Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Hoạt động phát hành sách giáo dục của Công ty Cổ phần sách Giáo Dục tại Hà Nội năm 2009_2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 91 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
PHỤ LỤC ẢNH MINH HOẠ
Khóa luận tốt nghiệp
Đinh Thị Hằng – Lớp PH27A
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG
SƠ ĐỒ
Khóa luận tốt nghiệp
Đinh Thị Hằng – Lớp PH27A
LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Sách là sản phẩm văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của xã hội.
Trong sách chứa đựng những tri thức quý báu mà loài người đã tích lũy từ
bao đời đến nay.Trong tiến trình phát triển lịch sử xã hội loài người , bất cứ
một dân tộc nào cũng đều phải sử dụng sách như một phương tiện truyền thụ
thông tin quan trọng nhất. Sách là tấm gương phản chiếu nền văn hóa, văn
minh, khoa học của nhân loại và tri thức của dân tộc.
Như chúng ta đã biết kinh doanh xuất bản phẩm là ngành kinh doanh đặc
thù - kinh doanh các sản phẩm văn hóa. Khác với các ngành kinh doanh khác,
kinh doanh sản phẩm văn hóa - tinh thần không chỉ nhằm mục tiêu kinh tế mà
quan trọng hơn cả là mục tiêu xã hội.Các doanh nghiệp kinh doanh xuất bản
phẩm Việt Nam hiện nay hoạt động rất năng động và sáng tạo. Các mặt hàng
kinh doanh ngày càng được cải tiến, nâng cao chất lượng không chỉ về nội
dung mà còn cả hình thức, đáp ứng tốt nhu cầu của mọi đối tượng khách
hàng. Mỗi doanh nghiệp tùy thuộc vào mục tiêu và tiềm lực của doanh nghiệp
mình mà lựa chọn một hay nhiều mặt hàng kinh doanh. Cùng với sự phát triển
của xã hội cũng như các thành phần kinh tế nhà nước và tư nhân, sự phát triển
không ngừng của tri thức khoa học. Ngày nay sách là một loại xuất bản phẩm
mà nội dung trong nó chứa đựng một lượng lớn các tri thức thuộc các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Sách nói chung và sách giáo dục nói riêng có vai trò phổ


biến tri thức đến với mọi người, đáp ứng nhu cầu giải trí nâng cao trình độ
văn hoá và nhận thức cho con người góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Bên
cạnh đó sách giáo dục là loại sách có nội dung chứa đựng những tri thức do
con người khám phá và sáng tạo ra, được biên soạn theo các trương trình giáo
dục khác nhau phục vụ cho việc học tập giảng dạy và nghiên cứu, sách giáo
dục là phương tiện giáo dục không thể thiếu trong nhà trường, có vai trò to
Khóa luận tốt nghiệp
Đinh Thị Hằng – Lớp PH27A
1
lớn trong việc trang bị những kiến thức cơ bản nhất về thế giới quan, nhân
sinh quan.Đồng thời thông qua sách chúng ta có điều kiện giới thiệu truyền
thống văn hóa nước nhà, tiếp thu văn minh nhân loại và thành tựu khoa học
tiên tiến trên thế giới.
Sách giáo dục chiếm giữ một vai trò vị trí quan trọng trong quá trình
phát triển của đất nước. Sách giáo dục là một công cụ, phương tiện để thực
hiện mục tiêu, phương châm giáo dục của Đảng và Nhà nước. Sách giáo dục
ngoài tính chất công cụ còn mang tính chất hàng hóa. Một loại hàng hóa có
tính đặc thù và tính xã hội hết sức sâu rộng. Do vậy phát hành sách giáo dục
phải có kê hoạch cao, sách còn mang tính chất thời vụ nên sách cần phải đến
tay người sử dụng đúng thời gian, đồng bộ, đủ số lượng và giá cả hợp lý. Phát
hành sách giáo dục có nhiệm vụ to lớn trong việc hoàn thành mục tiêu kinh
doanh cũng như nhiệm vụ của xã hội đã được giao.Vì vậy hoạt động phát
hành sách là khâu cuối cùng và quan trọng nhất giúp công ty cổ phần sách
Giáo dục tại Hà Nội đạt được mục tiêu đã đề ra.
Xuất phát từ tình hình thực tế đó, sau một thời gian thực tập tại cửa hàng
sách giáo dục 187 Giảng Võ _Hà Nội thuộc công ty cổ phần sách Giáo dục tại
TP Hà Nội, cùng với những kiến thức được trang bị trong nhà trường em đã
chọn đề tài khóa luận của mình là “Hoạt động phát hành sách giáo dục của
Công ty Cổ phần sách Giáo Dục tại Hà Nội năm 2009_2011”.
2.Mục đích nghiên cứu

