xuất hiện trong các thủy vực nước ngọt và lợ nhẹ gần
cửa sông độ mặn dưới 6%o thuộc lưu vực các sông Đồng Nai, sông Sài Gòn, sông
Tiền, sông Hậu và các con sông đổ nước vào lòng hồ Trị An, Dầu Tiếng. Cá thích
sống và ẩn trú ở những nơi có nhiều cây cỏ thủy sinh, hang hốc (Nguyễn Chung, 2006)
[4].
1.2. Hệ thống phân loại.
Ngành : Vertebrata
Lớp : Osteichthyes
Bộ : Siluriformes
Họ : Bagridae
Giống : Mystus
Loài : Mystus nemurus, Valenciennes, 1839.
Tên Việt Nam : cá lăng vàng
Tên tiếng Anh : Green catfish
Theo Mai Đình Yên và CTV (1992), Smith (1995), Rainboth (1996) ( trích bởi
Mai Thị Kim Dung, 1998) [2].
1.3. Đặc điểm hình thái ngoài cá lăng vàng.
Cá lăng vàng (Mystus nemurus) cơ thể dạng thon dài dẹp bên về đuôi. Đầu có
hình nón, đỉnh đầu nhám hơi dẹp ngang. Miệng hơi rộng, mắt trung bình nằm ở đỉnh

đầu. Màng mang tách khỏi eo mang và phần lớn tách rời nhau. Răng lá mía tạo thành
một dãy cong. Có 4 đôi râu: râu hàm trên, râu hàm dưới, râu mũi và râu cằm. Râu hàm
trên dài đến tận
3









Hình 1: Cá lăng vàng (Mystus nemurus)
vây hậu môn. Râu hàm dưới dài đến vây ngực. Râu mũi ngắn chưa đến mắt. Râu cằm
ngắn hơn râu hàm dưới và chưa tới vây ngực (Phan Thị Huệ & Lê Thị Bích Ngà,
2004). Về màu sắc: phần lưng của cá có màu xám đen hoặc nâu, hai bên thân hơi vàng
hoặc ánh xanh, phần bụng có màu xám trắng. Màu sắc ở phần đầu đậm hơn phần sau.
Mép của vây lưng và vây đuôi thường có màu đen, phía trong màu nhạt hơn. Vây ngực
và vây hậu môn hơi đen, đôi khi có màu vàng nhạt. Vây bụng có màu trắng hơi
hồng[3].
Trong khi đó theo tài liệu của Smith (1945) ( trích bới Mai Thị Kim Dung, 1998)
thì màu sắc thông thường của của cá là màu đen ở lưng, hai bên thân có màu vàng.
Vây lưng và vây đuôi có màu xanh nhạt. Rìa của vây bụng và vây hậu môn trắng, bên
trong màu hồng. Vây ngực có màu vàng [6]
Cá lăng vàng thuộc loại cá không có vẩy. Đường bên hoàn toàn kéo dài từ sau
nắp mang đến điểm cuối của cuống đuôi, đoạn giữa thân về sau gần như phẳng. Miệng
rất rộng, có môi thịt tương đối phát triển. Miệng nửa dưới, có hàm trên dài hơn hàm
dưới. Mắt lớn, khoảng cách giữa hai mắt rộng. Ngoài ra phía trên đầu còn có một rãnh
nằm chính giữa và kéo dài đến vị trí cuối của nắp mang [4]

Theo Smith (1945) và Taki (1974) ( trích bởi La Thanh Tùng, 2001) cá đạt kích
thước lớn đến 60 cm. Theo Mai Đình Yên và CTV (1992) (trích bởi La Thanh
Tùng,2001). Cỡ tối đa của cá đạt 80 cm [4]

2. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA CÁ LĂNG VÀNG
2.1 Tập tính sống
4

Cá lăng vàng là loài ưa sống đáy, sống tối, ẩn mình trong gốc cây, hốc đá, nơi có
bóng râm . Đây là một loài cá dữ nên cá lớn thường tấn công cá bé (Mai Thị Kim
Dung,1998) [6].
Cá lăng vàng thích sống ở nơi nước trong sạch, dòng chảy nhẹ hoặc nước tĩnh.
Dù cá lăng vàng không có cơ quan hô hấp phụ nhưng có thể nuôi chúng trong ao đất
với mật độ tương đối dày (8 ÷ 10 con/m
2
). Cá lăng vàng nuôi trong ao đất phát triển tốt
hơn nuôi trong lồng bè nơi có dòng chảy mạnh [4].
Ngoài ra cá lăng vàng là loài có tập tính hoạt động về đêm (Phạm Thị Huệ & Lê
Thị Bích Ngà, 2004) [3].
2.2 Đặc điểm sinh trưởng
Lúc cá còn nhỏ có xu hướng tăng trưởng về chiều dài, càng lớn thì tốc độ tăng
trưởng về chiều dài càng chậm nhưng thay vào đó là sự tăng trưởng về trọng lượng (La
Thanh Tùng, 2001) [6].
Cá có chiều dài phổ biển từ 20 ÷ 30 cm, mặc dù cá có thể đạt chiều dài 83 cm
nhưng chiều dài phổ biến tìm được ở khu vực khai thác khoảng 60 cm,
Trong điều kiện nuôi, cá có thể đạt khối lượng từ 45,3 ÷ 111,2 sau hai tháng
nuôi ( cá 3 tháng tuổi ). Cá đạt chiều dài 34 cm sau 8 ÷ 12 tháng nuôi. Trong điều kiện
nuôi bằng thức ăn viên với mật độ 8 ÷ 10 con/m
2
cá đạt trọng lượng bình quân là 180

g/con sau 6 tháng nuôi [3].
2.3 Đặc điểm sinh sản
Cá lăng dễ phân biệt đực cái dựa vào hình thái ngoài. Cá đực có gai sinh dục dài
và đầu mút nhọn, cá cái có lỗ sinh dục dạng tròn, hơi lồi [11]






a b
Hình 2: Phân biệt đực cáicá lăng vàng
Ghi chú: a: Cá đực
b: Cá cái
5

Không xác định được mùa vụ sinh sản của cá lăng vàng do mùa vụ sinh sản kéo
dài. Kích thước cá sinh sản lần đầu đạt 32 cm. Có thể thu mẫu cá đang trong thời kì
sinh sản vào tháng 11 (Smith, 1945; trích bởi La Thanh Tùng) [6].
Tập tính sinh sản của cá lăng vàng là từ sông di cư vào vùng cây ngập để sinh
sản và trở ra sông vào tháng 10 ÷12 ở Tole Sap (Rainboth, 1996; trích bởi La Thanh
Tùng, 2001) [6].
Trong điều kiện nhân tạo, cá lăng vàng thành thục sinh dục vào cuối năm thứ
nhất (1
+
). Cỡ cá thành thục lần đầu tiên có chiều dài dao động từ 32 ÷ 36 cm, khối
lượng từ 120 ÷180 g/con. Cá lăng vàng có thời gian phát dục khá nhanh ( khoảng 3
tháng ). Tuy nhiên, để đàn cá giống có chất lượng tốt, nên chọn cá bố mẹ có khối
lượng từ 200 ÷ 500 g/con [3].
Khi chín muồi sinh dục, hệ số thành thục của cá cái dao động từ 20,8 ÷ 25% và

