Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết Kinh nghiệm quốc tế và chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.53 KB, 33 trang )

Lời mở đầu
Sự hợp tác và tham gia phân công lao động quốc tế tăng lên không những làm
cho trao đổi hàng hóa trong nớc gia tăng mà còn làm cho trao đổi hàng hóa, dịch
vụ giữa các nớc phát triển. Trên cơ sở phát triển của các mối quan hệ kinh tế giữa
các nớc, sự liên hệ về chính trị và văn hóa giữa các nớc ngày càng phát đạt. Những
mối quan hệ thờng xuyên về mặt kinh tế, chính trị và văn hóa giữa các nớc đã làm
nảy sinh những quan hệ tiền tệ của nớc này đối với nớc kia. Quan hệ so sánh đồng
tiền của các quốc gia với nhau đợc gọi là tỷ giá hối đoái.
Tỷ giá hối đoái giữ một vai trò quan trọng đến tình hình ngoại hối của các nớc
và ảnh hởng đến toàn bộ nền kinh tế của một quốc gia, nó sẽ đảm bảo tính ổn định
trong nền kinh tế, ổn định giá cả tạo ra môi trờng an toàn cho các hoạt động sản
xuất kinh doanh mà đặc biệt là hoạt động ngoại thơng. Vì vậy, việc áp dụng một
chính sách tỷ giá đúng đắn là một điều kiện tiên quyết để góp phần thúc đẩy tăng
trởng kinh tế.
Tất nhiên cha hẳn là một tỷ giá là u việt đối với nớc này thì đã là phù hợp với
các nớc khác, bởi vì mỗi nớc có một điều kiện kinh tế cụ thể khác nhau. Thậm chí
ngay trong một quốc gia, việc áp dụng cố định một chế độ tỷ giá khi các điều kiện
kinh tế - chính trị trong nớc và quốc tế đã thay đổi cũng không thể đem lại một kết
quả tốt nh mong đợi. Điều quan trọng là phải biết trong trờng hợp nào thì cố định
tỷ giá phát huy tác dụng tối đa u điểm của mình, từ đó sẽ quyết định lựa chọn việc
áp dụng cố định tỷ giá một cách linh hoạt phù hợp với điều kiện khách quan và
mục tiêu u tiên hàng đầu trong chiến lợc phát triển đất nớc.
Không dễ dàng về mặt lý thuyết cũng nh thực tế khi lựa chọn một hệ thống tỷ
giá thích hợp. Trên thực tế có nhiều tranh luận về lợi thế cũng nh bất lợi của hai
chính sách tỷ giá đặc biệt: tỷ giá cố định và tỷ giá thả nổi. Nhng có nhiều lập luận
ủng hộ sự kết hợp giữa hai chế độ tỷ giá trên, đó là tỷ giá thả nổi có điều tiết. Nó
cho phép tận dụng lợi thế, đồng thời hạn chế những bất lợi của cả hai chế độ. Vì
thế, trên thực tế, một nớc có thể có nhiều lựa chọn các kết hợp khác nhau tùy thuộc
vào các đặc điểm cấu trúc, những cú sốc bên ngoài có thể xảy ra và môi trờng kinh
tế vĩ mô.
Trong bối cảnh Việt Nam đang tham gia vào hội nhập kinh tế - tài chính - tiền


tệ quốc tế, việc hình thành một chính sách tỷ giá linh hoạt và sát với những biến
động của thị trờng là một trong những nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy sự
phát triển của nền kinh tế quốc dân nói chung cũng nh thị trờng chứng khoán còn
non trẻ của nớc ta nói riêng.Tuy nhiên, khả năng tận dụng nhân tố này cho sự
thành công của công cuộc hội nhập cũng nh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc
đến đâu thì còn phụ thuộc vào khả năng hoạch định chính sách, sức mạnh kinh tế
của nớc ta và đặc biệt là sự phối hợp linh hoạt, đúng đắn, mềm dẻo giữa hai chế độ
1
tỷ giá để phát huy u điểm, hạn chế nhợc điểm của chúng, sao cho đạt đợc mục tiêu
một cách hiệu quả nhất.
Xuất phát từ những nhận định đó, em đi sâu vào phân tích đề tài:
" Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết - Kinh nghiệm quốc tế và chính sách tỷ giá
hối đoái của Việt Nam "
Đề án này đợc chia làm 3 chơng:
Chơng I. Khái quát chung về tỷ giá hối đoái và hoạt động của tỷ giá thả nổi
có điều tiết
Chơng II. Chính sách điều hành tỷ giá của Việt Nam trong thời gian vừa qua
- Thành tích và những mặt còn hạn chế
Chơng III. Những chính sách cho một tỷ giá phù hợp ở Việt Nam trong thời
gian tới
Chơng I :
Khái quát chung về tỷ giá hối đoái và hoạt động
của chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết
I - Tỷ giá hối đoái
1. Khái niệm
Có hai khái niệm về tỷ giá hối đoái:
- Các phơng tiện thanh toán quốc tế đợc mua và bán trên thị trờng hối đoái bằng
tiền tệ quốc gia của một nớc theo một giá cả nhất định. Vì vậy, giá cả của một đơn vị
tiền tệ nớc này thể hiện bằng một số đơn vị tiền tệ nớc kia đợc gọi là tỷ giá hối đoái.
Ví dụ: Một ngời nhập khẩu ở Đức phải bỏ ra 142.000 DEM để mua một tờ séc

có mệnh giá100.000 GBP để trả tiền nhập khẩu từ Anh. Nh vậy giá 1GBP là
1,42DEM, đây là tỷ giá hối đoái giữa GBP và DEM.
- Tỷ giá hối đoái còn đợc định nghĩa ở khía cạnh khác, đó là quan hệ so sánh
giữa tiền tệ của hai nớc với nhau.
Trong chế độ bản vị vàng, tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh hai đồng tiền vàng
của hai nớc với nhau hoặc là so sánh hàm lợng vàng của hai đồng tiền hai nớc với
nhau.
Trong chế độ lu thông tiền giấy, ngang giá vàng không còn là cơ sở hình thành
tỷ giá hối đoái. Việc so sánh hai đồng tiền với nhau đợc thực hiện bằng so sánh sức
mua của hai tiền tệ với nhau, gọi là ngang giá sức mua của tiền tệ.
Ví dụ: Một hàng hoá A ở Mỹ mua với giá là 1USD, nhng ở Việt nam lại đợc
mua với giá là 15.000VND.
Ngang giá sức mua là: 1USD = 15.000 :1 = 15.000 VND
Đây là tỷ giá hối đoái giữa đô la Mỹ và đồng Việt nam.
Từ khi ra đời cho đến nay, lịch sử phát triển của tỷ giá hối đoái trải qua rất
2
nhiều giai đoạn. Trớc thế chiến thứ I (1914) nền kinh tế thế giới hoạt động theo chế
độ bản vị vàng. Trong chế độ này, vàng đợc coi là tiền tệ thế giới và đợc dùng nh một
công cụ dự trữ và tiền tệ thanh toán cuối cùng giữa các quốc gia. Đồng tiền của hầu
hết các nớc đều đợc đổi ra vàng, hình thành nên tỷ giá hối đoái cố định. Tuy nhiên,
đầu thế chiến thứ II, chế độ này tan rã, nhờng chỗ cho một chế độ tỷ giá hối đoái mới,
đó là hệ thống tỷ giá cố định - hệ thống Bretton Woods (1945-1971). Theo chế độ này,
thì các nớc phải quy định hàm lợng vàng riêng cho đồng tiền của mình và so sánh với
hàm lợng vàng của USD để có một tỷ giá chính thức với biên độ giao động không vợt
quá 1%. Một nhợc điểm của chế độ tỷ giá này là sự biến động của USD sẽ tác động trực
tiếp đến tỷ giá của tất cả các nớc, vì vậy, vào năm 1971, hệ thống Bretton Woods sụp đổ
hoàn toàn. Năm 1970, các nớc thuộc tổ chức IMF đã thành lập một cơ chế tiền tệ tín
dụng mới để điều tiết cán cân TTQT thông qua SDR (Special Drawing Right). Mục đích
là giúp các nớc thuộc tổ chức này có thêm phơng tiện TTQT mà không phải dùng đến
dự trữ vàng và ngoại tệ. Các nớc đợc tự do lựa chọn chế độ tỷ giá của nớc mình cho phù

hợp với điều kiện thực tiễn về kinh tế và mục tiêu phát triển của mỗi nớc trong từng thời
kỳ: cố định, thả nổi tự do hay thả nổi có quản lý.
2. u nhợc điểm của chế độ tỷ giá thả nổi và chế độ tỷ giá cố định
Samuelson đã mô tả nh sau: Chế độ tỷ giá cố định cung cấp cho chúng ta một
cái neo, nhng một con tầu bỏ neo nhiều khi lại nguy hiểm hơn con tàu đang đi, và
nếu để các đồng tiền theo giá cả thị trờng tự do thì chúng ta lang thang, quanh quẩn
giống nh vị thuỷ thủ say khớt.
Tất nhiên cha hẳn là một tỷ giá là u việt đối với nớc này thì đã là phù hợp với
các nớc khác, bởi vì mỗi nớc có một điều kiện kinh tế cụ thể khác nhau. Thậm chí
ngay trong một quốc gia, việc áp dụng cố định một chế độ tỷ giá khi các điều kiện
kinh tế - chính trị trong nớc và quốc tế đã thay đổi cũng không thể đem lại một kết
quả tốt nh mong đợi. Điều quan trọng là phải biết trong trờng hợp nào thì cố định tỷ
giá phát huy tác dụng tối đa u điểm của mình, từ đó sẽ quyết định lựa chọn việc áp
dụng cố định tỷ giá một cách linh hoạt phù hợp với điều kiện khách quan và mục tiêu
u tiên hàng đầu trong chiến lợc phát triển đất nớc.
2.1 Chế độ tỷ giá cố định
a. Ưu điểm
- TGCĐ sẽ đảm bảo tính ổn định trong nền kinh tế, ổn định giá cả tạo ra môi tr-
ờng an toàn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh mà đặc biệt là hoạt động ngoại
thơng. Các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu không do dự về khả năng mất vốn, thua
thiệt trên mỗi khoản phải đòi hay phải trả do rủi ro của biến động tỷ giá; tạo niềm tin
không những cho dân chúng mà còn cho các nhà đầu t nớc ngoài muốn đầu t vào
Việt nam.
- Chế độ tỷ giá cố định cũng làm giảm bớt ảnh hởng của các cú sốc kinh tế từ
bên ngoài tới nền kinh tế trong nớc. Điều này có ý nghĩa lớn đối với những nền kinh
tế nhỏ vốn tự nó không thể chống đỡ đợc các tác động ngoại lại mạnh mẽ.
3
- Hạn chế sự bất ổn về lợi nhuận đầu t nớc ngoài và lợi nhuận trong ngoại thơng
và quản lý hành chính, công nợ nớc ngoài và dự trữ ngoại tệ trong nớc.
- Chế độ tỷ giá cố định trong đó tỷ giá đợc gắn với một ngoại tệ hay một rổ tiền