Bài khóa luận góp phần hệ thống những vấn đề cơ bản và thực trạng của
sách giáo dục hiện nay của công ty cổ phần sách giáo dục tại Hà Nội. Qua đó
đề ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả, phát huy những mặt tích cực đẩy
lùi mặt hạn chế đối với việc kinh doanh mặt hàng sách giáo dục.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là tìm hiểu các hoạt động phát hành sách giáo
Khóa luận tốt nghiệp
Đinh Thị Hằng – Lớp PH27A
2
dục của công ty cổ phần sách giáo dục tại Hà Nội.
Đề tài tập trung vào nghiên cứu ở công ty cổ phần sách giáo dục tại
Hà Nội và các cửa hàng bán lẻ trực thuộc tư năm 2009 – 2011.
4.Phương pháp nghiên cứu
Trong bài khóa luận người viết đã sử dụng phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp thống kê
Phương pháp quan sát
Phương pháp phân tích
Phương pháp so sánh
Phương pháp nghiên cứu tổng hợp.
5.Kết cấu khóa luận
Khóa luận được chia thành 3 chương
Chương 1: Nhận thức chung về phát hành sách giáo dục và
ý nghĩa của nó đối với công ty cổ phần phát hành sách giáo dục tại
Hà Nội.
Chương 2: Tình hình phát hành sách Giáo dục tại công ty cổ
phần sách giáo dục tại Hà Nội.
Chương 3 : Nhận xét chung và giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả của hoạt động phát hành sách giáo dục tại công ty cổ phần
sách giáo dục tại Hà Nội.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do trình độ kinh nghiệm thực tế và

khả năng còn nhiều hạn chế nên khóa luận không thể tránh khỏi những thiếu
sót. Em rất mong nhận được sự quan tâm giúp đỡ của các thầy cô để bài viết
được hoàn thiện hơn.
Qua đây em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cô giáo Th.s Nguyễn
Thúy Linh đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn em trong quá trình làm bài khóa
Khóa luận tốt nghiệp
Đinh Thị Hằng – Lớp PH27A
3
luận, em xin gửi lời cảm ơn đến các anh chị, cán bộ công nhân viên thuộc
công ty cổ phần phát hành sách giáo dục tại Hà Nội đã giúp em hoàn thành
bài khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Khóa luận tốt nghiệp
Đinh Thị Hằng – Lớp PH27A
4
CHƯƠNG 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ PHÁT HÀNH SÁCH GIÁO DỤC
VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI CÔNG TY CỔ PHẦN
PHÁT HÀNH SÁCH GIÁO DỤC TẠI HÀ NỘI
1.1 Một số khái niệm cơ bản
1.1.1 Khái niệm sách giáo dục
Sách là phương tiện giáo dục không thể thiếu trong nhà trường không thể
thiếu trong nhà trường, có vai trò to lớn trong trang bị kiến thức cơ bản nhất
về thế giới quan, nhân sinh quan. Đồng thời thông qua sách chúng ta có điều
kiện giới thiệu truyền thống văn hóa nước nhà, tiếp thu văn minh nhân loại và
thành tựu khoa học tiên tiến trên thế giới. Theo ipedia.,org/.wiki
ta có định nghĩa về sách như sau:
Sách là một tập hợp thông tin dạng chữ viết hình ảnh được lưu
trong các tờ giấy, giấy da hoặc những vật liệu khác. Mỗi mặt giấy được
coi là một trang sách. Một quyển sách được sản xuất theo dạng điện tử

