Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Ôn thi môn tài chính tiền tệ chuyên đề Nguồn lực tài trợ cho phát triển kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (806.87 KB, 32 trang )

1
Nguồn lực tài trợ cho phát triển kinh tế
- 27/11/2010: EU, IMF đồng thuận về gói giải cứu 85 tỷ euro dành cho Ireland. 6
- 25/07/2011: Cơ quan xếp hạng tín dụng Moody đã hạ 3 bậc xếp hạng tín dụng của Hy Lạp xuống mức Ca trong ngày thứ
Hai, xếp hạng mới chỉ cao hơn 1 bậc so với mức vỡ nợ và khẳng định khả năng nước này vỡ nợ lên tới 100% 6
- 01/11/2011: số lượng người thất nghiệp tại Châu Âu đạt mức cao kỷ lục, khoảng 16,37 triệu người thất nghiệp 6
- 07/11/2011: Thủ tướng Hy Lạp George Papandreou đồng ý từ chức để cho phép sự thành lập một chính phủ thống nhất
nhằm đảm bảo nguồn vốn từ quốc tế và ngăn kinh tế Hy Lạp sụp đổ 6
- 26/11/2011: Tổ chức xếp hạng tín dụng S&P đã hạ xếp hạng tín dụng của Bỉ xuống mức AA từ AA+ với lý do nước này
thiếu các biện pháp chính sách đảm bảo cho ngân hàng, đồng thuận chính sách và việc kinh tế tăng trưởng chậm sẽ khiến
mục tiêu giảm nợ khó thực hiện được. Nợ công của Bỉ cao thứ 5 tại khu vực đồng tiền chung châu Âu 6
- 01/2012: Hy Lạp dự tính rời bỏ khỏi thị trường chung và chấm dứt sử dụng đồng Euro 6
- 14/01/2012: S&P hạ xếp hạng tín dụng 9 nước châu Âu: Xếp hạng tín dụng của Pháp và Áo bị hạ 1 bậc xuống mức AA+ từ
mức AAA; Tây Ban Nha và Italy cũng bị hạ xếp hạng tín dụng 6
Lợi ích và hạn chế của nguồn vốn FDI 13
Những tác động hai mặt của FDI trước yêu cầu phát triển bền vững và tái cấu trúc nền kinh tế trong giai đoạn phát triển
mới, mà nổi bậc là: 13
Bổ sung nguồn vốn đầu tư xã hội, nhưng còn nhiều hạn chế về chất lượng tăng trưởng 13
Mở rộng xuất khẩu, những cũng làm tăng dòng nhập siêu 13
Tạo thêm công ăn việc làm, nhgcũng làm mất đi nhiều việc làm truyền thống và chưa coi trọng đào tạo người lao động
13
Không ít doanh nghiệp FDI gây ô nhiễm môi trường tự nhiên và khai thác lãng phí tài nguyên thiên nhiên 14
Tăng đóng góp tài chính quốc gia, nhưng còn nhiều hành vi tiêu cực, trốn tránh nghĩa vụ tài chính và tạo cạnh tranh
không lành mạnh 14
Tăng áp lực cạnh tranh , nhưng chưa có nhiều hoạt động chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý 14
Tình hình FDI năm 2011 14
2
1, Lý thuyết cần nắm:
ngân sách nhà nước, nợ chính phủ(nợ công), bội chi ngân sách nhà nước, đầu tư công, vốn huy động và dư nợ của ngân hàng
thương mai, FDI,FII,ODA,TTCK.
2, Các nguồn lực tài trợ phát triển kinh tế:


• Ngân sách nhà nước
• Nợ chính phủ
• Vốn huy động tín dụng qua ngân hàng
• Vốn huy động FDI
• Vốn huy động qua TTCk
3, câu hỏi liên quan:
1. phân tích tình hình các nguồn tài trợ cho phát triển kinh tế của nước ta hiện nay, cho ví dụ minh họa cụ thể. Trong
các nguồn lực này thì nguồn lực nào là quan trọng nhất?
2. phân tích tình hình nợ công của nước ta hiện nay?
3. Phân tích tình hình huy động và sử dụng nguồn vốn FDI của nước ta trong thời gian gian gấn đây?
4. Nhận định tình hình chứng khoán của nước ta trong những năm gần đây, theo bạn để nâng cao hiệu quả hoạt động
hơn nữa ttck thì cần phải làm gì?
5. Anh chị bình luận câu sau của thủ tướng nguyễn tấn dũng năm 2008: “tỷ lệ bội chi ngân sách ở mức 5% liên tục trong
nhiều năm qua trong khi quy mô kinh tế ngày càng lớn mà vẫn chưa đặt ra kế hoạch giảm bội chi, do đó không tạo ra
áp lực đối với việc kiểm soát và tiết kiệm thu chi ngân sách”.(gợi ý: theo như thông thường GDP tăng liên tục trong
nhiều năm thì quy mô bội chi ngân sách giảm nhưng việt nam lại không,là do không có kế hoạch đúng đắn trong
giám sát chi tiêu cụ thể , chưa làm chủ trong chi tiêu công)
6. Tình hình đầu tư công tại việt nam
Câu 1->5: các nguồn tài trợ cho phát triển kinh tế:
1, tình hình Ngân sách nhà nước
là hệ thống quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối các nguồng tài chính của xã hội để tạo lập và sử dụng quỹ tiền
tệ của nhà nước nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước
• Thu thuế: Thuế là khoản thu chiếm tỷ trọng lớn nhất tại hầu hết các quốc gia trên thế giới , không phân biệt chế độ
chính trị. Khoản thu này được xây dựng trên cơ sở trao đổi nghĩa vụ giữa công dân với nhà nước.
• Phí và lệ phí là một nguồn thu thường được đề cập đầu tiên trong các nguồn thu vốn có của NSNN vì nó trực tiếp
gắn với chức năng cung cấp hàng hóa công.
Ngân sách nhà nước (NSNN) là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã
hội, định hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều
chỉnh đời sống xã hội.
• Vốn từ Ngân sách nhà nước (NSNN) có vai trò rất quan trọng trong toàn

bộ hoạt động kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của đất nước, luôn
gắn liền với vai trò của nhà nước theo từng giai đoạn nhất định. Đối với nền kinh
tế thị trường, NSNN đảm nhận vai trò quản lý vĩ mô đối với toàn bộ nền kinh tế,
xã hội.
QUY MÔ THU NSNN (Ð/V: tiÒ ðôÌng)

2001 2005 2007 2008 2009 2010 2011(dt)
Tổng thu 98.526 211.400 300.900 332.080 442.340 559.170 595.000
Thu/GDP 21,6% 23,2% 25% 26% 23% 26%
%thuế / Thu Nsnn 91% 90% 91% 90% 90%
NGUÔÌN : Bôò TaÌi Chiình
Nhìn vào bảng thu ngân sách trên ta thấy, càng ngày tình hình thu Ns của chính phủ càng tãng, cụ thể nhý sau:
Dự toán thu ngân sách nhà nước năm 2011: 595.000 tỷ đồng, tăng 12,7% so với ước thực hiện năm 2010.
Dự toán thu cân đối ngân sách nhà nước năm 2010 là 461.500 tỷ đồng, kết quả thực hiện đạt 559.170 tỷ đồng, vượt
21,2% so với dự toán
Thu NSNN năm 2009 ước đạt 442.340 tỷ đồng, vượt 13,4% so với dự toán; mức động viên thuế và phí đạt 23%GDP
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhiệm vụ tài chính - ngân sách hoàn thành vượt dự toán. Thu ngân sách nhà
nước sau khi đảm bảo nhiệm vụ chi thường xuyên, thực hiện điều chỉnh tiền lương, dành được nguồn quan trọng cho đầu tư
phát triển, tăng chi trả nợ và giảm bội chi ngân sách nhà nước. Trong công tác quản lý, điều hành giá cả, đã thực hiện điều
3
chỉnh giá bán theo hướng tiếp cận giá thị trường đối với một số hàng hoá dịch vụ quan trọng theo lộ trình đã đề ra; hoạt
động của thị trường chứng khoán được kiểm soát để phát triển lành mạnh, vững chắc.
Kết quả thực hiện ngân sách nhà nước năm 2010 đã góp phần hoàn thành các mục tiêu nhiệm vụ của tài chính- ngân
sách theo Nghị quyết Đại hội X và Kế hoạch 5 năm 2006-2010 với cơ cấu thu được cải thiện, tỷ trọng thu nội địa trong tổng
thu NSNN tăng từ mức 52-53% năm 2006 lên trên 63% năm 2010 góp phần tăng tính chủ động và ổn định của NSNN; cơ cấu
chi đang thay đổi theo hướng tăng chi mạnh hơn cho con người, thực hiện các chính sách an ninh xã hội, tăng đầu tư cho
phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, tiềm lực dự trữ quốc gia được tăng cường. Kết quả thực hiện ngân sách nhà
nước năm 2010 tạo đà thuận lợi cho việc xây dựng và triển khai thực hiện Kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 5 năm
2011-2015 và Chiến lược tài chính 10 năm 2011-2020.
Năm 2009 là năm có nhiều khó khăn, thách thức lớn đối với nền kinh tế nước ta. Khủng hoảng tài chính và suy thoái

kinh tế toàn cầu đã tác động trực tiếp đến kinh tế trong nước, làm cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu giảm sút,
ảnh hưởng đến việc làm và đời sống nhân dân. Trong bối cảnh đó, Chính phủ đã đề ra những giải pháp cấp bách nhằm ngăn
chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội. Cùng với sự nỗ lực của các ngành, các cấp, cộng
đồng doanh nghiệp và toàn thể nhân dân; các chính sách và giải pháp kích thích kinh tế đề ra đã được thực hiện khẩn trương,
đồng bộ và phát huy hiệu quả, giúp thực hiện thành công mục tiêu ngăn chặn suy giảm kinh tế. Từ quý II/2009, tình hình kinh
tế đã có chuyển biến tích cực, tăng trưởng quý sau cao hơn quý trước, nâng mức tăng trưởng GDP cả năm đạt 5,32%, góp
phần duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội.
Cùng với sự khởi sắc của tình hình sản xuất, kinh doanh và xuất nhập khẩu, nhiệm vụ thu, chi NSNN năm 2009 đạt
kết quả khả quan. tình hình kinh tế - xã hội năm 2009 mặc dù gặp nhiều khó khăn, song thực hiện các Nghị quyết của Đảng
và Quốc hội, có sự phối kết hợp và nỗ lực phấn đấu của cả hệ thống chính trị, nhiệm vụ tài chính - NSNN năm 2009 đã đạt
được những kết quả quan trọng: thu cân đối NSNN vượt dự toán (13,4%); chi NSNN đảm bảo thực hiện được tổng mức dự
toán chi Quốc hội đã quyết định, đồng thời sử dụng nguồn vượt thu và tăng bội chi NSNN để tăng nguồn lực cho đầu tư phát
triển nhằm kích thích kinh tế, tăng kinh phí thực hiện các chính sách an sinh xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, góp phần
tích cực, hạn chế các tác động tiêu cực của suy thoái kinh tế toàn cầu, tới suy giảm kinh tế trong nước, ổn định kinh tế vĩ mô
và đảm bảo an sinh xã hội./.
2, tình hình Vay nợ của chính phủ:
• Tín dụng nhà nước: là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài, được ký kết, phát hành nhân
danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát
hành theo quy định của pháp luật.
• ODA là nguồn vốn hổ trợ chính thức từ bên ngoài bao gồm các khoảng viện trợ và cho vay với điều kiện ưu đãi.
ODA được hiểu là nguồn vốn dành cho các nước đang và kém phát triển được các cơ quan chính thức và cơ quan
thừa hành của chính phủ hoặc các tổ chức liên chính phủ, các tổ chức phi chính phủ tài trợ.
• Tình hình nợ công ở Việt Nam
Việt Nam mở cửa kinh tế được 25 năm và đã đạt được những bước phát triển vượt bậc. Chỉ trong vòng 10 năm, GDP của
Việt Nam đã tăng lên gấp 3 lần, từ 32.7 tỷ USD năm 2001 lên 201 tỷ USD năm 2010. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn thuộc nhóm
các nước đang phát triển, quy mô nền kinh tế của Việt Nam vẫn là nhỏ so với mặt bằng chung của thế giới; nền kinh tế phụ
thuộc nhiều vào xuất khẩu nông nghiệp thô và công nghiệp nhẹ là chủ yếu. Do đó, hiện tại và trong tương lai gần, việc tăng
vay nợ chính phủ nói riêng và nợ công nói chung la một nhu cầu tất yếu vì Việt Nam vẫn rất cần sự hỗ trợ về mặt tài chính
(tức là vay nợ và viện trợ phát triển chính thức) từ các tổ chức đơn phương, đa phương trên thế giới để phát triển nề kinh tế
hơn nữa.

• Quy mô nợ công
Theo The Economist Intelligence Unit, nợ công của Việt Nam năm 2001 mới là 11,5 tỷ USD, tương đương 36% GDP,
bình quân mỗi người gánh số nợ công xấp xỉ 144 USD. Nhưng tính đến hết năm 2010, nợ công đã tăng lên 55,2 tỷ USD,
tương đương 54,3% GDP và hiện tại, Việt Nam được xếp vào nhóm nước có mức nợ công trên trung bình. Như vậy, trong
vòng 10 năm từ 2001 đến nay, quy mô nợ công đã tăng gấp gần 5 lần với tốc độ tăng trưởng nợ trên 15% mỗi năm. Nếu tiếp
tục với tốc độ này thì chỉ trong vòng 5 năm nữa, đến năm 2016, nợ công của Việt Nam sẽ vượt quá 100% GDP như hai nước
thành viên EU mới lâm vào khủng hoảng nợ công gần đây là Hy Lạp (133,6%), Ailen (129,2%). Nợ công đạt trên 100%
GDP là một con số không nhỏ đối với một nền kinh tế đang phát triển và quy mô nhỏ, phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu sản
phẩm nông nghiệp thô và công nghiệp nhẹ như Việt Nam
• Cơ cấu nợ công
Theo khoản 2 Điều 1 Luật Quản lý nợ công của Việt Nam, nợ công bao gồm tất cả các khoản nợ chính phủ, nợ được
chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Cơ cấu nợ công của Việt Nam năm 2006 - 2010 gồm nợ chính phủ chiếm
78,1%, còn lại là nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Trong nợ chính phủ, nợ nước ngoài chiếm
61,9%; nợ trong nước chiếm 38,1%. Trong nợ nước ngoài, ODA chiếm tỷ trọng lớn. Cụ thể, năm 2009, nợ công của Việt
4
Nam gồm nợ chính phủ chiếm 79,2%, nợ được chính phủ bảo lãnh chiếm 17,6% và nợ chính quyền địa phương chiếm 3,1%;
trong nợ chính phủ, nợ nước ngoài chiếm 60%, trong đó có 85% là ODA.
• Tình hình nợ công
Từ năm 2006 đến nay, tình hình trả nợ công của Việt Nam không ổn định và hầu như không có sự gia tăng đáng kể về giá
trị, trung bình hàng năm Việt Nam dành ra trên 3,5% GDP để chi trả nợ và viện trợ. Tỷ lệ trả nợ/tổng nợ công giảm dần qua
các năm, từ 9,09% năm 2006 xuống còn 6,53% năm 2010. Trong khi đó, quy mô của các khoản nợ công ngày càng tăng lên
với tốc độ chóng mặt với gần 20%/năm; mặt khác, tình hình sử dụng nợ công ở Việt Nam còn đang tồn tại nhiều bất cập như
chậm trễ trong giải ngân và sự kém hiệu quả trong sử dụng vốn vay vào các dự án đầu tư. Điều này tác động tiêu cực tới khả
năng trả nợ của Việt Nam trong tương lai.
Bội chi ngân sách nhà nước
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Thâm hụt 40.7 48.5 56.5 66.2 115.9 117.2 120.600
%/GDP 4,8% 4,9% 4,9% 4,9% 6,5% 5,8 5,3%
2.1 Một số đề xuất nhằm quản lý có hiệu quả nợ công ở Việt Nam
Phát triển nội lực nền kinh tế

Phát triển nội lực nền kinh tế cần tập trung vào vấn đề gia tăng hàm lượng giá trị gia tăng trong xuất khẩu bằng
cách: Giảm nhập khẩu nguyên phụ liệu cho sản xuất hàng xuất khẩu thông qua việc đầu tư phát triển các ngành công
nghiệp hỗ trợ; tăng hàm lượng công nghệ cao trong sản xuất để xuất khẩu được nhiều sản phẩm tinh và ít sản phẩm thô hơn;
đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xúc tiến thương mại, nâng cao nhận biết và thực hành về vấn đề thương hiệu cho các sản phẩm
của Việt Nam trên thị trường thế giới.
Xây dựng môi trường tài chính hiệu quả
- Công khai, minh bạch về tài chính
Đây là một nguyên tắc căn bản hàng đầu và phổ biến trên thế giới trong quản trị công nói chung, quản trị tài khóa và
đặc biệt là trong quản trị nợ công. Theo hướng dẫn quản lý nợ công của IMF (2003) cũng như Cẩm nang minh bạch tài khóa
(2007), cần đặc biệt nhấn mạnh một số yêu cầu cơ bản như sau:
Thứ nhất, xác định rõ vai trò và trách nhiệm tài khóa của các cơ quan của Chính phủ. Đây là yêu cầu thiết yếu để đảm
bảo trách nhiệm giải trình trong việc hoạch định và thực thi chính sách tài khóa.
Thứ hai, khu vực chính phủ phải được tách bạch rõ ràng ra khỏi phần còn lại của khu vực công và phần còn lại của nền
kinh tế; chính sách và vai trò quản lý của khu vực công phải rõ ràng và được công bố công khai.
Thứ ba, về quản lý nợ, pháp luật quản lý nợ nên giao trách nhiệm rõ ràng cho một cá nhân, thường là Bộ trưởng Tài
chính trong việc: Lựa chọncác công cụ cần thiết cho việc vay nợ; xây dựng chiến lược quản lý nợ; xác định giới hạn nợ (nếu
luật không quy định rõ) - thường là dựa vào chiến lược nợ bền vững; thiết lập và kiểm soát cơ quan/tổ chức có trách
nhiệm quản lý nợ (thuộc quyền hoặc nằm ngoài) và thiết lập quy chế quản lý nợ.
Thứ tư, luật phải quy định cụ thể tất cả các khoản chính phủ bảo lãnh. Luật cũng phải xác định rõ vai trò của Ngân hàng
Trung ương sao cho việc phát hành quỹ chứng khoán không bị lẫn với các biện pháp nghiệp vụ thuộc chính sách tiền tệ. Tất
cả các khoản vay phải được ghi có tại một tài khoản ngân hàng dưới sự kiểm tra của Bộ Tài chính, và nghĩa vụ nợ và
các điều khoản vay nợ phải được công bố đầy đủ cho công chúng. Minh bạch tài khóa đòi hỏi cơ quan lập pháp
phải xác định rõ các yêu cầu trong báo cáo hàng năm về dư nợ và dòng chu chuyển nợ, kể cả số liệu về bảo lãnh nợ của
chính phủ trình cơ quan lập pháp và công khai cho công chúng.
Ngoài ra, cần đảm bảo rằng thông tin về nợ công phải bao quát cả quá khứ, hiện tại và dự tính cho tương lai. Điều này hết
sức cần thiết vì thông tin công khai về nợ còn nhằm tăng cường khả năng can thiệp và phòng ngừa tình huống xấu xảy
ra.
- Cải cách hành chính
Việc cải cách hành chính nhà nước cần được thực hiện trên tất cả các nội dung: Thể chế; tổ chức bộ máy; xây dựng
và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, Trong đó, cần tăng cường cơ chế giám sát của nhân dân đối

