Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Chính sách lãi suất của Việt Nam trong thập kỷ qua, những hạn chế và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150 KB, 25 trang )

Lời nói đầu
Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách vĩ mô hàng đầu
của Nhà nớc để điều tiết nền kinh tế, trong đó chính sách lãi suất là một
công cụ quan trọng và chủ yếu nhất của chính sách tiền tệ, là đòn bẩy kinh
tế quan trọng có ảnh hởng trực tiếp tới hoạt động của các tổ chức tín dụng.
Hiện nay, việc sử dụng công cụ lãi suất trong nền kinh tế thị trờng là một
trong những vấn đề hết sức khó khăn và phức tạp bởi vì nó không những thu
hút đợc sự quan tâm thờng xuyên của ngành tài chính ngân hàng mà còn là
sự quan tâm của tất cả các doanh nghiệp và tầng lớp dân c khác. Bởi vậy, lãi
suất đợc coi nh là một vấn đề thờng xuyên, cập nhật không chỉ đối với các
hoạt động kinh doanh tiền tệ cũng tất cả các hoạt động kinh tế nói chung.
Hơn nữa, hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng vô cùng phức tạp và nhạy
cảm, nó không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc gia mà còn có mối quan
hệ quốc tế, vì vậy một nền tài chính - tiền tệ lành mạnh đồng nghĩa với một
chính sách lãi suất đúng đắn, một sự hoạt động đa dạng và có hiệu quả của
các tổ chức tín dụng có ảnh hởng rất lớn đến một quốc gia, đến các nớc
trong khu vực và trên thế giới. Chính sách lãi suất đúng đắn sẽ là cơ sở để
cho các tổ chức tín dụng (NHTM) chính sách thể huy động vốn và cho vay
trong hoạt động kinh doanh của mình một cách có hiệu qủa mà còn là công
cụ quan trọng để Nhà nớc có thể thực hiện chức năng điều tiết vĩ mô nền
kinh tế.
Tuy nhiên, do có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan mà
cho đến nay chúng ta vẫn cha thực sự xây dựng đợc một chính sách lãi suất
hoàn chỉnh nhằm tác động một cách có hiệu quả đến sự đổi mới cơ chế hoạt
động của các tổ chức tín dụng theo định hớng kinh tế thị trờng. Vì vậy, để
nhanh chóng theo kịp và hoà nhập với các nớc trong khu vực và trên thế
giới thì nớc ta phải có một nền tài chính tiền tệ lành mạnh tạo điều kiện
thiết yếu cho nền kinh tế phát triển.
1
Đây là một vấn đề vừa phức tạp, vừa cấp bách và có ý nghĩa chiến lợc
trong chính sách tiền tệ nói riêng và trong sự nghiệp đổi mới kinh tế của đất


nớc nói chung nhng do thời gian hạn hẹp và hạn chế về mặt tài liệu nên em
chỉ xin đề cập đến các tổ chức tín dụng là đối tợng chủ yếu chịu sự tác động
của chính sách lãi suất trong đề tài:
Chính sách lãi suất của Việt Nam trong thập kỷ qua, những
hạn chế và giải pháp
Đề tài đợc trình bày qua các chơng sau:
Chơng I: Những nội dung chính của chính sách lãi suất trong nền kinh tế
thị trờng.
Chơng II: Chính sách lãi suất của Việt Nam trong thập kỷ qua
Chơng III: Một số giải pháp đối với chính sách lãi suất ở nớc ta hiện nay
2
Ch ơng 1:
Những nội dung chính của chính sách lãi suất
trong nền kinh tế thị trờng
Trong nền kinh tế thị trờng thì lãi suất cũng là một hình thái của giá
cả nhng là giá cả của hàng hoá đặc biệt tiền tệ có ảnh hởng trực tiếp tới
toàn bộ nền sản xuất hàng hoá. Mặc dù, lãi suất là một phơng tiện để điều
tiết nền kinh tế song lãi suất cũng là một hình thái giá cả nên Nhà nớc
không thể trực tiếp ấn định mức lãi suất cố định mà chỉ dựa trên nguyên tắc
can thiệp gián tiếp vào thị trờng tiền tệ bằng cách thông qua các mục tiêu
trung gian thuộc tầm kiểm soát của mình và có mối quan hệ nhân quả để
tác động vào lãi suất một cách thích hợp nhằm điều chỉnh vĩ mô nền kinh
tế. Chính điều này đã dẫn tới sự ra đời của chính sách lãi suất trong nền
kinh tế.
I. Nội dung của chính sách lãi suất trong nền kinh tế thị trờng.
1. Hoạt động tái chiết khấu
Tái chiết khấu là việc Ngân hàng trung ơng chiết khấu lại hay mua
lại các kỳ phiếu thơng mại của các tổ chức tín dụng. Hoạt động tái chiết
khấu của Ngân hàng trung ơng có ảnh hởng tới lãi suất tín dụng trên các ph-
ơng diện sau:

a. Lãi suất tái chiết khấu
Lãi suất tái chiết khấu có ảnh hởng tỷ lệ thuận với lãi suất tín dụng.
Khi lãi suất tái chiết khấu tăng, để đảm bảo lợi nhuận của mình, các ngân
hàng thơng mại cũng phải tăng lãi suất tín dụng và ngợc lại, khi lãi suất tái
chiết khấu giảm dần tới phí huy động vốn bình quân có xu hớng giảm nên
lãi suất tín dụng giảm.
3
b. Lãi suất chiết khấu
Lãi suất chiết khấu là tỷ lệ tối đa giữa số vốn mà NHTW cho vay
trên giá trị của các chứng từ có giá. Khi lãi suất chiết khấu tăng, nguồn vốn
huy động của các NHTM từ NHTW giảm nên lãi suất tín dụng có xu hớng
tăng và ngợc lại.
c. Hạn mức tín dụng đôí với các NHTM
Việc NHTW quy định hạn mức tín dụng cho các NHTM cũng có
quan hệ tỷ lệ thuận đối với lãi suất tín dụng. Ngợc lại, việc quy định chất l-
ợng của các chứng từ có giá để chiết khấu có quan hệ tỷ lệ nghịch với lãi
suất tín dụng.
2. Lãi suất trên thị trờng tiền tệ
Trên thị trờng tiền tệ, có hai loại lãi suất tín dụng
Lãi suất nợ là lãi suất mà hệ thống ngân hàng áp dụng khi tiến hành các
nghiệp vụ cho vay.
Lãi suất đi vay (hay lãi suất tiền gửi) là lãi suất mà hệ thống ngân hàng
áp dụng trong nghiệp vụ huy động vốn.
Ngân hàng Nhà nớc sẽ ấn
định trực tiếp mức lãi suất cho vay để các NHTM áp dụng cho các đối tợng
cho vay. Nếu mức muốn tăng khối lợng cho vay,Ngân hàng Nhà nớc giảm
mức lãi suất cho vay để kích thích các nhà đầu t cho vay vốn và ngợc lại.
Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nớc cũng có thể áp dụng lãi suất tiền gửi quy định
(lãi suất cơ bản) buộc các NHTM phải thực hiện biên độ giao động cho
phép ().