hệ số thành thục của cá đưc rất thấp so với con cái, dao động từ 0,38 ÷ 0,471%.
Sức sinh sản tuyệt đối là 39.079 trứng với cá cái có khối lượng 774,4 g, sức sinh
sản tương đối là 521.000 trứng/kg, sức sinh sản thực tế là 20.841 trứng/cá♀ nặng 327
g, 87.110 trứng/cá♀ nặng 1,589 kg. Trong điều kiện nuôi vỗ, sức sinh sản tuyệt đối
của cá lăng vàng là 54.820 trứng ở cá nặng 300 g, sức sinh sản tương đối dao động từ
160.000 ÷ 180.000 trứng/kg cá♀ và sức sinh sản thực tế (điều kiện vuốt trứng) dao
động từ 126.364 ÷ 142.000 trứng/kg cá ♀. Sức sinh sản của cá lăng vàng rất cao so với
các loài cá da trơn khác vì chúng có hệ số thành thục cao và kích thước trứng khá nhỏ,
đường kính trứng chín từ 1,17 ÷ 1,32 mm [2].
Thời gian nở của cá lăng vàng từ 28 ÷ 32 giờ tính từ lúc trứng được thụ tinh.
Trong điều kiện ấp trứng bằng bình Weis từ 18 ÷ 20 giờ tính từ lúc trứng được thụ tinh
[10].
2.4 Đặc điểm dinh dưỡng
Cá có tập tính ăn tạp thiên về động vật. Thức ăn của cá bao gồm: cá, giáp xác,
giun, xác thực vật, mùn bã hữu cơ [4].
Sau thời gian dinh dưỡng bằng noãn hoàng thì cho cá ăn phiêu sinh động vật loại
nhỏ. Khi cá được 3 ngày tuổi bắt đầu cho ăn bằng Artemia hoặc Moina mới nở. Trong
giai đoạn ương từ hương lên giống cá ăn mạnh thức ăn của loài và thức ăn ưa thích là
động vật nhỏ phù hợp với kích cỡ miệng cá như: cá tạp, giáp xác [4]. Theo Th.s Ngô
6

Văn Ngọc (2002) khi khảo sát thì trong điều kiện nuôi ao cá có phổ thức ăn rộng hơn
như cá có thể ăn được động vật nhỏ sống trong nước, đặc biệt là thức ăn nhân tạo.
Chúng thích sống ở nơi có bóng râm và chủ động kiếm ăn [10].
3. ĐẶC ĐIỂM SINH THÁI CỦA CÁ LĂNG VÀNG

3.1 Nhiệt độ
Nhiệt độ ảnh hưởng đến các phản ứng sinh hóa trong cơ thể, ở nhiệt độ quá thấp
hay quá cao cá không còn bắt mồi được và tuyến sinh dục là nguồn chất dự trữ để duy
trì sự sống của cá. Trong trường hợp này tuyến sinh dục ngừng phát triển và tiêu biến

gây ảnh hưởng xấu đến sự sinh sản của cá.
Đối với mỗi loài cá có một khoảng nhiệt độ thích hợp cho sự sinh trưởng và phát
triển. Ngoài khoảng nhiệt độ ấy cá có thể sống nhưng không thành thục và sinh sản
được. Đối với cá lăng vàng là loài cá đặc trưng ở các con sông và hồ lớn ở miền Nam
Việt Nam. Do vậy, mà khả năng thích nghi với môi trường có nhiệt độ thấp của chúng
tương đối kém. Nhiệt độ nước thích hợp cho sự sinh trưởng và thành thục sinh dục của
cá lăng vàng là từ 26÷30
o
C, tốt nhất là 28÷30
o
C. Trong khoảng nhiệt độ thích hợp thì
nhiệt độ càng cao thì thời gian chuyển giai đoạn của cá càng nhanh [10].
3.2 pH
Độ pH là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp lên quá trình
sinh trưởng của cá. Cá lăng vàng là loài cá có khả năng chịu đựng kém với sự thay đổi
lớn của pH. Chúng sống và phát triển tốt ở vùng nước có pH dao động từ 6,5 ÷ 8 (Ngô
Văn Ngọc, 2002 [10].
3.3 Hàm lượng Oxy hòa tan
So với các loài cá nước ngọt khác thì cá lăng vàng là loài thích sống ở nơi trong
sạch, có hàm lượng DO từ 3 mg O
2
/L

trở lên [4].
4. MỘT SỐ BỆNH THƯỜNG GẶP Ở CÁ LĂNG NUÔI
Cá lăng nuôi trong ao và trong bè cũng dễ mắc những bệnh thường gặp ở các
loài cá da trơn khác [4].
4.1 Hội chứng lở loét
Bệnh chủ yếu do vius Rhabdovirus xâm nhập gây bệnh. Virus xâm nhập qua
đường tiêu hóa, qua mang, qua mắt và qua vết thương theo chiều ngang. Nấm cũng

7

đóng vai trò quan trọng trong hội trứng gây lở loét ở cá nuôi, chúng làm cá bị thương
tạo điều kiện cho mầm bệnh xâm nhập.
Cá mắc bệnh bỏ ăn, bơi nhô đầu khỏi mặt nước, nổi lờ đờ, xuất huyết từng đám
nhỏ trên thân, đầu, gốc vây và cuống đuôi, cá bị hoại tử từng phần và chết, mổ xoang
bụng thấy nhiều chất nhờn có hiện tượng ruột bị viêm. Thời gian ủ bệnh tùy sức đề
kháng của cơ thể cá, mùa vụ và chất lượng môi trường nước, tỷ lệ gây nhiễm bệnh 20 -
100%.
Hiện chưa có thuốc đặc trị, để phòng chống bệnh ta áp dụng các biện pháp
phòng chống bệnh trong mùa mưa. Định kì tẩy diệt kí sinh trùng và trị nấm, nên sử
dụng nước ao lắng đã xử lý [4].
4.2 Bệnh trắng đuôi
Bệnh do vi khuẩn Pseudomonas dermoalba gây ra. Cá bị bệnh đuôi có đốm
trắng sau đó lan dần ra đến vây lưng và vây hậu môn cuối cùng là cả đoạn thân màu
trắng, cá mất nhớt và da bị bong trầy. Bệnh nặng cá cắm đầu xuống đất đuôi lên trên
và chết. Bệnh xuất hiện nhiều ở cá bột, cá hương 1 - 4 cm, lan truyền nhanh, tỷ lệ tử
vong cao 90 - 100%. Thường xuất hiện vào mùa khô ở môi trường nước không sạch,
bón phân hữu cơ không được ủ kĩ và cá bị xây xát dễ nhiễm bệnh.
Cách phòng trị là giữ môi trường ương nuôi trong sạch, thức ăn đầy đủ, thu bắt
vận chuyển nhẹ nhàng cá không xây xát, luyện cá trước khi vận chuyển và không nên
nuôi ở mật độ quá dầy. Khi vận chuyển hay thả cá nên tắm cá bằng nước muối 3%
hay steptomycin 25 mg/L trong thời gian 10 phút.
Cá mắc bệnh này rất khó trị vì từ lúc xuất hiện triệu chứng đến tử vong rất ngắn,
chỉ có thể dùng chlorua vôi (Ca(OCl)
2
) 1 ppm phun khắp ao và cho cá ăn oxytetracylin
5 g thuốc/100 kg thức ăn [4].
4.3 Bệnh xuất huyết do nhiễm khuẩn Aeromonas
Aeromonas spp là loại vi khuẩn sinh sản trong nước, bình thường có thể có trong