với hoạt động của cơ quan nhà nước, làm rõ thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan hành chính trong giải quyết khiếu nại của
nhân dân; thực hiện tốt việc tiếp nhận ý kiến, phản hồi của người dân. Bên cạnh đó, thủ tục hành chính cần phải được đơn
giản hóa và thông tin đầy đủ trên cổng thông tin điện tử của bộ, địa phương để tạo thuận lợi tối đa cho người dân, cơ
quan, tổ chức nhằm tiết kiệm chi phí, đồng thời nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức trong cải cách thủ tục
hành chính. Đặc biệt, cần chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, trong đó có yếu tố hết sức quan trọng là
cải cách chế độ, chính sách tiền lương nhằm tạo động lực thực sự để cán bộ, công chức làm việc, nâng cao chất lượng dịch
vụ hành chính và chất lượng dịch vụ sự nghiệp công.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm toán và hoạt động ngân hàng, cụ thể:
+ Về hoạt động kiểm toán: Tiến hành kiểm toán độc lập các hoạt động quản lý nợ hàng năm.
5
+ Về hoạt động ngân hàng: Đặc biệt tập trung vào nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng. Cần phải hướng dẫn tổ
chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ, chú trọng nghiệp vụ marketing, kỹ năng bán hàng, thương
thảo hợp đồng và văn hoá kinh doanh. Đồng thời phải thực hiện tiêu chuẩn hoá cán bộ tín dụng và kiên quyết
loại bỏ, thuyên chuyển sang bộ phận khác những cán bộ yếu về tư cách đạo đức, thiếu trung thực, những cán bộ tín dụng
thiếu kiến thức chuyên môn nghiệp vụ.
Thay đổi cơ cấu nợ công
Việt Nam thực sự thay đổi cơ cấu nợ công theo hướng tăng tỷ trọng nợ trong nước nhiều hơn nữa. Để thay đổi
cơ cấu nợ công, Chính phủ Việt Nam nên phát hành trái phiếu chính phủ ghi bằng nội tệ nhiều hơn. Để nâng cao chất lượng
các đợt đấu thầu mua trái phiếu chính phủ, chính phủ nên đưa ra một mức lãi suất phù hợp hơn với lãi suất thị trường và yêu
cầu của nhà đầu tư.
Kiểm soát nợ công ở mức an toàn
Để kiểm soát nợ công ở mức an toàn, cần phải xác định được đâu là mức an toàn (ví dụ: cần phải xác định các tỷ
lệ nợ công/GDP và nợ nước ngoài/GDP). Tuy nhiên, bên cạnh đó, cần chú ý phân tích bản chất của nợ công. Đó
là: nợ chính phủ là vay nợ trong nước hay vay nợ nước ngoài; tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, hay lượng dự trữ quốc gia
Thực tế xảy ra trên thế giới cho thấy những nước rơi vào khủng hoảng tài chính đều có tỷ lệ nợ trên GDP khá thấp. Ví dụ:
Argentina năm 2001, tỷ lệ đó chỉ ở mức 45%; Ukraine (2007) chỉ 13%; Thái Lan (1996) chỉ có 15%; Venezuela (1981) chỉ có
15%; Rumania (2007) chỉ có 20%
Sử dụng hiệu quả nợ công
Để sử dụng hiệu quả nợ công, cần phải chú trọng vào các vấn đề sau:
- Chi tiêu công phải minh bạch, hợp lý. Vay nợ công phải được chi cho đầu tư phát triển thay vì chi tiêu dùng

chính phủ. Chỉ những dự án thực sự đem lại hiệu quả kinh tế mới được xét duyệt và đầu tư thực hiện. Tăng cường
thanh tra, giám sát quá trình thực hiện dự án đầu tư; tránh tình trạng tham nhũng, quan liêu.
- Đấu thầu các dự án một cách công khai, minh bạch nhằm chọn lựa được những nhà thầu có năng lực nhất. Để doanh
nghiệp ngoài quốc doanh chịu trách nhiệm thầu các dự án đầu tư nhiều hơn, thay cho các doanh nghiệp nhà nước.
- Tập huấn và nâng cao trình độ quản lý cũng như trình độ nghiệp vụ cho các cán bộ trong các doanh nghiệp nhà nước.
2.2 Các biện pháp tái cấu trúc đầu tư công và nợ công :
Các giải pháp khắc phục tình trạng yếu kém hiện nay của đầu tư công tại VN:
Thứ nhất, giảm quy mô đầu tư và đầu tư công cho phù hợp với sức của nền kinh tế, từ bỏ mô hình tăng trưởng “nóng”, dựa
chủ yếu vào tăng vốn đầu tư và gia công sản xuất, chuyển sang mô hình phát triển theo chiều sâu.
Thứ hai, giảm thu, giảm chi, tái cơ cấu thu chi ngân sách, thay đổi cơ cấu chi tiêu ngân sách theo hướng giảm bớt chức năng
“nhà nước kinh doanh” và đồng thời tăng cường chức năng “nhà nước phúc lợi”.
Thứ ba, đổi mới phân bổ đầu tư công, gắn với tài chính công, và tái cấu trúc nền kinh tế bắt đầu với chính sách tài khóa, quan
trọng nhất là kỷ luật tài khóa.
Thứ tư, sửa Luật Ngân sách 2002, ban hành và hoàn thiện Luật Đầu tư công, tiến tới Luật Ngân sách hàng năm, cải cách thể
chế để khắc phục tình trạng thể chế đi sau tăng trưởng kinh tế.
Thứ năm, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch. Quy hoạch cần tôn trọng tính tự phát triển của địa phương nhưng cũng
cần phải hướng về sự phát triển tổng thể nền kinh tế.
Thứ sáu, cần sửa đổi cơ chế phân cấp ngân sách, phân cấp đầu tư, tăng cường hơn vai trò tổng cân đối chung của Chính phủ.
Thứ bảy, đổi mới doanh nghiệp nhà nước, bằng cách giảm quy mô và tăng hiệu quả của khu vực doanh nghiệp nhà nước
(DNNN), cần xác định lại vai trò kinh tế của Nhà nước, giới hạn hoạt động của DNNN, buộc các doanh nghiệp này phải cạnh
tranh bình đẳng thông qua đẩy mạnh cổ phần hóa, chấm dứt tình trạng đầu tư ngoài ngành…
Thứ tám, đổi mới cơ chế tín dụng, kể cả vay nước ngoài để cho vay lại, kết hợp với đổi mới hệ thống ngân hàng thương mại.
Thứ chín, thông tin và cơ chế cần minh bạch để có sự giám sát từ cộng đồng, phối hợp với cơ quan nhà nước nhằm đảm bảo
hiệu quả hoạt động của các dự án.
Thứ mười, ứng dụng mạnh mẽ khoa học công nghệ trong đầu tư công, đồng thời tăng cường chất lượng nguồn nhân lực trên
cơ sở cạnh tranh.
2.3 Khủng hoảng nợ công của khu vực sử dụng đồng Euro
Trong 2 năm vừa qua, bên cạnh cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn tại Mỹ là nguồn gốc của cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu thì khủng hoảng nợ công ở Châu Âu cũng là một điểm tối trong bức tranh kinh tế thế giới. Đây là một trong những
yếu tố khiến cho cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu trở nên phức tạp và biến động khó lường hơn.

Khủng hoảng nợ công ở châu Âu bùng nổ đầu tiên là Hy Lạp vào đầu năm 2010 khi chi phí cho các khoản nợ chính phủ
liên tục tăng lên; cụ thể lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 2 năm của Hy Lạp liên tục tăng cao từ 3,47% vào tháng 01 năm
2010, lên 9,73% tháng 07 năm 2010, và nhảy vọt lên 26,65%/năm ở tháng 07 năm 2011. Cuộc khủng hoảng sau đó đã lan
sang Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và tiếp theo là Italia trong khu vực euro. Pháp đang là quốc gia có nhiều nguy cơ tụt hạng tín
dụng. Cộng hòa Sip cũng đã bị đẩy tới bờ vực để nhận gói cứu trợ.
6
1. Diễn biến của cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu
Những diễn biến quan trọng trong khủng hoảng nợ châu Âu tính từ tháng 11/2009 khi chính phủ mới của Hy Lạp tuyên
bố nâng gấp đôi ước tính về thâm hụt ngân sách năm 2009 cho đến thời điểm hiện nay:
- 11/2009. Thủ tướng Hy Lạp cho biết thâm hụt ngân sách năm 2009 sẽ ở mức 12,7% GDP, gấp đôi con số công bố trước
đó và sẽ cố gắng cứu Hy Lạp khỏi khả năng vỡ nợ.
- 11/4/2010, Bộ trưởng tài chính các nước thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) chấp thuận kế hoạch 30 tỷ
euro cho Hy lạp, nhưng Hy Lạp tuyên bố không cần.
- 23/4/2010, Hy Lạp cầu cứu Liên minh Châu Âu (EU) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF).
- 02/5/2010, Thủ tướng Hy Lạp cho biết, chính phủ nước này đã đạt được thỏa thuận với EU và IMF để nhận được gói
giải cứu, đổi lại nước này phải giảm chi tiêu 30 tỷ euro trong 3 năm tới.
- 10/5/2010, các nhà hoạch định chính sách kinh tế toàn cầu đưa ra kế hoạch khẩn cấp trị giá 750 tỷ euro để hỗ trợ thị
trường tài chính và vực dậy đồng euro, ngăn đồng tiền này chịu ảnh hưởng tệ hại từ khủng hoảng nợ Hy Lạp.
- 07/08/2010: Quỹ bình ổn tài chính của EU với số tiền tối đa lên tới 440 tỷ euro tương đương 580 tỷ USD để hỗ trợ cho
các nước châu Âu ứng phó với khủng hoảng nợ hiện đã có thể hoạt động.
- 08/09/2010: Các nước thành viên EU đã thống nhất về việc tạo ra khung giám sát tài chính mới để ngăn khủng hoảng nợ
chính phủ đã đẩy Hy Lạp đến sát bờ vực phá sản và khiến hệ thống ngân hàng châu Âu chấn động.
- 27/11/2010: EU, IMF đồng thuận về gói giải cứu 85 tỷ euro dành cho Ireland.
- 15/12/2010: Quốc hội Ireland đã chính thức thông qua dự luật yêu cầu các tổ chức tài chính nước này bán tài sản và
buộc một số chủ nợ chịu thiệt hại như một phần trong kế hoạch tái cơ cấu hệ thống ngân hàng., đồng thời, quốc hội Ireland
cũng bỏ phiếu chấp thuận nhận 67,5 tỷ euro khoản vay từ EU và IMF như một phần trong gói hỗ trợ 85 tỷ euro để vực dậy
ngân hàng Ireland và lĩnh vực tài chính công của nước này. Ireland sẽ đóng 17,5 tỷ euro vào gói giải cứu.
- 04/02/2011: Các nhà lãnh đạo khu vực Eurozone đã nhất trí trên nguyên tắc về "lộ trình" giải quyết khủng hoảng nợ.
- 15/02/2011: Bộ trưởng Tài chính các nước châu Âu đã đồng ý lập quỹ mới cho khu vực với trị giá khoảng 500 tỷ euro
tương đương khoảng 673,2 tỷ USD. Quỹ này sẽ có tên Kênh bình ổn châu Âu (ESM) thay cho quỹ 440 tỷ euro cũ với tên

Kênh bình ổn tài chính châu Âu (EFSF).
- 11/03/2011: 17 nhà lãnh đạo của khu vực Eurozone đã có những bước tiến về cơ cấu các gói trợ giúp cho các thành viên
của EU đồng thời đưa ra những luật lệ mới để phối hợp các chính sách kinh tế của mình. Tại hội nghị thượng đỉnh, các nhà
lãnh đạo đã đồng ý mở rộng phạm vi và quy mô của quỹ các gói trợ giúp, tăng mức độ cho vay từ 250 tỷ Euro (350 tỷ USD)
lên 440 tỷ Euro (615 tỷ USD) cho các quốc gia đang trong khủng hoảng.
- 05/04/2011: Cơ quan xếp hạng tín dụng Moody đã hạ xếp hạng tín dụng của Bồ Đào Nha lần thứ 2 trong 3 tuần bởi lo
lắng nước này không thể tránh được việc phải nhận tiền giải cứu từ EU. Moody hạ 1 bậc xếp hạng trái phiếu chính phủ dài
hạn của Bồ Đào Nha xuống mức Baa1 từ mức A3
- 07/04/2011: Thủ tướng Bồ Đào Nha đã chính thức xin châu Âu giải cứu với gói hỗ trợ được dự báo khoảng 80 tỷ euro.
- 16/05/2011: Bộ trưởng Tài chính Châu Âu nhất trí về gói giải cứu 78 tỷ euro tương đương khoảng 111 tỷ USD dành cho
Bồ Đào Nha trong 3 năm dưới sự kiểm soát của EU và IMF. Lãi suất áp dụng với khoản vay dành cho Bồ Đào Nha khoảng
trên 5,5% nhưng thấp hơn mức 6%. Hy Lạp đang bị hối thúc thực hiện chương trình tư hữu hóa 50 tỷ euro trước khi nhận
được gói giải cứu thứ 2.
- 12/06/2011: Nhóm Khu vực Eurozone ủng hộ đề xuất của Đức về việc tái cơ cấu "mềm" nợ công của Hy Lạp, với sự
đóng góp tự nguyện từ các nhà tín dụng khu vực tư nhân.
- 25/07/2011: Cơ quan xếp hạng tín dụng Moody đã hạ 3 bậc xếp hạng tín dụng của Hy Lạp xuống mức Ca trong ngày
thứ Hai, xếp hạng mới chỉ cao hơn 1 bậc so với mức vỡ nợ và khẳng định khả năng nước này vỡ nợ lên tới 100%.
- 20/09/2011: Standard & Poor’s (S&P) thì hạ một bậc tín nhiệm nợ công Italy, xuống mức A từ mức A+ và giữ triển
vọng tín dụng của nước này ở mức tiêu cực.
- 01/11/2011: số lượng người thất nghiệp tại Châu Âu đạt mức cao kỷ lục, khoảng 16,37 triệu người thất nghiệp
- 07/11/2011: Thủ tướng Hy Lạp George Papandreou đồng ý từ chức để cho phép sự thành lập một chính phủ thống nhất
nhằm đảm bảo nguồn vốn từ quốc tế và ngăn kinh tế Hy Lạp sụp đổ.
- 26/11/2011: Tổ chức xếp hạng tín dụng S&P đã hạ xếp hạng tín dụng của Bỉ xuống mức AA từ AA+ với lý do nước này
thiếu các biện pháp chính sách đảm bảo cho ngân hàng, đồng thuận chính sách và việc kinh tế tăng trưởng chậm sẽ khiến mục
tiêu giảm nợ khó thực hiện được. Nợ công của Bỉ cao thứ 5 tại khu vực đồng tiền chung châu Âu.
- 01/2012: Hy Lạp dự tính rời bỏ khỏi thị trường chung và chấm dứt sử dụng đồng Euro
- 14/01/2012: S&P hạ xếp hạng tín dụng 9 nước châu Âu: Xếp hạng tín dụng của Pháp và Áo bị hạ 1 bậc xuống mức
AA+ từ mức AAA; Tây Ban Nha và Italy cũng bị hạ xếp hạng tín dụng.
- 17/01/2012: Lạm phát của Eurozone giảm mạnh; Fitch tin Hy Lạp sẽ vỡ nợ
2,4 Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng nợ công

7
Cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu là kết quả của rất nhiều nguyên nhân khác nhau, được bắt nguồn từ nhiều năm trước
khi khu vực Eurozone được hình thành.
Nguyên nhân chủ quan
- Sự thiếu minh bạch trong việc công bố số liệu kinh tế trong nhiều năm.
Điều này được thể hiện rõ tại Hy Lạp - quốc gia bắt nguồn cho cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu. Tại thời điểm khi
xin gia nhập vào Eurozone, Hy Lạp đã có những dấu hiệu của việc đánh bóng số liệu kinh tế của mình. Năm 2000, Ngân hàng
Trung ương châu Âu (ECB) đã bày tỏ sự quan ngại về tình hình nợ của Hy Lạp và nhấn mạnh rằng, mức nợ này đã vượt xa
trần quy định của Eurozone. Tuy nhiên, trên giấy tờ, Hy Lạp cho thấy họ đã cắt giảm được thâm hụt ngân sách. Và dù chưa
giảm được nợ tới mức chuẩn, Athens đã nhấn mạnh vào tiền lệ là một số quốc gia khác như Italy và Bỉ vẫn được gia nhập
Eurozone khi chưa đáp ứng được đỏi hỏi về mức nợ chính phủ để buộc Eurozone đồng ý cho phép Hy Lạp gia nhập các quốc
gia sử dụng đồng Euro
Và giáo sư kinh tế học Jürgen von Hagen thuộc Đại học Bonn, Đức cho rằng: “Ở thời điểm đó, đã có những bằng chứng
rõ ràng cho thấy, Hy Lạp đưa ra những số liệu không trung thực, đặc biệt là về thâm hụt ngân sách, nhằm đưa ra hình ảnh về
tình hình tài chính công của họ ‘đẹp’ hơn thực tế. Nhưng các nhà lãnh đạo châu Âu đã không phản đối. Vì lý do chính trị, họ
phải cho Hy Lạp tham gia đồng Euro”,
- Sự quản lý lỏng lẻo, yếu kém của các chính phủ châu Âu
Trong vấn đề này, Hy Lạp lại là một dẫn chứng tiêu biểu. Hy Lạp được coi là một trong những quốc gia có nguồn thu
thuế “bèo” nhất châu Âu. Chỉ khoảng 15.000 cá nhân trên tổng số 11 triệu công dân Hy Lạp khai báo có thu nhập trên
100.000 euro/năm với mức thuế phải đóng là 4%. Số thuế bị trốn trong 10 năm qua ở Hy Lạp ước tính lên tới 35 tỉ euro. Đây
là một yếu tố quan trọng dẫn đến vấn đề thâm hụt ngân sách nặng của Hy Lạp.
Ngoài ra, ở Hy Lạp còn tồn tại sự yếu kém trong bộ máy quản lý của chính phủ, sự nhũng nhiễu, tham ô, tham nhũng có
hệ thống của bộ máy nhà nước. Theo cựu Bộ trưởng tài chính Diomidis Spinellis, nhà nước thường chỉ thu được 20% tiền
phạt từ hành vi trốn thuế; 40% bị thất thu và 40% còn lại bị các quan chức ngành thuế bỏ túi. Khi được kêu gọi nộp lại số tiền
gian lận, 10% lại bị các quan chức tham nhũng lại biển thủ. Thủ tướng Hy Lạp George Papandreou thừa nhận “tham nhũng
mang tính hệ thống” là vấn đề cơ bản nhất dẫn đến tình trạng nợ công Hy Lạp. Thiệt hại mà tham nhũng gây ra cho Hy Lạp
ước tính vào khoảng 8% GDP.
- Tình trạng thâm hụt ngân sách lớn và kéo dài:
Đây được coi là nguyên nhân chính và chủ đạo mà các nhà kinh tế coi là gốc rễ của cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu
Âu. Sự chi tiêu của các chính phủ châu Âu là quá lớn, thậm chí nhiều nhà phân tích kinh tế còn cho rằng, những chính phủ