3. Các công cụ khác của chính sách lãi suất
Dự trữ bắt buộc: theo Điều 9 Luật Ngân hàng Nhà nớc: Dự trữ bắt buộc
%35,0
4
là số tiền mà các tổ chức tín dụng phải gửi tại Ngân hàng Nhà nớc để thực
hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Hoạt đông thị trờng mở ( nơi diễn ra các hoạt động mua bán chứng
khoán nợ)
Tỷ giá hối đoái
II. Vai trò của chính sách lãi suất trong nền kinh tế thị trờng
Chính sách lãi suất là một công cụ duy nhất có ảnh hởng trực tiếp
đến lãi suất tín dụng, tuy nhiên khi nghiệp vụ thị trờng mở ra đời và xu h-
ớng toàn cầu hoá, khu vực hoá phát triển thì chính sách lãi suất lại có những
hạn chế nh:
Việc điều chỉnh chính sách lãi suất tái chiết khấu phụ thuộc vào
mức lãi suất của các nớc trong khu vực và trên thế giới. Một mức lãi suất tái
chiết khấu quá cao hay quá thấp sẽ làm tăng lãi suất tín dụng và là nguyên
nhân dẫn đến tình trạng các nguồn vốn t bản sẽ chảy vào hay chảy ra khỏi
một quốc gia.
Việc quy định các mức lãi suất trần hay lãi suất sàn chỉ tồn tại ở các
nớc đang phát triển nh Việt Nam cũng gây những ảnh hởng nhất định đối
với tính chủ động sáng tạo, cạnh tranh trong hoạt động của các NHTM. Nói
chung, chính sách lãi suất đã từng đợc coi là một công cụ quan trọng trong
quá trình điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nớc, nhng do sự ra đời của thị
trờng tài chính, thị trờng mở và các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ
(dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn ) đã làm cho chính sách lãi suất không còn có
tác dụng lớn nh trớc nữa. Hiện nay, đối với Việt Nam khi mà nghiệp vụ thị
trờng mở mới ra đời, thị trờng tài chính còn đang trong thời kỳ phôi thai thì
chính sách lãi suất vẫn còn có những tác dụng quan trọng đối với nền kinh
tế.

5
Ch ơng II.
Chính sách lãi suất của Việt Nam trong thập kỷ
qua
Thời kỳ trớc năm 1986, với cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao
cấp thì vai trò quản lý, kiểm soát của ngân hàng đối với các hoạt động kinh
tế, tài chính vừa lỏng lẻo vừa bao sân. Với những nhợc điểm, sai lầm của cơ
chế quản lý kinh tế theo mô hình kế hoạch hoá tập trung đã đợc Đảng và
Nhà nớc ra đổi mới trong suốt thời gian qua và đặc biệt là trong lĩnh vực tài
chính, ngân hàng qua hai giai đoạn chủ yếu sau:
Từ năm 1986 đến 1990
Từ 1990 đến nay
I. Chính sách lãi suất tín dụng từ 1986 - 1990
1. Lãi suất tiền gửi tiết kiệm
Ngày 4/10/1986 Chủ tịch Hội đồng Bộ trởng có Quyết định số
111/QĐ - HĐBT về nâng cao lãi suất tín dụng.
Ngày 26/10/1986 Thống đốc Ngân hàng Nhà nớc ra Quyết định số
85/QĐ về mức lãi suất tiền gửi và cho vay của Ngân hàng Nhà nớc Việt
Nam. Mức lãi suất này chỉ đững vững đợc sau 9 tháng, đến 28/6/1987 Nhà
nớc lại có Quyết định nâng cao lãi suất tín dụng tại Nghị định số 99/HĐBT
của Chủ tịch hội đồng Bộ trởng.
Ngày 2/7/1987 Ngân hàng Nhà nớc ra Quyết định số 68/NH-QĐ
quy định mữc lãi suất cụ thể về tiền gửi và tiền cho vay. Lãi suất tiền gửi
của các tổ chức kinh tế quốc dân từ 0,9% - 1,5% /tháng; kinh tế tập thể, cơ
quan 18%/ tháng; của t nhân, cá thể 2,4%/tháng.
6
Lãi suất tiền vay: Lãi suất tiền vay đối với kinh tế tập thể từ 2,7% -
4,2%/tháng, lãi suất cho vay đối với kinh tế tập thể từ 2,7% - 4,2%/tháng,
lãi suất ngoài hạn mức tín dụng đối với nền kinh tế quốc dân từ 3,6% -
5,1%/tháng (đối với trờng hợp vì lợi ích kinh tế) còn nếu không vì lợi ích

kinh tế gấp 2 -3 lần lãi suất trong hạn mức tín dụng. Đối với kinh tế tập thể
từ 4,2%- 6%/tháng. Các đối tợng khác từ 5,1% - 9,9%/tháng. Lãi suất quá
hạn 15% - 21%/tháng, cho vay vốn cố định từ 2,1% - 3,9%/tháng.
Ngày 16/3/1989 Ngân hàng Nhà nớc ra quyết định số 29/NH - QĐ
quyết định năng mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm để thực hiện mục tiêu chống
lạm phát, ổn định sức mua của đồng tiền. Tỷ lệ lạm phát hai tháng đầu năm
1989 là 8,5%/tháng. Mức lãi suất đợc công bố là 9%/tháng đối với tiết kiệm
không kỳ hạn và 12%/tháng đối với tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 3 tháng.
Với một mức lãi suất huy động cao nh vậy đã thu hút đợc một khối lợng lớn
tiền gửi tiết kiệm của công chúng và góp phần làm cho lạm phát giảm
xuống nhanh chóng (tháng 4/1989 còn 4,3%) và trở thành thiểu phát vào
tháng 5 và 7 năm 1989. Thời gian sau đó thì lạm phát giảm dần và sau đó
Ngân hàng Nhà nớc ra quyết định về điều chỉnh giảm dần mức lãi suất tiết
kiệm.
Lãi suất tiền gửi tiết kiệm từ tháng 3/1998 đến 3/1999
2. Lãi suất tiền gửi và cho vay của các tổ chức tín dụng đối với các tổ
chức kinh tế
Ngày 6/2/1990 Chủ tịch Hội đồng Bộ trởng ra chỉ thị số 39/CT về
7
STT Số Quyết định Ngày ra Quyết
định
Lãi suất tiền gửi tiết kiệm
Loại không
kỳ hạn %/th
Kỳ hạn 3
tháng %/th
1. 29/NH-QĐ 16/3/1989 9 12
2. 71/NH-QĐ 25/5/1989 7 9
3. 94/NH-QĐ 29/6/1989 5 7
4. 09/NH-QĐ 9/2/1990 4 6