mô của cá. Khi cá bị sốc do môi trường hoặc bị tổn thương vi khuẩn Aeromonas spp sẽ
bộc phát gây bệnh xuất huyết trong với mức tử vong cao.
Nhiệt độ, pH, CO
2
, O
2
, NH
3
, H
2
S thay đổi bất lợi được coi là nguyên nhân chính
gây sốc và gây ra sự tấn công của Aeromonas spp vào cơ thể cá. Bệnh xuất hiện quanh
8

năm nhiều nhất vào mùa mưa, nếu bị ghép với nấm bệnh sẽ nặng hơn, tỷ lệ chết 30 –
80%.
Cá nuôi ở mật độ cao dễ bị bệnh do vi khuẩn Aeromonas punctala. Dấu hiệu
thông thường là cá bị xuất huyết ở vây, đuôi, từng mảng trên thân màu đỏ, hậu môn
viêm đỏ lồi ra ngoài, mắt xuất huyết đục có thể làm mù mắt, có thể thấy rõ sự ăn mòn
ở đuôi và vây. Ở vùng bụng da sẫm màu cá mất nhớt khô, nội tạng xung huyết và phù
nề, gan thận xuất huyết, tái xanh sưng to và bở. Vi khuẩn có khả năng sinh ngoại độc
tố gây hoại tử da làm máu khó đông .
Cá không ăn, nổi nghiêng, nổi đứng lờ đờ trên mặt nước.
Đối với cá trong các ao nuôi, cần áp dụng kỹ thuật tẩy dọn ao triệt để, nạo vét và
sát trùng đáy ao để nhằm mục đích tiêu diệt mầm bệnh. Nguồn nước lấy vào ao phải
trong sạch, thức ăn của cá phải đảm bảo chất lượng, không ôi thiu. Cá giống trước khi
thả vào ao cần kiểm dịch và sát trùng bằng một số hóa chất như: CuSO
4
nồng độ 3-7
ppm; Ca(OCl)

2
6 - 10 ppm; Malachite 4-5 ppm và nước muối NaCl 2-4%. Để phòng
bệnh cần tránh cá mắc phải các bệnh do ký sinh trùng ký sinh. Vào mùa bệnh, rắc vôi
bột xuống ao 2 lần trong 2 tháng. Khi không phải mùa bệnh, chỉ cần dung vôi 1
lần/tháng. Liều lượng vôi dùng là 2 kg vôi nung/100 m
3
nước. Có thể thay vôi bột
bằng Chlorua vôi (Ca(0Cl)
2
) nồng độ 1 ppm. Ngoài ra, có thể bổ sung thêm lượng
vitamin C vào thức ăn trước và trong mùa bệnh.
Đối với cá nuôi nồng bè, phải sát trùng lồng kỹ trước khi nuôi, vệ sinh lồng
thường xuyên trong quá trình nuôi để đảm bảo sự lưu thong của nước trong lồng. Vị trí
đặt lồng phải lựa chọn nơi có dòng chảy thích hợp. Phải thường xuyên treo túi vôi, vào
mùa bệnh, cần treo 1 lần/2 tuần, các mùa khác treo 1 lần/ tháng. Vôi có tác dụng khử
trùng và kiềm hóa môi trường nước. Lượng vôi tính trung bình 2 kg vôi nung/ 10 m
3
.
bè nuôi có thể tích lớn, nên treo nhiều túi và bè nhỏ treo ít túi, nhưng chú ý tập trung ở
chỗ cho ăn và phía đầu nguồn nước chảy.
Quản lý các chỉ số môi trường nuôi thích hợp và ổn định, nhằm giảm các nguy
cơ gây sốc của cá do các chỉ số thủy lý thủy hóa gây ra [7].
4.4 Bệnh do nhóm vi khuẩn Streptococcus
Chủ yếu là Streptococcus iniae, Streptococcus agalactiae, dạng hình cầu gây ra,
bệnh gây tổn thất lớn, tỷ lệ chết 50 -100%.
9

Bệnh thường xảy ra khi môi trường nuôi không thuận lợi, những tháng thời tiết
nóng cá giống, cá trưởng thành đều có thể mắc bệnh này nhất là cá dưới 5 tháng tuổi.
Vi khuẩn theo đường tiêu hóa, qua vết thương ngoài da vào cơ thể cá. Thời gian

ủ bệnh 2-3 ngày có khi 7 ngày tùy theo số lượng vi khuẩn xâm nhập, độc lực của vi
khuẩn và sức đề kháng của cá.
Cá mắc bệnh có biểu hiện bơi không định hướng xoay vòng tròn, thân sẫm màu,
bơi trên tầng mặt, mắt lồi, xuất huyết ở mắt và gốc vây, hậu môn và một số nơi trên cơ
thể, nội tạng bụng xoang chướng có dịch đặc, túi mật sưng sẫm, lá lách sưng xuất
huyết, gan tái thận xưng viêm. Khi bệnh ghép với nấm, bệnh nặng thêm.
Áp dụng cách phòng bệnh chung, quản lý môi trường nuôi tốt, xử lý môi trường
bằng hóa chất diệt khuẩn. Trị bệnh dùng kháng sinh penicillin V, bactrim NAVET
ESTC [4].
4.5 Bệnh do nấm thủy mi
Đây là bệnh truyền nhiễm có thể xảy ra riêng lẻ hoặc ghép với virus, với vi
khuẩn làm bệnh trầm trọng hơn, rất khó điều trị triệt để, nên phòng bệnh là chính.
Bệnh nấm thủy mi xuất hiện hầu hết ở các loài cá nước ngọt. Triệu chứng bệnh
là trên da cá xuất hiện những vùng trắng xám có các sợi nấm nhỏ, cá bơi trong nước
giống như sợi bông bám vào da.
Cách phòng trị là áp dụng các biện pháp phòng chung, tăng cường vitamin C và
thức ăn đầy đủ chất lượng để tăng sức đề kháng của cá. Điều trị bệnh bằng cách cải
thiện môi trường nuôi, dùng hóa chất diệt vi khuẩn, diệt nấm. Xử lý môi trường và tắm
cá trong nước muối cá hương cá giống 1-2%, cá lớn 3% trong 10-15 phút hay trong
dung dịch thuốc tím 20 ppm trong 20 phút [4].
4.6 Bệnh trùng bánh xe do kí sinh trùng Trichodina spp.
Bệnh do trùng bánh xe ký sinh trên thân cá gây bệnh cho các loài cá nuôi nước
ngọt. Trùng ký sinh ở da, mang và khoang mũi của cá. Cá mắc bệnh nặng không chữa
trị kịp thời có khả năng hao hụt tới 80%.
Ở Đồng bằng sông Cửu Long đã phát hiện 12 loài trùng bánh xe thuộc các giống
Trichodina, Tripartiel, Trichodinella, Paratrichodima gây bệnh.
Bệnh xuất hiện ở ao, bè nuôi cá mật độ dày và môi trường quá dơ bẩn. Bệnh
xuất hiện quanh năm nhất là vào mùa mưa, mùa khô ít phát triển.
10