châu Âu đã không có trách nhiệm khi quyết định chi tiêu quá lớn so với nền kinh tế và tăng trưởng kinh tế của chính nước
mình. Việc chi tiêu quá lớn đã tạo ra thâm hụt ngân sách và khủng hoảng nợ công (lương cao cho các nhà chính trị, công
chức, hệ thống an sinh xã hội và lao động, chế độ nghỉ hưu sớm).
Bảng so sánh rủi ro nợ công các nước
Quốc gia
Thâm hụt
ngân sách
2010
(%GDP)
Nợ GDP
2010
Nợ nước ngoài
(% tổng nợ)
Nợ ngắn hạn
(% GDP)
Tài khoản vãng
lai 2010 (%
GDP)
Hy Lạp -12.2 124.9 77.5 20.8 -10.0
Bồ Đào Nha -8.0 84.6 73.8 22.8 -9.9
Ireland -14.7 82.6 57.2 47.3 -1.7
Italy -5.3 116.7 49.0 5.7 -2.5
Tây Ban Nha -10.1 66.3 37.0 5.8 -6.0
Anh -12.9 80.3 22.1 3.3 -2.0
Mỹ -12.5 93.6 26.4 8.3 -2.6
Nguồn: European Commission, World Bank IMF
- Vấn đề tổ chức tài chính và điều hành kinh tế của EU:
Điều này bắt nguồn từ cơ cấu thành viên và sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các nước trong khu vực Eurozone.
Việc sử dụng một đồng tiền và tuân thủ chung một tiêu chuẩn giữa các nền kinh tế lớn nhỏ khác nhau đã làm nảy sinh nhiều
vấn đề. Châu Âu duy trì lãi suất thấp đã khuyến khích nhiều nhà nước và người dân trong khu vực Eurozone đi vay, chi tiêu

vượt quá khả năng của mình. Hậu quả là sau Hy Lạp, nhiều nước khác đã cần sự giúp đỡ của quốc tế để thanh toán các khoản
nợ đáo hạn.
Việc thực thi các điều kiện gia nhập của khu vực Eurozone lại không được thực hiện nghiêm ngặt. Theo qui định của
Eurozone, tỷ lệ nợ công tối đa đối với một quốc gia thành viên là 60% GDP, thâm hụt ngân sách hàng năm không được vượt
quá 3% GDP và lạm phát phải dưới mức 3% (còn gọi là Hiệp ước tăng trưởng và ổn định (SGP)). Tuy nhiên, trên thực tế, chỉ
có 2 trong số 16 quốc gia đáp ứng đầy đủ những tiêu chí này là Phần Lan và Luxembourg. Chính sự vượt rào “tập thể” này là
8
một nguyên nhân quan trọng khiến châu Âu rơi vào cuộc khủng hoảng nợ hiện nay. Điều này bắt nguồn từ áp lực chính trị
hơn là về quản lý kinh tế và chính sách tiền tệ và nó đã gây ra những tiền lệ xấu sau này.
EU và ECB cũng phản ứng chậm với các nền kinh tế khi gặp khủng hoảng. Ở đây đã có những bất đồng về nhận diện
nguyên nhân, sự chưa thống nhất về quan điểm, chính sách giải cứu và lo ngại về nợ công và triển vọng khu vực Eurozone
giữa các chính phủ, các chuyên gia kinh tế, trong nội bộ các quốc gia…. Điều này đã khiến khả năng đối phó và tìm ra giải
pháp với cuộc khủng hoảng nợ công ở châu Âu thiếu hiệu quả. Sự phản ứng thiếu hiệu quả của EU và ECB đã khiến tình hình
diễn biến phức tạp hơn, xếp hạng tín dụng của các quốc gia như Hy Lạp, Ireland, Italy, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha sụt giảm
liên tục, thủ tướng hàng loạt nước phải từ chức để mở đường cho việc thành lập chính phủ mới,… và khiến chi phí giải cứu
trị giá hàng trăm tỷ euro ngày càng phình to hơn
Nguyên nhân khách quan
- Những hệ quả của cuộc khủng hoảng tài chính vào năm 2008 tại Mỹ và cuộc khủng hoảng nợ tại Dubai
Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 bắt nguồn từ Mỹ đã tác động sâu sắc đến nền kinh tế toàn cầu từ khi nó bắt đầu
diễn ra cho đến thời điểm hiện nay. Không chỉ Mỹ mà các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia châu Âu đều tung ra
những gói cứu trợ khổng lồ nhằm mục đích kích thích kinh tế phát triển và cứu các ngân hàng không bị sụp đổ, bảo vệ các
khoản tiết kiệm, đồng thời ổn định và khôi phục lòng tin vào thị trường tài chính bằng các gói cứu trợ tài chính bao gồm tiền
mua cổ phiếu, tiền bảo lãnh, tiền cho vay và các kế hoạch bảo hiểm. Điều này đã làm gia tăng chi ngân sách và nợ công của
các chính phủ châu Âu một cách đáng kể.
Ngoài ra, cuộc khủng hoảng nợ công ở châu Âu còn chịu tác động không nhỏ từ cuộc khủng hoảng nợ tại Dubai diễn ra
vào tháng 11/2009. Cuộc khủng hoảng được bắt đầu bằng việc Dubai - một phần của Cộng đồng các tiểu vương quốc gia
Arập thống nhất (UAE) - đề nghị gia hạn thanh toán thêm ít nhất sáu tháng đối với khoản nợ khoảng 60-80 tỉ USD của
nghiệp đoàn Dubai World. Thực chất đây là cuộc khủng hoảng nợ chỉ liên quan đến một tập đoàn hoặc một khu vực nhưng đã
bị phóng đại thành vấn đề lớn do cách thức khắc phục hậu quả không được cân nhắc kỹ, các phương tiện thông tin đưa tin
một cách vội vàng và không đầy đủ. Đặc biệt là khi chính phủ UAE nói là không chịu trách nhiệm về các khoản nợ của Dubai

World đã làm tăng sự lo lắng của các chủ nợ về khả năng bảo lãnh của UAE, các nhà tài chính và đầu tư quốc tế chú ý hơn tới
việc bảo lãnh cho các doanh nghiệp nhà nước và có thể làm tăng việc đánh giá lại rủi ro thương mại và tài sản. Sau cuộc
khủng hoảng nợ tại Dubai, các nhà đầu tư trở lên nhạy cảm hơn và có thái độ nghi ngờ với những biến động về xếp hạng tín
nhiệm và khả năng thanh toán nợ của các quốc gia này
- Niềm tin thái quá của nhà đầu tư với chính phủ các nước thuộc Eurozone:
Trong những năm vừa qua, các nhà đầu tư đã đặt niềm tin thái quá về sự phát triển bền vững và ổn định của các quốc gia
thành viên khu vực Eurozone. Họ đã cho các quốc gia này vay với mức lãi suất cực kỳ thấp trong một thời gian dài chính vì
niềm tin thông qua việc mua tích trữ rất nhiều trái phiếu chính phủ dưới dạng tài sản bảo toàn vốn. Tuy nhiên, khi cuộc khủng
hoảng nợ công ở châu Âu xảy ra, niềm tin thái quá của nhà đầu tư cũng nhanh chóng sụp đổ theo. Điều này dẫn tới, sự bán
tháo ồ ạt các trái phiếu chính phủ khiến cho lãi suất huy động vốn thông qua trái phiếu chính phủ các nước thuộc Eurozone
tăng vọt khiến cho việc huy động vốn và việc cân đối ngân sách của các quốc gia này trở nên khó khăn hơn rất nhiều.
Nhìn chung, cuộc khủng hoảng nợ công tại châu Âu là tổng hòa của nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong đó có nhiều
nguyên nhân đã được các nhà phân tích kinh tế, các chính phủ chỉ ra như các cuộc tấn công tiền tệ nhằm mục đích làm suy
yếu đồng Euro, hoạt động đầu cơ tài chính, tính đúng đắn trong việc xác định xếp hạng tín nhiệm của các công ty xếp hạng
tín nhiệm đối với các quốc gia châu Âu,…
Các biện pháp đã và đang được thực hiện nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng nợ công tại châu Âu
Như phân tích ở trên, mặc dù EU và ECB đã có những phản ứng chậm chạp trong việc đối phó cuộc khủng hoảng nợ
công đang diễn ra trong khu vực của mình nhưng đã rất tích cực trong việc cố gắng tìm ra giải pháp cứu cả châu Âu thoát
khỏi cuộc khủng hoảng. Hy Lạp chỉ là một quốc gia nhỏ bé trên bản đồ thế giới cũng như là Châu Âu nhưng đây là thành
viên đầu tiên của EU và khu vực Eurozone lâm vào cuộc khủng hoảng nợ công và chịu thiệt hại lớn nhất, khả năng vỡ nợ rất
cao. Điều này khiến EU và ECB không thể làm ngơ, bởi lẽ sự phá sản của chính phủ Hy Lạp trong việc thanh toán nợ công sẽ
gây ra hiệu ứng Domino tài chính, nó sẽ lan ra toàn bộ châu Âu thậm chí là cả thế giới.
Chính tác động tiêu cực lâu dài mà cuộc khủng hoảng nợ công tại châu Âu có thể gây ra là rất lớn, ngày 10/5/2010, EU
và IMF đã nhất trí thiết lập “Quỹ chống khủng hoảng” trị giá 750 tỷ euro (1000 tỷ USD). Theo đó, các nước châu Âu đưa ra
572 tỷ USD (440 tỷ euro) khoản vay mới và bơm thêm 778 tỷ USD (60 tỷ euro) cho chương trình vay đang thực hiện. IMF
cũng sẽ đóng góp 325 tỷ USD (250 tỷ EUR) cho gói cứu trợ. Tiếp theo đó là gói cứu trợ trị giá 85 tỷ euro cho Ireland vào
tháng 11/2010 và 78 tỷ euro cho Bồ Đào Nha vào tháng 5/2011. Mới đây nhất, vào tháng 8/2011, ECB đã tung ra số tiền khá
lớn để mua lại trái phiếu Chính phủ của Ý và Tây Ban Nha, với điều kiện các nước này phải cắt giảm chi tiêu mạnh mẽ hơn
và để đổi lấy gói cứu trợ khẩn cấp, một vài nước như Hy Lạp, Ireland và Bồ Đào Nha đã thông qua các biện pháp cắt giảm
chi tiêu mạnh mẽ.

Nhìn chung, giải pháp cung cấp các gói cứu trợ cho các quốc gia có nguy cơ vỡ nợ cao như Hy Lạp, Ireland, Bồ Đảo
Nha, Tây Ban Nha cùng với việc các quốc gia này phải áp dụng chương trình cắt giảm chi tiêu mạnh mẽ vẫn là giải pháp chủ
9
đạo mà EU và ECB kết hợp với IMF tiến hành cho đến thời điểm hiện nay. Tuy nhiên, việc thực hiện cắt giảm chi tiêu công
mạnh mẽ có nguy cơ đưa nền kinh tế các quốc gia áp dụng sẽ rơi vào vòng xoáy suy thoái, đồng thời sẽ ảnh hưởng tiêu cực
đến phúc lợi xã hội và tình hình tài chính cá nhân của người dân.
Ngoài ra, hiện nay cũng có một số giải pháp khác được bàn tới như thiết lập một hệ thống xếp hạng tín nhiệm mới phù
hợp với đặc thù của các quốc gia châu Âu đồng thời xây dựng một hệ thống các công cụ kiểm soát tài chính nhằm đánh giá
chính xác hơn và kiểm soát chặt chẽ tình hình chi tiêu công của các quốc gia thuộc khu vực Eurozone… Tuy nhiên, đây mới
chỉ là những ý tưởng và đang trong quá trình phát triển.
Bài học rút ra từ cuộc khủng hoảng
- Chính phủ các quốc gia cũng như Ban điều hành Liên minh Châu Âu và khu vực Eurozone cần phải có những động thái
nhanh hơn trong việc đề ra biện pháp đối phó với cuộc khủng hoảng nợ công.
- Không tiếp tục mở rộng EU và khu vực Eurozone khi các quốc gia chưa áp dụng nghiêm ngặt các điều kiện đặt ra về tỷ
lệ nợ công trên GDP, lạm phát, bội chi ngân sách.
- Phải trừng phạt nghiêm khắc những quốc gia vi phạm Hiệp ước ổn định và tăng trưởng của EU
Kết luận:
Rõ ràng, nợ công đang trở thành một vấn nạn không chỉ đối với EU mà còn đối với nhiều nước trên thế giới. Khi khủng
hoảng nợ dâng cao sẽ đẩy nhiều quốc gia EU đến những biến động chính trị - xã hội hết sức nóng bỏng.
Thông qua những vấn đề về nợ công hiện nay đã đề cập ở trên, có thể rút ra một số điều sau đây :
Thứ nhất, nợ công không chỉ là vấn đề của những nước chậm hoặc đang phát triển. So khoản nợ công với GDP, hiện nay,
gánh trên vai gánh nặng nợ công lớn nhất là các nền kinh tế phát triển, trong đó, khu vực đồng Euro đang đứng trước những
thử thách to lớn khi Hy Lạp phải viện đến gói cứu trợ của EU và IMF để tránh rơi vào tình trạng vỡ nợ.
Thứ hai, khi nợ công quá lớn, việc thắt chặt chi tiêu, thực hiện chính sách “thắt lưng buộc bụng” để giảm thâm hụt ngân
sách là điều kiện phải đáp ứng để được nhận sự hỗ trợ cần thiết từ các tổ chức tín dụng quốc tế, thế nhưng, “thắt lưng buộc
bụng” lại dẫn tới những cuộc biểu tình phản đối của quần chúng, gây căng thẳng, bất ổn chính trị, xã hội, bởi những người
nghèo, những người yếu thế trong xã hội là những người bị tác động mạnh nhất từ chính sách cắt giảm phúc lợi, cắt giảm chi
tiêu của chính phủ.
Thứ ba, trong thời điểm hiện nay, khi nền kinh tế toàn cầu mới thoát khỏi khủng hoảng, bắt đầu có dấu hiệu phục hồi do
kết quả của các gói kích thích kinh tế mà chính phủ các nước đã chi ra trong những năm trước đây, thì việc cắt giảm chi tiêu,

tăng thuế sẽ làm giảm đầu tư, kìm hãm sự phục hồi của nền kinh tế, làm chậm tốc độ tăng trưởng, thậm chí có thể đẩy nền
kinh tế vào “khủng hoảng kép”. Nghiêm trọng hơn, việc tung ra các gói kích thích kinh tế chính là một trong những nguyên
nhân làm tăng nợ công của các chính phủ, vậy nếu như khủng hoảng “tái xuất” thì liệu các chính phủ có còn đủ khả năng
xoay xở, cứu vãn nền kinh tế của mình? Vấn đề đặt ra cho các chính phủ là phải chèo lái để giải quyết được thâm hụt ngân
sách nhưng không đẩy nền kinh tế trở lại tình trạng suy thoái, trong khi các biện pháp để giải quyết hai vấn đề này lại có tác
động không thuận chiều.
Thứ tư, khi nợ công liên tục tăng cao, nền kinh tế bị hạ bậc tín nhiệm theo báo cáo của các tổ chức chuyên đi đánh giá tín
nhiệm các công ty và quốc gia khác, niềm tin của người dân và giới đầu tư bị lung lay, khi đó nền kinh tế dễ trở thành mục
tiêu tấn công của các thế lực đầu cơ quốc tế.
Thứ năm, việc căn cứ vào mức nợ công trên GDP để xác định tình trạng nợ công là hết sức quan trọng, tuy nhiên, điều
quan trọng không kém là phân tích “thực chất” nợ công. Đó là: nợ chính phủ là vay nợ trong nước hay vay nợ nước ngoài; tốc
độ tăng trưởng của nền kinh tế, hay tình trạng “sức khỏe” nói chung của nền kinh tế; lượng dự trữ quốc gia…
Như vậy, việc đánh giá đúng nợ công và “thực chất” nợ công của một nền kinh tế, một quốc gia là vô cùng quan trọng,
đặc biệt trong những thời điểm nhạy cảm. Bởi lẽ, nếu chỉ chú trọng vào con số tỷ lệ nợ công cao một cách thuần túy sẽ gây
nên hiệu ứng tâm lý hoang mang, kích động, thiếu tin tưởng, làm gia tăng căng thẳng xã hội, bị giới đầu cơ lợi dụng tấn công,
dễ gây rối loạn nền kinh tế, thậm chí dẫn nền kinh tế đến bên bờ vực phá sản. Ngược lại, nếu yên tâm với tỷ lệ nợ công còn
trong giới hạn an toàn, mà không phân tích cẩn trọng, chú ý đúng mức đến khoản nợ đó được hình thành như thế nào, bằng
cách nào, thực trạng nền kinh tế ra sao và khả năng trả nợ thế nào…, cũng sẽ dễ đẩy nền kinh tế rơi vào vòng xoáy thâm hụt
ngân sách – “thắt lưng buộc bụng” – tác động tiêu cực đến tăng trưởng…
Với các bức tranh nợ công nêu trên, có thể khẳng định mỗi nước dù ở mức độ nào cũng liên quan đến nợ công và nợ công
vẫn thực sự cần thiết cho mọi nền kinh tế, cho mọi quốc gia. Điều quan trọng cần bàn đó là qui mô nền kinh tế như thế nào thì
có khả năng hấp thụ nguồn tín dụng tương ứng. Hiện tại thế giới chưa có công thức chuẩn xác cho mọi trường hợp nợ công và
như vậy nợ công vẫn là câu chuyện dài, vì lẽ đó mỗi quốc gia cần nhận thức và xử lý các vấn đề phát sinh từ nợ công cho phù
hợp.
3, tinh hình huy động vốn qua tín dụng ngân hàng
10
• Trước hết, do giá vàng, tỷ giá biến động mạnh, do CPI các tháng cuối năm 2010 và đầu năm 2011 ở mức rất cao, do
là các tháng áp Tết Nguyên đán, cộng việc áp trần LS huy động VND 14%/năm, nên nguồn vốn vào hệ thống ngân hàng đã
chững lại, thậm chí giảm. Tháng 1, nguồn vốn huy động của cả hệ thống giảm gần 2,5% so với cuối năm 2010. Các tháng
sau, nguồn vốn đã phục hồi, nhưng mức tăng thấp hơn nhiều so với các năm trước. Nguồn vốn vào hệ thống chỉ tăng đáng kể