tệ có xét đến u thế, tỷ trọng thơng mại và nợ nớc ngoài của nớc này với các nớc tơng
ứng. Điều này sẽ giúp ổn định cán cân thanh toán thơng mại cũng nh các khoản nợ n-
ớc ngoài.
b. Nhợc điểm
- Chế độ tỷ giá cố định chỉ phát huy đợc trong điều kiện chế độ này đợc áp dụng
phổ biến trên toàn thế giới và nền kinh tế thế giới cũng đang ổn định, không có biến
động mạnh mẽ về giá cả. Nhng kinh tế chính trị thế giới luôn luôn vận động và phát
triển theo xu thế đi lên, vậy một nớc áp dụng và duy trì chế độ tỷ giá cố định trong
điều kiện nói trên là rất khó.
- Chế độ tỷ giá cố định đòi hỏi một quốc gia phải có quỹ dự trữ ngoại tệ đủ lớn
để ổn định tỷ giá trớc những biến động của cung cầu ngoại tệ, lạm phát và lãi suất
Điều này không phải quốc gia nào cũng đạt đợc.
- Chế độ tỷ giá này không khả thi trong điều kiện dự trữ eo hẹp do thâm hụt cán
cân thơng mại và cán cân TTQT, nợ nớc ngoài cao.
- Trên thực tế không phải quốc gia nào cũng có đủ khả năng nắm bắt và cung
cấp chính xác các số liệu thống kê có liên quan trong việc xác định tỷ giá nên sự lựa
chọn mức tỷ giá hối đoái cố định chịu sai số lớn. Sai số này có thể gây ảnh hởng
không tốt cho nền kinh tế.
2.2 Chế độ tỷ giá thả nổi
Sau khi hệ thống Bretton Woods sụp đổ hầu hết các nớc đều áp dụng chế độ tỷ
giá thả nổi. Có hai loại chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi:
2.2.1 Chế độ tỷ giá thả nổi tự do
Là chế độ tỷ giá hối đoái mà không có sự can thiệp nào của Chính phủ, hoàn
toàn do quan hệ cung cầu quyết định. Chế độ này thờng đợc áp dụng ở những nớc có
nền kinh tế phát triển cao.
* Ưu điểm

- Phản ánh kịp thời các biến động, các xu thế kinh tế thế giới làm cho nền kinh
tế quốc gia hoà nhập vào tiến trình vận động chung của nền kinh tế thế giới.
- Tạo điều kiện tiền tệ cho cạnh tranh bình đẳng, buộc mọi nhà kinh doanh, ngời

làm kinh tế phải năng động trớc thời cơ, thờng xuyên học hỏi, động não để đánh giá
các xu thế kinh tế và đa ra những quyết định đúng đắn kịp thời, có lợi nhất cho kinh
doanh.
- Do tỷ giá thả nổi hoàn toàn do cung cầu ngoại tệ trên thị trờng quyết định, các
chính phủ không hề có ý định can thiệp tỷ giá nên không cần phải có một quỹ bình
4
ổn hối đoái, tiết kiệm ngoại tệ phục vụ cho những mục đích khác.
* Nh ợc điểm

- Nền kinh tế trong nớc luôn chịu ảnh hởng của những cú sốc kinh tế thế giới,
gây ra những biến động lớn trong tỷ giá, tác động xấu tới sản xuất nội địa cũng nh
hoạt động ngoại thơng, làm mất lòng tin trong dân chúng về chế độ kinh tế chính trị
trong nớc.
- Nếu việc quản lý ngoại hối trong nớc không chặt chẽ có thể gây ra những cú
sốc về cung cầu ngoại thơng giả tạo (do hoạt động đầu cơ). Điều đó không phản ánh
đúng bản chất kinh tế trong một giai đoạn phát triển gây thiệt hại đến lợi ích chung.
- Độ rủi ro về biến động tỷ giá là rất cao đối với các nguồn thu nhập từ đầu t nớc
ngoài, nợ nớc ngoài Điều này gây trở ngại cho việc thiết lập một môi trờng ổn định,
đáng tin cậy để thu hút đầu t nớc ngoài. Đặc biệt là đối với những nhà kinh doanh
xuất khẩu, những ngời thờng xuyên có những khoản thu chi ngoại tệ, điều này sẽ ảnh
hởng trực tiếp đến lợi nhuận của họ.
- Mức biến động tỷ giá khó xác định trớc trong chế độ tỷ giá này có thể gây ra
những quy định vĩ mô sai lầm ảnh hởng đến mức tăng trởng kinh tế.
b. Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý
Là chế độ tỷ giá trong đó có sự can thiệp của Chính phủ vào thị trờng hối đoái
thông qua việc mua bán các đồng tiền để can thiệp vào mức cung và cầu tiền tệ. Qua
đó, một tỷ giá hối đoái đợc hình thành và phản ánh đợc phần nào quan hệ cung cầu
ngoại tệ trên thị trờng ngoại hối, đồng thời thoả mãn đợc các mục tiêu phát triển của
nền kinh tế quốc gia trong từng thời kỳ nhất định.
* Ưu điểm


- Tỷ giá thả nổi có quản lý phần nào khắc phục đợc những nhợc điểm của chế
độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn vì nhờ có sự can thiệp đúng mức và kịp thời của NHNN
sẽ giúp cho thị trờng ngoại hối trong nớc bị ảnh hởng và biến động ít hơn trớc những
cú sốc về kinh tế trên thế giới.
- Cơ chế can thiệp vào tỷ giá thả nổi này sẽ phát huy đợc vai trò của công cụ giá
trong nền kinh tế, không thể để tỷ giá bị trôi nổi trớc những hoạt động đầu cơ ngoại
tệ, mà thực sự biến nó thành công cụ khuyến khích các hoạt động xuất khẩu, ngăn
cấm nhập khẩu cải thiện cán cân thơng mại.
- Ngày nay với nền kinh tế thị trờng, đa số các nớc đều áp dụng chế độ tỷ giá thả
nổi có quản lý. Do đó, tỷ giá hối đoái đã trở thành công cụ tài chính vô cùng quan
trọng trong quá trình quản lý kinh tế vĩ mô. Chính phủ không còn sử dụng công cụ tỷ
giá theo kiểu ấn định nó một cách chủ quan nh trong chế độ tỷ giá cố định nữa, mà
chỉ tác động đến nó bằng cách can thiệp vào thị trờng hối đoái thông qua việc mua
bán ngoại tệ và các phơng pháp điều tiết khác.
Các nớc đều thực thi chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý nhng có sự khác nhau về
5
mức độ thả nổi và hình thức can thiệp. Một nớc có nền kinh tế thị trờng tơng đối phát
triển và hoàn hảo về một thị trờng ngoại hối, thờng áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi với
sự can thiệp rất ít của nhà nớc. Một thị trờng hối đoái hoàn chỉnh với các quy chế
quản lý ngoại hối chặt chẽ và các thành viên có đủ khả năng tham gia trên thị trờng
sẽ góp phần hình thành nên một mức tỷ giá hợp lý thể hiện đúng tơng quan sức mạnh
của các đồng tiền trên thế giới.
* Nh ợc điểm

Các nớc đang phát triển còn thiếu kinh nghiệm điều tiết thị trờng, nền kinh tế
còn cha đủ mạnh để có thể đứng vững trớc các biến động lớn trên thị trờng thế giới
thì phải thờng xuyên theo dõi và chủ động can thiệp vào thị trờng ngoại hối để đảm
bảo đạt đợc một mức tỷ giá thích hợp với tiến trình phát triển kinh tế của đất nớc.
Qua việc phân tích hoạt động của các chế độ tỷ giá và phân tích những hạn chế

của chúng, ta thấy rằng: để ổn định (đối nội hay đối ngoại) và phát triển kinh tế của
mỗi quốc gia thì ổn định trong lĩnh vực tỷ giá đóng vai trò quan trọng. ổn định
không có nghĩa là cố định tỷ giá, mà chủ động linh hoạt điều chỉnh (can thiệp) tỷ giá
đi theo hớng có lợi trong những điều kiện cụ thể và theo mục tiêu đợc đặt ra.
II - Hoạt động điều hành tỷ giá của NHNn
1. Mục đích can thiệp
Mặc dù đều nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế đề ra, nhng mục đích can thiệp
của NHNN không hoàn toàn giống nhau giữa các quốc gia. Nó phụ thuộc vào tình
hình thực tế và ý đồ chiến lợc của mỗi nớc trong mỗi thời kỳ khác nhau.
ở những nớc có nền kinh tế phát triển, mục đích can thiệp là để duy trì một cách
hợp lý các quan hệ tiền tệ có tổ chức và khắc phục những biến động lớn của thế giới.
Trong khi đó ở nhiều nớc khác, đặc biệt là những nớc đang phát triển, mục đích can
thiệp là tạo ra một chế độ tỷ giá hối đoái phù hợp, đáp ứng các mục tiêu ổn định, phát
triển kinh tế đất nớc và giảm đến mức thấp nhất rủi ro, thiệt hại do biến động tỷ giá
gây ra. Đối với các nớc này vai trò điều tiết vĩ mô của chính phủ là rất quan trọng.
2. Các hoạt động can thiệp của NHNN
2.1 Nghiệp vụ thị trờng mở
Là biện pháp tác động vào thị trờng hối đoái. NHNN hay các cơ quan hối đoái
của nhà nớc dùng nghiệp vụ trực tiếp mua bán ngoại hối để điều chỉnh tỷ giá. Khi tỷ
giá hối đoái tăng, NHNN bán ngoại tệ ra để kéo tỷ giá xuống. Ngợc lại, khi tỷ giá
giảm, NHNN sẽ dùng nội tệ để mua ngoại tệ vào nhằm kéo tỷ giá xuống.
Nhằm mục đích duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái, nhiệm vụ mua bán ngoại
tệ đợc thực hiện trên cơ sở cung tiền tệ, diễn biến giá cả ngoại tệ trên thị trờng và ý
đồ can thiệp mang tính chủ quan của nhà nớc. Việc can thiệp này không có tính chất
áp đặt một cách máy móc và vi phạm các quy luật kinh tế của kinh tế thị trờng, mà
đây là hoạt động có cân nhắc tính toán kỹ lỡng những nhân tố của thực tại cũng nh
chiều hớng phát triển trong tơng lai của toàn bộ nền kinh tế. Do vậy, việc lựa chọn
6
các thời điểm cần mua, cần bán ngoại tệ trên thị trờng với tỷ giá nào để đạt đợc mục
tiêu đề ra - chính là một trong những vấn đề có ý nghĩa quyết định.