Cá mới mắc bệnh, thân cá có nhiều nhớt màu trắng đục, mang bạc trắng sưng to.
Cá ngứa ngáy bơi lội không định hướng, nổi từng đàn trên mặt nước và tập trung nơi
nước chảy, cọ mình vào thành bể và cây cỏ.
Cá bệnh nặng, trùng ký sinh ở mang phá hủy tơ mang khiến cá bị ngạt thở, thân
mang đầy nhớt trắng. Cá bơi lung tung không định hướng, lật bụng và chìm xuống đáy
ao chết.
Cách phòng trị bệnh là giữ môi trường nước tốt, sạch, nuôi đúng mật độ. Cách
trị bệnh là tắm cá bằng nước muối 3% trong 15 phút hay CuSO
4
3-5 ppm trong 10-15
phút hoặc phun thẳng xuống ao nồng độ 0,5-0,7 ppm/m
3
nước [4].
4.7 Bệnh do ký sinh trùng Ichthyophthyrius
Bệnh do ký sinh trùng quả dưa xâm nhập, bệnh khó trị triệt để do chu kỳ sống
của ký sinh trùng này có hai giai đoạn. Ấu trùng của trùng Ichthyophthyrius ký sinh ở
da vây và mang cá hút chất dinh dưỡng để sống tạo thành đốm trắng nên còn gọi là
bệnh đốm trắng, bám ở mang phá hoại biểu mô mang làm cá bị ngạt thở. Khi là bào
nang nó thoát khỏi ký sinh chủ ra sống tự do trong nước và sinh sản.
Bệnh phát triển nhanh ở nhiệt độ 22-25
o
C vào mùa Xuân và mùa Thu, xuất hiện
ở ao ương cá cải tạo chưa tốt còn mầm trùng quả dưa.
Cá mắc bệnh thì nổi đầu từng đàn trên mặt nước bơi lờ đờ yếu đi. Trên thân xuất
hiện những đốm trắng nhỏ là trùng ký sinh.
Cách phòng bệnh là làm vệ sinh phơi ao 3-5 ngày diệt sạch bào nang dưới đáy
ao, cách ly ngay khi phát hiện cá bị bệnh.
Cách điều trị tốt nhất là diệt bào nang, kết hợp dùng CuSO
4
nồng độ 3-5 ppm

ngâm cá từ 10-15 phút hoặc phun thẳng xuống ao nồng độ 0,5 - 0,7 ppm/m
3
nước.
Nâng nhiệt độ lên trên 32
o
C ở phạm vi hẹp và bón vôi CaO 1,5-2 kg/100 m
3
nước nâng
độ pH lên 7,5-8,5 để diệt trùng [4].
4.8 Bệnh do ký sinh trùng Henneguya spp
Trùng Henneguya spp còn gọi là tiêm mao trùng hay trùng roi ký sinh ở mang
cá, trên da cá và trong nội tạng cá. Cá mắc bệnh vảy có màu trắng sữa, trên cơ thể cá
có những nốt sần màu trắng bằng hạt tấm hoặc hạt đậu xanh. Cá bơi không bình
thường da có đốm đen, cá kém ăn rồi chết. Cá bị bệnh ký sinh trùng ở trên mang nặng
thì hai nắp mang không khép lại được và chỉ vài ngày cá chết hàng loạt.
11

Bệnh rất khó trị vì ký sinh trùng có 2 lớp vỏ chitin dày cứng. Kinh nghiệm dân
gian dùng thuốc tẩy đường 10 g/m
3
nước, diệt bào tử đang ở trong môi trường nước và
bón vôi 14-20 kg/100m
2
để diệt bào tử trùng dưới lớp bùn đáy ao. Cá giống nên kiểm
dịch, nếu phát hiện nên cách ly trị bệnh ngay [4].
4.9 Bệnh do giun sán ký sinh
Chủ yếu do hai giống Dactylogyrus và Gyrodaclus gây ra, giun ký sinh trên thân
cá, song nguy hiểm nhất là đối với cá hương, cá giống.
Sán lá đơn chủ có thể ký sinh quanh năm ở cá nuôi. Cá bị ký sinh nhiều, mang
viêm sưng to và các tơ mang bị đứt rời, mang tiết nhớt làm cá bị ngạt thở, mang nhợt

nhạt và trắng từng vùng. Cá thường nổi đầu tập chung ở chỗ nguồn nước ra vào.
Cách phòng bệnh là ao vệ sinh kỹ, cho ăn đầy đủ cá khỏe mạnh mau lớn vượt
qua giai đoạn nhiễm bệnh.
Khi cá bị bệnh, tắm cá bằng nước muối 3% trong 5-15 phút hay dùng formol
150-200 ppm tắm cá trong 30-60 phút hoặc dùng formol 30 mL/m
3
phun toàn ao và
ngày hôm sau thoát bỏ nước cũ thay nước mới, nếu không hết bệnh ta tiến hành làm
thêm lần nữa [4].
5. HIỆN TRẠNG VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN
5.1 Tình hình trong nước
Trong nước có các công trình nghiên cứu về hình thái học, phân loại học, phân
bố, đặc điểm sinh học, dinh dưỡng, sinh sản của cá lăng của các tác giả như: Ngô
Trọng Lư và Thái Bá Hồ (2001), Mai Đình Yên và CTV (1992) [9][12].
Đề tài nghiên cứu đặc điểm sinh học cá lăng của Mai Thị Kim Dung (1998), La
Thanh Tùng (2001), kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo cá lăng của Ngô Văn Ngọc, Bùi
Minh Phục (2003), Đào Dương Thanh và Đặng Thị Quyên Trinh (2004), khảo sát ảnh
hưởng của thức ăn lên sự tăng trưởng cá lăng nha của Lê Đại Quan (2004), kỹ thuật
sản xuất giống và nuôi cá lăng nha, cá lăng vàng của KS. Nguyễn Chung (2006), Đại
Học Nông Lâm TPHCM cũng công bố cho sinh sản nhân tạo thành công giống cá lăng
nghệ. Nhìn chung ở trong nước đã có khá nhiều tác giả nghiên cứu về cá lăng và đã có
những bước thành công ban đầu song những nghiên cứu này vẫn ở trong giai đoạn thử
nghiệm, chưa công bố rộng rãi đến người nuôi. Vẫn còn thiếu những nghiên cứu sát
thực với thực tế sản xuất loài cá này. Cần tăng cường và hoàn thiện những nghiên cứu
12

mang tính chất có thể áp dụng trực tiếp vào thực tế sản xuất để làm tăng sản lượng cá
thịt, nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường [2].
5.2 Tình hình ngoài nước.
Có một số tác giả nước ngoài nghiên cứu về loài cá lăng như: Rainboth (1996)

nghiên cứu nơi sống, đặc điểm sinh học cá lăng và cách đánh bắt loài cá này.
Mills và Roberts (1990), nghiên cứu về mùa vụ sinh sản, đường kính trứng, sức
sinh sản và những yếu tố ảnh hưởng đến sự chín của tuyến sinh dục [4].




