khi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thực hiện mua USD vào các tháng giữa năm. Mặc dù vậy, tính đến cuối tháng 10, huy
động của cả hệ thống chỉ tăng 8,59% so với cuối năm 2010 (khoảng 40% mức tăng cùng kỳ năm ngoái).
Nguồn vốn vào rất hạn chế, đối lập với nhu cầu rất lớn của các NHTM, ngay cả khi áp trần tín dụng mới, do các nghĩa vụ
trả nợ tiền gửi cũng như nghĩa vụ thực hiện các cam kết giải ngân tín dụng từ trước lớn, nên thanh khỏan của các NHTM luôn
ở tình trạng căng thẳng. Cộng với việc theo đuổi CSTT thắt chặt, NHNN tăng LS trên thị trường mở, kéo theo việc tăng LS
trên thị trường liên ngân hàng (LNH) (vào tháng 4, Lãi suất trên thị trường LNH kỳ hạn qua đêm lên tới 19 – 20%/năm, kỳ
hạn 1 tháng khoảng 22 – 23%/năm) và việc qui định tỷ lệ huy động trên thị trường 2 tối đa là 20% huy động trên thị trường 1,
nên lách trần LS huy động cùng với các sản phẩm huy động siêu ngắn đã bùng phát.
LS huy động được các NHTM đẩy lên ngay từ những tháng đầu năm. Mức vượt trần phụ thuộc vào qui mô tiền gửi và
“nghệ thuật thương lượng” của khách hàng, nhưng phổ biến lên khoảng 3 – 5%/năm, tức 17 – 20%/năm, không phân biệt
ngân hàng to nhỏ. Bên cạnh đó, các NHTM cũng áp dụng các hình thức khuyến mãi khác như tặng quà, rút thăm trúng
thưởng Vấn đề là trần LS đã được NHNN chính thức qui định từ 3/3/2011(trước đó là các NHTM tự thỏa thuận), nên việc
lách trần LS huy động đã gây ra những méo mó đáng kể trong công tác hạch toán kế toán. Nghiêm trọng hơn là văn hóa kinh
doanh ngân hàng suy giảm khi tình trạng hai giá phổ biến, khách hàng đến ngân hàng giao dịch đương nhiên mặc cả LS,
không quan tâm tới trần LS của NHNN, bảng LS giao dịch của ngân hàng.
• Thứ hai, tăng tính bị động và rủi ro thanh khoản đối với hoạt động ngân hàng: Không dừng lại ở đó, LS huy động
không kỳ hạn cũng được đẩy lên tương ứng với LS có kỳ hạn. Các sản phẩm tiền gửi kỳ hạn siêu ngắn đã được các NHTM
nhanh chóng chào bán, nhằm đánh vào tâm lý khách hàng gửi tiền trong thời bão giá. Các NHTM cũng cho khách hàng rút
tiền gửi linh hoạt và tính LS theo kỳ hạn thực gửi (thực chất là áp lãi tiền gửi có kỳ hạn đối với những khoản tiền gửi không
kỳ hạn). Như vậy, không chỉ chi phí bị đội lên, các NHTH còn tự đẩy họ vào các điều kiện bất lợi, bị động, rủi ro. Cộng với
thực tế các khoản tín dụng đều có kỳ hạn và có tới 30 – 40% dư nợ tín dụng là tín dụng trung dài hạn thì rủi ro thanh khoản
đối với hệ thống đã tăng vọt. Hệ quả dễ nhận thấy là những khó khăn về thanh khoản, nhất là đối với các NHTM nhỏ kể từ
thời điểm NHNN cưỡng chế nghiêm ngặt trần LS huy động 14% từ tháng 9/2011. Việc hợp nhất 3 ngân hàng vừa qua cho
thấy sự căng thẳng thanh khoản trong hệ thống và điều này sẽ hạn chế không ít khả năng điều hành CSTT nói chung, chủ
trương giảm LS nói riêng.
• Thứ ba, mất cân đối tiền tệ, thanh khoản ngoại tệ
căng thẳng và áp lực tỷ giá: Huy động VND hạn
chế đã thúc đẩy các NHTM tìm kiếm các nguồn
thay thế. Ngoại tệ là lựa chọn đầu tiên, không chỉ
bởi nguồn ngoại tệ trong nền kinh tế dồi dào, mà lợi

ích cao so với tín dụng VND cũng tạo ra các động
lực mạnh mẽ trong hoạt động tín dụng ngoại tệ. Tín
dụng ngoại tệ đã tăng mạnh kể từ những tháng đầu
năm.
Mặc dù khoảng cách giữa tốc độ tăng dư nợ ngoại tệ và VND đã được thu hẹp với hàng loạt chính sách hạn chế tín dụng
ngoại tệ (tăng tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi bằng ngoại tệ; áp tỷ lệ DTBB 1% đối với tiền gửi bằng ngoại tệ của các TCTD ở
nước ngoài; thu hẹp đối tượng tín dụng ngoại tệ; ), nhưng cả năm, ước tín dụng ngoại tệ vẫn tăng tới 18,7%, gần gấp đôi tốc
độ tăng dư nợ VND.
Do dư nợ và huy động ngoại tệ tăng nhanh trong các tháng đầu năm, nên việc áp trần LS huy động USD, thực hiện
qui định bán ngoại tệ của các tổ chức và siết chặt quản lý ngoại hối, quản lý ổn định tỷ giá nên các NHTM lại rơi vào
11
tình trạng căng thẳng thanh khoản ngoại tệ. Các sản phẩm huy động ngoại tệ đa dạng lại xuất hiện gây khó khăn cho
công tác quản lý tỷ giá, quản lý ngoại hối và quản lý vấn đề đô la hóa của NHNN.
• Thứ tư, dư nợ nền kinh tế thấp so với trần cho phép và nợ xấu gia tăng: Dư nợ cả năm ước chỉ tăng 12 – 13%, thấp
hơn so với trần cho phép. Lý do từ cả hai phía. Bản thân nhu cầu vay cũng hạn chế do LS quá cao, trong khi hạn chế lượng
tiền trong nền kinh tế cũng làm giảm mạnh sức mua trong nước. Xuất khẩu tăng chủ yếu là do giá tăng vì kinh tế thế giới
cũng trì trệ hơn so với năm 2010. Phía cung, một số có khả năng cho vay thì bị giới hạn bởi trần, số khác còn “room”, nhưng
lại không có nguồn. Bên cạnh đó, LS trên thị trường LNH cao cũng khuyến khích các NHTM cho vay các NHTM, TCTD
khác, thay vì cho vay nền kinh tế. Hệ quả là dư nợ cả năm chỉ tăng 12- 13%, còn nợ xấu gia tăng, ở mức 3,6-3,8% trên tổng
dư nợ.
Các tác động tới nền kinh tế
Không chỉ hệ thống ngân hàng, các TCTD rơi vào tình trạng đứng ngồi không yên, mà theo tính toán sơ bộ cũng có tới hàng
ngàn doanh nghiệp phải đóng cửa.
Tổng đầu tư xã hội cũng chịu tác động nặng nề, đặc biệt là đầu tư khu vực ngoài nhà nước. Theo số liệu cuả Tổng cục Thống
kê, tổng đầu tư xã hội năm 2011 tăng 5,7%, mức thấp nhất trong 5 năm qua, đặc biệt đầu tư ngoài nhà nước năm 2011 chỉ
tăng 3,3%, chỉ vào khoảng 1/8 tốc độ tăng của năm 2010.
Tốc độ tăng đầu tư theo thành phần kinh tế. Sức mua nền kinh tế. Nguồn: Tổng cục Thống kê.
Sức mua nội địa cũng giảm mạnh. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá thực tế cả năm ước
tăng 24,2% so với năm 2010. Nếu loại trừ yếu tố giá, thì mức tăng là 4,7%, thấp hơn nhiều so với mức tăng 14% năm 2010 và
11% năm 2009.

Tăng trưởng kinh tế cả năm ước 5.89%, thấp hơn so với kế hoạch, đặc biệt khu vực xây dựng đã giảm tuyệt đối, mức giảm là
-0,97%. Cho dù con số giảm không lớn, nhưng so với tốc độ tăng trưởng luôn lớn hơn 10% của khu vực này các năm trước,
thì đây là khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Do khu vực xây dựng là khu vực sử dụng nhiều lao động, nên sự thu hẹp của
khu vực này có ảnh hưởng không nhỏ tới vấn đề giảm sút sức tiêu dùng nội địa năm 2011.

Nói tóm lại, có thể nói, các mục tiêu về ổn định vĩ mô năm 2011 về cơ bản đã được thực hiện, nhưng khu vực ngân hàng và
nền kinh tế đã chịu tác động nặng nề và đây chính là các vấn đề của năm 2012.
12
3.1. Các nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh ngân hàng trong điều kiện lạm phát ở mức cao
Trong giai đoạn hiện nay, để giảm thiểu những tác động tiêu cực của lạm phát và biến động của thị trường tiền tệ đến hoạt
động kinh doanh, đảm bảo cho các hoạt động Ngân hàng phát triển an toàn và bền vững, các NHTM nên thực hiện đồng bộ
các nhóm giải pháp sau đây:
. Tái cấu trúc tài sản có
Tái cấu trúc tài sản có, hoạt động kinh doanh cho phù hợp với những biến động của thị trường, nhằm giảm thiểu rủi ro, trên
cơ sở các giải pháp:
- Cơ cấu lại danh mục tài sản có theo hướng lỏng hoá, đảm bảo cân bằng giữa hai mục tiêu lợi nhuận và khả năng thanh
khoản trong từng thời kỳ, trong đó phải đặc biệt ưu tiên vấn đề thanh khoản trong các tình huống xấu nhất.
- Đa dạng hoá các sản phẩm huy động vốn, điều hành lãi suất huy động linh hoạt, phù hợp với các diễn biến của thị trường để
tăng cường năng lực huy động vốn, đảm bảo khả năng tự chủ về nguồn vốn.
- Cơ cấu lại danh mục tín dụng theo hướng đảm bảo sự cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn để hạn chế rủi ro kỳ hạn vốn,
đa dạng hoá danh mục tín dụng để phân tán rủi ro, ưu tiên vốn tín dụng cho các ngành, lĩnh vực ít nhạy cảm, có khả năng
chống đỡ biến động giá cả.
- Phát triển sản phẩm, dịch vụ nhằm tăng thu nhập từ các hoạt động cung cấp dịch vụ, giảm sự phụ thuộc vào hoạt động tín
dụng.
. Nâng cao năng lực tài chính
Nâng cao năng lực về tài chính và khả năng quản trị của hệ thống Ngân hàng theo các chuẩn mực quốc tế là giải pháp cơ bản
để đảm bảo sự phát triển an toàn và bền vững. Trong hoàn cảnh của các NHTM trong nước hiện nay, các giải pháp tối ưu là:
- Đối với các NHTM Nhà nước, cần đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá nhằm thu hút thêm vốn, đổi mới hình thức sở hữu,
phương thức quản lý để nâng cao hiệu quả hoạt động, làm nền tảng để duy trì sự ổn định và phát triển của cả hệ thống.
- Tìm kiếm các nhà đầu tư chiến lược là các định chế tài chính nước ngoài đầu tư vào các Ngân hàng trong nước, qua đó để

tăng cường tiềm lực về tài chính và nâng cao trình độ quản lý của từng Ngân hàng.
- Tạo điều kiện và thúc đẩy các quá trình hợp nhất, sáp nhập, mua lại trong hệ thống các NHTM, đặc biệt là các Ngân hàng
quy mô nhỏ để tăng cường năng lực cạnh tranh, tránh rủi ro hệ thống.
Chú trọng công tác quản trị rủi ro, kiểm tra kiểm soát nội bộ
Hoạt động kinh doanh ngân hàng rất nhạy cảm, có liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, liên quan đến hoạt
động của các doanh nghiệp và các cá nhân. Khi một ngân hàng gặp phải rủi ro lớn, có thể dẫn tới việc người gửi tiền ở ngân
hàng hoang mang lo sợ và kéo nhau ồ ạt đến rút tiền ở ngân hàng, làm cho không chỉ ngân hàng gặp rủi ro mà cả hệ thống
ngân hàng gặp khó khăn, nền kinh tế - xã hội mất ổn định. Bởi vậy, tiếp tục bổ sung, điều chỉnh chính sách, xây dựng, hoàn
thiện các quy trình quản trị rủi ro, hòan thiện tổ chức và hoạt động kiểm tra kiểm soát nội bộ ở các NHTM là các vấn đề cần
phải được chú trọng, để tạo niềm tin cho khách hàng, công chúng trong bối cảnh hiện nay.
Hệ thống quản trị rủi ro tín dụng cần tập trung vào việc nâng cao chất lượng phân tích khách hàng, xếp hạng tín dụng, hệ
thống phê duyệt và kiểm soát tín dụng. Vận dụng một cách có hiệu quả các mô hình lượng hoá rủi ro tín dụng đã được áp
dụng trên thế giới để tạo công cụ hỗ trợ đắc lực trong việc ra quyết định tín dụng đúng đắn.
Tiếp tục cải tiến các mô hình quản trị rủi ro thị trường (hệ thống theo dõi và kiểm soát thanh khoản, rủi ro lãi suất và rủi ro
ngoại hối) theo hướng tiên tiến và hiện đại. Hình thành cơ sở dữ liệu phục vụ cho việc phân tích, quản trị rủi ro, ứng dụng
công nghệ, sử dụng các phương pháp đo lường rủi ro hiện đại đảm bảo đưa ra những quyết sách điều hành phòng ngừa và hạn
chế rủi ro thích hợp, nhanh nhạy, chi phí thấp và hiệu quả cao.
Đi liền với quản trị rủi ro là hoạt động của hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ. Hệ thống này của Ngân hàng cần bảo đảm
mức độ đầy đủ, tính hiệu lực và hiệu quả. Công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ không chỉ dừng ở công tác hậu kiểm, dưới hình
thức tổ chức từng đợt kiểm tra, phát hiện những sai phạm đã phát sinh, mà cần nâng cao khả năng phát hiện, ngăn ngừa và
quản trị rủi ro. Ngoài ra cần nâng cao vai trò của Bộ phận kiểm toán nội bộ, thực hiện đánh giá độc lập về hoạt động của hệ
thống kiểm soát nội bộ, đưa ra những khuyến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ ở NHTM.
Tăng cường sự liên kết và hợp tác giữa các NHTM
Tăng cường tính liên kết và hợp tác giữa các Ngân hàng với nhau để: thứ nhất, có thể khai thác lợi thế cạnh tranh của nhau,
cùng phát triển sản phẩm, dịch vụ, thu hút Khách hàng, tiết giảm chi phí, tăng hiệu quả hoạt động; thứ hai, có thể hỗ trợ lẫn
nhau trong vấn đề thanh khoản khi thị trường có biến động bất lợi. Sự hợp tác giữa các NHTM không chỉ góp phần kiềm chế
lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và phát triển kinh tế đất nước, mà còn vì chính lợi ích và sự phát triển của cộng đồng doanh
nghiệp, trong đó có các NHTM.
Tóm lại, khi nền kinh tế xảy ra lạm phát ở mức cao, các chính sách tài chính và tiền tệ được thắt chặt thì hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp nói chung và hệ thống NHTM nói riêng không thể tránh khỏi những tác động tiêu cực. Với vai

13
trò huyết mạch, là cầu nối chuyển tải các tác động của chính sách tiền tệ đến toàn bộ nền kinh tế, hoạt động của hệ thống
NHTM luôn phải chịu những tác động trực tiếp và tức thời của tình hình lạm phát. Các giải pháp kinh doanh ngân hàng,
chống đỡ lạm phát, đảm bảo kinh doanh an toàn, hiệu quả và bền vững là cần thiết không chỉ cho bản thân mỗi một NHTM
mà còn góp phần thực hiện được mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, mang lại tăng trưởng bền vững cho nền
kinh tế, hỗ trợ, phục vụ tích cực các doanh nghiệp, các ngành kinh tế, sản xuất kinh doanh phát triển./.
Bài tham luận Hội thảo khoa học “Ảnh hưởng của lạm phát đến hoạt động kinh doanh ngân hàng, bảo hiểm và chứng khoán
ở Việt Nam hiện nay” của Học Viện Tài chính, tháng 10/2008.
TS. Đỗ Thị Thủy
5,tình hình Huy động vốn qua nguồn vốn FDI
Nguồn vốn FDI (Foreign Direct Investment) có vai trò tích cực hơn vốn ODA nhờ đi kèm với vốn FDI là chuyển giao công
nghệ, kỹ năng quản lý và tạo điều kiện cho nước nhận vốn FDI tiếp cận được phương pháp quản lý
hiện đại, cách thức tổ chức doanh nghiệp đa dạng và hiệu quả. Cho đến hiện nay vẫn tồn tại hai quan điểm về tiếp nhận và sử
dụng vốn FDI thế nào cho có hiệu quả tại các nước đang phát triển và các nước kém phát triển. Quan điểm thứ nhất cho rằng
các nước đang phát triển vừa thiếu vốn, vừa nhập siêu trong thương mại quốc tế, nên FDI sẽ giúp họ khắc phục hai khó khăn
này. Quan điểm thứ hai cho rằng vốn FDI là khoản vay dài hạn và lợi nhuận của khoản này chính là lợi nhuận sau thuế của
doanh nghiệp và các doanh nghiệp được quyền chuyển lợi nhuận này về nước. Điều này sẽ làm ảnh hưởng đến cán cân thanh
toán của các quốc gia đang phát triển; và quan điểm thứ hai ngày càng được khẳng định khi các cuộc khủng hoảng liên ti ếp
xãy ra vào các năm 1997 và 2008 đã làm cho dòng lợi nhuận từ FDI trong nước chảy ra nước ngoài với khối lượng lớn làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thanh khoản bằng ngoại tệ của các quốc gia có cơ cấu vốn đầu tư từ FDI lớn. Không ai
phủ nhận vai trò tích cực của FDI đối với sự tăng trưởng kinh tế của các quốc gia; tuy nhiên, cần phải hiểu biết những mặt
trái của FDI nhằm có chính sách thu hút và sử dụng FDI hiệu quả hơn.
Lợi ích và hạn chế của nguồn vốn FDI
Những tác động hai mặt của FDI trước yêu cầu phát triển bền vững và tái cấu trúc nền kinh tế trong giai đoạn phát triển
mới, mà nổi bậc là:
Bổ sung nguồn vốn đầu tư xã hội, nhưng còn nhiều hạn chế về chất lượng tăng trưởng
Vốn FDI là nguồn bổ sung vốn quan trọng trong tổng nguồn vốn, nhất là trong giai đoạn khởi động nền kinh tế. Những năm
gần đây, vốn FDI thực hiện ở Việt Nam đã đạt mức trên 10 tỷ USD (với số vốn bên ngoài chuyển vào trên 8 tỷ$) là con số
lớn, chiếm khoảng ¼ tổng vốn đầu tư cả nước và tạo ra đến 45% giá trị sản lượng sản phẩm công nghiệp. Tuy nhiên, các
nguồn vốn này thường đầu mới được dành cho đầu tư các dự án thuộc loại “gia công”, tỷ lệ giá trị gia tăng của khu vực FDI