5. 18/NH-QĐ 19/3/1990 2,4 4
Nguồn: Ngân hàng Nhà nớc
STT Số Quyết
định
Ngày ra
Quyết
Lãi suất
tiền guỉ
Lãi suất tiền vay
Vốn LĐ
%/th
Vốn CĐ
%/th
Nợ qúa
hạn %/th
1. 85/NH-QĐ 5/2/1988 0,9 - 1,5 1,8 - 6,0 1,5 - 4,0 18
2. 42/NH-QĐ 15/4/1989 4,0 - 5,8 6,0 - 6,5 5,95- 6,5 18
3. 73/NH-QĐ 31/5/1989 2,7 - 4,0 4,8 - 5,5 4,5 - 5,3 8
4. 100/NH-QĐ 12/7/1989 1,8 - 3,0 2,1 - 4,0 3,3 - 3,8 6
5. 09/NH-QĐ 9/2/1990 1,2 - 2,4 2,5 - 3,6 2,6 - 3,5 6
Nguồn: Ngân hàng Nhà nớc
điều chỉnh lãi suất ngân hàng theo nguyên tắc lãi suất bảo toàn vốn vho ng-
ời gửi và cho vay, kịp thời điều chỉnh cho phù hợp với sự biến động chỉ số
giá cả thị trờng. Viêck điều chỉnh lãi suất đợc tiến hành từng bớc theo hớng
thu hẹp dần khoảng cách giữa lãi suất tiền gửi tiết kiệm và lãi suất tiền gửi
của các tổ chức kinh tế
3. Lãi suất tiền gửi và cho vay của Ngân hàng Nhà nớc đối với các tổ
chức tín dụng
Theo Nghị định 53/HĐBT ngày 26/3/1988, hệ thống ngân hàng Việt Nam
đợc chia thành hai cấp là Ngân hàng Nhà nớc và các NHTM quốc doanh.

Do hệ thống ngân hàng đợc chia thành hai cấp cho nên xuất hiện thêm loại
lãi suất tiền gửi và cho vay của Ngân hàng Nhà nớc đối với các tổ chức tín
dụng khác. Lần đầu tiền lãi suất này đợc hình thành theo Quyết định số
27/NH-QĐ ngày 13/5/1988. Trong suốt thời gian này, mức lãi suất đã đợc
điều chỉnh nhiều lần theo các Quyết định của Ngân hàng Nhà nớc.
8
đơn vị: %/tháng
STT Số Quyết định Ngày ra
Quyết định
Lãi suất tiền
gửi
Lãi suất
cho vay
Lãi suất nợ
qúa hạn
27/NH-QĐ 13/5/1988 1,5 - 1,8 1,5 15
50/NH-QĐ 19/4/1989 4,0 - 5,8 5,9 - 6,09 15
76/NH-QĐ 8/6/1989 2,7 - 4,0 4,2 - 4,5 8
101/NH-QĐ 12/7/1989 1,8 - 3,0 3,05 - 3,3 6
10/NH-QĐ 9/2/1990 1,2 - 2,1 2,1 - 3,0 6
19/NH-QĐ 29/3/1990 0,9 - 1,5 1,5 - 2,4 5
Nguồn: Ngân hàng Nhà nớc
Lãi suất tiền gửi và cho vay của các tổ chức tín dụng
Thông thờng, mức lãi suất của Ngân hàng Nhà nớc áp dụng đối với
các tổ chức tín dụng rất sát với lãi suất của các tổ chức tín dụng áp dụng đối
với các tổ chức kinh tế đặc biệt là lãi suất tiền gửi trong đó lãi suất cho vay
của Ngân hàng Nhà nớc cao hơn so với lãi suất cho vay của các tổ chức tín
dụng.
Nhìn chung, trong thời kỳ 1986 - 1990 thì những sự thay đổi của
chính sách lãi suất có những u và nhợc điểm sau:

A. Ưu điểm
Trong thời kỳ này, để phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trờng đã
hình thành các loại lãi suất mới nh lãi suất cho vay thiếu hụt cán cân thanh
toán bù trừ, lãi suất cho vay giữa các ngân hàng để có thể triển khai các
nghiệp vụ mới của ngân hàng.
Chính sách lãi suất có sự thể hiện xu hớng tự do hoá lãi suất và thu hẹp
dần số lợng mức lãi suất quy định.
Các mức lãi suất đã điều chỉnh nhiều nên cũng phản ánh đợc phần nào
những sự biến động của giá cả trên thị trờng.
B. Nhợc điểm:
Chính sách lãi suất có sự thể hiện xu hớng tự do hoá lãi suất nhng đợc
xây dựng hợp lý và vẫn còn dựa trên số liệu cũ và theo kinh nghiệm truyền
thống nên có những lúc lãi suất quá cao hay quá thấp.
Trong suốt thời gian này tất cả các mức lãi suất ngân hàng đều thấp hơn
rất nhiều so với tỷ lệ lạm phát, lãi suất luôn ở tình trạng thực âm tức là
mức lãi suất cho vay nhỏ hơn nhiều so với lãi suất huy động tiết kiệm
Chính sách lãi suất cha phát huy đợc vai trò chính đó là thúc đẩy tăng tr-
9
ỏgn kinh tế, kiểm chế lạm phát và tác động tốt đến hoạt động của các tổ
chức tín dụng.
II. Chính sách lãi suất thời kỳ 1990 đến nay
A. Chính sách lãi suất thời kỳ 1990 - 1996
Trong giai đoạn này, nền kinh tế nớc ta đã chuyển sang nền kinh tế
thị trờng cho nên đã xuất hiện nhiều tổ chức tín dụng mới nh ngân hàng th-
ơng mại cổ phần, ngân hàng nớc ngoài, ngân hàng liên doanh, công ty tìa
chính để theo kịp sự phát triển chung của nền kinh tế, Ngân hàng Nhà nớc
đã điều chỉnh lãi suất thờng xuyên hơn và cũng hình thành nên nhiều loaih
lãi suất mới phục vụ cho các nghiệp vụ tín dụng mới.
1. Lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng đối với
các tổ chức kinh tế và dân c