2.2 Chính sách chiết khấu
Là chính sách mà NHNN dùng cách thay đổi tỷ suất chiết khấu để điều chỉnh lãi
suất trên thị trờng tín dụng, do đó ảnh hởng gián tiếp đến tỷ giá hối đoái trên thị tr-
ờng.
Khi tỷ giá hối đoái lên cao đến mức nguy hiểm, muốn làm cho tỷ giá hạ xuống
thì NHNN nâng lãi suất chiết khấu lên làm cho lãi suất trên thị trờng tăng lên. Kết
quả là, vốn ngắn hạn trên thị trờng thế giới sẽ chạy vào nớc mình để thu lãi cao. Lợng
vốn chạy vào sẽ làm dịu căng thẳng của cầu ngoại hối, do đó tỷ giá hối đoái có xu h-
ớng hạ xuống.
Chính sách chiết khấu cũng chỉ có ảnh hởng nhất định và có hạn đối với tỷ giá
hối đoái bởi giữa tỷ giá hoạt động và lãi suất không có quan hệ nhân quả.
Tuy nhiên, không nên hoàn toàn coi thờng chính sách chiết khấu. Nếu tình hình
các nớc đều đại thể nh nhau thì phơng thức đầu t ngắn hạn vẫn hớng vào những nớc
có lãi suất cao. Do đó hiện nay chính sách chiết khấu cũng có ý nghĩa của nó.
2.3 Quỹ dự trữ bình ổn hối đoái
Quỹ dự trữ bình ổn hối đoái là hình thức biến tớng của chính sách hối đoái, mục
đích của nó là chủ động tạo ra một lợng dự trữ ngoại hối để ứng phó với sự biến động
của tỷ giá hối đoái thông qua nghiệp vụ thị trờng mở.
Về nguyên tắc thì NHNN các nớc không chịu trách nhiệm điều tiết sự thay đổi
của tỷ giá hối đoái thả nổi. Song do khủng hoảng ngoại hối trầm trọng, tiền tệ của các
nớc ngày một mất giá và tỷ giá thay đổi mãnh liệt đã ảnh hởng đến sản xuất và lu
thông hàng hoá, các nớc đã thành lập quỹ bình ổn hối đoái để điều tiết tỷ giá của
đồng tiền nớc mình.
Kinh nghiệm đã cho thấy tác dụng của quỹ bình ổn rất có hạn, vì một khi đã bị
khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng ngoại hối, thì lợng dự trữ theo quỹ đó cũng
giảm và không đủ sức để điều tiết tỷ giá. Quỹ này chỉ có tác dụng khi khủng hoảng
ngoại hối ít nghiêm trọng và có nguồn tín dụng hỗ trợ.
2.4 Phá giá tiền tệ
Trong tình trạng nghiêm trọng của khủng hoảng ngoại hối, khi mà sức mua của
tiền tệ giảm sút mạnh và không thể đại biểu cho sức mua danh nghĩa của nó, khi mà

trong suốt một thời gian dài tỷ giá hối đoái biến động mạnh thì vấn đề xác định lại tỷ
giá hối đoái là một điều không thể tránh khỏi. Song phải phá giá tiền tệ lúc nào? mức
độ ra sao? lại phụ thuộc vào mục đích kinh tế chính trị của từng quốc gia. Hiện nay
phá giá tiền tệ đã trở thành một chính sách kinh tế tài chính của các chính phủ để tác
động đến tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán quốc tế. Vì vậy, phá giá tiền tệ có thể
hiểu là sự đánh tụt sức mua của tiền tệ nớc mình so với ngoại tệ hay là nâng cao tỷ
giá hối đoái của một đơn vị ngoại tệ.
7
Tác dụng của phá giá tiền tệ đối với nớc tiến hành phá giá có thể là:
- Khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, do đó có tác dụng khôi phục lại
sự cân bằng của cán cân ngoại thơng, phần nào cải thiện đợc cán cân thanh toán quốc
tế.
- Khuyến khích nhập khẩu vốn, kiều hối, hạn chế xuất khẩu vốn ra bên ngoài
cũng nh là chuyển tiền ra ngoài nớc, do đó làm tăng khả năng cung ngoại hối, giảm
nhu cầu về ngoại hối, nhờ đó tỷ giá hối đoái sẽ giảm xuống.
- Khuyến khích du lịch vào trong nớc, hạn chế du lịch ra nớc ngoài.
Tác dụng chủ yếu của biện pháp phá giá tiền tệ là nhằm cải thiện tình hình của
cán cân ngoại thơng. Tuy vậy, tác dụng cải thiện cán cân ngoại thơng có trở thành
hiện thực hay không còn tùy thuộc vào khả năng đẩy mạnh xuất khẩu của nớc tiến
hành phá giá tiền tệ và năng lực cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu của nớc đó.
2.5 Nâng giá tiền tệ
Là việc nâng giá chính thức đơn vị tiền tệ của nớc mình so với ngoại tệ.
ảnh hởng của nâng giá tiền tệ đến ngoại thơng của một nớc hoàn toàn ngợc lại
với phá giá tiền tệ. Nâng giá tiền tệ trong điều kiện hiện nay có thể xảy ra dới áp lực
của các nớc khác khi mà các nớc này muốn tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá
nớc mình vào các nớc có cán cân thanh toán và các cân thơng mại thặng d.
Ngoài ra, một số nớc có nền kinh tế phát triển quá nóng, muốn làm lạnh nền
kinh tế để tránh khủng hoảng thì sẽ dùng biện pháp này để giảm đầu t vào trong nớc,
tăng xuất khẩu vốn, giảm xuất khẩu hàng hoá ra nớc ngoài.
8

Chơng II :
Chính sách điều hành tỷ giá của Việt nam trong thời gian qua
Thành tựu và những mặt còn hạn chế
I - Chính sách tỷ giá của Việt nam giai đoạn 1986-1989
1. Thực trạng tình hình kinh tế trong giai đoạn 1986 - 1989
Năm 1986 đã đi vào lịch sử Việt nam - đánh dấu một thời kỳ phát triển mới của
đất nớc: thời kỳ đổi mới và mở cửa. Đờng lối đổi mới và mở cửa do Đảng cộng
sản Việt nam khởi xớng tại Đại hội lần thứ VI tháng 12/1986.
Cùng với việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chính sách điều hành tỷ giá của
NHNN từng bớc cũng đợc cải thiện để phù hợp với từng thời kỳ phát triển kinh tế, tài
chính đất nớc. Nền kinh tế vẫn đang trong tình trạng trì trệ kéo dài, lu thông tiền tệ
rối loạn, lạm phát tăng nhanh và kéo dài trong nhiều năm. Hiện tợng đô la hoá diễn
ra nhanh chóng trong khi chính sách tiền tệ không có khả năng điều chỉnh vĩ mô,
khống chế lạm phát. Nợ nớc ngoài ngày càng tăng, lại không có khả năng thanh toán,
thâm hụt cán cân vãng lai và cán cân thanh toán quốc tế nặng nề. Dự trữ ngoại tệ
trong giai đoạn này hầu nh không có.
Ngoài ra, Việt nam còn phải đứng trớc những thách thức lớn. Khủng hoảng chính
trị ở Đông Âu đã tác động dữ dội vào chính sách kinh tế xã hội đất nớc; nguy cơ
mất ổn định xã hội xuất hiện; niềm tin vào uy tín của Nhà nớc bị suy giảm, thậm chí
ngời ta còn nghi ngờ vào đờng lối đổi mới của Đảng; tiến trình đổi mới của Việt nam
bị bao vây cấm vận kinh tế từ phía Mỹ và các nớc là đồng minh của Mỹ. Trớc tình hình
đó, Việt nam phải mạnh dạn, chủ động và sáng tạo trong cải cách kinh tế. Chính sách
điều hành tỷ giá hối đoái cũng cần đợc đổi mới và thực hiện.
2. Đặc điểm của chính sách tỷ giá
Giai đoạn 1986 - 1989, quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt nam chủ yếu với các
nớc XHCN, đặc biệt là Liên Xô (cũ). Quan hệ tỷ giá của VND cũng chủ yếu là đối
với đồng Rup, và các đồng tiền của các nớc XHCN khác. Nhà nớc lúc này thực hiện
chế độ độc quyền về ngoại thơng và quản lý ngoại hối. Nhà nớc can thiệp trực tiếp
vào việc xác định tỷ giá mà không xét tới quan hệ cung cầu trên thị trờng. Đây là chế
độ tỷ giá cố định và đa tỷ giá.


Có ba loại tỷ giá đợc xác định theo các phơng pháp khác nhau:
- Tỷ giá chính thức (tỷ giá mậu dịch): Tỷ giá do NHNN chính thức công bố đợc
áp dụng trong tính toán chuyển đổi hàng đổi hàng giữa Việt nam và các nớc XHCN
khác.
9
- Tỷ giá phi mậu dịch: Tỷ giá này đợc áp dụng trong thanh toán phi mậu dịch
giữa Việt Nam và các nớc XHCN nh việc thanh toán trong ngoại giao, học tập của
sinh viên, tính lơng cho các chuyên gia Liên Xô ở Việt Nam Tỷ giá này đợc tính
toán dựa trên sức mua đối nội của đồng tiền VND với sức mua đối nội của đồng tiền
các nớc XHCN khác.
- Tỷ giá kết toán nội bộ: là tỷ giá đợc dùng để chuyển đổi các khoản thu chi
ngoại tệ ra tiền VND trong tính toán nội bộ giữa các đơn vị kinh tế trong nớc và
NHNT Việt nam.
Do Nhà nớc thực hiện chính sách độc quyền về quản lý ngoại hối, toàn bộ số thu
ngoại tệ qua hoạt động xuất khẩu cũng nh các nguồn thu khác đều phải kết hối 100%
vào quỹ ngoại tệ chung của Nhà nớc. Còn các đơn vị xuất khẩu thu VND về tơng ứng
với số ngoại tệ thu đợc tính theo tỷ giá kết toán nội bộ. Đối với các đơn vị nhập khẩu
khi vay ngoại tệ của ngân hàng cũng tính chi phí bằng VND chuyển đổi theo tỷ giá
kết toán nội bộ. Chính vì vậy mà tỷ giá này là một thành phần quan trọng gắn với giá
cả, thu nhập của các đơn vị sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu.
3. ảnh hởng của chính sách tỷ giá đến hoạt động quản lý kinh tế vĩ mô và
hoạt động ngoại thơng
3.1 Đối với hoạt động quản lý vĩ mô
Hoạt động quản lý của Nhà nớc trên thị trờng ngoại hối bị mất dần tác dụng. Tỷ
giá hối đoái giữ vai trò thụ động, là phơng tiện để ngân hàng theo dõi tình hình xuất
nhập khẩu hàng hoá. Do vậy sự chênh lệch giữa tỷ giá thị trờng và tỷ giá chính thức
là rất lớn. Chính vì tỷ giá của nhà nớc quy định ở mức thấp nên các tổ chức và cá
nhân có ngoại tệ sẽ sử dụng ngoại tệ trực tiếp trên thị trờng. Ngoại tệ hầu nh bị thả
nổi, tự do mua bán trên thị trờng. Điều này không chỉ gây thiệt hại cho các khoản thu