trong công nghiệp lại chỉ đạt 40%, chưa tạo nên hiệu quả vượt trội tương ứng, trong khi Khu vực kinh tế Nhà nước tạo ra
18,5% giá trị sản lượng công nghiệp (giá thực tế), nhưng đã tạo ra tới 28% giá trị gia tăng ngành công nghiệp. Đó là do nhiều
DNNN đã nắm các lĩnh vực công nghiệp quan trọng và có hiệu quả khá cao như dầu khí, điện, than, xi măng.
Mở rộng xuất khẩu, những cũng làm tăng dòng nhập siêu
Các doanh nghiệp FDI đã tạo nên giá trị xuất khẩu lớn, chiếm trên dưới 50% giá trị xuất khẩu cả nước. Tuy nhiên, nếu xét kỹ,
các doanh nghiệp FDI mới tạo ra được nhiều bán thành phẩm như các linh kiện lắp ráp để xuất đi. Trong khi đó tình trạng
“nhập siêu” của các doanh nghiệp FDI lại trở nên vô cùng sôi nổi. Nếu như trước đây khi Việt Nam chưa gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO), các doanh nghiệp FDI chỉ được phép nhập khẩu hàng hóa phục vụ cho hoạt động sản xuất tại
Việt Nam, chứ không được nhập hàng để trực tiếp kinh doanh phân phối, bán lẻ thì giờ đây , khi Việt Nam là thành viên
WTO, các doanh nghiệp FDI được đối xử bình đẳng theo quy chế tối huệ quốc. Một số đơn vị đã tận dụng quyền phân phối
theo cam kết WTO để nhập khẩu hàng từ công ty mẹ vào Việt Nam bán. Thậm chí có trường hợp thu hẹp sản xuất tại Việt
Nam và tập trung nhiều hơn cho hoạt động thương mại. Hiện tượng này khiến nhiều người lo ngại doanh nghiệp FDI, từng
được hưởng nhiều ưu đãi để mở nhà xưởng sản xuất, nay có thể chuyển sang nhập khẩu hàng để bán ở Việt Nam thay vì chỉ
tập trung sản xuất như trước. Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Thành Biên nhận định khối FDI nhập siêu một phần nữa
là do phải nhập khẩu nhiều máy móc, thiết bị phụ tùng để sản xuất. Phần lớn trong số này là để phục vụ khai thác, thăm dò
dầu khí.
Tạo thêm công ăn việc làm, n hg cũng làm mất đi nhiều việc làm truyền thống và chưa coi trọng đào tạo người
lao động
Trong nhiều năm qua, các doanh nghiệp FDI thu hút khoảng 2 triệu lao động làm việc trực tiếp và hàng triệu lao động trong
các khâu gián tiếp khác. Tuy nhiên, bên cạnh đó hoạt động của các dự án có FDI cũng làm mất đi nhiều việc làm truyền
thống của dân cư vùng bị thu hồi đất và tạo thêm áp lực xã hội cho nhiều địa phương có liên quan; Đặc biệt, thu hút lao
14
động của các doanh nghiệp FDI còn thiên về khai thác nguồn lao động có giá nhân công rẻ, ít đào tạo, thậm chí dùng cơ chế
thử việc để liên tục thay lao động.
Không ít doanh nghiệp FDI gây ô nhiễm môi trường tự nhiên và khai thác lãng phí tài nguyên thiên nhiên
Trong quá trình kinh doanh ở Việt Nam, nhiều doanh nghiệp FDI đã chú trọng khai thác nhiều tài nguyên tự nhiên (nhất là
tài nguyên không tái tạo như khai thác mỏ khoáng sản), gây tàn phá môi trường tự nhiên. Bài học của doanh nghiệp Vedan
cũng chỉ là một ví dụ mới nhất, mà hệ quả chưa nhìn thấy hồi kết. Đó là chưa kể ô nhiễm khí, ô nhiễm tiếng ồn, ô nhiễm bụi,
v.v thậm chí phá hoại đa dạng sinh học cũng cần được quản lý chặt chẽ.
Tăng đóng góp tài chính quốc gia, nhưng còn nhiều hành vi tiêu cực, trốn tránh nghĩa vụ tài chính và tạo cạnh

tranh không lành mạnh
Các doanh nghiệp FDI đóng góp nguồn vốn không nhỏ cho ngân sách Nhà nước xét về tổng thể. Tuy nhiên, thực tế cho thấy
có tới 50% doanh nghiệp có FDI liên tục khai kinh doanh bị lỗ, và phần lớn các liên doanh đã chuyển sang hình thức đầu tư
100% vốn nước ngoài là hiện tượng không bình thường, cho thấy có hiện tượng lạm dụng chính sách ưu đãi và cơ chế
“chuyển giá”, gây thiệt hại cho NSNN và tình trạng kinh doanh thiếu minh bạch, cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh
nghiệp. Tình trạng đầu cơ đất, “bán” dự án khá phổ biến khiến công tác quản lý tài nguyên và đất đai thêm khó khăn.
Tăng áp lực cạnh tranh , nhưng chưa có nhiều hoạt động chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý
Chấp nhận cạnh tranh trên thị trường sân nhà trong khi thu hút vốn FDI, nhiều nhà hoạch định chính sách, nhiều ngành và
địa phương hy vọng, cùng với tăng nguồn vốn, mở mang thị trường, các doanh nghiệp FDI sẽ tiến hành chuyển giao công
nghệ và kỹ năng quản lý cho người Việt Nam. Tuy nhiên thành quả trong lĩnh vực này rất khiêm tốn. Do cách thức sản xuất
theo công đoạn trong mạng lưới toàn cầu, mà nhà đầu tư còn giữ phần lớn bí quyết công nghệ, nên việc chuyển giao công
nghệ rất ít và việc truyền bá kinh nghiệm quản lý cũng gần như không có gì. Đây là vấn đề đòi hỏi nỗ lực của cả các nhà khoa
học và quản lý Việt Nam phải vươn lên để học hỏi trong công việc, từng bước vươn lên. Kinh nghiệm trong xây dựng các
công trình lớn, khai thác dầu khí, điện, than, đáng để mở rộng, trong khi các kinh nghiệm trong gia công hàng hóa còn rất
khiêm tốn.
• Tình hình FDI năm 2011
Kinh tế xã hội Việt Nam chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các tiêu cực của kinh tế thế giới cộng với những hạn chế của nội tại nền
kinh tế dẫn đến những bất ổn của kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, sự chỉ đạo, điều hành
quyết liệt của Chính phủ, cùng với sự nỗ lực của các bộ, ngành, các địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân, nền
kinh tế nước ta đã có chuyển biến tích cực và đạt được những kết quả trong việc kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,
bảo đảm an sinh xã hội và duy trì mức tăng trưởng khá. Khu vực FDI vẫn đạt được những kết quả tương đối khả quan, thể
hiện trên các mặt sau:
Thứ nhất, vốn thực hiện đạt 11 tỷ USD đã đóng góp 25,9% tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2011. Trong bối cảnh thực hiện
chính sách tài khóa và tiền tệ chặt chẽ, đầu tư của khu vực nhà nước tiếp tục suy giảm, thì đây là một trong những nguồn vốn
bổ sung quan trọng cho đầu tư phát triển.
Thứ hai, mặc dù vốn đăng ký mới và tăng thêm chỉ đạt 14,7 tỷ USD, nhưng vốn đăng ký tăng thêm của các dự án đã cấp
phép đạt 3,1 tỷ USD, tăng 1,65 lần mức vốn đăng ký tăng thêm của năm 2010 (1,89 tỷ USD). Điều này cho thấy, các nhà đầu
tư nước ngoài đã đầu tư tại Việt Nam vẫn có sự đánh giá tích cực về môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.
Thứ ba, cơ cấu vốn đăng ký đã có những chuyển biến tích cực, phù hợp với định hướng thu hút FDI, đó là tập trung vào lĩnh
vực công nghiệp và xây dựng - chiếm 76,4% (cao hơn so với năm 2010 là 54,1%); kinh doanh bất động sản chỉ chiếm 5,8%

vốn đăng ký (so với năm 2010 là 34,3%).
Thứ tư, xuất khẩu đạt tăng trưởng khá, ước đạt 54,46 tỷ USD (kể cả dầu thô), chiếm 59% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả
nước (tăng 39,3% so với năm 2010) - cao hơn mức tăng trưởng xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước (26,1%). Chính sự
tăng trưởng cao của xuất khẩu khu vực FDI đã góp phần đưa tốc độ tăng trưởng xuất khẩu năm 2011 của cả nước lên mức
33,3% và góp phần làm giảm gánh nặng cho cán cân thương mại. Nhập khẩu của khu vực FDI là 47,8 tỷ USD, tăng 29,3% so
với năm 2010.
Thứ năm, thu nội địa (không kể thu từ dầu thô) cũng có sự tăng trưởng, ước đạt 3,5 tỷ USD, chiếm trên 19% tổng thu nội địa
(tăng 15% so với năm 2010). Riêng thu từ dầu thô ước đạt 4,8 tỷ USD, vượt dự toán năm gần 44%. Trong bối cảnh các nguồn
thu quan trọng không đạt mức dự toán (thu từ khu vực doanh nghiệp nhà nước và thu phí xăng dầu) thì khu vực FDI đã góp
phần đáng kể vào tăng thu và giảm bội chi ngân sách.
• Năm 2010
Thu hút vốn FDI
Do vẫn còn ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới, thu hút FDI đạt 18,6 tỉ USD, giảm
19,5% so với mức 23,1 tỉ USD của năm 2009, không đạt mục tiêu thu hút 22 - 25 tỉ USD trong năm 2010. Điểm sáng nhất
15
trong thu hút FDI năm nay là chỉ tiêu giải ngân, đạt 11 tỉ USD, tăng 10% so với năm trước và chỉ cách kỉ lục của năm 2008 là
500 triệu USD; nhóm ngành sản phẩm chế biến vươn lên dẫn đầu khi có tới 4,37 tỉ USD đăng kí và giúp số dự án nhóm này
tăng gần gấp rưỡi. Đây được đánh giá là tín hiệu tốt đối với nền kinh tế trong việc thu hẹp thâm hụt thương mại trong tương
lai.
Biểu đồ : Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Đọc thêm
Năm 2011: Thu hút vốn FDI chỉ bằng 74% so với năm trước
Năm 2012 Việt Nam sẽ đặt kế hoạch thu hút khoảng 15 – 16 tỷ USD và vốn giải ngân sẽ khoảng 10 – 11 tỷ USD.
Sáng nay (ngày 30/12/2011), Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức họp báo về tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài
năm 2011 và dự kiến năm 2012.
Vốn đăng ký mới chỉ bằng 74% so với năm trước
Tính đến ngày 15/12/2011, cả nước có 13.667 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 198 tỷ USD, trong đó công nghiệp và
xây dựng chiếm 54%.Singapore tiếp tục dẫn đầu với tổng vốn đăng ký chiếm 24 tỷ USD, tiếp theo lần lượt là Hàn Quốc,
Nhật Bản và Đài Loan. Thành phố Hồ Chí Minh vẫn là địa phương thu hút FDI lớn nhất với 32,67 tỷ USD còn hiệu lực, tiếp

theo đó là Bà Rịa – Vũng Tàu, Hà Nội, Đồng Nai và Bình Dương.
Theo Cục Đầu tư nước ngoài Đỗ Nhất Hoàng, tính đến 15/12 này, vốn đăng ký mới và tăng thêm đạt 14,7 tỷ USD, bằng 74%
so năm 2010. Trong đó, riêng vốn đăng ký mới đạt 11,6 USD, bằng 65% năm 2010. Tuy nhiên, theo đánh giá của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, số vốn này đã có những chuyển biến theo hướng tích cực.
Đáng chú ý là đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh bất động sản chỉ chiếm 5,8% tổng vốn đăng ký, giảm mạnh so năm 2010 với tỉ
lệ 34,3% tổng vốn đăng ký.
Và vốn đăng ký năm 2011 tập trung 76,4% vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, con số này năm 2010 là 54,1%.
Với số vốn đăng ký tăng thêm đạt 3,1 tỷ USD, tăng 1,65 lần mức vốn đăng ký tăng thêm của năm 2010 (1,89 tỷ USD).
Vốn thực hiện ước đạt 11 tỷ USD
Báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài cũng cho biết, vốn thực hiện của khu vực FDI năm 2011 ước đạt 11 tỷ USD, bằng mức
thực hiện của năm 2010 và đóng góp 25,9% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Mức thực hiện này không hoàn thành kế hoạch đề ra
(kế hoạch là 11,5 tỷ USD).
Theo số liệu thống kê của Bộ, xuất khẩu của khu vực FDI (bao gồm dầu thô) ước đạt 54,5 tỷ USD, chiếm 59% tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước, tăng 39,3% so năm 2010, cao hơn mức tăng trưởng xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước.
Giá trị kim ngạch xuất khẩu khu vực FDI (không kể dầu thô) ước đạt 47,2 tỷ USD, góp phần làm giảm gánh nặng cho cán cân
thương mại. Trong khi đó, nhập khẩu khu vực này đạt 47,8 tỷ USD, tăng 29,3% so với năm 2010.
Thu nội địa từ khu vực FDI năm 2011 khoảng 3,5 tỷ USD, tăng 15% so năm 2010 là 3,04 tỷ USD. Thu từ dầu thô vượt dự
toán năm gần 44% và ước đạt 4,8 tỷ USD.
Năm 2012 đặt kế hoạch thu hút 15 – 16 tỷ USD
Theo Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài Vũ Đại Thắng, năm 2012 Việt Nam sẽ đặt kế hoạch thu hút khoảng 15 – 16 tỷ USD
và vốn giải ngân sẽ khoảng 10 – 11 tỷ USD.
Về quản lý FDI, Bộ sẽ chú trọng nâng cao chất lượng và hiệu quả vốn FDI. Việc thu hút vốn FDI sẽ không đặt nặng về số
lượng vốn đăng ký mà tập trung vào thúc đẩy giải ngân FDI.
16
Thu hút vốn FDI sẽ phù hợp với kế hoạch phát triển xã hội 5 năm 2011 – 2015 và chiến lược phát triển xã hội 2011 – 2020.
Đồng thời, thu hút FDI có chọn lọc, định hướng vào vào những lĩnh vực cơ sở hạ tần, công nghiệp “xanh”. Hạn chế thu hút
FDI trong lĩnh vực phi sản xuất, làm gia tăng nhập siêu, sử dụng không hiệu quả tài nguyên và đất đai.
4, huy động vốn qua thị trường chứng khoán
Đối với các nước phát triển, các chỉ báo của TTCK được xem như là một công cụ phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén
và khá chính xác nhất. Chính vì vậy, TTCK luôn được coi là phong vũ biểu của nền kinh tế.

TTCK Việt Nam trải qua hơn 10 năm xây dựng và phát triển (từ năm 2000 đến năm 2011) đã từng bước khẳng định vai trò của nó như
là một kênh huy động vốn dài hạn cho nền kinh tế bổ sung cho hệ thống ngân hàng. Có thể sơ lược lịch sử hình thành TTCK Việt Nam như
sau:
1.1 Diễn biến thị trường chứng khoán giai đoạn 2000-2005:
Năm 2000, với 02 công ty niêm yết khi đưa Thị trường giao dịch chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh vào hoạt động, TTCK đã có mức tăng
trưởng nhanh về giá do nguồn cung hàng hóa khan hiếm, chỉ số VN-Index liên tục tăng và đạt tới đỉnh điểm là 571,04 điểm ngày
25/06/2001. Sau đó, thị trường đã liên tục sụt giảm trong suốt 03 năm sau đó trước khi tăng mạnh trở lại vào cuối năm 2003. Năm 2005, sau
khi Thị trường giao dịch chứng khoán Hà Nội đi vào hoạt động, tổng số các công ty niêm yết trên cả hai thị trường là 44 công ty với tổng giá
trị niêm yết là 4,94 ngàn tỷ đồng. Tuy nhiên, nhìn chung giai đoạn 2000-2005 là giai đoạn hoạt động khá trầm của TTCK Việt Nam.
Diễn biến thị trường chứng khoán giai đoạn 2006-2008:
TTCK Việt Nam giai đoạn cuối năm 2006 và đầu năm 2007 chính là giai đoạn mà thị trường bùng nổ nhất. Năm 2006 chỉ số VN-Index
đã tăng tới 146% và trong 03 tháng đầu năm 2007, chỉ số này tiếp tục tăng thêm 46% đạt mức đỉnh 1.170 vào ngày 12/3. Biến động của thị
trường này có thể được chia làm 03 giai đoạn: giai đoạn chuẩn bị bức phá do Việt Nam chuẩn bị gia nhập WTO, giai đoạn thị trường tăng
trưởng mạnh và giai đoạn điều chỉnh. Trong giai đoạn đầu, những sự kiện kinh tế chính trị tích cực của quốc gia như Việt Nam gia nhập
WTO, tổ chức thành công hội nghị APEC đã tạo hình ảnh Việt Nam hấp dẫn các nhà đầu tư. Từ tháng 12/2006, sự bùng nổ về số lượng các
công ty niêm yết cộng với kết quả kinh doanh tốt tạo ra một sự bùng nổ cho thị trường cho đến tháng 3/2007.
Diễn biến chỉ số VN-Index và các sự kiện quan trọng giai đoạn từ tháng 06/2006 đến tháng 07/2007(Nguồn: Công ty Cổ
phần Chứng khoán Sài Gòn)
17
Diễn biến 2 chỉ số VN-Index và HNX-Index và các thông tin quan trọng giai đoạn từ tháng 12/2007 đến tháng 7/2008
(Nguồn: Công ty cổ phần Chứng khoán Bảo Việt)
Những tháng cuối năm 2008, thị trường giảm điểm và kéo dài đến đầu năm 2009.
Diễn biến thị trường chứng khoán 2009:
Từ ngày 01/01/2009 đến 31/12/2009 VN-Index tăng thêm 171,96 điểm từ 312,49 điểm lên đến 494,77 điểm tương đương
với mức tăng là 58%. Nếu tính từ đáy thấp nhất trong năm khi VN-Index ở mốc 234,66 điểm vào ngày 24/02/2009 và đỉnh
cao nhất là 633,21 điểm vào ngày 23/10/2009 thì VN-Index đã tăng 2,69 lần. Tương tự ở sàn HNX mức tăng trưởng trong
năm 2009 của HNX-Index là 60,9%; và nếu so từ đáy thấp nhất 78,06 điểm lên đỉnh cao nhất trong năm 218,38 điểm thì
HNX-Index đã tăng 2,79 lần.
Tính đến cuối năm 2009, đã có 541 doanh nghiệp niêm yết cổ phiếu trên cả hai sàn giao dịch chứng khoán và 4 chứng chỉ
quỹ đại chúng niêm yết, với tổng giá trị niêm yết đạt 127,489 nghìn tỷ đồng, tăng 66,5 lần so với cuối năm 2005. Tổng giá trị