a. Lãi suất nội tệ
Sau khi hai pháp lệnh ngân hàng có hiệu lực thi hành, một số ngân
hàng thơng mai cổ phần, ngân hàng nớc ngoài, ngân hàng liên doanh, công
ty tài chính đợc phép thành lập.
Ngày 11/7/1991 Ngân hàng Nhà nớc có Quyết định số 94/NH-QĐ
quy định lãi suất cho vay tối đa của các tổ chức tín dụng ngoài quốc doanh
là 6% tháng, lãi suất huy động tối đa là 2%/tháng.
Mức lãi suất dơng cho một số đối tợng bắt đầu đợc áp dụng từ ngày
30/10/1991 theo Quyết định số 202/NH-QĐ. Kể từ ngày 15/11/1991 mức
lãi suất cho vay cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm.
Bớc sang năm 1992, hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng
đã đợc củng cố và nâng cao hiệu quả, tuy nhiên, có sự khác biệt so với các
Quyết định về lãi suất trớc đây đó là: mức lãi suất tiền gửi đợc quy định với
10
các mức lãi suất cụ thể, lãi suất cho vay chỉ quy định mức tối đa với cho vay
ngắn hạn.(xem phụ lục a1)
Kể từ tháng 10/1993, sau khi Ngân hàng Nhà nớc bắt đầu thực hiện
chính sách khung lãi suất tức là chỉ quy định lãi suất trần vho vay tối đa và
sàn lãi suất tiền gửi tối thiểu và hoạt động tiền tệ bắt đầu đi sâu vào quỹ đạo
cung ứng vốn cho nền kinh tế. Ngày 28/4/1994 Ngân hàng Nhà nớc cho vay
ngắn hạn là 2,1% và 1,7% đối với vay trung và dài hạn.
Đến ngày 28/2/1995 Ngân hàng Nhà nớc ra Quyết định số 381/QĐ-
NH để điều chỉnh lãi suất. Theo Quyết định này, Ngân hàng Nhà nớc chỉ
còn quy định mức lãi suất tối đa đối với cho vay ngắn hạn và cho vay dài
hạn và kèm theo quy định về khoảng cách chênh lệch bình quân giữa lãi
suất cho vay và lãi suất huy động vốn không quá 0,35%.
Đến ngày 16/7/1996 mức lãi suất cho vay tối đa lại đợc giảm do
đồng tiền Việt Nam dần dần ổn định và lãi suất cho vay dài hạn đã cao hơn
so với lãi suất cho vay ngắn hạn. Từ ngày 2/9/1996 đến ngày 1/10/1996 thì
mức lãi suất cho vay tối đa đợc giảm tiếp.

Nh vậy, từ đầu năm 1996 các NHTM đã đợc Ngân hàng Nhà nớc
cho phép quyết định mức lãi suất phù hợp với cung cầu vốn trên thị trờng.
b. Lãi suất ngoại tệ
Thời kỳ trớc đây, ngân hàng ngoại thơng là ngân hàng độc quyền
việc nhận tiền gửi và cho vay ngoại tệ đối với các tổ chức kinh tế, các quy
định về lãi suất đều do ngân hàng ngoại thơng đệ trình Thống đốc phê
duyệt. Trong giai đoạn hiện nay, ngày càng có nhiều ngân hàng thơng mại
đợc phép Ngân hàng Nhà nớc kinh doanh ngoại tệ cho nên đã xuất hiện nhu
cầu quản lý lãi suất tiền gửi và cho vay ngoại tệ của các tổ chức tín dụng từ
phía Ngân hàng Nhà nớc (xem phụ lục a2). Tháng 12/1993 Ngân hàng Nhà
nớc đã bác bỏ việc quy định lãi suất tiền gửi ngoại tệ. Kể từ đó đến nay,
11
Ngân hàng Nhà nớc chỉ còn khống chế các mức lãi suất cho vay tối đa của
các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế, mức lãi suất cho vay tối đa ngày
càng đợc điều chỉnh tăng lên để thu hẹp khoảng cách giữa lãi suất nội tệ và
lãi suất ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nớc.
2. Lãi suất tiền gửi và cho vay của Ngân hàng Nhà nớc đối với các tổ
chức tín dụng khác
a. Lãi suất nội tệ
Ngân hàng Nhà nớc ra Quyết định số 176/NH-QĐ ngày 4/10/1991
về lãi suất cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ. Kể từ năm
1992, Ngân hàng Nhà nớc tiến hành mở rộng các hình thức cho vay cũ
đồng thời tiến hành các hình thức cho vay mới đó là cho vay tái cấp vốn đôí
với các tổ chức tín dụng (diễn biến lãi suất của quan hệ vay mợn giữa Ngân
hàng Nhà nớc và các tổ chức tín dụng đợc thể hiện trong bảng b1).
Trong thời gian này, mức lãi suất cho vay bổ sung nguồn vốn tín
dụng ngắn hạn đợc áp dụng khác nhau đối với từng NHTM quốc doanh,
mức lãi suất đối với ngân hàng nông nghiệp là 1,6%/tháng, ngân hàng ngoại
thơng là 2,8%/tháng. Tuy nhiên thì sự phân biệt trên có xu hớng giảm dần
từ thán 10/1993 lãi suất này đợc áp dụng thống nhất đối với ngân hàng th-