13

PHẦN 2
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

1 ĐỐI TƯỢNG, ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
1.1 Đối tượng nghiên cứu
Cá lăng vàng (Mystus nemurus)
1.2 Địa điểm nghiên cứu
Đề tài được thực hiện tại trại sản xuất giống cá nước ngọt Đá Bàn, thuộc thôn 5,
xã Ninh Sơn – huyện Ninh Hòa –Khánh Hòa.
1.3 Thời gian nghiên cứu
Đề tài được thực hiện từ ngày 1/08/2007 – 10/11/2007. Đây là thời điểm trùng
với mùa khô ở đây nên nhiệt độ môi trường thường xuyên ở mức cao.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
2.1 Phương pháp nghiên cứu gián tiếp
Thông qua tham khảo các tài liệu, các báo cáo khoa học, các bài báo đã công bố
có liên quan đến nội dung và đối tượng của đề tài.
2.2 Phương pháp nghiên cứu trực tiếp
Thông qua trực tiếp chăm sóc ao nuôi vỗ cá bố mẹ và cho sinh sản nhân tạo.
2.3 Xác định các yếu tố môi trường
Các yếu tố nhiệt độ và pH của ao nuôi vỗ cá bố mẹ thường xuyên được kiểm tra
vào 6h và 14h hàng ngày
- Nhiệt độ: đo bằng nhiệt kế có độ chính xác là 0,5
o
C.
- pH: đo bằ ng test kit pH do Việt Nam sản xuất, độ chính xác đến 0,5.
2.4 Kỹ thuật nuôi vỗ cá bố mẹ
Khâu nuôi vỗ cá bố mẹ gồm các bước sau đây:
- Cải tạo ao

- Tuyển chọn cá bố mẹ đưa vào nuôi vỗ
- Chăm sóc và quản lý: hàng ngày cho cá ăn bằng cá tạp cắt nhỏ, khẩu phần ăn từ
2 – 3%. Cho ăn vào buổi chiều tối. Thức ăn được cho vào trong sàng ăn để dễ kiểm
soát thức ăn thừa.
14

2.5 Kĩ thuật sinh sản nhân tạo cá lăng vàng
Gồm các bước:
- Chuẩn bị kích dục tố, dụng cụ để tiêm và thụ tinh nhân tạo, xô thùng đựng cá.
- Tuyển chọn cá bố mẹ
- Tiêm kích dục tố (liều sơ bộ và liều quyết định)
- Vuốt trứng cá cái, mổ đực lấy sẹ và thụ tinh nhân tạo
2.6 Kỹ thuật ấp trứng
Trứng cá lăng vàng sau khi được thụ tinh, khử dính thì được đem vào ấp trong
bình Weis.
2.7 Phương pháp xử lý số liệu
* Xác định tỷ lệ thành thục:
Tổng số cá thành thục
TLTT = x 100(%)
Tổng số cá đem vào nuôi vỗ
* Xác định hệ số thành thục:
W
tsd
K = x 100(%)
W
Với K : Hệ số thành thục
W
tsd
: Khối lượng tuyến sinh dục (g)
W : Khối lượng cá (g)

Xác định hệ số thành thục của cá bằng cách phẫu thuật cá bố mẹ.

* Tỉ lệ đẻ:
Số cá đẻ
TLĐ (%)= x 100(%)
Tổng số cá tham gia sinh sản
Sức sinh sản thực tế:
Tổng số trứng thu được
Sức sinh sản thực tế (số trứng/kg♀) =
Tổng khối lượng cá cái đẻ
* Xác định tỉ lệ thụ tinh: lấy 3 bát, cho vào mỗi bát 100 trứng đã được thụ tinh và
khử dính. Định kì 15 phút thay nước một lần. Tỉ lệ thụ tinh được xác định khi trứng
phát triển đến giai đoạn phôi vị.
15

Số trứng phát triển đến phôi vị
TLTT = x 100(%)
Tổng số trứng kiểm tra

* Theo dõi các giai đoạn phát triển của phôi: quan sát trực tiếp qua kính hiển vi,
kết hợp với tài liệu để xác định các giai đoạn phát triển của phôi
* Xác định tỉ lệ nở:

Tổng số cá nở ra
TLN = x 100(%)
Tổng số trứng đã thụ tinh

Số lượng cá bột gần hết noãn hoàn
Tỷ lệ ra bột = x 100(%)
Σ số cá bột nở ra

Số liệu được xử lý trên phần mềm Excell, các thông số đều viết dưới dạng giá trị
trung bình và độ lệch chuẩn.
















Hình 3: Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu
Kỹ thuật nuôi
v
ỗ cá bố mẹ

Kỹ thuật cho
đ
ẻ nhân tạo

Kỹ thuật ấp
n
ở trứng


chăm
sóc

quản


Tuyển
chọn
cá bố
mẹ đưa
vào
nuôi
vỗ
Tuyển
chọn

bố mẹ
cho
đẻ
Kỹ
thuật
cho
đẻ
Kỹ
thuật
ấp
nở
trứng
Kỹ

thuật
thụ
tinh
nhân
tạo
Quan
sát các
giai
đoạn
phát
triển
phôi
Ao

kết
cấu
ao

Sinh sản nhân tạo cá lăng vàng

Kết luận và đề xuất ý kiến
16

PHẦN 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

1. KỸ THUẬT NUÔI VỖ CÁ BỐ MẸ.
Trong quy trình kĩ thuật sinh sản nhân tạo các loài cá nuôi có nhiều công đoạn kĩ
thuật kế tiếp nhau và liên quan chặt chẽ với nhau như: kĩ thuật nuôi vỗ cá bố mẹ, kĩ
thuật cho cá đẻ, kĩ thuật ấp nở trứng cá và kĩ thuật ương nuôi cá giống. Trong đó, công

đoạn chủ yếu, quan trọng và then chốt nhất chính là kĩ thuật nuôi dưỡng thành thục cá
bố mẹ. Nếu nuôi dưỡng cá bố mẹ hợp lý và đúng kỹ thuật sẽ tạo ra đàn cá bố mẹ có
chất lượng tốt (tỷ lệ thành thục và hệ số thành thục cao, tỷ lệ đẻ cao, sức sinh sản lớn,
số lượng và chất lượng đàn cá giống thu được cao) [8].
1.1 Ao và cải tạo ao nuôi vỗ:
- Kết cấu ao.
Ao nuôi vỗ cá lăng vàng bố mẹ hình chữ nhật có S = 300 m
2
, gồm có 1 cống cấp
nước vào, 1 cống xả tràn và một cống xả cạn. Ao có thể tháo cạn hoàn toàn. Điều này
rất tiện cho việc cải tạo ao.