vốn hóa thị trường tính từ thời điểm ngày 31/12/2009 ước đạt 620,551 nghìn tỷ đồng tương đương với gần 38% GDP cả năm
2009.
Diễn biến thị trường chứng khoán 2010:
Sang đến năm 2010, xu hướng thị trường được chia làm 04 giai đoạn chính:
− Giai đoạn 1 (từ 01/10-04/11): giảm nhẹ, đi ngang xen kẽ các đợt tăng nhẹ. TTCK mở cửa năm 2010, với liên tiếp các
phiên giảm điểm ảnh hưởng bởi thông tin không chính thức từ việc tăng lãi suất cơ bản, VN-Index rơi mạnh từ 530 xuống
còn 478 điểm. Tiếp đó, VN-Index tăng quay lại ngưỡng 530 do được hỗ trợ bởi thông tin lãi suất cơ bản vẫn được giữ ở mức
8% và việc phát hành thành công 1 tỷ USD trái phiếu chính phủ tại thị trường Mỹ. Kỳ vọng về kết quả kinh quý I của các
doanh nghiệp khiến VN-Index tăng nhẹ trở lại vào cuối tháng tư.
− Giai đoạn 2 (từ 05/11-08/11): giảm, đi ngang và giảm mạnh. Đầu tháng 5, VN-Index đột ngột quay đầu giảm điểm do ảnh
hưởng từ khủng khoảng nợ châu Âu lan rộng mà khơi ngòi là Hy Lạp. Tiếp đó, tin đồn về thông tư 13 ra đời đã kiến cho VN-
Index tiếp tục rơi. Từ đầu tháng 6 đến cuối tháng 7, VN-Index lình xình đi ngang, một phần bị ảnh hưởng lớn bởi số lượng cổ
phiếu niêm yết bổ sung và niêm yết mới. Trong giai đoạn này có khoảng 3.058.308.677 cổ phiếu được đưa vào giao dịch
chiếm khoảng 43% tổng số cổ phiếu niêm yết bổ sung và niêm yết mới năm 2010. Vào cuối tháng 7, VN-Index tiếp tục bị
giáng một đòn khá mạnh từ thông tin chính phủ quyết định tái cơ cấu tập đoàn công nghiệp tàu thủy Vinashin. Với khoản nợ
là 4,5 tỷ USD. Việc rơi tự do của VN-Index, còn được củng cố thêm bằng việc bán giải chấp của hầu hết các mã chứng khoán
do dùng đòn bẩy tài chính. Cuối tháng 8, VN-Index tạo đáy tại vùng 420-424.
− Giai đoạn 3: tăng nhẹ và đi ngang rồi giảm nhẹ. Sau một quá trình tăng mạnh ngắn ngủi, VN-Index có một khoảng đi
ngang khá dài do không có tin tức vĩ mô gì đột biến hỗ trợ. Đồng thời, với lực cung cổ phiếu khá mạnh trong thời điểm từ đầu
tháng 9 đến đầu tháng 11 (chỉ trong vòng 2 tháng đã có khoảng 1.830.529.826 cổ phiếu, chiếm khoảng 25% tổng số lượng cổ
phiếu niêm yết mới và niêm yết bổ xung cả năm 2010) là một yếu tố cơ bản ngăn cản sự tăng giá của VN-Index. Giữa tháng
11, VN-Index giảm nhẹ do dòng tiền đã ra khỏi thị trường, để tìm kiếm lợi nhuận ở kênh đầu tư khác như vàng, USD. Đây là
thời điểm vàng và USD tăng khá mạnh.
− Giai đoạn 4: tăng trưởng bắt đầu cuối tháng 11 đến gần cuối năm. Sau một thời gian dài đi ngang và giảm vào cuối tháng
11, khi mà tất các các tin tức vĩ mô ảnh hưởng xấu đến thị trường đều đạt đến đỉnh điểm, như lãi suất cơ bản tăng từ 8% lên
9%, vàng và USD đều có một giai đoạn tăng nóng. Dòng tiền bắt đầu chảy vào chứng khoán khi nhận thấy kênh này có thể
đem lại được lợi nhuận cao. Các cổ phiếu chứng khoán, tài chính, bất động sản lần lượt là điểm sáng kéo thị trường tăng
18
mạnh từ 421 đến 495 vào thời điểm gần cuối năm. Tại thời điểm này thanh khoản của thị trường tăng mạnh, bình quân
khoảng trên 100 triệu cổ phiếu được chuyển nhượng mỗi phiên cho cả hai sàn.

Tóm lại xu thế chủ đạo của năm 2010 là đi ngang và giảm mạnh. Thị trường đón nhận một khối lượng niêm yết mới và
niêm yết bổ sung cổ phiếu kỷ lục.
Diễn biến thị trường chứng khoán năm 2011:
Năm 2011 là một năm khá khó khăn của nền kinh tế Việt Nam và thế giới, nó đã tác động tiêu cực đến TTCK Việt Nam
theo đó. Trong cả năm, thị trường chỉ có được hiếm hoi hai đợt phục hồi ngắn vào cuối tháng 5 và khoảng giữa tháng 8, toàn
bộ khoảng thời gian còn lại thị trường chủ yếu đi xuống trong sự chán nản và mệt mỏi của các nhà đầu tư. Chốt phiên ngày
30/12/2011, VN Index và HNX Index lần lượt đóng cửa ở 351,55 và 58,74 điểm, như vậy so với đầu năm 2011 sàn Hồ Chí
Minh đã giảm mạnh 27,46% còn sàn Hà Nội thì lao dốc đến hơn 48,6%. Thanh khoản của TTCK cũng giảm mạnh, so với con
số của năm 2010 thì giá trị trung bình của mỗi phiên giao dịch của mỗi sàn đều sụt giảm mạnh đến xấp xỉ 60%.
VN-Index và HNX-Index trong năm 2011 (Nguồn: VCBS tổng hợp)
Phần đông các công ty chứng khoán (CTCK) gặp khó khăn và chịu thua lỗ trong năm 2011: cùng với sự sụt giảm cả về
điểm số lẫn giá trị giao dịch của TTCK Việt Nam thì, theo thống kê chưa đầy đủ, trong năm 2011, số lượng công ty chứng
khoán chịu thua lỗ chiếm ưu thế áp đảo. Trong số hiếm hoi những công ty có lợi nhuận thì các khoản này chủ yếu đến từ
mảng kinh doanh khác ngoài dịch vụ môi giới cũng như tự doanh. Tính đến thời điểm hiện tại có khoảng 105 CTCK đang
hoạt động thì hơn 80% con số này phải đối diện với Báo cáo tài chính lợi nhuận âm khi doanh thu sụt giảm trong khi chi phí
lại đội lên cao. 1.400 tỷ đồng là số tiền mà 18/27 CTCK niêm yết ghi lỗ trong 09 tháng đầu năm 2011. Để tiếp tục tồn tại, một
số công ty đã phải cắt giảm nhân sự thậm chí là loại bỏ một số nghiệp vụ, trong đó có môi giới cụ thể như trường hợp của
CTCK SME, chứng khoán Gia Anh, chứng khoán Đông Dương, chứng khoán Hà Nội… và lấn sân sang lĩnh vực bất động
sản, như CTCK Kim Long (KLS), CTCK Sài Gòn (SSI)… hoặc chuyển tiền gửi tiết kiệm ngân hàng. Các CTCK không kiểm
soát chặt chẽ quy trình nội bộ và quản lý rủi ro, dẫn đến thời điểm thanh toán không chuyển đủ tiền thanh toán vào tài khoản.
Điển hình cho hiện tượng này trong thời gian qua là vụ việc của CTCK SME, TAS. Bên cạnh đó hiện tượng cắt giảm nhân sự
cũng diễn ra trên diện rộng. Với hơn 100 CTCK hoạt động trong khi thị trường diễn biến ảm đảm, thị phần của từng công ty
bị thu hẹp lại, hoạt động môi giới, tư vấn trở nên khó khăn hơn rất nhiều. Nhiều CTCK phải cắt giảm từ 15% - 20% nhân sự.
Các doanh nghiệp niêm yết: năm 2011 vừa qua là một năm đầy khó khăn và thử thách với các doanh nghiệp, trong khi
phải đối mặt với lạm phát cao khiến chi phí đầu vào tăng mạnh thì việc tiếp cận vốn vay cũng không dễ dàng khi mặt bằng lãi
suất liên tục ở mức cao. Sự suy giảm của TTCK kéo theo hơn 50% số cổ phiếu niêm yết có thị giá rơi xuống dưới mệnh giá
(10.000 đồng) và thấp hơn nhiều so với giá trị ghi sổ của doanh nghiệp. Kết thúc quý III/2011, theo báo cáo tài chính của các
doanh nghiệp niêm yết, có tới 14 doanh nghiệp có Tổng nợ/Tổng tài sản lớn hơn 90%, hơn 50 doanh nghiệp có hệ số nợ từ
80%-90%, hơn 80 doanh nghiệp từ 70%-80%. Đòn bẩy vốn của doanh nghiệp lên tới 9 lần. Mức đòn bẩy tài chính này kéo
theo không ít rủi ro trong bối cảnh kinh tế khó khăn và nguồn lợi tạo ra từ vay nợ không đủ bù đắp chi phí vốn phải trả. Số dư

hàng tồn kho cuối quý III/2011 của các doanh nghiệp niêm yết tăng hơn 30% so với cùng kỳ.
2. Nguyên nhân sụt giảm của thị trường chứng khoán 2011:
Kinh tế thế giới:
Tình hình Nợ công tại Châu Âu tiếp tục căng thẳng mà vẫn chưa có giải pháp cụ thể, tăng trưởng của các nền kinh tế vẫn
trì trệ, lòng tin của người dân giảm sút. Tương tự châu Âu, vấn đề trần nợ Mỹ cũng được ví như quả bom nổ chậm của kinh tế
19
thế giới, quá trình thỏa hiệp chính trị giữa các Đảng phái trong Chính phủ liên bang Mỹ về cắt giảm chi tiêu diễn ra rất chậm
chạp. Ngày 06/08/2011, Cơ quan đánh giá tín dụng quốc tế Standard & Poor tuyên bố hạ bậc xếp hạng tín dụng của Mỹ từ
AAA xuống còn AA+ kèm theo đánh giá triển vọng tiêu cực. Đây là lần đầu tiên Mỹ mất xếp hạng AAA. Chính những yếu tố
này đã tác động tiêu cực tới thị trường xuất khẩu Việt Nam và dòng vốn đầu tư vào Việt Nam, ảnh hưởng đến tình hình kinh
doanh của các doanh nghiệp niêm yết, dòng vốn chảy vào TTCK Việt Nam.
Tăng trưởng GDP (%)
2010
2011*
2012*
Thế giới 5.2 3.9 3.8
Châu Á-Thái Bình Dương 8.4 6.3 6.5
Châu Á-Châu Đại Dương 2.6 1.8 3.3
Tăng trưởng kinh tế thế giới và các khu vực
(Nguồn: IMF; *Số liệu dự báo được công bố vào tháng 12/2011)
Kinh tế trong nước:
Lạm phát:
Trong năm 2011, lạm phát trung bình 12 tháng tăng 18,58% so với giai đoạn tương ứng của năm 2010 và 18,13% so với
tháng 12/2010. Mức lạm phát tăng cao trong 04 tháng đầu năm, đỉnh điểm lên tới mức 3,32% trong tháng 4. Đây là hệ quả từ
việc cung tiền những năm trước, tăng tỷ giá (ngày 11/02/2011 tăng 9,3%), giá nguyên vật liệu trong nước tăng (nguồn nguyên
liệu Việt Nam đang phụ thuộc nhập khẩu quá nhiều), giá năng lượng tăng (xăng dầu, điện) dẫn đến giá hàng hoá các loại đồng
loạt tăng theo. Từ tháng 5 trở đi, nhờ những nỗ lực ổn định hóa quyết liệt của Chính phủ, CPI đã liên tục giảm tốc và xuống
dưới 1% kể từ tháng 08/2011.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam năm 2011 tiếp tục suy giảm. Cụ thể nguồn vốn FDI năm 2011 đạt

14,7 tỷ USD, giảm 26% so với cùng kỳ năm 2010, trong đó vốn đăng ký mới giảm tới 35% chỉ đạt 11,6 tỷ USD. Nguyên
nhân giảm sút là do nền kinh tế thế giới còn chịu nhiều áp lực từ khủng hoảng nợ công tại Châu Âu, thiên tai và bất ổn chính
trị tại nhiều nước. Tuy nhiên sự yếu kém nội tại của nền kinh tế Việt Nam với lạm phát cao, hiệu quả đầu tư của nền kinh tế
thấp (chỉ số ICOR cao), hoạt động sản xuất kinh doanh bị đình đốn cũng như các yếu tố nguồn lực hạn chế (như thiếu lao
động có kỹ năng, thiếu điện, hạ tầng giao thông yếu kém) cũng là những yếu tố tác động tâm lý các nhà đầu tư nước ngoài.
Tỷ giá:
Cuối năm 2010 căng thẳng tỷ giá đã diễn ra do tình trạng nhập siêu, dữ trữ ngoại hối sụt giảm mạnh, tín dụng ngoại tệ
tăng cao dẫn đến sức ép tỷ giá và thị trường ngoại tệ đã tồn tại hai tỷ giá từ những tháng cuối năm 2010 tỷ giá USD/VND trên
thị trường tự do tăng mạnh và vượt xa khỏi tỷ giá chính thức 10% và dao động xung quanh mức 21.000 - 21.500. Để giải
quyết vấn đề tỷ giá vào đầu tháng 2 (11/02/2011) Ngân hàng Nhà nước đã phá giá đồng nội tệ lên tới 9,3%, đây là lần phá giá
cao nhất từ năm 2008 (Tỷ giá liên ngân hàng tăng từ 19.500->20.693 VND/USD) với mức điều chỉnh tăng giảm cho phép
trong biên độ từ +-3% giảm xuống +/-1%. Ngay sau khi phá giá VND, tình hình kinh tế đã phản ứng khá mạnh, tỷ giá liên tục
tăng. Tuy nhiên sau khi lập đỉnh vào ngày 19/04/2011, cùng với những biện pháp kiểm soát ngoại tệ như kết hối, thắt chặt tín
dụng ngoại tệ nên tỷ giá đã được kiểm soát trong một thời gian dài từ tháng 5-10/2011. Tuy nhiên vào giữa tháng 08/2011
trước những biến động mạnh của thị trường vàng và việc nhập khẩu vàng nên tỷ giá đã có những biến động trở lại, tỷ giá trên
thị trường tự do đã có lúc lên đến 21.900. Cụ thể, cán cân thanh toán tổng thể năm 2011 ước đạt khoảng 2,5 – 4,5 tỷ USD.
Giá vàng:
Thị trường Vàng là một trong những kênh cạnh tranh vốn với TTCK, chính vì vậy những biến động trên thị trường vàng
sẽ là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến TTCK. Năm 2011, trước những diễn biến phức tạp của
khủng hoảng Nợ công thế giới như Ireland, Hy Lạp và Bồ Đào Nha, vàng đã được nhiều nhà đầu tư trên thế giới lựa chọn
vàng là kênh trú ẩn an toàn. Giao dịch vàng trên thế giới tăng mạnh và đã đẩy giá vàng thế giới lên cao và lập kỷ lục ở mức
$1.920/oz vào đầu tháng 9 sau đó giảm dần trong quý IV. Giá vàng trong nước cũng đã giao động với biên độ mạnh, tăng từ
mức khoảng 37 triệu đồng/lượng lên tới mức cao nhất là 49 triệu đồng/lượng, sau đó giảm dần và đứng quanh mốc 44 triệu
đồng/lượng vào thời điểm cuối năm 2011.
Chính sách tiền tệ:
Trước áp lực lạm phát tăng cao, ngay từ đầu năm, Chính phủ đã ra Nghị quyết 11/NQ-CP, chính sách tiền tệ thắt chặt đã
được thực hiện khá nhất quán trong suốt cả năm 2011.
Về lãi suất điều hành, lãi suất cơ bản giữ nguyên ở mức 9% trong cả năm nhưng lãi suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn
đều đã được điều chỉnh tăng. Cụ thể, lãi suất tái chiết khấu đã được điều chỉnh tăng từ 7% lên mức 12% trong Quý I và lên
mức 13% cho Quý III và IV, còn lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh tăng từ mức 9% trong tháng 1 lên tới 15% từ Quý IV.