của Nhà nớc mà còn làm phát sinh nhiều tiêu cực trong xã hội. Nó sẽ có tác động trở
lại tỷ giá kết toán nội bộ làm cho diễn biến tỷ giá trên thị trờng càng thêm phức tạp.
Nhà nớc đã không phát huy đợc vai trò điều tiết giá cả trên thị trờng ngoại hối.
Kết quả là hoạt động mua bán trao đổi ngoại tệ trên thị trờng chợ đen càng tăng, vợt
khả năng kiểm soát của Chính phủ. Điều này cũng ảnh hởng tiêu cực đến tình hình
thu chi và hạch toán ngân sách. Cùng với việc bù lỗ cho các doanh nghiệp do trợt giá,
việc bù lỗ qua thanh toán bằng tỷ giá kết toán nội bộ đã làm cho NSNN bị ảnh hởng
nghiêm trọng.
3.2 Đối với hoạt động ngoại thơng
Vì nhà nớc can thiệp trực tiếp vào việc xác định tỷ giá mà không xét tới quan hệ
cung cầu ngoại hối trên thị trờng nên đã gây rất nhiều ảnh hởng tiêu cực tới hoạt
động ngoại thơng. Tỷ giá hoạt động cố định với thời gian tơng đối dài trong bối cảnh
lạm phát ở mức cao là một trở ngại lớn cho hoạt động xuất nhập khẩu. Trong khi đó,
chi phí sản xuất trong nớc tăng nhanh. Hàng hoá xuất khẩu của ta vốn ít lợi thế cạnh
tranh lại càng khó đứng vững trên thị trờng thế giới.
10
Trong một chế độ điều hành tỷ giá nh vậy, VND đã đợc đánh giá cao so với
đồng USD và một số ngoại tệ khác do TGHĐ chính thức do NHNN công bố không
phản ánh đúng diễn biến tình hình thực tế trên thị trờng. Điều này không những gây
bất lợi cho hoạt động xuất khẩu mà còn kích thích nhập khẩu. Nhập khẩu tăng đã đe
dọa sự phát triển và đứng vững của các doanh nghiệp vốn đang bỡ ngỡ bớc vào kinh
tế thị trờng. Hơn nữa, lý thuyết và thực tế cho thấy việc định giá cao đồng bản tệ sẽ
gây thiệt hại lớn cho các hoạt động xuất khẩu, nếu tình trạng này kéo dài trong khi
năng lực tài chính ốm yếu thì sớm muộn những bất ổn sẽ xuất hiện khi toàn cầu hóa
ngày càng tăng.
Với những đặc điểm nêu trên, trong nền kinh tế mở theo hớng thị trờng, Nhà n-
ớc cần phải để công cụ tỷ giá giữ đúng vai trò của nó và chính sách điều hành tỷ giá
cần phải tuân theo những quy luật khách quan nhất định.
II - Chính sách tỷ giá của Việt nam giai đoạn 1989-1996
Giai đoạn 1989-1996 đợc coi là giai đoạn cải cách trong điều hành chính sách tỷ

giá. Cùng với sự hoàn thiện từng bớc chính sách kinh tế, việc điều hành tỷ giá của
Chính phủ cũng đợc cải cách để phù hợp với giai đoạn phát triển mới của đất nớc.
* Đối với hoạt động ngoại thơng, chính phủ chủ trơng:
Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thông qua hai biện pháp phá giá vá tự do
hoá một bộ phận đáng kể xuất khẩu vì xuất khẩu gia tăng có tác động tốt đối với
việc điều hành tỷ giá. Hoạt động nhập khẩu cũng đợc nới lỏng hơn nhng có quản lý
thông qua việc quy định hạn ngạch và chính sách thuế nhập khẩu. Mặt khác, chính
phủ còn tiến hành cải cách thuế, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập
khẩu.
* Đối với lĩnh vực tiền tệ - tín dụng:
- Nhà nớc thực hiện đổi mới nội dung và phơng pháp điều chỉnh chính sách tiền
tệ, cải cách hệ thống ngân hàng. Để ngăn chặn xu thế lạm phát cao đang hoành hành,
NHNN đã nâng lãi suất tiết kiệm lên có thời kỳ tới 12%/ tháng; đồng thời cắt giảm
hạn mức tín dụng đối với nền kinh tế, nhất là đối với khu vực kinh tế quốc tế quốc
doanh; giảm mức phát hành tiền tệ cho chi tiêu ngân sách. Các biện pháp này cũng
gián tiếp góp phần hạn chế tốc độ mất giá của đồng nội tệ.
- Chính phủ thực hiện việc cắt giảm chi tiêu cho các công trình đầu t cha cấp
thiết hoặc không quan trọng; cắt giảm, xoá bỏ tình trạng bao cấp, bù lỗ thông qua
ngân sách; tăng cờng các khâu tài chính. Những biện pháp này có tác dụng làm giảm
cầu hàng hoá và tiền mặt.
- Bắt đầu từ năm 1990, chính phủ chuyển dần cơ chế bù đắp thâm hụt NSNN
bằng vay dân, vay nớc ngoài thay vì phát hành tiền để trang trải nh trớc đây. Điều này
đã làm tăng khả năng kiểm soát lạm phát của chính phủ, hỗ trợ quá trình thống nhất
tỷ giá trên thị trờng tự do.
11
- Để phù hợp với tình hình mới, tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu và hoạt
động đầu t nớc ngoài, chính phủ đã có những cải cách về chế độ quản lý ngoại hối
theo hớng: giảm các thủ tục hành chính, nới dần các hạn chế, tăng cờng quản lý bằng
các công cụ kinh tế.
- Để hạn chế tác động của yếu tố tâm lý, đầu cơ, đặc biệt là sau sự kiện Liên xô

sụp đổ năm 1991, khủng hoảng tín dụng 1990-1991, Chính phủ Việt nam đã kịp thời
công khai hoá các chỉ số kinh tế quan trọng nh tỷ giá chính thức, tỷ giá thị trờng tốc
độ lạm phát, chỉ số biến động của vàng.
Để thuận lợi cho việc đánh giá, phân tích cơ chế điều hành tỷ giá của Chính phủ,
chia giai đoạn 1989 - 1996 làm hai thời kỳ:
1 - Thời kỳ 1989-1992
1.1 Cơ sở của việc lựa chọn chính sách tỷ giá hối đoái
Mục tiêu quan trọng nhất của thời kỳ này là: Đẩy lùi, kiềm chế lạm phát; ổn
định kinh tế vĩ mô; tìm lối thoát ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái bởi khủng hoảng
kéo dài cho nền kinh tế
Các quan điểm chủ đạo:
Thứ nhất: Chúng ta không thể duy trì chế độ tỷ giá cũ vì nó quá phức tạp lại
không có khả năng quản lý ngoại hối, cản trở hoạt động xuất khẩu, và đặc biệt nó
không còn ý nghĩa thực tế khi tình trạng đối nội và đối ngoại có nhiều thay đổi.
Thứ hai: Để thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, nâng cao dự trữ ngoại tệ của
Chính phủ và ổn định tiền tệ thì trong tình hình lúc đó không có cách nào khác hơn là
phải phá giá đồng nội tệ.
Thứ ba: Mức độ phá giá phải hợp lý để thực hiện đợc các mục tiêu đề ra.
Thứ t: Việc điều chỉnh tỷ giá phải gắn với ngoại tệ mà đại đa số dân chúng và các
doanh nghiệp ít nhiều có hiểu biết về nó.
Xuất phát từ những quan điểm đó, Chính phủ đã lựa chọn phơng án phá giá,
thả nổi có quản lý, gắn với đồng USD. Phơng án này vừa sử dụng đợc lợi thế của
các yếu tố thị trờng và sự can thiệp hợp lý của Nhà nớc, vừa là tối u cho nền kinh tế
Việt nam thời kỳ đó.
Cơ chế điều hành và xác định tỷ giá cũng theo hớng mới. Phơng pháp đồng giá
sức mua đợc loại bỏ. Thay vào đó, việc xác định tỷ giá chính thức đợc tiến hành trên
cơ sở nh sau:
- Biến động của chỉ số giá cả
12
- Tình hình cán cân thanh toán