ơng mại quốc doanh. Từ thán 11/1994 Ngân hàng Nhà nớc đã chấm dứt cho
vay để bổ sung nguồn vốn ngắn hạn, thay vào đó Ngân hàng Nhà nớc tiến
hành cho vay theo đối tợng chỉ định với mức lãi suất do Thống đốc Ngân
hàng Nhà nớc quyết định từng lần.
Từ tháng 4 đến tháng 9/1993, lãi suất cho vay tái chiết khấu hoàn
toàn khác nhau ở mỗi NHTM. Tuy nhiên, chúng có xu hớng lại gần nhau và
từ ngày 5/4/1995 đã xoá bỏ lãi suất cho vay tái cấp vốn giữa các ngân hàng.
Lãi suất cho vay thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ đã giảm nhiều so với
giai đoạn trớc, ít biến động trong giai đoạn này và ngay t đầu đã đợc áp
12
dụng thống nhất đối với tất cả các ngân hàng.
Đầu năm 1996 chuyển từ lãi suất cho vay trực tiếp của Ngân hàng
Nhà nớc đối với các tổ chức tín dụng sang lãi suất tái chiết khấu. Mức lãi
suất suất tái chiết khấu sẽ đợc tăng hay giảm trong từng thời kỳ phụ thuộc
vào chính sách tiền tệ mở rộng hay thắt chặt của Ngân hàng Nhà nớc.
b. Lãi suất ngoại tệ
Từ 1/6/1992 đến nay Ngân hàng Nhà nớc đã ra nhiều quyết định để
điều chỉnh mức lãi suất tiền gửi và cho vay ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nớc
đối với các tổ chức tín dụng (phụ lục b2).
Trong thời gian này chủ trơng của Ngân hàng Nhà nớc là không tiến
hành cho vay ngoại tệ đối với các ngân hàng thơng mại từ những trờng hợp
thiếu hụt ngoại tệ trong quá trình thanh toán. Lãi suất tiền gửi ngoại tệ kể từ
năm 1983 trở lại đây đợc điều chỉnh tăng dần để thực hiện chủ trơng rút
ngắn khoảng cách giữa lãi suất nội tệ và ngoại tệ.
3. Lãi suất vay giữa các tổ chức tín dụng trên thị trờng tiền tệ liên ngân
hàng
Kể từ tháng 6/1993 khi thị trờng tiền tệ liên ngân hàng ra đời thì mới
phát sinh ra loại lãi suất giữa các tổ chức tín dụng với nhau. Theo Quyết
định số 130/QĐ-NH1 ngày 1/7/1993 Ngân hàng Nhà nớc quy định các
thành viên trên thị trờng liên ngân hàng cho vay lẫn nhau theo lãi suất thoả

thuận với mức tối đa là 2,3%/tháng. Nếu đó là nguồn vốn huy động kỳ
phiếu thì lãi bằng lãi suất huy động + lệ phí ngân hàng 0,3%/tháng.
B. Chính sách lãi suất từ đầu 1996 đến nay
Kể từ đầu năm 1996, Ngân hàng Nhà nớc đã đa ra nhiều quyết định
quan trọng về lãi suất nhằm từng bớc tự do hoá lãi suất theo cơ chế thị tr-
ờng. Tiến trình tự do hoá lãi suất này đợc Ngân hàng Nhà nớc thiết kế nh
13
sau:
Từ chỗ Ngân hàng Nhà nớc quy định toàn bộ mức lãi suất cho các tổ
chức tín dụng tiến đến chỉ quy định một số mức lãi suất cơ bản nh mức lãi
suất tiền gửi, tiền vay bình quân và quy định mức chênh lệch giữa lãi suất
đầu vào và đầu ra ở cc tổ chức tín dụng. Trên cơ sở các mức lãi suất cơ bản
đó, các tổ chức tín dụng có thể tự xác định mức lãi suất cụ thể sao cho phù
hợp và có tính cạnh tranh.
Thu hẹp dần khoảng cách giữa lãi suất ngoại tệ và lãi suất đồng Việt
Nam bởi vì nếu nh khoảng cách này quá xa sẽ tạo ra khe hở để cho các
doanh nghiệp lợi dụng.
Điều chỉnh để cho mức lãi suất ngắn hạn không còn cao hơn so với lãi
suất dài hạn nh trớc đây
Hình thành lãi suất trần để mở rộng phạm vi tự do cho các tổ chức
tín dụng tự xác định lãi suất. Cho đến thời điểm này thì Ngân hàng Nhà nớc
đã xoá bỏ khuing lãi suất mà chỉ công bố mức lãi suất cơ bản kèm theo đó
là biên độ 0,35% để cho các ngân hàng lấy đó làm cơ sở để đa ra mức lãi
suất phù hợp và có tính cạnh tranh.
Chuyển từ lãi suất cho vay trực tiếp của Ngân hàng Nhà nớc đối với các
tổ chức tín dụng sang lãi suất tái chiết khấu.
Quyết định hạ lãi suất lần này nhằm làm giảm lãi suất cho vay ngắn
hạn từ 2,1 xuống 1,75%/tháng trong khi mức lãi suất cho vay trung và dài
hạn vẫn khống chế ở mức tối đa nh cũ là 1,7% / tháng. Đồng thời, mức
chênh lệch lãi suất đầu vào và đầu ra bình quân cũng đợc cắt giảm xuống

còn 0,35% thay vì 0,7% nh trớc đây. Nguyên nhân của sự cắt giảm này gồm
có 0,15% thuế doanh thu của doanh nghiệp (ngân hàng) đã đợc bãi bỏ và
0,2% do Ngân hàng Nhà nớc thúc đẩy các tổ chức tín dụng phải giảm chi
phí nghiệp vụ và lợi nhuận kinh doanh. Những sự thay đổi lớn trong chính
14
sách lãi suất đợc khởi đầu vào ngày 1/1/1996 vf ngay sau đó mức lãi suất đã
đợc hạ xuống còn 2,1% - 1,75%/tháng kèm theo quy định khoảng cách
chênh lệch bình quân giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động không quá
0,35%.
Đến ngày 16/7/1996, Ngân hàng Nhà nớc ban hành Quyết định số
191/QSS-NH1 về việc hạ lá trần cho vay bằng tiền đồng Việt Nam của các
tổ chức tín dụng đối với các tổ chức kinh tế và dân c. Theo Quyết định này,
mức trần lãi suất cho vay ngắn hạn đợc giảm từ 1,75%/tháng xuống còn
1,6%/tháng, trần lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng trên địa bàn nông
thôn từ 2% giảm xuống còn 1,8%/tháng vf trần lãi suất cho vay của Quỹ tín
dụng nhân dân cơ sở cho vay đối với các thành viên từ 2,5 xuống còn
2,2%/tháng.
Sau đó, ngày 1/9/1996 Ngân hàng Nhà nớc lại quyết định hạ mức lãi
suất xuống còn 1,5%/tháng đối với lãi suất cho vay ngắn hạn; 1,55%/ tháng
đối với lãi suất cho vay trung và dài hạn và đồng thời vẫn giữ mức quy định
chênh lệch tiền vay và tiền gửi là 0,35%/tháng.
Ngày 1/10/1996 Ngân hàng Nhà nớc lại ra quyết định tiếp tục hạ các
mức lãi suất cho vay. Mức trần lãi suất cho vay ngắn hạn của tối đa giảm
0,25% còn ở mức 1,25%/tháng, lãi suất cho vay trung và dài hạn giảm 0,2%
xuống còn ở mức 1,5%/tháng, lãi suất cho vay của Quỹ tín dụng nhân dân
cơ sở hạ 0,3% còn ở mức 1,8%/tháng.
Sau một thời gian dài, Ngân hàng Nhà nớc xây dựng khung lãi suất
quy định mức trần lãi suất cho vay tối đa và sàn lãi suất tiền gửi tối thiểu
(10/1993) thì kể từ 8/2000 đến nay Ngân hàng Nhà nớc đã xoá bỏ khung lãi
suất mà chỉ quy định mức lãi suất cơ bản cho tất cả các tổ chức tín dụng