Hình 4: Ao nuôi vỗ cá lăng vàng bố mẹ
- Cải tạo ao.
Cải tạo ao là khâu đầu tiên trong quá trình nuôi vỗ nhưng lại có ý nghĩa quan
trọng. Nếu khâu cải tạo ao tốt, đúng kỹ thuật thì mầm bệnh khó có cơ hội phát triển để
17

gây bệnh cho cá nuôi; giúp tiêu diệt đich hại (cá tạp, cá dữ), đồng thời còn tạo ra môi
trường sống thuận lợi cho cá.
Cải tạo ao được tiến hành theo các bước sau đây:
- Tháo cạn nước ao
- Nạo vét bớt bùn đáy, chỉ để lại lớp bùn dày khoảng 20 – 30 cm. Mục đích nhằm
loại bỏ bớt chất bẩn, mầm bệnh và địch hại ở đáy ao. Sau đó san phẳng đáy ao, dọn
sạch bờ. Gia cố bờ ao chắc chắn, chống rò rỉ, kiểm tra hệ thống cấp và thoát nước.
- Sau đó ao được bón vôi (CaO.

H
2
O) với liều lượng 10 kg/100 m

2
, rồi phơi nắng
trong 3 – 4 ngày. Thao tác này ngoài mục đích khử trùng, diệt tạp, tiêu diệt địch hại ẩn
nấp ở đáy ao, mà còn có tác dụng làm cho đất đáy ao đựoc khoáng hóa và tơi xốp hơn,
giải phóng khí độc tích tụ ở đáy ao.
- Ao sau khi được phơi nắng thì tiến hành lấy nước vào ao. Nước cấp vào ao phải
qua lưới lọc để hạn chế cá tạp và địch hại.
Ao sau khi được cải tạo, đưa vào nuôi vỗ phải đạt các tiêu chuẩn sau:
- Bờ ao được gia cố chắc chắn, không bị rò rỉ.
- Đáy ao có lớp bùn dày khoảng 20 – 30 cm
- Mực nước trong ao đạt độ sâu từ 1,3 – 1,5 m, nguồn nước cấp có hàm lượng O
2

≥ 3 mg/ L. pH dao động 6,7 – 7. Với điều kiện này môi trường ao hoàn toàn phù hợp
cho nuôi vỗ cá bố mẹ
Do cá lăng vàng là loài thích bóng râm nên ao được thả một ít bèo ở bốn góc ao
để làm chỗ cho cá lăng ẩn nấp.
1.2 Tuyển chọn cá bố mẹ đưa vào nuôi vỗ
Khâu tuyển chọn cá bố mẹ là bước đầu của quá trình sinh sản của cá sau này
nhưng nó lại đóng một tầm quan trọng bởi vì:
Nếu khâu tuyển chọn cá bố mẹ tốt, cá khỏe mạnh, thành thục đúng thời điểm thì
lượng tinh trùng sẽ đảm bảo để trứng cá có thể thụ tinh tốt, cho tỉ lệ nở, tỉ lệ ra bột
cao.
Ngoài ra khi chọn đàn cá đưa vào nuôi có tuổi thành thục phù hợp sẽ tạo ra đàn
giống tốt và đạt hiệu quả trong quá trình sản xuất. Nếu cá bố mẹ còn non sẽ sinh sản
không tốt, nhưng nếu cá quá già khi cho đẻ cũng không hiệu quả. Khối lượng cá bố
18

đưa vào nuôi dưỡng cũng phải phù hợp, cá bố mẹ quá nhỏ dẫn đến việc sản xuất đàn
cá giống không chất lượng.

- Tuyển chọn cá bố mẹ.
Cá đạt 2
+
, khối lượng trung bình từ 200 ÷ 350 g/ con. Cá bố mẹ khỏe mạnh,
không bị bệnh ngoài da và không sây xát, màu sắc sáng, toàn thân trơn nhẵn, không dị
hình và hoạt động nhanh nhẹn. Cá được lấy từ nhiều vùng khác nhau nhằm mục đích
tránh hiện tượng thoái hóa giống do lai cận huyết.
Bảng 1: kết quả tuyển chọn cá bố mẹ đưa vào nuôi vỗ
Cá cái Cá đực Thời gian
đưa vào
nuôi vỗ
Số lượng
(con)
Khối lượng
TB (g/con)
Số lượng
(con)
Khối lượng
TB (g/con)
Mật độ thả
(kg/ m
2
)
10/8 –
10/10/07
95 300 75 280,5 0,165

Qua bảng 1 cho thấy đàn cá lăng bố mẹ đã đạt được tiêu chuẩn để đưa vào nuôi
vỗ, mật độ thả nuôi tương đối thấp đây là một điều kiện thuận lợi cho cá lăng sinh
trưởng và phát dục thành thục tốt.

1.3 Chăm sóc và quản lý ao nuôi vỗ
1.3.1 Diễn biến các yếu tố môi trường trong ao nuôi vỗ
Cá lăng cũng giống như các loài sinh vật khác sống trong môi trường nước, nếu
môi trường nước biến đổi bất lợi vượt quá giới hạn thích hợp sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến sức khỏe, tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá.
Quản lý môi trường ao nuôi thực chất là điều khiển các yếu tố môi trường dao
động trong giới hạn tối ưu cho cá sinh trưởng, sinh sản.
Cá lăng là loài cá có thể chịu đựng được điều kiện khắc nghiệt hơn các loài cá
khác. Tuy nhiên, khi các yếu tố môi trường như nhiệt độ nước, pH dao động lớn vượt
ra khỏi ngưỡng thích hợp đều gây ảnh hướng xấu đến cá nuôi. Cụ thể.
+ Nhiệt độ: là yếu tố phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên. Cá là động vật biến nhiệt
nên nhiệt độ cơ thể có sự thay đổi theo nhiệt độ môi trường nước. Sự thay đổi của
nhiệt độ là nguyên nhân chính làm thay đổi tốc độ tăng mồi, rối loạn hô hấp, làm mất
cân bằng trao đổi chất của cơ thể, trong phạm vi nhiệt độ thích hợp cho cá nuôi ( 28 –
30
o
C ) thì cá sử dụng thức ăn rất tốt, cá sinh trưởng, thành thục sinh dục nhanh và khả
19

năng đề kháng với bệnh tật cao. Chúng ta chỉ có thể điều khiển nhiệt độ thích hợp
bằng cách chọn mùa vụ nuôi thích hợp hoặc nâng mực nước trong ao
+ pH : có ảnh hưởng trực tiếp đến độc tính của H
2
S và NH
3
trong ao nuôi, từ đó
tác động đến sức khỏe, khả năng đề kháng bệnh của cá nuôi. Để có biện pháp cụ thể
điều chỉnh sự biến động của pH trong ao nuôi cần thường xuyên theo dõi pH của nước
đặc biệt là trong những ngày mưa to kéo dài. Chất đất có ảnh hưởng rất lớn đến pH
của nước ao nuôi. Việc lựa chọn địa điểm nuôi thích hợp là một trong những yếu tố

quyết định đến sự thành công của người nuôi.
Vì lí do đó mà trong suốt quá trình nuôi vố, các yếu tố môi trường thường xuyên
được theo dõi và kiểm tra hàng ngày.
Hình 5: Biểu đồ diễn biến pH ao nuôi vỗ cá bố mẹ
Hình 6 : Biểu đồ diễn biến nhiệt độ ao nuôi vỗ cá bố mẹ