- Mục tiêu của chính sách tiền tệ
- Biến động của tỷ giá trên thị trờng tự do.
1.2 Hoạt động điều hành tỷ giá của NHNN
Bắt đầu từ năm 1989, hoạt động điều hành tỷ giá của NHNN có nhiều đổi mới
rõ rệt. Trên cơ sở phơng án lựa chọn nh trên, chính phủ đã thả nổi TGHĐ nhằm tạo
lập quan hệ cung cầu đồng thời mạnh dạn nâng lãi suất tiền gửi lên mức siêu caođể
thu hút tiền gửi từ nền kinh tế. Các NHTM áp dụng tỷ giá giao dịch của mình trong
biên độ 5% so với giá chính thức ( biên độ này sau đó đợc mở rộng đến 10%, 15%,
30%). Mặc dù vậy cơ chế xác định tỷ giá cha thực sự linh hoạt, tỷ giá chính thức vẫn
đợc coi là chậm đợc điều chỉnh do tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trờng chợ đen
ngày càng chênh lệch.
Trớc tình trạng giá USD leo thang, VND bị mất giá mạnh, giá cả hàng nhập
khẩu tăng nhanh - thúc đẩy lạm phát; từ năm 1992, Chính phủ đã thay đổi chính sách
quản lý ngoại tệ và đổi mới cơ chế điều hành TGHĐ giữa VND và USD :
- Thay thế biện pháp hành chính, bắt buộc các đơn vị kinh tế quốc doanh có
ngoại tệ phải bán cho ngân hàng theo tỷ giá ấn định bằng biện pháp kinh tế nh mở
trung tâm giao dịch ngoại tệ để cho các doanh nghiệp và ngân hàng trao đổi, mua bán
ngoại tệ với nhau theo giá thoả thuận.
- Bãi bỏ hình thức quy định tỷ giá nhóm hàng trong thanh toán ngoại thơng giữa
ngân sách và các tổ chức tham gia hoạt động xuất nhập khẩu. Thay vào đó, trên cơ sở
tỷ giá hình thành tại các phiên giao dịch ngoại tệ, NHNN công bố tỷ giá chính thức.
- Chính phủ đã sử dụng những biện pháp để thắt chặt tiền tệ nh khống chế mức
cung tiền, hạn chế tối đa việc cấp phát cho chi tiêu NSNN. NHNN đã thành lập các
trung tâm giao dịch ngoại tệ và việc điều hành tỷ giá của NHNN đợc thông qua các
trung tâm giao dịch ngoại tệ đó, gồm trung tâm giao dịch ngoại tệ ở thành phố Hồ
Chí Minh và một trung tâm giao dịch ở Hà Nội. NHNN không can thiệp trực tiếp vào
tỷ giá nh trớc nữa mà chỉ điều hành thông qua công cụ gián tiếp là quỹ điều hòa
ngoại tệ. Khi cần thiết, quỹ này đợc dùng để mua ngoại tệ hay bán ngoại tệ tại các
phiên đấu giá. Trên cơ sở tỷ giá chính thức do NHNN công bố, NHTM quy định tỷ
giá ngoại tệ bán ra trong phạm vi biên độ 1%: chênh lệch giữa tỷ giá bán và tỷ giá

mua ngoại tệ của các NHTM tối đa là 0,5%.
NHNN đã tiến hành điều chỉnh thành công trớc cơn sốt ngoại tệ 1991 (giá
USD tăng cao). Nội dung điều chỉnh:
- NHNN và NHTM đồng loạt bán USD ra thị trờng chính thức.
- NHNN thông báo và bán vàng không hạn chế để thu tiền nội tệ.
Các biện pháp trên đã hạn chế lợng cung tiền VND và làm giảm cầu ngoại tệ. Do đó
tỷ giá đã dần đợc ổn định, tạo tâm lý yên tâm trong dân chúng.
13
1.3 Diễn biến tỷ giá
Tỷ giá USD/ VND bình quân hàng năm (1989-1992):
Chỉ tiêu 1989 1990 1991 1992
Tỷ giá chính thức (USD/VND)
Tỷ giá trên thị trờng tự do
Chỉ số tăng tỷ giá chính thức (%)
Chỉ số tăng tỷ giá trên TTTD (%)
4.200
4.575
6.650
7.050
158,3
154,1
12.720
12.550
191,3
187
10.720
10.650
84,3
84,8
14

Nguồn: Học Viện Ngân Hàng
Cùng với sự khởi sắc của hoạt động ngoại thơng và hoạt động đầu t nớc ngoài,
đồng USD trong thời kỳ này đã tăng liên tục so với đồng nội tệ. Diễn biến của tỷ giá
đợc thể hiện rõ trong bảng trên.
Trong thời gian này, NHNN đã dần nâng tỷ giá, nhng vẫn chỉ là lẽo đẽo theo
sau tỷ giá chợ đen nên đã làm cho số ngoại tệ thu hút bị giảm đi. Khi giá USD tăng
cao đã kích thích tâm lý dự trữ USD để tránh bị trợt giá nếu giữ bằng VND và hiện t-
ợng đầu cơ USD để hởng chênh lệch giá. Ngoại tệ mạnh vốn đã khan hiếm lại không
đợc dùng cho hoạt động xuất nhập khẩu mà bị buôn bán vòng vèo qua các cá nhân,
tổ chức trong nớc.
Trong tình hình nh vậy, NHNN không phát huy đợc vai trò quản lý ngoại tệ của
mình. Về mặt chính sách, chính phủ đã tiến hành quản lý chặt đối với lu thông ngoại
tệ và tỷ giá hối đoái. Nhng trên thực tế tỷ giá hối đoái đã bị thả nổi, vợt tầm kiểm
soát nhất định của NHNN nên thời kỳ 1989 - 1992 còn đợc coi là thời kỳ thả nổi tỷ
giá.
1.4 ảnh hởng của chính sách tỷ giá và những biến động của tỷ giá đối với hoạt
động ngoại thơng trong thời kỳ này
Hoạt động ngoại thơng trong thời kỳ 1989 - 1992 có những chuyển biến rõ rệt.
Kim ngạch xuất nhập khẩu tăng liên tục qua các năm. Trong thời kỳ này, xuất khẩu
gia tăng, thâm hụt cán cân thơng mại giảm dần qua các năm, đặc biệt là năm 1992.
Khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam tăng lên năm 1992 có sự góp
phần quan trọng của đồng VND bị phá giá mạnh tới 60% so với USD (1991).
1.5 Nhận xét
Qua nghiên cứu chính sách tỷ giá và tác động của nó đến hoạt động ngoại thơng
trong thời kỳ 1989 - 1992, có thể kết luận rằng chính sách tỷ giá và hoạt động ngoại
thơng có mối quan hệ qua lại với nhau rất chặt chẽ. Trong giai đoạn này, do tỷ giá đ-
ợc xác định thông qua các giao dịch tại hai trung tâm ngoại tệ nên đã sát với tình hình
thị trờng. Tuy nhiên, việc điều hành và xác định tỷ giá nh vậy vẫn còn những hạn chế
nhất định:
- TGHĐ xác định qua các trung tâm không phản ánh đợc quan hệ cung cầu

ngoại tệ trên phạm vi cả nớc.
- Việc kiểm soát trạng thái ngoại hối của NHNN đối với các NHTM còn lỏng
lẻo, cha có quy định cụ thể. Hoạt động giao dịch ngoại tệ của một số NHTM đôi lúc
còn mang tính đầu cơ, đặc biệt khi tỷ giá biến động mạnh.
- Mức độ can thiệp của NHNN đối với tỷ giá đôi khi còn quá lớn. Thậm chí
trong nhiều phiên giao dịch chỉ có NHNN là ngời mua hay ngời bán duy nhất.
15
Với những đặc điểm trên, việc điều hành tỷ giá của NHNN vẫn cần đợc cải thiện hơn
nữa. Nh vậy mới có thể tạo điều kiện để đẩy mạnh xuất khẩu, thay thế nhập khẩu
theo tinh thần nghị quyết Đai hội Đảng VII.
2. Thời kỳ 1993 - 1996
2.1 Hoạt động điều hành tỷ giá của NHNN
Có thể nói, thời kỳ 1993 - 1996 là một thời kỳ có nhiều nét đổi mới quan trọng
trong chính sách điều hành tỷ giá của NHNN. Việc điều hành tỷ giá của NHNN
không những đã sát hơn với tình hình thực tế mà còn góp phần ổn định thị trờng tiền
tệ, tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội đất nớc. NHNN thực hiện đồng thời
nghiệp vụ thị trờng mở và công cụ lãi suất trong điều hành tỷ giá.
Ngày 20/ 9/ 1994 NHNN ra quyết định 203A/ QĐ-NH13 thành lập thị trờng
ngoại tệ liên ngân hàng (TTNTLNH). Quyết định này nhằm tạo ra thị trờng ngoại tệ
thống nhất với quy mô lớn hơn; trong đó NHNN tăng cờng kiểm soát đối với các
giao dịch ngoại tệ. Cùng ngày, thống đốc NHNN đã ra quyết định số 206/ QĐ-NH7
về Quy chế xác định, điều chỉnh và công bố tỷ giá hối đoái của VND với ngoại tệ.
Theo đó các NHTM đợc điều chỉnh tỷ giá linh hoạt hơn và NHNN chỉ thực hiện chức
năng là ngời giao dịch cuối cùng. Sự can thiệp của NHNN cũng chỉ ở mức độ cần
thiết, nhằm theo đuổi mục tiêu chính sách tiền tệ của từng thời kỳ. Tỷ giá hối đoái
cũng đợc xác định một cách khách quan hơn, phù hợp hơn với quan hệ cung cầu
ngoại hối trên thị trờng.
Cũng nhờ quyết định kịp thời đó mà khoảng cách giữa tỷ giá trên TTNTLNH và
trên thị trờng tự do đợc thu hẹp dần. Ngân hàng ngày càng thu hút thêm nhiều ngoại
tệ tiền gửi. Điều này góp phần làm tăng khả năng thu hút đầu t trực tiếp nớc ngoài

của Việt Nam.
Nh vậy trong thời kỳ này NHNN đã thi hành chính sách tỷ giá mềm dẻo, năng
động, phù hợp với quan hệ cung cầu ngoại hối trên thị trờng và hớng điều tiết của
chính phủ nhằm ổn định giá cả của VND và khuyến khích hoạt động xuất khẩu.
2.2 Diễn biến tỷ giá
Tình hình tỷ giá trong giai đoạn này nhìn chung tơng đối ổn định, mức độ dao
động nhỏ.
Tỷ giá USD bình quân các năm nh sau:
Năm 1993 1994 1995 1996
Tỷ giá chính thức
10.642 10.956 11.021 11.025
Tỷ giá trên thị trờng tự do 10.705 10.978 11.041 11.010
16
Nguồn: Vụ Quản Lý Ngoại hối NHNN
Trong thời kỳ này, khoảng cách giữa tỷ giá trên TTNTLNH và trên thị trờng tự
do đợc thu hẹp dần. Biến động về tỷ giá qua các năm ở mức độ nhỏ nên thời kỳ 1993
- 1996 còn đợc gọi là thời kỳ ổn định tỷ giá.
2.3 Tác động của chính sách tỷ giá đối với hoạt động Ngoại thơng.
Trong thời kỳ này, chính sách tỷ giá và hoạt động điều hành tỷ giá của NHNN
đã có nhiều đổi mới, góp phần ổn định thị trờng tiền tệ nớc nhà. Sự ổn định của tỷ giá
hối đoái đã tạo điều kiện cân đối lợi ích giữa xuất khẩu và nhập khẩu, phù hợp với
chiến lợc phát triển kinh tế hớng vào xuất khẩu, thay thế nhập khẩu của đất nớc. Hơn
nữa, việc duy trì tỷ giá tơng đối ổn định trong thời gian khá dài đã góp phần củng cố
sức mua đối nội của VND, kiềm chế lạm phát, tạo niềm tin cho các nhà đầu t trong
và ngoài nớc. Mặc dù vậy, do tỷ giá đợc ổn định quá lâu, chậm đợc điều chỉnh nên
vai trò khuyến khích xuất khẩu của nó hầu nh vẫn cha có tác dụng. Cán cân xuất
nhập khẩu luôn bị thâm hụt trong thời kỳ này, nhập siêu liên tục và đạt mức cao vào
năm 1995, 1996.
Theo số liệu thống kê, tỷ lệ lạm phát từ năm 1993 đến 1996 là 37%, trong khi tỷ
giá USD/ VND chỉ tăng hơn 2%. Nh vậy VND đã bị đánh giá cao tơng đối so với