cũng nh các định chế tài chính khác ở Việt Nam. Kể từ ngày 1/11/2001 thì
mức lãi suất cơ bản là 0,6%/tháng, so với tháng 10/2001 thì lãi suất cơ bản
không thay đổi, các biên độ lãi suất (o,3% đối với cho vay ngắn hạn, o,5%
15
đối với cho vay trung và dài hạn) tiếp tục đợc giữ nguyên kể từ khi Ngân
hàng Nhà nớc thực hiện việc công bố lãi suất cơ bản từ tháng 8/2000. Theo
sự đánh giá của các nhà quản trị ngân hàng thì mức lãi suất cơ bản theo
Quyết định số 1351 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nớc đợc coi là phù hợp
trong điều kiện chỉ số giá cả tháng 10 không tăng so với tháng 9/2000 và
chỉ số giá cả 10 tháng đang ở mức âm 0,4%.
Nguồn: Diễn đàn doanh nghiệp số 12 ngày 28/3/1996
III. Những thành tựu và hạn chế của chính sách tiền tệ từ năm 1990
đến nay
1. Những mặt tích cực của chính sách lãi suất
Từ tháng 10 năm 1991 trong Quyết định số 202/ NH-QĐ Ngân hàng
Nhà nớc mới áp dụng đợc nguyên tắc lãi suất tiền vay lớn hơn lãi suất tiề
gửi, đã xoá bỏ cơ bản sự phân biệt trong chính sách và lãi suất giữa các loại
hình sở hữu, các ngành nghề khác nhau của nền kinh tế bằng việc quy định
chung mức lãi suất theo phơng thức tối đa và tối thiểu, tạo điều kiện cho các
ngân hàng điều chỉnh lãi suất một cách linh hoạt, phù hợp với nhu cầu thị
trờng tín dụng.
Từ tháng 10/1993, Ngân hàng Nhà nớc đã bắt đầu thực hiện chính
sách khung lãi suất (tức là chỉ quy định lãi suất trần cho vay tối đa và sàn
lãi suất tiề gửi tối thiểu. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nớc cho phép các
ngân hàng thơng mại đợc huy động vốn theo hình thức kỳ phiếu và thực
hiện cho vay từ nguồn vốn đó theo mức lãi suất thoả thuận giữa ngân hàng
và khách hàng.
Ngân hàng Nhà nớc đã xoá bỏ dần mức chênh lệch lãi suất tiền gửi
tiết kiệm và lãi suất tiền gửi của các tổ chức tín dụng bằng các quyết định
tăng lãi suất tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế tại các ngân

hàng thơng mại trong năm 1995 giảm dần sự chênh lệch giữa lãi suất đồng
16
nội tệ và lãi suất đồng ngoại tệ.
Từ 1/1/1996, Ngân hàng Nhà nớc đã chuyển sang phơng thức quản lý
lãi suất hoàn toàn mới với Quyết định số 391/QĐ-NHNN1 và các Quyết
định sau đó đã đạt đợc những bớc tiến lớn về quản lý điều hành lãi suất,
khắc phục đợc một số nhợc điểm của một số Quyết định trớc đó nh:
Về quản lý trần lãi suất: trớc đây còn nhiều trần và còn duy trì lãi suất thoả
thuận nay còn là một số trần cơ bản, lãi suất cho vay ngắn hạn, lãi suất cho
vay trung và dài hạn, lãi suất cho vay đối với địa bàn nông thôn và lãi suất
huy động cho vay thoả thuận.
Quyết định số 381 đã cải thiện đợc phần nào mối quan hệ giữa lãi suất cho
vay ngắn hạn và lãi suất cho vay dài hạn mà một thơì gian daì trớc đây tồn
tại nh một bất hợp lý khi mà lãi suất cho vay ngắn hạn cao hơn nhiều so với
lãi suất cho vay trung và dài hạn.
Ngân hàng Nhà nớc đã quy định mức chênh lệch bình quân giữa lãi suất
cho vay và lãi suất huy đồng là 0,35%/tháng đã đợc các ngân hàng thơng
mại phải tính toán chặt chẽ và tiết kiệm hơn chi phí hoạt động và nân cao
tính cạnh tranh.
Từ tháng 7/1996 đã thực hiện lãi suất tín dụng dài hạn cao hơn so với lãi
suất tín dụng ngắn hạn đồng thời tạo điều kiênj cho các ngân hàng thơng
mại chủ động điều hành lãi suất theo tín hiệu thị trờng, theo quan hệ cung
cầu về vốn và phù hợp với quy mô hoạt động của từng ngân hàng.
Một trong những thành công lớn của chính sách lãi suất đã đem lại
cho nền kinh tế kể từ tháng 8/2000 là việc Ngân hàng Nhà nớc công bố mức
lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng đồng Việt Nam.Mức lãi suất cơ bản đ-
ợc công bố chính thức phải dựa trên sự tham khảo về lãi suất cho vay của 9
ngân hàng thơng mại (bao gồm 4 ngân hàng thơng mại quốc doanh, 2 ngân
hàng thơng mại cổ phần, 2 chi nhánh ngân hàng nớc ngoài, 1 ngân hàng
17