20
Lãi suất cho vay VND bình quân thực tế khá cao, cụ thể, lãi suất cho vay nông nghiệp, nông thôn và xuất khẩu khoảng
17-19%/năm, lãi suất cho vay lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác khoảng 17-21%năm, lãi suất cho vay lĩnh vực phi sản xuất
khoảng 22-25%/năm. TTCK là nơi chịu những tác động trực tiếp từ chính sách tiền tệ thắt chặt, trong đó có tín dụng phi sản
xuất kiểm soát dưới 16%.
• CÁC GIẢI PHÁP KIỆN TOÀN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI:
• Chủ trương vực dậy thị trường chứng khoán tại Việt Nam trong thời gian tới:
Năm 2011, TTCK Việt Nam đã hoạt động khó khăn để lại nhiều hệ lụy cho toàn hệ thống kinh tế, lượng cổ phiếu phát hành trong năm
chỉ đạt 13.000 tỷ đồng, giảm 60% so với cùng kỳ, nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ khi giá cổ phiếu dưới mệnh giá không thể phát hành
được. Doanh nghiệp huy động vốn qua TTCK quá khó khăn, hàng loạt cổ phiếu trở nên “rẻ rúng”, mệnh giá chỉ dưới 10.000 đồng. Khoảng
67% doanh nghiệp niêm yết có thị giá thấp hơn giá trị sổ sách, 38% công ty niêm yết trên HOSE có thị giá dưới mệnh giá và trên HNX là
55%. Điều này khiến TTCK suy giảm mạnh và khó hồi phục nếu như không có chính sách, giải pháp hợp lý.
Mặc dù TTCK đang có nhiều khó khăn, nhưng với vai trò là kênh dẫn vốn dài hạn quan trọng, nên cần thiết phải tiếp tục thúc đẩy phát
triển. Chính vì vậy cuối năm 2011 đã có khá nhiều lời hứa từ phía lãnh đạo Bộ tài chính (BTC), Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và Ủy ban
chứng khoán (UBCK) về việc vực dậy TTCK trong năm 2012:
− BTC đã có văn bản báo cáo tổng thể và có giải pháp thúc đẩy TTCK trình Chính phủ. Qua đó, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo BTC khẩn
trương triển khai các giải pháp tái cấu trúc TTCK, để sớm đưa TTCK trở thành kênh huy động vốn chủ yếu cho nền kinh tế.
− UBCK cho biết năm 2012 sẽ triển khai T+2 và đề xuất với NHNN về việc tách tín dụng chứng khoán ra khỏi nhóm phi sản xuất, để “cởi
trói” dòng vốn chảy vào chứng khoán.
− NHNN cho biết dòng vốn vào chứng khoán sắp tới sẽ vẫn phải kiểm soát nhưng hợp lý hơn. Bên cạnh đó, Thống đốc NHNN cũng cho
biết sẽ khống chế tốc độ tăng trưởng của hệ thống ngân hàng, để hệ thống không hút hết tiền của nền kinh tế. Từ đó, lãi suất ngân hàng sẽ
giảm, kéo theo lãi suất cho vay giảm. Trong thời gian tới, NHNN sẽ xác lập lại vị thế cân bằng giữa thị trường tiền tệ với thị trường vốn
nhằm khôi phục TTCK.
Trên cơ sở đó, trong thời gian gần đây các cơ quan quản lý Nhà nước đã có chủ trương và ban hành một số chính sách nhằm vực dậy lại
TTCK như:
− Năm 2011, BTC đã ban hành nhiều thông tư nhằm phát triển TTCK như Thông tư 74 cho phép margin, mở nhiều tài khoản, giao dịch
cổ phiếu trong ngày; Thông tư 183 về quỹ mở; Thông tư 37 hướng dẫn thi hành Nghị định 85 về xử phạt vi phạm chứng khoán, quy trách
nhiệm cụ thể đến từng cá nhân.
− Kể từ ngày 01/04/2012, Thông tư số 226 chính thức có hiệu lực thi hành. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để thực hiện việc quản lý,
giám sát, tái cấu trúc các công ty chứng khoán trên cơ sở phân loại, xử lý theo các mức cảnh báo, kiểm soát, kiểm soát đặc biệt. Thậm chí nếu

công ty chứng khoán không khắc phục được theo yêu cầu sẽ đình chỉ hoạt động.
− BTC đang xây dựng dự thảo Thông tư hướng dẫn tổ chức và hoạt động công ty chứng khoán theo hướng tập trung vào công tác quản trị,
quản lý an toàn tài chính, hướng dẫn cụ thể về việc hợp nhất, sáp nhập, giải thể. Ngoài ra, sẽ tăng cường công tác giám sát đối với công ty
chứng khoán thông qua việc ban hành quy định đánh giá xếp hạng, phân loại hoạt động theo tiêu chuẩn quốc tế. Đồng thời, xây dựng hệ
thống chấm điểm mức độ rủi ro và quy trình hoạt động của công ty chứng khoán để áp dụng cơ chế kiểm tra, giám sát theo mức độ rủi ro.
− BTC và UBCK đã xây dựng Đề án tái cấu trúc TTCK. Đề án sẽ là cơ sở để BTC, UBCK thực hiện từng bước tái cấu trúc TTCK từ nay
đến năm 2015 trên các lĩnh vực: cải cách cơ sở hàng hóa; tăng cường chất lượng nhà đầu tư; nâng cao hiệu quả của thị trường trái phiếu; tái
cấu trúc tổ chức kinh doanh chứng khoán; tái cơ cấu Sở giao dịch chứng khoán và Trung tâm lưu ký chứng khoán tại Việt Nam.
− Để hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn này, BTC hiện đang xây dựng giải pháp tháo gỡ tài chính và đã trình Chính
phủ để giãn thuế cho doanh nghiệp. Tùy vào diễn biến năm 2012, BTC sẽ tiếp tục tham mưu về giãn và miễn thuế.
− Ngay trong quý II/2012, BTC sẽ trình Chính phủ về việc thành lập Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam trên cơ sở sáp nhập hai Sở giao
dịch chứng khoán Hà Nội và Tp. HCM, tạo ra một thị trường giao dịch chứng khoán thống nhất nhằm nâng cao tính chuyên nghiệp, hiệu
quả.
• Một số giải pháp kiện toàn thị trường chứng khoán Việt Nam:
Với định hướng vực dậy TTCK Việt Nam của các cơ quan quản lý Nhà nước như đã phân tích ở trên, có thể thấy TTCK đang đứng
trước nhiều cơ hội để phục hồi và trở lại chức năng là kênh dẫn vốn quan trọng thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, kết quả của quá
trình này còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như: tình hình kinh tế trong và ngoài nước; sự phát huy hiệu quả và tính nhất quán của các chính
sách đã, đang và sẽ được áp dụng; sự phục hồi niềm tin của các nhà đầu tư vào thị trường… Dưới đây là kiến nghị một số giải pháp nhằm
vực dậy và phát triển TTCK Việt Nam trong thời gian tới:
− Ổn định vĩ mô và kiềm chế lạm phát:
 Kiểm soát được lạm phát thành công, kéo theo mặt bằng lãi suất giảm, đây sẽ là yếu tố quyết định và chỉ khi đó TTCK mới có thể hồi
phục. Thêm vào đó, quan niệm của Nhà nước đối với TTCK có yếu tố quyết định đến lòng tin của thị trường, nếu chúng ta xem xét lại việc
xem TTCK là lĩnh vực phi sản xuất và nhất quán khẳng định chủ trương tiếp tục thúc đẩy TTCK trở thành kênh dẫn vốn trung và dài hạn
quan trọng bên cạnh thị trường tiền tệ, khi đó chúng ta sẽ có chính sách vĩ mô điều hành phù hợp, vừa bảo đảm mục tiêu ổn định kinh tế vĩ
mô vừa duy trì sự linh hoạt cần thiết, điều hòa trong cả năm thì thị trường sẽ có bước cải thiện trở lại. TTCK và thị trường tiền tệ, thị trường
21
tín dụng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Về mặt nguyên lý, ngân hàng lo kênh dẫn vốn ngắn hạn và TTCK lo kênh dẫn vốn dài hạn. Hiện
nay, một tỷ trọng lớn tín dụng của ngân hàng là tín dụng dài hạn, điều đó sẽ rất rủi ro cho hệ thống ngân hàng vì vậy cần có các giải pháp hỗ
trợ để TTCK phát triển, hỗ trợ cho hệ thống ngân hàng.
 Trên thực tế, vốn ngắn hạn và vốn dài hạn luôn có sự liên thông với nhau, các ngân hàng vẫn phải huy động vốn trên TTCK và cũng có

thể hoàn toàn không cho vay dài hạn. Các nước vẫn cho phép các ngân hàng cho vay giao dịch ký quỹ qua công ty chứng khoán theo một tỷ
lệ nhất định trên cơ sở bảo đảm tỷ lệ an toàn tài chính đối với từng ngân hàng và đối tượng vay. Khoản cho vay ký quỹ này thực tế là khoản
cho vay ngắn hạn dưới 12 tháng và chủ yếu để mua chứng khoán trên thị trường thứ cấp, không phải góp vốn dài hạn.
 Về nguyên lý và thực tế trên thế giới cho thấy, việc duy trì thanh khoản của TTCK có ảnh hưởng tích cực tới giảm chi phí vốn cho
doanh nghiệp cũng như nền kinh tế nhờ vào khả năng luân chuyển và sử dụng tối đa nguồn lực tài chính. Rủi ro thanh khoản hay khả năng
giao dịch chứng khoán khó khăn làm cho giá chứng khoán sẽ giảm, nói cách khác là chi phí vốn tăng.
 Trong nhiều năm qua, vấn đề liên thông vốn giữa ngân hàng và chứng khoán của ta là khá lỏng lẻo, việc kiểm soát rủi ro theo các tiêu
chí phù hợp tại các ngân hàng và công ty chứng khoán còn chưa được thực hiện đầy đủ. Vì vậy có nhiều trường hợp luồng tiền qua chứng
khoán lại đi vào bất động sản hoặc vào các nghiệp vụ đòn bẩy tài chính có tính rủi ro cao. Tuy nhiên nếu từ tình hình trên lại chuyển sang giải
pháp thắt chặt tất cả các luồng tín dụng vào chứng khoán là ta đang chuyển từ thái cực này sang thái cực khác. Vấn đề quan trọng là cần có
các tiêu chí kiểm soát rủi ro để bảo đảm dòng tiền vào là ngắn hạn và được đi đúng hướng trên cơ sở tình hình của từng ngân hàng và công ty
chứng khoán. Nếu chúng ta có chính sách phù hợp sẽ huy động và khơi thông nguồn vốn trên TTCK phục vụ cho các ngân hàng, doanh
nghiệp và cả nền kinh tế.
− Tái cấu trúc thành câu chuyện sống còn:
 Mục tiêu đến năm 2015, TTCK Việt Nam có quy mô vốn hoá của thị trường cổ phiếu đạt khoảng 60% GDP. Bên cạnh việc chú trọng
phát triển quy mô các thị trường, trong năm 2012 sẽ phải thực hiện từng bước tái cấu trúc lại các thị trường tài chính và dịch vụ tài chính
trong khuôn khổ nội dung tái cấu trúc lại nền kinh tế.
 Theo đề án tái cấu trúc TTCK do BTC xây dựng trình Chính phủ, dự kiến thông qua vào quý I/2012, chủ trương phát triển TTCK giai
đoạn sắp tới sẽ hướng tới mục tiêu: tăng quy mô, củng cố tính thanh khoản cho TTCK, tăng tính hiệu quả cho thị trường trên cơ sở tái cấu
trúc tổ chức TTCK, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, chuyên nghiệp hóa việc tổ chức và vận hành hạ tầng công nghệ thông tin, nâng cao sức cạnh
tranh của các định chế trung gian thị trường, các tổ chức phụ trợ thị trường và của TTCK Việt Nam, tăng cường năng lực quản lý, giám sát,
thanh tra, xử lý vi phạm, củng cố lòng tin của nhà đầu tư
 Trong bối cảnh nhiều công ty chứng khoán đang đứng trước bờ vực phá sản, không thể đứng nhìn TTCK “chìm dần”, việc tái cấu trúc
lại TTCK là việc làm cần triển khai kịp thời trong năm 2012. Mặc dù, thách thức trong năm 2012 vẫn khá lớn, lạm phát tuy giảm nhưng vẫn
còn cao, tăng trưởng kinh tế chậm lại, TTCK quốc tế biến động mạnh. Tuy nhiên vẫn có thể tận dụng những điểm sáng và chính sách hợp lý
để tìm “cửa” làm ăn trong bóng tối.
 Trọng tâm sẽ đi sâu vào tái cấu trúc TTCK, trong đó xoay quanh 4 vấn đề gồm tái cấu trúc các trung gian tài chính, thị trường hàng hóa,
cầu đầu tư và các công ty chứng khoán. Theo đó, có 4 nội dung trọng tâm để tái cấu trúc kênh chứng khoán, bao gồm: Hoàn thiện cơ sở pháp
lý; Tái cấu trúc công ty chứng khoán; Tái cấu trúc các trung gian tài chính (hợp nhất 2 sở giao dịch Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội); Tái
cấu trúc hàng hóa và tái cấu trúc cơ sở các nhà đầu tư.

 Về việc cấu trúc lại thị trường hàng hóa, trước kia TTCK Việt Nam theo chiều rộng, các công ty vào sàn càng nhiều càng tốt nhưng
trước yêu cầu đặt ra khi doanh nghiệp vào sàn cần được nâng cấp tiêu chuẩn niêm yết để tạo ra dòng hàng hóa tốt cho thị trường. Hoàn thiện
các khung pháp lý, thể chế… để tạo minh bạch cho thị trường. Do đó việc tái cấu trúc TTCK là điều kiện sống còn để phát triển.
− Các cơ quan quản lý cần tập trung nỗ lực để hạn chế các hành vi trục lợi, thao túng thị trường chứng khoán. Cần phát hiện và nghiêm trị
thích đáng các hành vi trục lợi để đảm bảo tính minh bạch và lành mạnh của thị trường.
− Cần có các chế tài xử phạt mạnh để đảm bảo minh bạch thông tin. Doanh nghiệp có những sai lệch vi phạm liên tiếp phải bị xử phạt
nặng. Kế toán trưởng của doanh nghiệp lập Báo cáo tài chính sai sót vượt quá một số lần cụ thể phải bị thu hồi có thời hạn giấy phép hành
nghề.
− Đẩy mạnh tiến độ cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước lớn, hiệu quả kinh doanh cao như BIDV, MobiFone, VinaPhone, Viettel để
tăng nguồn cung hàng hóa chất lượng cao nhằm thu hút vốn đầu tư của nhà đầu tư tổ chức nước ngoài, giảm thiểu hoặc bán hết cổ phần của
nhà nước tại các doanh nghiệp không thiết yếu. Mở rộng room (tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp niêm yết) (trừ
ngành ngân hàng) đối với những lĩnh vực không cần hạn chế để thu hút vốn của khối đầu tư nước ngoài.
− Nhanh chóng xóa bỏ các rào cản phát triển TTCK Việt Nam bằng cách khắc phục những yếu kém do tính không hoàn hảo của thị
trường gây ra:
 Khắc phục hiện tượng thông tin bất cân xứng bằng cách thực hiện minh bạch hoá, khai thông kênh thông tin đối với giới đầu tư trên thị
trường. Khuyến khích các công ty định mức tín nhiệm có uy tín như Standard & Poor’s, Moody thành lập chi nhánh tại Việt Nam. Để đánh
giá được năng lực tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam thì cần phải có những tổ chức chuyên nghiệp, những tổ chức tài chính có uy tín
như trên thì mới có thể đánh giá được khả năng tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra bản thân các
doanh nghiệp Việt Nam hiện nay cần phải công khai hơn, minh bạch về tài chính hơn thì mới có thể đạt được tín nhiệm trên thị trường. Đây
cũng là một trong những khó khăn và thách thức khi phát triển hệ thống định mức tín nhiệm cũng như việc mở rộng quy mô thị trường
chứng khoán Việt Nam hiện nay.
22
 Thúc đẩy hoạt động đào tạo, nghiên cứu và nâng cao nhận thức về TTCK cho công chúng đầu tư để tránh tình trạng đầu tư theo bầy đàn
như hiện nay.
 Tăng cường năng lực hoạt động của các tổ chức trung gian trên thị trường và tạo ra một cơ chế cạnh tranh công bằng để giảm chi phí
giao dịch cho các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư cá nhân. Quy định một mức giá chung hợp lý xuyên suốt trên thị trường.
 Hệ thống tài chính xảy ra đổ vỡ, khủng hoảng, Chính phủ phải đứng ra can thiệp bằng chính sách cứng rắn. Các chính sách này đến lượt
nó lại bóp méo các quan hệ thị trường, không phân bổ sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, cản trở sự phát triển kinh tế xã hội và dẫn đến thất
bại của Chính phủ. Để giải quyết, Chính phủ trở lại nới lỏng và tự do hoá TTCK, như vậy có một “vòng luẩn quẩn” trong hoạt động và phát
triển của TTCK của các nước đang phát triển nói chung và TTCK Việt Nam nói riêng khi mà chính phủ can thiệp quá sâu vào thị trường với

kỳ vọng khắc phục thất bại thị trường. Điều chỉnh cấu trúc của thị trường sao cho phù hợp với cấu trúc kinh tế, cân đối sự phát triển của các
thành tố trong thị trường. Đặc biệt là giảm bớt sự can thiệp một cách trực tiếp của Nhà nước vào thị trường, thay vào đó sự can thiệp của Nhà
nước chỉ mang tính chất định hướng, gián tiếp
Đọc thêm:
Thị trường chứng khoán và giai đoạn phát triển mới

Toàn thị trường hose hnx
Chỉ số vào ngày 30/12/2011 351,6 58,7
Chỉ số vào ngày 30/12/2010 481,4 112,64
Thay đổi -27,5% -48,6%
Số lượng cổ phiếu 672 289 383
Giá trị thị trường (Triệu đồng) 537.505 453.784 83.721
Giá trị thị trường (Triệu đô la Mỹ) 25.552 21.572 3.980
■ Thị trường chứng khoán Việt Nam bị ảnh hưởng nặng nề từ tác động của kinh tế vĩ mô. Theo đó, chỉ số HSX giảm gần
27,5% và HNX giảm xấp xỉ 48,6% trong năm 2011.
■ Do tác động của suy thoái kinh tế, kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp không khả quan trong năm 2011. Cùng với các
yếu tố bất lợi khác, hoạt động kinh doanh giảm sút của doanh nghiệp tác động mạnh tới định giá thị trường và xói mòn mong
đợi của nhà đầu tư.
■ Cắt giảm tín dụng dẫn tới việc suy giảm mạnh dòng tiền tham gia thị trường, bên cạnh đó, mối lo về kinh tế vĩ mô có ảnh
hưởng rõ rệt tới niềm tin đầu tư của người đầu tư trong và ngoài nước.
■ Các phân tích cho thấy thị trường chứng khoán Việt Nam vào thời điểm cuối năm 2011 đang ở mức rẻ so với thị trường khu
vực, xét về các mức định giá tương đối P/E và P/B.
■ Với các thay đổi hiện tại, triển vọng kinh doanh của các doanh nghiệp là tích cực và tạo được các nền tảng cơ bản cho việc
tăng doanh thu và lợi nhuận.
■ Thị trường chứng khoán được kỳ vọng sẽ có sự phục hồi từ năm 2012 với sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô, phục hồi của
nguồn cung tín dụng với giá vốn hợp lý và các cơ hội kinh doanh nhờ việc thay đổi mô hình tăng trưởng.
Theo báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài, vốn FDI trong giai đoạn 2006-2011 đã góp tới 24,8% tổng vốn đầu tư toàn xã hội,
giúp tăng xuất khẩu, đưa VN hội nhập sâu hơn vào kinh tế quốc tế. Từ năm 2006-2010, khu vực FDI đã nộp ngân sách được
hơn 10 tỉ USD. Riêng năm 2011 đã nộp tới 3,5 tỉ USD
6.Tình hình đầu tư công tại việt nam:

Đối tượng của đầu tư công:
Chương trình mục tiêu, dự án phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật, kinh tế, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh;
Chương trình mục tiêu, dự án phục vụ hoạt động của các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, kể cả việc mua sắm, sửa chữa tài sản cố định bằng vốn sự nghiệp.
Các dự án đầu tư của cộng đồng dân cư, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp được hỗ trợ từ vốn nhà nước theo quy
định của pháp luật.
Chương trình mục tiêu, dự án đầu tư công khác theo quyết định của Chính phủ.
Vai trò của đầu tư công:
Vai trò đầu tư công ở Việt Nam gắn liền với quan niệm về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước nói chung và vai trò bà
đỡ của bàn tay nhà nước nói riêng trong quá trình CNH-HĐH theo yêu cầu phát triển bền vững và bảo đảm an sinh xã hội.
Thúc đẩy quá trình CNH-HĐH, phát triển kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội: Đầu tư công vốn rất quan trọng do đóng
góp lớn vào tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo công ăn việc làm; Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu thì
đầu tư công càng nổi bật vai trò duy trì động lực tăng trưởng kinh tế và góp phần bảo đảm việc làm và an sinh xã hội thông
qua các gói kích cầu của Chính phủ.
Định hình và phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội quốc gia
23
Gia tăng tổng cầu của xã hội: Đầu tư công chiếm tỷ trọng lớn trong tổng đầu tư của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Khi
mà tổng cung chưa thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng kéo sản lượng cân bằng và giá cân bằng cũng
tăng.
Gia tăng tổng cung và năng lực kinh tế: Đầu tư công làm tăng năng lực sản xuất làm tổng cung tăng và sản lượng tăng,
giá giảm xuống cho phép tiêu dùng tăng. Tăng tiêu dùng lại kích thích sản xuất phát triển và làm kinh tế- xã hội phát triển.
Đầu tư mồi, tạo cú huých và duy trì động lực tăng trưởng: Đầu tư công định vị và củng cố nền kinh tế của VN trong
mối quan hệ của khu vực và quốc tế. Tạo niềm tin và động lực cho các nguồn đầu tư khác vào VN góp phần tăng trưởng kinh
tế.
Tạo việc làm cho xã hội
Hạn chế của đầu tư công:
Điểm lại từ ngày triển khai công cuộc đổi mới tới nay, nền kinh tế nước ta đã trải qua nhiều đợt đầu tư "theo phong trào",
nhiều "hội chứng đầu tư" đã xuất hiện. Nào là đua nhau đầu tư xây dựng nhà máy bia, thuốc lá, tiếp đến là xi măng lò đứng,
mía đường, lắp ráp xe máy, sản xuất bột sắn, đánh bắt xa bờ, xây dựng cảng biển, khu công nghiệp và khu kinh tế, kể cả kinh
tế cửa khẩu. Kế đến là bột giấy, cán thép, thủy điện nhỏ và vừa, khu nghỉ dưỡng, khu đô thị, "tận thu" khoáng sản, trường đại

học, sân golf rồi sân bay
Hiệu quả đầu tư thấp
Với hệ số hiệu quả vốn đầu tư (ICOR) cho khu vực nhà nước giai đoạn 2000-2007 lên tới 7,8 - cao hơn nhiều so với mức
trung bình 5,2 của nền kinh tế, đầu tư công chẳng những chưa hoàn thành được vai trò “bã đỡ “ cho nền kinh tế mà còn trở
thành “gánh nặng” khiến nợ công gia tăng và kéo theo lạm phát.
Nghiên cứu thực nghiệm của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương cho thấy, chỉ số ICOR khu vực Nhà nước
cao gấp đôi so với khu vực kinh tế ngoài Nhà nước. Một ví dụ rõ nét là năm 2007, để tạo thêm một đồng GDP, khu vực kinh
tế Nhà nước, trong đó có đầu tư công và đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước phải mất tới 8,1 đồng vốn trong khi khu vực kinh
tế ngoài Nhà nước chỉ tốn 3,7 đồng vốn.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KHĐT) công bố, 6 tháng đầu năm 2011 cả nước đã có thêm 6.731 dự án sử dụng 30% vốn
nhà nước trở lên được khởi công, tăng gần 1.000 dự án so với cùng kỳ năm ngoái. Trong khi đó, số dự án hoàn tất và đưa vào
khai thác chỉ là 4.693. Còn theo số liệu của Tổng cục Thống kê, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước trong 9
tháng đầu năm 2011 là 131.364 tỉ đồng, tăng gần 24% so với cùng kỳ năm trước. Những con số này cho thấy: Mặc dù Chính
phủ quyết tâm thực hiện chủ trương cắt giảm đầu tư công để chống lạm phát, nhưng số dự án đầu tư công mới được triển khai
thực hiện trong những tháng đầu năm nay vẫn tăng mạnh.
Theo Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, trong 10 năm qua, đầu tư của Nhà nước chiếm gần 46% tổng vốn đầu
tư toàn xã hội. Cơ cấu đó cho thấy, vốn đầu tư của Nhà nước là quan trọng nhất. Tài trợ cho đầu tư công là ngân sách. Theo
thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Tính cả trái phiếu Chính phủ thì bội chi ngân sách lên tới 9,7% GDP và 8,7% GDP
trong hai năm 2009 và 2010, cao hơn rất nhiều so với con số chính thức khoảng 5% GDP. Trong khi đó, hiệu quả đầu tư nhà
nước lại không cao so với các loại hình đầu tư khác.
Đầu tư dàn trải
Thời gian vừa qua, do tình trạng đầu tư dàn trải, sai đối tượng hay cùng lúc triển khai quá nhiều các dự án vượt quá khả
năng cân đối của nền kinh tế nên rất nhiều công trình đầu tư dở dang, thời gian hoàn thành và đưa vào sử dụng bị kéo dài.
Hệ quả là nhu cầu đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu Chính phủ trong 4 năm tới phải ở mức trên 500 ngàn tỷ đồng, trong khi
Quốc hội chỉ cho phép mỗi năm phát hành 45 ngàn tỷ đồng. Như vậy, sẽ có rất nhiều dự án bị “treo” lại trong những năm tới.
Tổng hợp số liệu từ 63 tỉnh thành cho thấy có tới 638 dự án có sử dụng vốn ngân sách không thuộc đối tượng được khởi
công mới trong năm 2011 nhưng vẫn được bố trí 1.763 tỷ đồng để thực hiện. Ngoài ra, có đến 2000 dự án khác sử dụng vốn
của ngân sách địa phương không thuộc đối tượng được khởi công mới trong năm 2011 vẫn chưa được cắt giảm. Thậm chí,
nhiều dự án đáng lẽ phải cắt giảm nhưng kho bạc nhà nước tại tỉnh, thành đã tiến hành giải ngân sớm hoặc địa phương cố tình
xin không cắt giảm đối với các dự án đã khởi công.

Chính vì sự đầu tư dàn trải, cùng một lúc triển khai thực hiện quá nhiều dự án, tổng nhu cầu vốn đầu tư cho các dự án
đang triển khai xây dựng vượt quá khả năng cấp vốn của nền kinh tế dẫn đến tình trạng đầu tư công kém hiệu quả.
Chất lượng công trình thấp, tiến độ chậm, kéo dài
Qua kết quả giám sát, đánh giá tổng thể về đầu tư năm 2010 của Bộ KHĐT công bố mới đây, thì tình trạng chậm tiến độ
thực hiện dự án sử dụng vốn nhà nước còn khá lớn, dù so với các năm trước đã giảm nhiều. Cụ thể, trong số 34.607 dự án
đang thực hiện đầu tư, thì có tới 3.386 dự án chậm tiến độ, chiếm 9,78% số dự án thực hiện trong kỳ.
Điều đáng nói là trong số này có nhiều dự án phát triển kết cấu hạ tầng quan trọng, có xu hướng tăng dần trong các năm
gần đây (tỉ lệ dự án chậm tiến độ năm 2009 là 16,9%, năm 2008 là 16,6% và 2007 là 14,8%).
Lợi ích nhóm, cục bộ, tư duy nhiệm kỳ
Do cơ chế và lợi ích cục bộ địa phương, tỉnh nào cũng muốn trở thành một thực thể kinh tế "hoàn chỉnh" nông - công
nghiệp - dịch vụ, kèm theo là trường đại học, bến cảng, sân bay, khu kinh tế mặc dầu không hội đủ điều kiện.
24
Công nghiệp hóa đất nước không có nghĩa là tỉnh nào, huyện nào cũng công nghiệp hóa mà cần có sự phân công lao động
hợp lý phù hợp với lợi thế của từng vùng. Trong khi đó, sự liên kết và quy hoạch vùng còn xa mới đáp ứng yêu cầu làm cho
nguồn lực bị phân tán, trùng chéo, hiệu quả thấp, nền kinh tế nước nhà đã yếu càng yếu thêm. Sở dĩ có tình trạng này một
phần do sự lẫn lộn khái niệm, một phần khác do tâm lý địa phương chủ nghĩa, căn bệnh nhiệm kỳ và nhất là cách đánh giá
thành tích, phân bổ ngân sách và vốn đầu tư từ trung ương đã thúc đẩy cuộc chạy đua về dự án, công trình, tốc độ tăng trưởng
"GDP tỉnh-thành".
Đọc thêm:
Thực trạng đầu tư công ở VN hiện nay
Trong nhiều năm qua, lượng vốn đầu tư trong xã hội luôn chiếm khoảng 40-42% GDP, trong đó vốn nhà nước và nguồn
vốn có tính chất nhà nước chiếm từ 30-35%; tuy nhiên hiệu quả đầu tư còn thấp, tình trạng đầu tư còn dàn trải, lãng phí…
a. Quy mô đầu tư công
Tỷ trọng đầu tư công năm 2011 chiếm 41,7% và giai đoạn 2006 - 2010 lên tới 44,3%.
Xét về cơ cấu, khu vực kinh tế nhà nước vẫn chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng đầu tư xã hội, mặc dù tỷ trọng của khu vực
này đã giảm từ 59.1% vào năm 2000 xuống còn 33.9% năm 2008, thấp hơn tỷ trọng của khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh nhưng năm 2009 lại tăng trở lại mức 40.6% và trở về vị trí số 1 trong cơ cấu vốn đầu tư xã hội.
b. Phân bổ vốn đầu tư công theo ngành, lĩnh vực và địa phương
Ở cấp độ lĩnh vực, đầu tư cho các ngành thuộc lĩnh vực kinh tế chiếm tới 77,1% vốn đầu tư của nhà nước vào năm 2000
và 2009. Đầu tư vào các ngành thuộc lĩnh vực xã hội, liên quan trực tiếp tới phát triển con người (khoa học, giáo dục và

đào tạo, y tế và cứu trợ xã hội, văn hóa, thể thao, phục vụ cá nhân và cộng đồng) từ 17,6% năm 2000 giảm xuống còn
15,2% năm 2009. Xu thế này là biểu hiện rõ rệt chính sách tập trung đầu tư cho kinh tế và tiết chế đầu tư cho xã hội; đó là
xu thế không hợp quy luật, bởi vì một mặt cùng với sự tăng lên của mức sống, các nhu cầu về phúc lợi cần phải được đảm
bảo ở mức cao hơn, mặt khác sự phát triển của khoa học – công nghệ và xu thế phát triển kinh tế tri thức đòi hỏi phải đầu
tư ngày càng nhiều hơn cho phát triển nguồn lực con người.
Ở cấp độ ngành, do số lượng vốn đầu tư của Nhà nước liên tục tăng với tốc độ cao, gấp 2,54 lần trong thời gian từ năm
2000-2009, nên tương ứng với nó, số vốn phân bổ cho các ngành cũng tăng lên. Các ngành có mức tăng đầu tư cao hơn
mức bình quân chung là công nghiệp chế biến 2,61 lần; điện, khí đốt, nước, vận tải, thông tin 2,85 lần; y tế, cứu trợ xã hội
2,94 lần; thương nghiệp, dịch vụ, tài chính, tín dụng 3, 47 lần, quản lý nhà nước, đảng và đoàn thể 3,75 lần; và cuối cùng
là xây dựng 4,88 lần.
Đối với địa phương, vốn đầu tư được phân bổ theo hai cấp ngân sách là trung ương và các tỉnh. Tỷ lệ đầu tư cho hai cấp
vào khoảng 60%: 40% trong năm 2002, sau đó vốn cho cấp trung ương giảm xuống tới mức 50% và không thay đổi bao
nhiêu trong thời gian từ năm 2002 cho đến nay.
c. Tác động về kinh tế của đầu tư công
- Tác động đối với tăng trưởng
Tính chung trong 20 năm qua, vốn là nhân tố chủ đạo của sự tăng trưởng, đóng góp tới 46% mức độ tăng trưởng, nhân tố
lao động khá ổn định, chỉ chiếm tỷ lệ 20%, nhân tố tiến bộ công nghệ và quản lý chiếm 34%, nhưng đã ngày càng đi xuống,
mặc dù khi phân tích sâu thì việc ứng dụng tiến bộ công nghệ, như công nghệ thông tin, viễn thông, năng lượng, xây dựng,
sinh học đã được nâng lên. Trong 10 năm gần đây, tác động của nhân tố tăng trưởng theo chiều sâu chỉ còn 20%, gần giống
như nhân tố lao động 21%, trong khi nhân tố vốn đã tăng lên 59%.
- Hiệu quả của vốn đầu tư
Thước đo hiệu quả vốn đầu tư thường được dùng phổ biến hiện nay là hệ số suất đầu tư (Incremental Capital Output Ratio -
ICOR). Hệ số này phản ảnh cần bao nhiêu đồng vốn tăng thêm để tạo ra một đơn vị tăng lên của GDP.
Giải thích thêm về ICOR: Mô hình Harrod – Domar cho rằng GDP của bất kỳ một nền kinh tế sẽ phụ thuộc vào vốn san
xuất K (K: là giá trị tài sàn quốc gia trực tiếp dùng vào sản xuất) Sự thay đồi quy mô vốn ∆K sẽ ảnh hưởng đến sự thay đổi
tổng sản lượng quốc gia. Hệ số xác định mối quan hệ tỷ lệ giữa sự thay đổi vốn với tổng sản lượng quốc gia được gọi là
ICOR
ICOR= ∆K/∆GDP
Có được vốn sản xuất tăng them là do thực hiện các hoạt động đầu tư. Nói cách khác đầu tư chính là cơ sở để gia tăng vốn
sản xuất, do đó:

I = ∆K = ∆GDP* ICOR
Để đầy nhanh tăng trưởng cần giảm hệ số ICOR, nhưng điều này thường khó khăn cho các nước đang phát triển vì xu
hướng ICOR ngày càng tăng theo giai đoạn phát triển kinh tế ngày càng cao. Theo nhiều công trình nghiên cứu và theo
khuyến cáo của WB, cho thấy đối với các nước đang phát triển, trung bình chung ICOR = 3 là tôt và có tăng trưởng kinh tế.
Trong giai đoạn 2001- 2006, ICOR cua Trung Quốc là 4.0, ICOR của Việt Nam là 5.1
Năm Tổng số vốn đầu tư (tỷ đồng) Khu vực kinh tế nhà nước
25
2000 151183 89417
2001 170496 101973
2002 200145 114738
2003 239246 126558
2004 290927 139831
2005 343135 161635
2006 404712 185102
2007 532093 197989
2008 616735 209031
2009 708826 287534
2010 830278 316285
Bảng 1: Hệ số ICOR thời kỳ 2000-2007 tính theo vốn đầu tư và tổng tích lũy tài sản
Tính theo tổng vốn đầu tư
(I)
Tính theo tổng tích lũy tài sản
(∆K)
Toàn nền kinh tế 5.2 3.5
Kinh tế Nhà nước 7.8 4.9
Kinh tế ngoài Nhà nước 3.2 2.2
Khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài
5.2 4.3
Nguồn: Kết quả tính toán của Bùi Trinh (2009) theo số liệu của Tổng cục Thống kê

Bảng 1 cho thấy, nếu xét hiệu quả đầu tư từ tổng vốn đầu tư, để tăng một đồng GDP cần bỏ ra 5,2 đồng vốn, có thể thấy hiệu
quả đầu tư của Việt Nam trong giai đoan 2000-2007 thấp hơn nhiều so với giai đoạn trước đây (chỉ vào khoảng 2-3 trong thời
gian 1970-1984).
Như vậy có thể nhận xét, vốn đầu tư của toàn nền kinh tế kém hiệu quả là do suất đầu tư của khu vực của nhà nước quá cao
và của khu vực đầu tư nước ngoài thuộc loại cao, trong khi khu vực kinh tế ngoài nhà nước lại có hiệu quả đồng vốn hợp lý.
Nếu so sánh xét hiệu quả đầu tư theo tổng tích luỹ tài sản, thì ICOR của toàn nền kinh tế Việt Nam thuộc loại cao, song
không vượt quá nhiều so với một số nước Đông Nam Á.
Đầu tư của khu vực Nhà nước không đạt hiệu quả kinh tế cao như khu vực tư nhân, bởi vì trong rất nhiều trường hợp mục
đích của đầu tư công không phải nhằm vào lợi nhuận và hiệu quả kinh tế. Ngay cả phần lớn DNNN, tuy có mục tiêu chính là
sản xuất kinh doanh nhằm đạt lợi nhuận càng nhiều càng tốt, nhưng vẫn c̣n phải thực hiện một số mục tiêu "phi lợi nhuận"
như tạo điều kiện phát triển cho các vùng nghèo, có điều kiện khó khăn, sản xuất và cung ứng các hàng hóa công cộng, các
sản phẩm và dịch vụ ít lãi, thậm chí lỗ vốn Tuy nhiên, cũng không phải vì thế mà có thể biện minh cho việc đầu tư kém
hiệu quả của khu vực Nhà nước do những nguyên nhân chủ quan như chiến lược kinh doanh và đầu tư sai lầm, quản lý kém,
thiếu trách nhiệm, lãng phí, tham nhũng
- Những vấn đề còn tồn tại của đầu tư công:
Chậm tiến độ còn khá lớn: Qua kết quả giám sát, đánh giá tổng thể về đầu tư năm 2010 của Bộ KHĐT, tình trạng chậm tiến
độ thực hiện dự án sử dụng vốn nhà nước còn khá lớn, dù so với các năm trước đã giảm nhiều. Trong số 34.607 dự án đang
thực hiện đầu tư, thì có tới 3.386 dự án chậm tiến độ, chiếm 9,78% số dự án thực hiện trong kỳ. Trong số này có nhiều dự án
phát triển kết cấu hạ tầng quan trọng, có xu hướng tăng dần trong các năm gần đây (tỉ lệ dự án chậm tiến độ năm 2009 là
16,9%, năm 2008 là 16,6% và 2007 là 14,8%). Các chuyên gia của Bộ KHĐT nhận định: Việc chậm tiến độ là một trong
những nguyên nhân chủ yếu làm tăng chi phí, giảm hoặc không còn hiệu quả đầu tư và tác động tiêu cực đến nền kinh tế.
Đầu tư dàn trải, kéo dài: đầu tư công vượt quá khả năng của nền kinh tế dẫn đến đầu tư dàn trải, kéo dài, hiệu quả thấp, gây
lãng phí tiền của Nhà nước và nhân dân, khiến cạn kiệt nguồn lực, lỡ cơ hội phát triển, chậm bước tăng trưởng, làm nghèo đất
nước và quan trọng hơn là để lại những hệ lụy về xã hội, kinh tế, tài nguyên-môi trường khiến nhiều năm sau cũng khó khắc
phục được. Đây là hậu quả của tư duy thiếu tầm nhìn chiến lược, bệnh thành tích, cá nhân chủ nghĩa, bóc ngắn cắn dài, kỷ
cương lỏng lẻo, tham nhũng, quản lý nhà nước yếu kém, của nhiều cá nhân và cơ quan chức năng có trách nhiệm trong bộ
máy Nhà nước.
Tài sản cố định mang lại của đầu tư công ngày càng giảm đi: Nếu như năm 2000, đầu tư 100 đồng chúng ta có được 82 đồng
là tài sản cố định thì đến năm 2007, chúng ta đầu tư 100 đồng thì chỉ còn 60 đồng là tài sản cố định.
Câu 7: NGUỒN LỰC TÀI CHÍNH TRONG NƯỚC

1.1.1. Vốn từ ngân sách nhà nước

×