USD. Đây là một trở ngại đối với hoạt động xuất khẩu và kích thích nhập khẩu. Tại
thị trờng nội địa hàng hoá của các nhà sản xuất trong nớc bị cạnh tranh gay gắt bởi
một lợng lớn hàng nhập khẩu từ bên ngoài vào nên càng khó thâm nhập và đứng
vững trên thị trờng quốc tế. Thực trạng này đòi hỏi chính phủ phải linh hoạt hơn nữa
trong điều hành tỷ giá để tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu, góp phần ổn định và
phát triển kinh tế đất nớc.
3. Nhận định chung về chính sách điều hành tỷ giá hối đoái của Việt nam
trong giai đoạn 1993 - 1996
Giai đoạn 1993 - 1996, Việt nam đã thu đợc nhiều thành tựu trong việc ổn định
và phát triển kinh tế xã hội. Lạm phát cao đã bị đẩy lùi và ở mức có thể kiểm soát đ-
ợc. Tăng trởng GNP bình quân thời kỳ 1990-1995 là 8,2%/ năm, riêng năm 1996 là
9,4%.
Những kết quả đó đã minh chứng cho tính hợp lý của chính sách kinh tế vĩ mô,
mà trong đó có cả chính sách tỷ giá hối đoái. Mặc dù tình trạng mất cân đối trong
cán cân thơng mại ngày càng tăng, nhng điều này là do nhiều nguyên nhân và không
thể đổ lỗi cho riêng TGHĐ.
Chính phủ tiến hành phá giá VND để thúc đẩy xuất khẩu ngăn chặn xu hớng lên
giá của VND thì sẽ rơi vào tình thế lợi bất cập hại. Nền kinh tế của ta mới đợc
chuyển đổi và đạt đợc những thành tựu bớc đầu nên mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô
là quan trọng nhất. Trong hoàn cảnh kinh tế nớc ta lúc đó nếu nh Chính phủ tuyên bố
phá giá VND thì chắc chắn những bất ổn sẽ xuất hiện.
17
Chính vì những đặc điểm đó mà có thể nhận định rằng chính sách tỷ giá hối
đoái trong giai đoạn 1993 - 1996 của Việt nam nhìn chung là hợp lý - thể hiện những
nỗ lực của chính phủ và NHNN trong việc cải cách và hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ
giá. Song cũng phải thừa nhận rằng chính sách này vẫn cha thực sự rõ ràng, việc đánh
giá VND vẫn cha phản ánh đúng sức mua của đồng nội tệ. Điều này đòi hỏi NHNN
cần phải linh hoạt hơn nữa trong việc xác định và điều hành tỷ giá. Có nh vậy chúng
ta mới có thể đi lên với những bớc tiến vững chắc trên tiến trình công nghiệp hóa,
hiên đại hóa đất nớc trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.

III . Chính sách tỷ giá của Việt nam từ 1997 đến nay
1. Tình hình kinh tế - tài chính trong nớc
a. Tăng trởng kinh tế và lạm phát
Từ năm 1997 đến năm 1999, tốc độ tăng trởng GDP có xu hớng giảm dần, nh
năm 1997: tăng 8,8%, năm 1998: tăng 3,8%; năm 1999: tăng 5,7%; Tốc độ tăng tr-
ởng nh vậy đợc đánh giá là cha đủ để giải quyết những nhu cầu phát triển của đất n-
ớc. Hiện tợng suy thoái đang kéo theo nguy cơ gây bất ổn định kinh tế vĩ mô khi có
những biến động lớn. Tuy nhiên, từ năm 2000 đến nay, tình hình kinh tế đã có dấu
hiệu tăng trởng trở lại, năm 2000 tốc độ tăng trởng đạt 6,7%; chín tháng đầu năm
2001 tăng 7%, dự kiến mức tăng trởng cả năm là 7,1%.
Trong giai đoạn này tình hình lạm phát có nhiều biến động thất thờng song vẫn
thuộc phạm vi kiểm soát của Chính phủ. Lạm phát năm 1997: 3,7%; năm 1998:
3,5%; năm 1999 chỉ số giá tiêu dùng tăng 0,1%; năm 2000 chỉ số giá tiêu dùng đã
giảm 0,6%; năm 2001 chỉ số tiêu dùng chỉ tăng ở mức 5,2% so với năm 2000.
b. Tình hình tài chính và hoạt động ngân hàng.
Tình hình hoạt động tài chính và hoạt động ngân hàng đợc đánh giá là khá trầm
lắng và tẻ nhạt. Thâm hụt ngân sách tiếp tục tăng, năm 1997 là 3,5%; năm 1998 là
3,6%; năm 1999 là 5,5%. Trong khi đó, số các doanh nghiệp nhà nớc làm ăn thua lỗ
ngày càng nhiều, đặc biệt là năm 1997 là 35%. Nợ nớc ngoài của Việt nam hiện đang
ở mức cao, năm 1997 số d nợ đã lên tới hơn 10 tỷ USD. Tuy trong hai năm trở lại
đây, tình hình có vẻ khả quan hơn. Tuy hệ thống ngân hàng đã có những bớc cải tổ
khá mạnh mẽ kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu á năm 1997, nhng
tình trạng nợ quá hạn tại các NHTM vẫn là một điều đáng lo ngại. Không chỉ có vậy,
hàng xuất khẩu của Việt nam liên tục chịu sức ép về giá trên thị trờng quốc tế. Đồng
VND cũng ở trong tình trạng tơng tự do sự phá giá mạnh của các đồng tiền trong khu
vực.
Bối cảnh thực tế nh vậy đã tác động lớn đến sự ổn định kinh tế vĩ mô của nớc ta.
Diễn biến tình hình đòi hỏi chính phủ phải có những quyết sách kịp thời để hạn chế
thấp nhất ảnh hởng của cuộc khủng hoảng khu vực và nguy cơ suy thoái toàn cầu,
duy trì tốc độ tăng trởng nh mục tiêu đã đề ra.

18
2. Cơ chế điều hành tỷ giá của Việt nam từ 1997 đến nay
2.1 Chính sách tỷ giá
Trớc diễn biến phức tạp của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, Việt
nam đã kịp thời có những giải pháp về tiền tệ và tỷ giá nhằm hạn chế đến mức thấp
nhất tác động tiêu cực của nó. Chính phủ chủ trơng: tiếp tục thực hiện chính sách tỷ
giá linh hoạt có sự điều tiết của Nhà nớc nhằm góp phần củng cố sức mua của VND,
duy trì tỷ giá hối đoái tơng đối ổn định, phù hợp với quan hệ cung cầu ngoại tệ trên
thị trờng tài chính và chính sách xuất khẩu của Nhà nớc .
NHNN thực hiện chức năng là ngời giao dịch cuối cùng để tăng cờng hiệu lực
các quyết định điều tiết thị trờng. Nhng sự can thiệp này cũng chỉ ở mức độ cần thiết
phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Bên cạnh đó, cơ chế quản
lý ngoại hối cũng đợc điều chỉnh, cụ thể là trong năm 1998, NHNN đã tăng cờng khả
năng kiểm soát luồng ngoại tệ.
Ngày 12/ 9/ 1998 chính phủ ban hành quyết định số 173/ 1998 QĐ/ TTg về
nghĩa vụ bán và quyền mua ngoại tệ của ngời c trú là tổ chức. Đây đợc coi là giải
pháp tình thế để giảm bớt căng thẳng giữa cung và cầu ngoại tệ.
Ngày 30/ 8/ 1999 Thủ tớng Chính phủ đã ký quyết định số 18/ 1999 QĐ/ TTg
theo đó ngời c trú là tổ chức phải bán ngay tối thiểu 50% số ngoại tệ thu đợc từ các
nguồn thu vãng lai cho các ngân hàng đợc phép kinh doanh ngoại tệ thay vì 80% nh
trớc đây. Mặt khác để tăng cờng hoà nhập quốc tế, Chính phủ đã ban hành cơ chế
quản lý ngoại hối mới thay cho cơ chế quản lý ngoại hối cũ, thể hiện ở nghị định 63/
NĐ-CP (17/ 8/ 1998). để tăng cờng vai trò quản lý ngoại hối của nhà nớc.
Ngày 25/2/1999 Thống đốc NHNN đã ban hành quyết định số 46 về việc công
bố tỷ giá hối đoái của VND với các ngoại tệ và quyết định 65 về việc quy định
nguyên tắc xác định tỷ giá mua bán ngoại tệ của các tổ chức tín dụng đợc phép kinh
doanh ngoại tệ.
Nh vậy, từ tháng 2/ 1999 Việt Nam đã áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái MARS
( Market Average Rate System - hệ thống tỷ giá bình quân thị trờng). Theo hệ thống
này thì thay vì thông báo tỷ giá chính thức (USD/ VND) với biên độ dao động 7%,