liên doanh) đồng thời cũng phải dựa vào sự tham khảo mức lãi suất nội tệ
liên ngân hàng, lãi suất thị trờng đấu thầu trái phiếu kho bạc, mục tiêu của
chính sách tiền tệ, các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô.
2. Những hạn chế của chính sách lãi suất.
Từ năm 1990 - 1993, viêch hoạch định chính sách lãi suất vẫn còn
mò mẫm cha dựa trên sự tính toán khoa học dẫn đến việc áp dụng vào thực
tế hết sức khó khăn và máy móc.
Đến năm 1993, mức lãi suất cho vay quá cao và lãi suất cho vay dài
hạn vẫn nhỏ hơn so vơi mức lãi suất ngắn hạn, biểu lãi suất phân chia có
nhiều mức và ở giai đoạn đầu có đến 30 mức lãi suất khác nhau.
Kể từ năm 1996 đến nay, khi Quyết định 381 ra đời lúc đó mặt bằng
lãi suất tiền gửi, tiền vay, tỷ trọng vốn huy động theo lãi suất thoả thuận còn
hạn chế nhng nguồn vốn huy đồng bằng kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng th-
ơng mại ở mức lãi suất 26% / năm (2,1%/tháng) với khối lợng lớn và thời
hạn dài còn tồn tại đến hết tháng 9/1996 mới hết hạn vì vậy khi điều chỉnh
mức trần cho vay từ 2,1%/tháng xuống còn 1,75%/ tháng (một biên độ khá
lớn 0,35%) cộng thêm với điều kiện về kết cấu nguồn vốn huy động và quy
mô hoạt động của mỗi ngân hàng thơng mại khác nhau nên các ngân hàng
thơng mại đều gặp phải những khó khăn khác nhau về xử lý mặt bằng lãi
suất.
Quyết định hạ lãi suất của Ngân hàng Nhà nớc đa ra đúng vào thời
điểm mà các ngân hàng thơng mại đang rơi vào tình trạng bí đầu ra, hơn
nữa, với tỷ lệ chênh lệch 0,35% (giữa lãi suất đầu vào và lãi suất đầu ra bình
quân) đã làm cho các ngân hàng thơng mại cổ phần, các ngân hàng có quy
mô nhỏ gặp nhiều khó khăn
Chính sách lãi suất vẫn còn mang tính chính sách xã hội nên ảnh h-
ởng nhiều đến hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thơng mại, cha xem
18
xét đến mức độ rủi ro của các tổ chức tín dụng gặp phải trong hoạt động
kinh doanh tiền tệ.

Trong suốt một thời gian dài vẫn tồn tại chênh lệch giữa lãi suất nội
tệ và lãi suất ngoại tệ và gây khó khăn trong việc thu hút các nguồn vốn
ngoại tệ từ lu thông về, tạo trục trặc cho những ngời vay vốn ngoại tệ từ
ngân hàng.
Mặc dù từ sau ngày 17/6/1996 đã áp dụng chính sách lãi suất cho
vay vốn trung và dài hạn lớn hơn lãi suất cho vay vốn ngắn hạn song chính
sách lãi suất đã không chú trọng đến cơ cấu nguồn vố, cha bám sát với tình
hình của nền kinh tế, cha đa ra đợc mức khống chế điều chỉnh linh hoạt để
giúp cho các tổ chức tín dụng giải quyết tốt nguồn vốn trung và dài hạn.
19
Ch ơng III.
Một số giải pháp đối với chính sách lãi suất ở nớc
ta hiện nay
I. Các giải pháp hoàn thiện chính sách lãi suất
Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách và cơ chế hoạt động của các
tổ chức tín dụng là một yêu cầu bức xúc, là đòi hỏi của nền kinh tế. Nhng
mục tiêu, bớc đi, giải pháp mới nh thế nào cần phải đợc cân nhắc và có cơ
sở khoa học. Cơ sở quan trọng nhất là nhận thức cho đúng vị trí, đặc thù và
xu thế phát triển của các tổ chức tín dụng trên thế giới và trong khu vực.
Đánh giá đúng điều này sẽ tránh cho công cuộc đổi mới khỏi vấp phải
những sai lầm không đáng có, nhất là đối với một nớc mới chuyển sang cơ
chế thị trờng có những đặc thù riền nh ở nớc ta.
Từ thực tế sử dụng chính sách lãi suất thời gian qua, ta đã đúc rút đợc
ít nhiều kinh nghiêm đặc biệt là trong năm 1996. Tuy đã đạt đợc những tiến
bộ đáng kể song chính sách lãi suất vẫn còn nhiều hạn chế, mâu thuẫn và bế
tắc. Do vậy trong thời gian tới, để hoàn thiện chính sách lãi suất trong điều
kiện ở nớc ta Ngân hàng Nhà nớc cần phải nâng dần tính chất gián tiếp
trong việc sử dụng chính sách lãi suất, bảo đảm tính mềm dẻo, linh hoạt,
phù hợp với chỉ số lạm phát thực tế, theo kịp và làm chủ đợc các quá trình
biến động của thị trờng. Cụ thể nh sau:

Chính sách lãi suất cần khuyến khích thu hút đợc nguồn vốn trung và
dài hạn, phải thực hiện lãi suất cho vay dài hạn lớn hơn lãi suất cho vay
ngắn hạn, về lâu dài thì mục tiêu của giải pháp lớn nhất là tiến tới tự do hoá
lãi suất, tạo môi trờng bình đẳng cho các tổ chức tín dụng hoạt động, nhng
đây cũng là 1 giải pháp cần thiết vì trong thời điểm hiện nay, vốn ngắn hạn
đang bị ứ đọng còn vốn trung và dài hạn thì thiếu hụt. Trớc đây, các tổ chức
20
tín dụng cho rằng vốn trung và dài hạn thì phải cho vay với lãi suất thấp
trong khi đó họ lại phải huy động vốn với lãi suất cao nên đã có sự hạn chế
trong việc cho vay nguồn vốn này. Nhng hiện nay lãi suất cho vay vốn
trung và dài hạn đã cao hơn vốn ngắn hạn thì họ lại càng cho rằng do việc
huy động khó khăn, chịu sức ép của lạm phát, rủi ro lãi suất lớn Xuất phát
từ vấn đề trên, để khuyến khích đợc vốn đầu t trung và dài hạn thì không
chỉ đơn thuần trong việc quy định các mức lãi suất phù hợp đối với vốn dài
hạn mà còn cần phải phối hợp nhiều yếu tố nh: kiềm chế lạm phát ở mức
vừa phải, đối với các tổ chức tín dụng cần phải có một môi trờng kinh
doanh thuận lợi để cho họ có thể yên tâm khi cho các doanh nghiệp vay vốn
dài hạn, cần phải có một tổ chức bảo lãnh chuyên làm công tác kiểm tra,
thẩm tra các dự án, đánh giá các mức độ khả thi của dự án.
1. Lãi suất phải đợc xác định một cách khoa học, phù hợp với thực tế
phát triển của đất nớc
Ngân hàng Nhà nớc không nên đa ra mức lãi suất quá cao hoặc quá thấp vì
nếu lãi suất qúa thấp thì sẽ không kiểm soát đợc lợng tiền trong lu thông,
không kiềm chế đợc lạm phát, gây ảnh hởng trực tiếp đến các tổ chức tín
dụng làm cho họ bị thua lỗ, phá sản. Ngợc lại, lãi suất quá cao thì hạn chế
đầu t làm cho nền kinh tế trì trệ không phát triển Chính vì vậy, việc xây
dựng chính sách lãi suất cần đợc tính toán khoa học, tuân thủ nguyên tắc
lạm phát nhỏ hơn lãi suất huy động, nhỏ hơn lãi suất cho vay và nhỏ hơn tỷ
suất lợi nhuận bình quân. Hơn nữa, để hạ lãi suất Ngân hàng Nhà nớc
không nên áp đặt khống chế đầu vào, có nh thế thì các tổ chức tín dụng mới