được gọi là sách điện tử ( hay e-book). Trong thư viện sách có nhiều loại
sách: sách khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội, sách dùng trong trường
học, sách nghiên cứu hay sách tham khảo theo các chuyên đề. Ngoài sách
còn có các ấn phẩm xuất bản định kỳ như tạp chí, nhật ký, các tờ báo,
Trong cơ cấu mặt hàng sách thì sách giáo dục chiếm một lượng lớn từ
75% đến 80% tổng số sách xuất bản mỗi năm. Với vai trò một trong những
xuất bản phẩm có đặc trưng riêng biệt và có ý nghĩa xã hội lớn lao, sách giáo
dục là bộ phận quan trọng trong cơ cấu xuất bản phẩm được sử dụng trong
nhà trường.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về sách giáo dục như
Khóa luận tốt nghiệp
Đinh Thị Hằng – Lớp PH27A
5
sau: “Sách giáo dục là dạng xuất bản phẩm có nội dung chứa đựng những
tri thức tổng hợp do con người khám phá và sáng tạo nên, được biên
soạn theo các chương trình giáo dục khác nhau, phục vụ cho việc giảng
dạy và nghiên cứu”.
Nội dung của sách giáo dục chứa đựng những tri thức tổng hợp nhằm
phục vụ cho việc giảng day và học tập ở trường học, các cấp bậc họ, trường
học, lớp học khác nhau. Đối tượng sử dụng sách giáo dục chủ yếu là thầy và
trò. Sách giáo dục gồm nhiều thể loại, nó được phân theo tính chất, nội dung,
hình thức thể hiện, phương pháp dạy và học cũng như đối tượng sử dụng.
Chúng ta có thể phân loại sách giáo dục như sau:
Theo nội dung kiến thức có:
- Sách giáo dục để giáo dục cơ bản ( giáo dục phổ thông)
- Sách giáo dục kỹ năng kỹ xảo nghề nghiệp.
- Sách giáo dục mang nội dung giáo dục đạo đức : Tiểu học Đại học
Theo định hướng giáo dục của Nhà nước:
- Sách giáo dục cho mầm non: sách mẫu giáo
- Sách giáo dục cho giáo dục phổ thông: sách giáo khoa, sách tham khảo

- Sách giáo dục cho giáo dục chuyên nghiệp: Giáo trình – tài liệu
tham khảo
- Sách giáo dục cho giáo dục đại học: Giáo trình – tài liệu tham khảo
Vì thời gian có hạn nên khóa luận chỉ tập trung vào nghiên cứu hoạt
động phát hành sách giáo dục phổ thông theo định hướng giáo dục của
Nhà nước.
Khái niệm sách giáo khoa phổ thông
Sách giáo khoa là bộ phận quan trong nhất trong cơ cấu sách giáo dục
xã hội. Đây là loại chiếm số lượng rất lớn tới 80 % tổng số mặt hàng sách
giáo dục.
Khóa luận tốt nghiệp
Đinh Thị Hằng – Lớp PH27A
6
Theo từ điển Tiếng Việt “ Sách giáo khoa là sách được biên soạn theo
chương trình dùng để dạy và học trong nhà trường”
Có thể nêu khái niệm sách giáo khoa phổ thông một cách khái quát như
sau:
“ S
ách Giáo khoa là loại sách đặc biệt dùng trong trường học, lớp
học. Trong sách chứa đựng những tri thức khoa học được biên soạn theo
một chương trình được nhà nước ban hành cho một loạt trường,lớp học ,
gắn với chương trình giáo dục quốc gia , phù hợp với cấp học/ bậc học /
ngành học, nhằm đạt một mục tiêu giáo dục đã đặt ra.”
Sách giáo khoa phổ thông gồm 2 bộ phận: Sách giáo khoa học sinh và Sách
bài tập kèm theo Sách giáo khoa. Đó là tập hợp những tri thức cơ bản chuẩn mực
được biên soạn theo chương trình Giáo dục Quốc gia ứng với các cấp học, lớp
học cụ thể và được sử dụng thống nhất trong nhà trường phổ thông.
Khái niệm sách tham khảo
Sách tham khảo là sự hướng dẫn gợi mở hay phân tích, diễn giải làm rõ
về những vấn đề đã được đề cập nhưng chưa trọn ven trong sách giáo