NHNN thông báo tỷ giá liên ngân hàng trung bình của ngày hôm trớc và các giao
dịch ngoại hối đợc phép giao động trong biên độ 0,1%. Với việc ban hành hai quyết
định trên, NHNN tiếp tục hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái, phù hợp với các mục
tiêu chung của toàn bộ nền kinh tế. Điều này cũng cho thấy xu hớng tự do hóa rõ rệt
hơn trong điều hành tỷ giá hối đoái có sự điều tiết của Nhà nớc.
2.2. Hoạt động điều hành tỷ giá của NHNN
19
Từ năm 1997 đến nay, trớc những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế và
khu vực, hoạt động điều hành tỷ giá của NHNN đã trở nên linh hoạt và sôi động
hơn giai đoạn trớc. NHNN đã nhiều lần điều chỉnh tỷ giá chính thức và biên độ giao
dịch kinh doanh ngoại tệ của các NHTM. Năm 1998, NHNN tiếp tục việc kiểm soát
lãi suất trên thị trờng tiền tệ bằng chính sách quy định trần lãi suất cho vay đối với
VND và USD. Trên cơ sở đó các tổ chức tín dụng ấn định các mức lãi suất huy động
phù hợp với cung cầu vốn tín dụng đồng thời xoá bỏ quy định chênh lệch lãi suất huy
động bình quân 0,35%/ tháng nh năm 1996, 1997. Nh vậy, chính sách lãi suất đã đợc
thực hiện trong mối tơng quan hài hoà với chính sách tỷ giá. Có thể nói sự phối hợp
này là khá thành công trong việc hạn chế ảnh hởng của cuộc khủng hoảng tài chính
tiền tệ khu vực đến sự ổn định kinh tế vĩ mô và thị trờng tài chính nớc nhà.
2.3 Diễn biến tỷ giá từ năm 1997 đến nay
a. Diễn biến tỷ giá 1997 1999
Tỷ giá bình quân qua các năm (USD/ VND):
1997 1998 1999
11.050 12.000 13.470
Từ năm 1997 đến năm 2000, tỷ giá USD/ VND có nhiều biến động, đặc biệt là
vào cuối năm 1997 nhng vẫn nằm trong khả năng kiểm soát của NHNN. Đầu năm
1997, giá USD có giảm do lợng kiều hối tăng lên. Sau đó lại nhích dần lên và đến
cuối năm 1997, tỷ giá USD/ VND tăng nhanh, đặc biệt là tỷ giá trên thị trờng tự do,
lên tới trên 13.000 VND/ USD.
Nhng đến đầu năm 1998, tỷ giá này hạ dần do lợng kiều hối khá lớn vào Việt
Nam và ở mức trung bình 12.000 USD/ VND trên thị trờng ngoại tệ liên ngân hàng,

tuy nhiên mức chênh lệch giữa tỷ giá trên thị trờng tự do và tỷ giá chính thức vẫn còn
khá lớn.
Trong hai năm 1999 và 2000 tỷ giá đã tăng mạnh, điều đó phản ánh đúng với
quan hệ cung cầu thị trờng. Nhng một nhân tố có ảnh hởng mãnh mẽ trong giai đoạn
nay là tâm lý ngời dân vẫn chuộng USD hơn là VND.
b. Tác động của chính sách tỷ giá đến hoạt động ngoại thơng
Do ảnh hởng của cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực, hoạt động ngoại th-
ơng, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu của Việt nam trong thời gian này gặp rất nhiều
khó khăn:
* Hoạt động xuất nhập khẩu năm 1997:
- Xuất khẩu:
Tổng kim ngạch xuất khẩu không cao nh dự kiến, chỉ đạt 8.955 triệu USD. Một
phần do giá quốc tế của các mặt hàng xuất khẩu đều giảm, mặt khác do hàng hoá
xuất khẩu của ta thiếu sức cạnh tranh trên thị trờng quốc tế.
- Nhập khẩu:
20
Năm 1997, nhập khẩu giảm so với năm 1996, tỷ lệ nhập siêu cũng giảm theo.
Hoạt động kiểm soát nhập khẩu đã đợc triển khai một cách tích cực. Hoạt động nhập
khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài cũng chững lại. Một số doanh
nghiệp đứng trớc nguy cơ phải ngừng hoạt động do khả năng xuất khẩu giảm hoặc do
chi phí đầu vào tăng vì giá hàng nhập khẩu đang cao lên trông thấy.
* Hoạt động xuất nhập khẩu năm1998:
- Xuất khẩu:
Hoạt động xuất khẩu đã chững lại trong năm1998 đạt 9.361 triệu USD so với kế
hoạch ban đầu là 11 tỷ USD. Điều này là do khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt
Nam trên thị thị trờng quốc tế bị giảm sút mạnh mẽ. Tác nhân chính làm cho xuất
khẩu của Việt Nam năm 1998 chững lại là:
+ Sức mua của các bạn hàng chủ chốt trong khu vực Châu á giảm mạnh.
+ Khả năng cạnh tranh của các mặt hàng xuất khẩu Việt Nam yếu đi do đồng
tiền của các nớc trong khu vực mất giá. Điều đáng lu tâm là hầu hết các mặt hàng

xuất khẩu chủ lực của ta lại trùng lắp với các nớc có đồng tiền bị mất giá.
+ Nhu cầu tiêu thụ giảm của Châu á đã làm cho giá thế giới của một số mặt
hàng giảm khá mạnh, trong đó có nhiều hàng thuộc diện anh cả đỏ trong chiến lợc
xuất khẩu của Việt Nam.
- Nhập khẩu:
Hoạt động xuất khẩu năm 1998 có nhiều điểm khác biệt so với các năm trớc.Tỷ
lệ nhập siêu giảm rõ rệt. Kim ngạch nhập khẩu năm 1998 giảm ở mức 10.160 triệu
USD. Biện pháp nâng tỷ giá USD/ VND lên so với năm 1997 đã góp phần quan trọng
trong việc hạn chế nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu. Nhng trong bối cảnh đồng
tiền các nớc trong khu vực mất giá mạnh, hoạt động nhập khẩu của Việt nam cũng bị
ảnh hởng nhiều.
Nhìn chung trong năm 1998, mặc dù chính phủ đã có nhiều cố gắng để thúc đẩy
xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu nhng kết quả vẫn còn khá khiêm tốn. Việc hai lần
điều chỉnh tỷ giá chính thức của NHNN đã góp phần tạo thuận lợi hơn cho hoạt động
xuất khẩu và kiểm soát nhập khẩu, song theo đánh giá chung thì biện pháp này vẫn
cha đủ. Đồng VND vẫn cao tơng đối so với đồng USD và nhiều đồng tiền chủ chốt
khác. Tỷ giá chính thức do NHNN công bố hiện cũng cha thực sát hợp với tình hình
thị trờng và còn mang tính hành chính, cứng nhắc.
* Hoạt động xuất khẩu nhập khẩu năm 1999:
Hoạt động ngoại thơng của Việt nam năm 1999 có nhiều khởi sắc. Kim ngạch
xuất khẩu đạt 11.523 triệu USD, tăng đáng kể so với năm 1998. Kim ngạch nhập khẩu
đạt 11.636 triệu USD. Nh vậy tình trạng nhập siêu đã giảm đáng kể.
Nhìn chung, năm 1999 chúng ta đã đạt đợc những thành tựu quan trọng trong
việc thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Đây là kết quả của hàng loạt các giải
pháp đồng bộ mà chính phủ đã triển khai và thực hiện. Đó là chính sách tỷ giá hối
21
đoái, chính sách tín dụng ngân hàng, chính sách thuế và nhiều chính sách khuyến
khích khác. Riêng về chính sách tỷ giá hối đoái thì tỷ giá đã đợc xác định một cách
khách quan hơn, phù hợp hơn với tín hiệu thị trờng theo hớng khuyến khích xuất
khẩu. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khó khăn thử thách đối với lĩnh vực này. Hàng xuất

khẩu của Việt Nam vẫn chịu sức ép cạnh tranh do đồng bản tệ của các nớc đối thủ
phá giá mạnh và mặt bằng giá trên thị trờng thế giới hiện nay còn đang ở mức thấp.
Điều này đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực hơn nữa mới có thể duy trì nhịp độ tăng trởng
và hoàn thành kế hoạch đã đợc đề ra cho giai đoạn 1996 - 2000.
c. Nhận định chung về chính sách tỷ giá của Việt nam giai đoạn 1997 - 1999
Mặc dù trong những năm vừa qua, tăng trởng kinh tế của Việt nam có giảm đi,
song vẫn ở mức cao nhất so với các nớc ASEAN khác. Không chỉ có vậy, đồng tiền
Việt Nam cũng đợc đánh giá là khá vững vàng trong cơn bão tài chính vừa qua. Tỷ
giá hối đoái mặc dù có những biến động nhất định nhng vẫn thuộc quỹ đạo kiểm soát
của NHNN.
Những thành quả bớc đầu này là kết quả của việc thực thi hàng loạt các giải pháp
đồng bộ mà chính phủ đề ra. Trong đó chính sách tỷ giá hối đoái đóng vai trò quan
trọng. Trớc bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động, NHNN đã kịp thời điều
chỉnh chính sách ngoại hối và chính sách tỷ giá của mình.
Trong khoảng thời gian 1990 - 1996, NHNN áp dụng chính sách tỷ giá cố định,
có điều tiết nhẹ. Chính sách này đã góp phần quan trọng vào việc ổn định tiền tệ và
điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam. Nhng khi lạm phát ở mức thấp,
xuất khẩu cần đợc đẩy mạnh thì chính sách trên không còn phù hợp nữa. NHNN đã
sớm khắc phục hạn chế này và điều chỉnh thông qua hai quyết định nới rộng biên
động hối đoái cho các NHTM. Việc áp dụng biên độ mới 10% này ban đầu đã cho
phép các NHTM linh hoạt áp dụng tỷ giá tuỳ thuộc vào tình hình tiền tệ và mục tiêu
chung của toàn bộ nền kinh tế. Nhng do diễn biến phức tạp của cuộc khủng hoảng
Châu á đã tác động đến yếu tố tâm lý. Hiện tợng đầu cơ găm giữ ngoại tệ tăng dã tạo
ra nhu cầu USD giả tạo làm mất ổn định thị trờng ngoại hối. Mặt khác VND vẫn bị
giá cao tơng đối so với đồng tiền của các nớc trong khu vực. Đây là trở ngại không
nhỏ cho hoạt động xuất khẩu và mục tiêu ổn định tiền tệ.
Trớc tình hình đó, NHNN đã có biện pháp đối phó kịp thời bằng việc tăng tỷ giá
chính thức 5,6%. Bớc cải tiến này đã góp phần làm dịu sức ép đối với hoạt động thanh
toán đối ngoại tạo điều kiện rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa tỷ giá chính thức
và tỷ giá trên thị trờng tự do. Đồng thời chính phủ cũng đã thu hẹp biên độ giao dịch