phát huy hết khả năng của mình , tăng khả năng cạnh tranh. Mặt khác, phải
đảm bảo nguyên tắc là không cản trở xu hớng tự do hoá lãi suất thì Ngân
hàng Nhà nớc nên chủ động can thiệp vào lãi suất thị trờng thông qua lãi
suất tái cấp vốn, hạn mức tín dụng. Việc sử dụng công cụ lãi suất nội tệ cần
phải đặt trong mối quan hệ với việc sử dụng lãi suất ngoại tệ để ăn khớp và
phối hợp cùng chính sách tỷ giá, cơ chế quản lý ngoại hối. Chỉ có nh vậy,
21
hoạt động tín dụng mới sôi động và linh hoạt hơn, các tổ chức tín dụng mới
thực sự trở thành trung tâm cung ứng vốn cho nền kinh tế.
2. Lãi suất phải đảm bảo tính công bằng, không phân biệt đối xử, tạo
ra môi trờng kinh doanh bình đẳng cho các tổ chức tín dụng.
Thực tế ở nớc ta, lãi suất còn manh nặng tính chính sách xã hội gây nhiều
ảnh hởng đến hiệu quả kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Một số tổ
chức tín dụng phải thực hiện chính sách của Nhà nớc dùng vốn huy động
của mình để cho vay u đãi với lãi suất thấp và có thể họ sẽ phải chịu lỗ cho
những khoản vay này. theo em, đã là các tổ chức tín dụng hoạt động kinh
doanh thì tất cả cần đợc một môi trờng nh nhau, tạo ra sự cạnh tranh bình
đẳng, còn việc cho vay u đãi hay hỗ trợ các dự án là phần việc của Nhà nớc
và phải thực hiện chủ trơng vay ra vay, xin ra xin.
Tiến tới thực hiện chính sách tiền tệ một lãi suất, xoá bỏ chênh lệch
gia lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ. Sự chênh lệch giữa lãi suất nội tệ và
lãi suất ngoại tệ gây ra không ít rắc rối cho hoạt động tín dụng ở nớc ta thời
gian qua:
Đối với các tổ chức kinh tế có nhu cầu vay vốn, trớc đây khi lãi suất
ngoại tệ thấp hơn lãi suất nội tệ, họ tìm mọi cách để vay ngoại tệ còn một
số tổ chức tín dụng dùng khoản tiền huy động để mua tín phiếu kho bạc
Nhà nớc có thể bị lỗ ít, sau đó dùng tí n phiếu để thế chấp vay ngoại tệ với
lãi suất thấp từ đó đổi ra nội tệ để cho vay nhằm ăn chênh lệch.
Một vấn đề khác cần quan tâm, khi lãi suất nội tệ cao hơn so với lãi
suất ngoại tệ gây ra tình trạng tín dụng ngoài nớc với sức ép với tín dụng

trong nớc. Các nguồn ngoại tệ từ nớc ngoài chuyển vào Việt Nam sau đó đ-
ợc đổi sang tiền Việt Nam rồi đem gửi ngân hàng để hởng lãi suất cao. Để
giải quyết vòng luẩn quẩn này, cách duy nhất là rút ngắn khoảng cách
chênh lệch giữa 2 loại lãi suất này.
22
Ngoài những giải pháp nêu trên, để chính sách lãi suất thực sự góp
phần thu hút đợc nguồn vốn trong xã hội, đồng thời để các tổ chức tín dụng
hoạt động có hiệu quả thì bản thân chính sách lãi suất phải đợc xác định
nhất quán, tránh tình trạng thay đổi liên tục về các mức lãi suất làm cho các
tổ chức tín dụng phải thờng xuyên xoay xở với các quy định mới, việc tính
lỗ lãi phức tạp.
23
Mục lục
Lời nói đầu
Ch ơng 1:
Những nội dung chính của chính sách lãi suất trong
nền kinh tế thị trờng
I. Nội dung của chính sách lãi suất trong nền kinh tế thị trờng.
1. Hoạt động tái chiết khấu
2. Lãi suất trên thị trờng tiền tệ
3. Các công cụ khác của chính sách lãi suất
II. Vai trò của chính sách lãi suất trong nền kinh tế thị trờng
Ch ơng II.
Chính sách lãi suất của Việt Nam trong thập kỷ qua
I. Chính sách lãi suất tín dụng từ 1986 - 1990
1. Lãi suất tiền gửi tiết kiệm
2. Lãi suất tiền gửi và cho vay của các tổ chức tín dụng đối với các
tổ chức kinh tế
3. Lãi suất tiền gửi và cho vay của Ngân hàng Nhà nớc đối với các
tổ chức tín dụng

II. Chính sách lãi suất thời kỳ 1990 đến nay
A. Chính sách lãi suất thời kỳ 1990 - 1996
1. Lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng đối
24
với các tổ chức kinh tế và dân c
2. Lãi suất tiền gửi và cho vay của Ngân hàng Nhà nớc đối với các
tổ chức tín dụng khác
3. Lãi suất vay giữa các tổ chức tín dụng trên thị trờng tiền tệ liên
ngân hàng
B. Chính sách lãi suất từ đầu 1996 đến nay
III. Những thành tựu và hạn chế của chính sách tiền tệ từ năm 1990
đến nay
1. Những mặt tích cực của chính sách lãi suất
2. Những hạn chế của chính sách lãi suất.
Ch ơng III.
Một số giải pháp đối với chính sách lãi suất ở nớc ta
hiện nay
1. Các giải pháp hoàn thiện chính sách lãi suất
2. Lãi suất phải đợc xác định một cách khoa học, phù hợp với thực tế
phát triển của đất nớc
3. Lãi suất phải đảm bảo tính công bằng, không phân biệt đối xử, tạo ra
môi trờng kinh doanh bình đẳng cho các tổ chức tín dụng.
PHụ LụC THAM KHảO
25

×