Qua các đồ thị trên ta thấy: trong thời gian nuôi vỗ, khoảng dao động của pH là
tương đối rộng giữa buổi sáng và buổi chiều (có ngày độ chênh lệch lên tới 4) nhưng
vẫn ở trong khoảng thích hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của cá lăng, còn nhiệt
0
2
4
6
8
10
1 5 9 13 17 21 25 29 33 37 41 45 49 53
Ngày nuôi
pH
Sáng
Chiều
0
10
20
30
40
1 5 9 13 17 21 25 29 33 37 41 45 49 53
Ngày nuôi
Nhiệt độ (oC )
Sáng Chiều
20


độ môi trường ao nuôi là tương đối cao so với khoảng nhiệt độ thích hợp cho cá lăng
vàng sinh trưởng và thành thục sinh dục (26 – 30
o
C). Nguyên nhân là do thời gian nuôi
vỗ rơi vào mùa khô nên nhiệt độ thường xuyên ở mức cao. Có những ngày nhiệt độ
nước chênh nhau giữa buổi sáng và buổi chiều lên tới 11
o
C. Nguyên nhân là do trong
quá trình nuôi có một thời gian nước ao không được cấp thêm hay vì thiếu nước do đó
mực nước thấp kéo dài, cộng với điều kiện nắng nóng dẫn đến nhiệt độ nước ao
thường xuyên ở mức cao, biên độ dao động nhiệt trong ngày lớn. Điều này chắc chắn
sẽ có sự tác động xấu đến sự thành thục của cá bố mẹ.
Nguyên nhân gây lên sự chênh lệch pH giữa buổi sáng và chiều rộng đó là do:
nhiệt độ ao cao, mực nước thấp nên tảo trong ao khá phát triển. Khi tảo phát triển
mạnh, pH buổi chiều thường cao có thể lên tới 9, nhưng khi tảo tàn giá trị pH xuống
thấp thường là 5. Trong quá trình nuôi vỗ qua quan sát nhận thấy vào những ngày pH
buổi chiều thấp cộng với nhiệt độ nước cao thì cá thường bỏ ăn hoặc ăn rất ít.
1.2.2 Thức ăn và kỹ thuật cho ăn
Cho cá ăn ngày một lần vào lúc chiều tối. Thức ăn chủ yếu là cá tạp lấy tại cơ sở
thực tập. Cá tạp được cắt nhỏ cho vừa cỡ mồi và cho vào sàng ăn. Điều này giúp kiểm
soát lượng thức ăn thừa, tránh gây ô nhiễm nước ao, đồng thời còn để xác định sự bắt
mồi của cá, điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp, đặc biệt là những ngày môi trường
ao có sự biến động.
Khẩu phần cho ăn là 2 – 3% khối lượng thân. Sau khi nuôi vỗ một tháng, kéo
lưới kiểm tra, thấy cá đã bắt đầu lên trứng thì giảm khẩu phần ăn để tránh hiện tượng
cá quá béo.
1.3 Kết quả nuôi vỗ thành thục sinh dục.
Cá bố mẹ trước khi đưa vào nuôi vỗ rất gầy, cá cái không có bụng hoặc bụng
nhỏ. Nguyên nhân là do một thời gian dài trước đó cá không được chăm sóc. Sau 2

tháng nuôi vỗ, chúng tôi tiến hành kiểm tra sự phát dục thành thục của đàn cá kết quả
được thể hiện ở bảng sau:




21

Bảng 2: Kết quả nuôi vỗ thành thục sinh dục cá lăng vàng
STT

Các chỉ tiêu khảo sát Đơn vị tính Giá trị thu được
1 Số lượng cá cá cái đưa vào nuôi vỗ con 95
2 Số lượng cá đực đưa vào nuôi vỗ con 75
3 Số lượng cá cái thành thục con 90
4 Tỷ lệ thành thục của cá cái % 94,7
5 Số lượng cá đực thành thục con 32
6 Tỷ lệ thành thục của cá đực % 42,6
7
Hệ số thành thục của cá cái (
K
)
% 12,48

Qua bảng trên ta thấy trong cùng một điều kiện nuôi vỗ thì cá lăng cái có tỷ lệ thành
thục cao hơn cá lăng đực
Theo Nguyễn Chung (2006), cá cái khi thành thục sinh dục có hệ số thành
thục dao động từ 20,8 – 25%. Do đó kết quả thu được ở trên là tuơng đối thấp ( hệ số
thành thục trung bình là 12,48). Cá lăng cái có hệ số thành thục thấp có thể là do trong
thời gian nuôi vỗ, điều kiện môi trường ao nuôi không thích hợp (nhiệt độ cao, thường

xuyên biến động) cộng với việc sử dụng đơn điệu một loại thức ăn (cá rô phi) có thể
không cung cấp đủ dinh dưỡng cần thiết cho sự sinh trưởng và ảnh hưởng lên sự thành
thục của cá. Hoặc có thể là do, trước đó cá đã bị bỏ đói trong một thời gian dài, nên
thời gian nuôi vỗ hai tháng là chưa đủ để cá phục hồi, theo Ngô Trọng Lư và Thái Bá
Hồ (2005) thì thời gian nuôi vỗ cá lăng vàng là 4 tháng, cá thành thục 80% [9].
a
b
Hình 7 : Tuyến sinh dục cá lăng vàng
a: Buồng trứng
b: Buồng sẹ

22

2. Kỹ thuật cho cá lăng vàng sinh sản nhân tạo
2.1 Tuyển chọn cá bố mẹ
- Vai trò khâu tuyển chọn cá bố mẹ:
Đây là khâu có ảnh hưởng quyết định đến kết quả cho đẻ nhân tạo. Nếu tuyển
chọn được cá bố mẹ chín mùi tuyến sinh dục, cá sẽ rụng trứng tương đối đồng đều, tỷ
lệ cá đẻ cao, tỷ lệ thụ tinh cao dẫn tới tỷ lệ ra bột cao. Cá bố mẹ khỏe mạnh sẽ cho đàn
giống có chất lượng tốt.
Nếu chọn cá quá già sẽ cho chất lượng trứng không đảm bảo, cá quá béo sẽ khó
sinh sản.
Trong các đợt cho cá lăng vàng đẻ tại Đá Bàn chúng tôi dựa vào hình dáng bên
ngoài để chọn cá cho đẻ, xem các hình dưới đây.
a b
Hình 8: Cá lăng vàng bố mẹ được tuyển chọn
a: Ảnh chụp cá cái
b: Ảnh chụp cá đực
- Cá cái dựa theo hình dạng bên ngoài cụ thể như:
+ Bụng to và mềm đều

+ Lỗ sinh dục sưng và ửng hồng
- Cá đực dựa vào các tiêu chuẩn hình dạng ngoài như:
+ Thân thon dài và không quá mập
+ Gai sinh dục dài và ửng màu trắng hồng ở đầu mút
+ Có nhiều mạch máu vùng da bụng
23

Cá bố mẹ sau khi được tuyển chọn thì nhốt riêng từng con vì cá lăng vàng là loài
có gai cứng và nhọn ở vây ngực và vây lưng, khi nhốt chung chúng có thể gây tổn
thương cho nhau.
Bảng 3: Kết quả tuyển chọn cá bố mẹ
Cá cái Cá đực Đợt sinh sản
Số lượng
(con)
Khối lượng
(g)
Số lượng
(con)
Khối lượng
(g)
7/10 4 985 4 760
14/10 5 1155 5 800
16/10 3 730 3 555