trên thị trờng NTLNH từ mức 10% xuống còn ở mức 7%.
Nhìn chung, việc đổi mới trong cơ chế điều hành tỷ giá của NHNN trong thời
gian qua bớc đầu đã đem lại kết quả khả quan. Thị trờng tiền tệ ở trạng thái ổn định,
xuất khẩu gia tăng. Tuy nhiên, hoạt động điều hành tỷ giá của NHNN vẫn còn mang
nặng tính hành chính. TGHĐ cha phản ánh sát thực sức mua của đồng Việt Nam. Do
đó hoạt động điều hành tỷ giá của NHNN vẫn cần phải đợc đổi mới hơn nữa để phù
22
hợp với tình hình hiện nay. Có nh vậy chúng mới giữ vững đợc sự ổn định tiền tệ và
đẩy mạnh xuất khẩu - phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc.
1.4 Biến động tỷ giá từ năm 2000 tính đến hết quý I năm 2002
Tỷ giá USD/ VND có những biểu hiện nóng lên đột ngột kể từ cuối năm 2000,
nhng đã phần nào dịu xuống trong tháng 3/ 2001 khi ảnh hởng của việc giảm lãi suất
của USD thực sự tác động đến Việt Nam. Nhng kể từ tháng 5/ 2001, tỷ giá bắt đầu có
những diễn biến bất thờng, tăng liên tục qua từng tuần và nhiều khi qua từng ngày
trên cả hai thị trờng chính thức và tự do. Nguyên nhân là do bùng nổ sự tăng giá
USD, giảm giá VND và kéo dài đến nay.
Thực tế là bắt đầu từ ngày 30/ 5/ 2001, tỷ giá USD/ VND bình quân trên
TTNTLNH đã liên tục tăng từ 12 - 14 VND mỗi ngày. Đặc biệt là sau sự kiện 11/ 9/
2001 ở Mỹ, ngợc lại với dự đoán của các nhà phân tích, giá USD không giảm giá trị
mà thậm chí trong thời gian này còn vững lên đôi chút so với đồng EURO và mạnh
hơn nhiều so với đồng JPY. Lúc này, giá USD tăng mạnh, khoảng 3,8% so với 3,4%
vào năm 2000.
Diễn biến tăng chỉ số giá USD trên TTNTLNH từ năm 2000 đến hết quý I/ 2002:
Năm 2000 (kỳ
gốc)
Tháng 3/ 2001 Tháng 12/ 2001 Tháng 3/ 2002
106,7% 103,8% 100,5% 100,2%
Nguồn: Tạp chí Ngân Hàng
Tính đến hết quý I năm 2002, mức tăng CPI 2,5% là kết quả đáng khích lệ. Nó
nói lên nền kinh tế đang thoát khỏi tình trạng giảm phát kéo dài đã nhiều năm. Về

động thái tiền tệ, chỉ số quý I tăng 2,5% so với chỉ tiêu lạm phát cả năm từ 3 - 4% là
hợp lý, thể hiện sức mua đối nội của VND không có gì đáng ngại. Tuy nhiên, trong
quý này, giá USD tăng 0,5 % là biểu hiện sự mất giá VND so với USD. Tỷ giá hối
đoái bình quân tính đến 13/ 5/ 2002 là USD/ VND = 1/ 15228 (theo số liệu của
ICB). Nh vậy, sự biến động tỷ giá hối đoái trong thời gian qua là bình thờng và vẫn
nằm trong khuôn khổ cho phép và trong tầm kiểm soát của Ngân hàng Nhà nớc.
Có năm nhân tố cơ bản quyết định tỷ giá giữa hai đồng tiền là: tơng qua về tiềm
năng tăng trởng kinh tế, diễn biến về lạm phát, cung cầu ngoại tệ, tình hình cán cân
thanh toán, và tơng quan lãi suất. Khi xem xét biến động tỷ giá USD tại Việt nam
trong thời gian gần hai năm qua, chúng ta không thể giải thích đợc nếu dựa vào phân
tích tơng quan tăng trởng và lạm phát tại hai nền kinh tế Mỹ và Việt Nam. Do sự
chênh lệch quá lớn về trình độ phát triển của hai nền kinh tế. Nếu áp dụng lý thuyết
một cách máy móc thì đây có thể coi là nghịch lý vì lạm phát tại Mĩ luôn cao do
kinh tế tăng quá nóng trong khi kinh tế Việt Nam lại trải qua giai đoạn đợc xem là
thiểu phát trầm trọng. Hơn nữa, ngay cả khi nền kinh tế Mĩ bộc lộ nguy cơ suy thoái
từ cuối năm 2000, trong khi tăng trởng GDP của Việt nam vẫn đợc hồi phục và duy
trì.
23
Vì vậy, chỉ có thể phân tích biến động tỷ giá USD tại Việt Nam trong thời gian
qua thông qua ba nhân tố còn lại là cung cầu ngoại tệ, cán cân thanh toán và lãi suất.
Trong thời gian qua, cung cầu ngoại tệ diễn ra căng thẳng do cung ngoại tệ thì
giảm mà cầu ngoại tệ thì tăng. Bên cạnh đó, nhân tố lãi suất đã biểu hiện gia tăng rõ
rệt về mức độ ảnh hởng. Để thực hiện mục tiêu kích cầu, khuyến khích đầu t chúng ta
đã liên tục hạ lãi suất VND, trong khi đó lãi suất USD trên thị trờng quốc tế lại liên
tục tăng. Do vậy, các doanh nghiệp không muốn vay USD mà chuyển sang vay VND,
dân c và cả các doanh nghiệp không muốn chuyển đổi USD sang VND, ngợc lại
muốn gửi USD trên tài khoản. điều đó làm cho nhu cầu về USD tăng lên, và cung về
USD đã giảm đi đáng kể.
Tuy nhiên, tình hình cán cân thanh toán vẫn là nhân tố ảnh hởng quyết định đến
tỷ giá của USD so với VND trong suốt thời gian qua. Trong năm 2000, nhu cầu ngoại

tệ của các doanh nghiệp nhập khẩu tăng lên rất nhiều. Từ đầu năm 2000, do tăng tr-
ởng kinh tế phục hồi cùng với việc chính phủ đẩy mạnh tiến trình tháo gỡ những hạn
chế hành chính với hoạt động nhập khẩu đã làm tăng mạnh nhu cầu nhập khẩu, nên
mặc dù xuất khẩu đã tăng khá nhng mức thâm hụt cán cân thơng mại vẫn gia tăng
đáng kể (năm 2000 là 892triệu USD). Trong nửa đầu năm 2001, tình hình tăng trởng
xuất khẩu cũng chững lại.
Trong thời gian qua, mặc dù tỷ giá có những biến động có vẻ nh bất thờng nh-
ng NHNN không áp dụng những biện pháp can thiệp thị trờng với liều lợng mạnh
hoặc sử dụng trở lại những biện pháp hành chính. điều này lại khẳng định thêm quyết
tâm theo đuổi chính sách điều hành tỷ giá linh hoạt theo cung cầu thị trờng.
Trớc những diễn biến phức tạp này, nếu không để tỷ giá điều chỉnh theo cung
cầu thị trờng một cách phù hợp, sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu Việt Nam sẽ
bị sụt giảm đáng kể. Tỷ giá điều chỉnh nh vừa qua sẽ tháo gỡ khó khăn cho hoạt động
xuất khẩu của các mặt hàng chủ lực của Việt Nam sang các nớc nh Châu Âu và Nhật
Bản khi phải cạnh tranh với các nớc Châu á.
Chơng III :
Những giải pháp cho một chính sách tỷ giá phù hợp
ở Việt Nam trong thời gian tới
I - ứng dụng biểu đồ Swan để định hớng chính sách tỷ giá dàI
hạn của Việt nam
Mục tiêu kinh tế quan trọng của mọi quốc gia là đạt đợc trạng thái cân bằng nội
(công ăn việc làm đầy đủ, giá cả ổn định) và cân bằng ngoại (cán cân thanh toán quốc
24
tế thăng bằng). Để phân tích và làm rõ mối quan hệ giữa các công cụ chính sách
nhằm duy trì trạng thái cân bằng nội và cân bằng ngoại của nền kinh tế, nhà kinh tế
học Trevor Swan đã sử dụng một biểu đồ rất lý thú và hữu ích, đợc gọi là biểu đồ
Swan. Từ việc dựa vào biểu đồ Swan, ta có thể rút ra đợc định hớng chính sách tỷ giá
để sao cho khuyến khích nhập khẩu máy móc công nghệ mới, nhng phải đẩy mạnh
kích cầu tiêu dùng trong nớc theo nghĩa là tăng đầu t vào kinh doanh, xây dựng kết
cấu hạ tầng để tạo thêm công ăn việc làm, đẩy nhanh tăng trởng kinh tế.

Dựa vào sự phân tích trên, chính sách tỷ giá lâu dài của Việt Nam là:
- Trong giai đoạn đầu hiện nay, thực hiện chính sách tỷ giá thấp, để khuyến
khích nhập khẩu các công nghệ sản xuất hiện đại, phát triển các mặt hàng xuất khẩu.
- Bên cạnh đó thực hiện chính sách nâng cao chi tiêu trong nớc, bằng hàng hóa
do trong nớc sản xuất ra và hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng.
- Khi nền kinh tế đã vững mạnh thoát khỏi sự lệ thuộc vào hàng hoá nhập khẩu
thì thực hiện chính sách tỷ giá cao, để khuyến khích xuất khẩu. Việc xuất khẩu tăng
lên, sẽ hạn chế tiêu dùng trong nớc vì giá cả sẽ tăng lên, nhng sẽ tạo đợc sự cân bằng
đối ngoại, cân bằng CCTTQT.
II - Các biện pháp cụ thể
1. Lựa chọn chế độ tỷ giá phù hợp cho trớc mắt và trong dài hạn
Tiếp tục duy trì cơ chế tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của Nhà nớc.
Để xây dựng một chế độ tỷ giá hợp lý ở Việt nam trong điều kiện cụ thể hiện
nay, chính sách tỷ giá cần theo những định hớng sau:
Về chiến lợc dài hạn, phải áp dụng tỷ giá thả nổi vì chế độ tỷ giá này phù hợp
với quy luật cung cầu ngoại tệ, xu hớng toàn cầu hoá và hoà nhập quốc tế và khu vực,
mà Việt Nam là một thành viên.
Về chiến lợc ngắn hạn, thì cần áp dụng tỷ giá thả nổi có điều tiết của Nhà nớc, vì
những điều kiện để áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi cha xuất hiện đầy đủ, trong đó có
các yếu tố sau:
- Các doanh nghiệp cha thích ứng với sự biến động thờng xuyên của thị trờng,
năng lực quản trị tài chính cha tốt.
- Hệ thống ngân hàng Việt Nam đang trong quá trình đổi mới còn nhiều yếu kém.
- Thị trờng hối đoái đang còn trong giai đoạn sơ khai, dự trữ ngoại tệ của nhà n-
ớc còn thấp.
- NHNN cha có sự phối hợp chặt chẽ các chính sách và các biện pháp điều hòa
cung ứng tiền tệ trong nớc, các cá nhân, tổ chức thanh toán qua ngân hàng còn thấp.
- Việc điều chỉnh tỷ giá đúng đắn và có hiệu quả của NHNN còn phụ thuộc rất
lớn vào chính sách huy động và sử dụng vốn, nhất là vốn nớc ngoài.
Trong những năm tới, luồng vốn ngoại tệ chảy vào trong nớc thông qua nhiều

kênh ngày một nhiều, nguồn cung ngoại tệ ngày càng lớn. Nếu Việt Nam không có
25

×