Cá cái được tuyển chọn đưa vào cho đẻ có bụng to, mềm đều và buồng trứng
đang ở giai đoạn IV. Qua các lần cho đẻ tôi nhận thấy những cá cái có bụng thuôn và
mềm đều đẻ tốt hơn những cá cái có bụng phình to. Theo tôi nguyên nhân là do cá có
bụng lớn thường kéo theo là cá béo dẫn đến khó đẻ.
Đối với cá đực thì khó khăn hơn trong việc đánh giá chất lượng, do những dấu
hiệu hình thái ngoài biểu hiện không rõ ràng. Chủ yếu dựa vào gai sinh dục để tuyển

chọn, gai sinh dục có đầu đỏ và dàilà cá thành thục tốt
2.2 Kích thích cho cá đẻ
2.2.1 Loại kích dục tố và liều lượng
- Loại kích dục tố sử dụng là: LRHa và Domperidone (Dom).
Do cá lăng là loài khó sinh sản nên được tiêm hai liều là liều sơ bộ và liều quyết
định. Khoảng cách giữa hai liều là 8h. Ở liều sơ bộ chỉ tiêm cho cá cái LRHa, liều
quyết định dùng kết hợp LRHa với Domperidone với liều lượng 1 ống LRHa (200 µg)
với 20 mg Dom .
- Cách pha chế và liều lượng tiêm:
Để xác định lượng thuốc cần sử dụng, đối với cá cái ta cân riêng từng con có
đánh dấu; với cá đực thì có thể cân chung rồi lấy trung bình. LRHa có thể pha với
nước cất hoặc nước suối hòa với Dom đã được nghiền mịn bằng cối đá. Tuy nhiên chú
ý không nên pha quá loãng vì lượng nước vào cơ thể cá nhiều gây tức nước và có thể
làm chết cá; nhưng cũng không nên pha quá đặc vì quá trình thao tác có thể có hiện
tượng rơi rớt sẽ lãng phí quá nhiều kích dục tố trong một giọt dung dịch bị rớt. Lượng
nước thuốc đưa vào cơ thể cá lăng vàng tốt nhất không nên vượt quá 0,2 mL/100 g cá.
24

Liều lượng kích dục tố tiêm cho cá lăng vàng qua các lần cho đẻ được thể hiện
trong bảng sau:
Bảng 4: Liều lượng kích dục tố cho mỗi lần đẻ
Liều sơ bộ (LRHa)
(µg/kg)
Liều quyết định
(LRHa + Dom)
(µg + mg/kg)

Đợt
sinh
sản

Cá cái Cá đực Cá cái Cá đực
Tỷ lệ đẻ
(%)
Thời gian
hiệu ứng
(h)
Tỷ lệ thụ
tinh
(%)
7/10 20 - 120 60 75 8 ÷11 6÷22
14/10 30 6 90 45 40 10 ÷ 11 27÷30
16/10 30 6 120 60 66,66 11,5÷12,5

21÷26

Vị trí tiêm kích dục tố cho cá: vì cá lăng vàng là loài cá nhỏ nên ta tiến hành tiêm
kích dục tố vào phần cơ lưng bên cạnh gốc vây lưng.

Hình 9: Vị trí tiêm kích dục tố

Qua bảng ta thấy, liều lượng kích dục tố trong các đợt cho cá lăng đẻ có khác
nhau. Ở đợt 1, liều sơ bộ chỉ tiêm cho cá cái với liều lượng là 20 µg/kg cá cái và bằng
1/6 liều quyết định. Ở liều quyết định, tiêm cho cá đực với liều lượng bằng 1/2 liều
quyết định của cá cái. Tuy nhiên, do kết quả đợt đẻ thứ nhất cho kết quả tỉ lệ đẻ cao
nhưng tỉ lệ thụ tinh thấp, và theo đánh giá ban đầu là do chất lượng tinh kém nên ở lần
cho đẻ lần thứ hai chúng tôi đã quyết định tiêm thêm liều sơ bộ cho con đực với liều
lượng bằng 1/5 liều sơ bộ cá cái. Cũng trong đợt hai, chúng tôi đã thử nghiệm liều
lượng kích dục tố tiêm cho cá lăng vàng của Nguyễn Chung (2006) [4]. Kết quả đợt
cho đẻ lần thứ hai cho tỉ lệ đẻ thấp nhưng tỉ lệ thụ tinh cao hơn đợt 1, tuy vậy vẫn thấp
25


nên ở lần cho đẻ thứ ba, tôi đã dùng liều lượng kích dục tố đã dùng ở đợt một, nhưng ở
liều sơ bộ là theo liều lượng của Nguyễn Chung (2006) và vẫn tiêm cho cá đực ở liều
sơ bộ như đã nói ở trên. Qua ba đợt cho đẻ với các liều lượng tiêm khác nhau, kết quả
cho thấy, ở đợt 1 có thời gian hiệu ứng là ngắn nhất (8 – 11h) , tỉ lệ đẻ cao nhất nhưng
tỉ lệ thụ tinh lại thấp nhất (6 – 22%). Đợt hai có thời gian hiệu ứng dài hơn một ít (10 –
11h) , tỉ lệ đẻ thấp nhất nhưng lại cho tỉ lệ thụ tinh là cao nhất (27 – 30%); đợt ba có tỉ
lệ thụ tinh (21 – 26%), thời gian hiệu ứng lại lâu nhất (11.5 – 12.5h). Tỉ lệ thụ tinh cao
ở hai đợt sau một phần là do chất lượng tinh tốt hơn (buồng sẹ có nhiều phần trắng đục
hơn). Điều này chứng tỏ việc tiêm liều sơ bộ cho cá lăng đực đã có hiệu quả.
Tuy nhiên có những ý kiến cho rằng cá lăng đực có phase thành thục chậm hơn
cá lăng cái, cần có nghiên cứu thêm để chọn thời điểm tiêm kích dục tố cho con đực
thích hợp để nâng chất lượng tinh cho cá đực.
2.3 Kỹ thuật thụ tinh nhân tạo cá lăng vàng
Chuẩn bị dụng cụ:
- Chày, cối đá
- Các tô đựng, kéo cắt, khăn lau
- Nước dứa 4% hoặc sữa tươi
- Lông gà sạch
Nước thụ tinh có hàm lượng O
2
>3 mg/L, pH từ 6,5 ÷ 8
Cá bố mẹ sau khi được tiêm liều quyết định thì nhốt riêng từng con, để nơi yên
tĩnh. Dụng cụ chứa cá phải có lưới đậy vì cá có thể nhảy ra ngoài.
Sau khi tiêm liều quyết định 6 – 8h thì định kì kiểm tra cá mẹ. Khi thấy cá mẹ có
trứng chảy ra ở lỗ sinh dục hoặc dùng tay vuốt nhẹ mà có trứng chảy ra lúc này trứng
cá cái đã rụng, có thể tiến hành cho đẻ.
Thao tác thụ tinh nhân tạo gồm các bước sau đây:

- Bước 1: Mổ cá đực lấy buồng sẹ



×