khoa.Nhằm mục đích giúp người đọc hiêu sâu sắc và nâng cao trình độ nhận
thức về những vấn đề mà sách giáo khoa đã đặt ra.
Có thể đưa ra khái niệm về sách tham khảo như sau:
Sách Tham khảo là một dạng XBP Giáo dục, được xuất bản mang
nội dung định hướng gợi mở và nâng cao kiến thức , là công cụ hỗ trợ
đắc lực phục vụ cho việc học tập giảng dạy và nghiên cứu.
Sách tham khảo là loại sách dùng cho giảng dạy và học tập trong nhà
trường phổ thông. Là một bộ phận không thể thiếu trong hệ thống sách giáo
dục hiện nay. Sách tham khảo có sự khác biệt nhất định so với sách giáo
khoa, song nó góp phần quan trọng trong việc hỗ trợ kiến thức, nâng cao khả
năng tư duy và đào tạo cho học sinh tính độc lập nghiên cứu.
Khóa luận tốt nghiệp
Đinh Thị Hằng – Lớp PH27A
7
Về cơ bản, sách tham khảo bao gồm các loại như sau:
Sách tham khảo phổ thông , trong đó bao gồm sách tham khảo bổ trợ
sách giáo khoa và sách tham khảo chọn lọc
Sách tham khảo tra cứu: Trong đó bao gồm sách giáo viên, sách hướng
dẫn phụ huynh học sinh và học sinh, sách hướng dẫn quá trình tự học tự
nghiên cứu
Từ việc phân loại trên có thể khẳng định sách tham khảo hiện nay rất đa
dạng và phong phú. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng lựa
chọn khi có nhu cầu sử dụng. Đồng thời nó cũng giúp cho doanh nghiệp và
các lực lượng tham gia có nhiều thuận lợi trong quá trình khai thác và kinh
doanh mặt hàng này.
Sách giáo khoa và sách tham khảo là hai bộ phận cơ bản của sách giáo
dục, từ sự phân tích ở trên cho thấy sự độc lập tương đối giữa sách giáo khoa
và sách tham khảo. Mặt khác, giữa chúng có mối quan hệ mật thiết,tác động
qua lại lẫn nhau cùng nằm trong mục tiêu phát triển sự nghiệp giáo dục – đào
tạo nước nhà. Điều này càng khẳng định vai trò quan trọng của sách giáo dục

hiện nay.
1.1.2 Phát hành sách
Trong điều kiện hiện nay, sự phân công lao động và chuyên môn hóa sâu
sắc trong sản xuất kinh doanh đã tạo ra sự tách biệt hay phân đoạn giữa bộ
phận sản xuất và lưu thông hàng hóa. Vì thế xuất hiện một đòi hỏi tất yếu
giữa những người sản xuất và những người tiêu dùng sản phẩm cần phải hình
thành nên những bộ phận trung gian làm nhiệm vụ môi giới, lưu thông trao
đổi sản phầm thông qua tiền tệ. Phát hành xuất bản phẩm là hoạt động trung
gian có nhiệm vụ đưa các xuất bản phẩm từ các nhà sản xuất đến tay người
đọc trong thời gian nhanh nhất với giá cả hợp lý và thu về một khoản lợi
nhuận từ quá trình lưu thông.
Khóa luận tốt nghiệp
Đinh Thị Hằng – Lớp PH27A
8
Theo điều 37 Luật xuất bản quy định:
Phát hành xuất bản phẩm bao gồm các hình thức mua, bán, phân phát,
cho thuê, triển lãm, hội chợ, xuất khẩu, nhập khẩu xuất bản phẩm và đưa xuất
bản phẩm lên mạng thông tin máy tính (Internet) để phổ biến đến nhiều
người.
1. Cơ sở phát hành xuất bản phẩm là cơ sở của tổ chức, cá nhân kinh
doanh xuất bản phẩm.
2. Nhà xuất bản được thành lập cơ sở phát hành xuất bản phẩm.
3. Cơ sở kinh doanh nhập khẩu xuất bản phẩm (sau đây gọi là cơ sở nhập
khẩu xuất bản phẩm) phải có giấy phép hoạt động nhập khẩu xuất bản phẩm
do Bộ Văn hoá - Thông tin cấp.
Kinh doanh xuất bản phẩm là quá trình đầu tư công sức và tiền của để tổ
chức hoạt động mua bán hàng hóa xuất bản phẩm nhằm mục đích có lợi
nhuận liên tục và ko ngừng phát triển.
1.1.3 Phát hành sách giáo dục
Phát hành xuất bản phẩm là khâu cuối cùng nhưng lại tác động mạnh mẽ

và trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Phát hành sách giáo
dục bao gồm nhiều hình thức khác nhau nhằm đưa xuất bản phẩm đến tay
người sử dụng.
Phát hành sách giáo dục là việc đưa sách giáo dục đến tay người sử dụng
bằng nhiều hình thức mua, bán, phân phát, cho thuê, triển lãm, hội chợ, xuất
khẩu, nhập khẩu xuất bản phẩm và đưa xuất bản phẩm lên mạng thông tin
máy tính (Internet) để phổ biến đến nhiều người.
Hoạt động phát hành sách giáo dục đạt hiệu quả cao tức là sách giáo
dục được tiêu thụ với số lượng lớn và đến được tay người sử dụng. Phát
hành sách giáo dục phục vụ cho một nhóm đối tượng đông đảo là học
sinh, giáo viên, người nghiên cứu không phân biệt lứa tuổi, nghề nghiệp,
Khóa luận tốt nghiệp
Đinh Thị Hằng – Lớp PH27A
9
trình độ Phát hành sách giáo dục cung cấp đầy đủ, đồng bộ, kịp thời ấn
phẩm giáo dục cho học sinh và giáo viên trong toàn quốc bao gồm cả
vùng sâu vùng xa, vùng núi, hải đảo đáp ứng tôt nhu cầu của xã hội.
Phát hành sách giáo dục ngày nay phát triển mạnh mẽ và thu hút nhiều
lực lượng tham gia các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội, tư nhân
Phát hành sách giáo dục không chỉ nhằm mục tiêu kinh tế mà quan trọng hơn
cả là mục tiêu xã hội.
1.2 Đặc điểm của mặt hàng sách giáo dục
1.2.1 Mặt hàng sách giáo dục là dạng XBP đặc biệt
Sách giáo dục góp phần quan trọng vào việc đào tạo nhân lực , bồi
dưỡng nhân tài, giáo dục toàn diện cho mỗi người.
Sách là kết quả lao động sáng tạo không ngừng của nhân loại trong lịch
sử. Các doanh nghiệp kinh doanh sách vừa có nhiệm vụ phục vụ chính trị vừa
đảm bảo mục tiêu kinh tế. Nét đặc thù của mặt hàng sách còn ở giá trị sử dụng
không giống như những hàng hóa thông thường khác. Giá trị sử dụng của
sách mang tính lâu bền và tác động đến nhiều đối tượng thuộc nhiều thế hệ

khác nhau trong xã hội. Trong đó sách giáo dục có giá trị sử dụng mang tính
toàn diện nhất và giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển chung của
xã hội. Giá trị sử dụng đem lại từ sách giáo dục là đặc biệt nhất. Mặt hàng
sách giáo dục là công cụ tất yếu của sự nghiệp giáo dục và đào tạo.Bởi sách
giáo dục có những đặc điểm riêng biệt và ý nghĩa to lớn.
Thứ nhất, nội dung của sách giáo dục chứa đựng những tri thức tổng hợp
phục vụ cho quá trình học tập.
Thứ hai, nhóm đối tượng sử dụng thuần nhất là giáo viên và học sinh.
Thứ ba, Sách giáo dục được xuất bản và phát hành theo những tiêu chí
nhất riêng, có yêu cầu cao về số lượng, chất lượng, giá thành và thời gian
cung ứng, nhất là sách giáo khoa phổ thông.
Khóa luận tốt nghiệp
Đinh Thị Hằng – Lớp PH27A
10
1.2.2 Mặt hàng sách giáo dục có tính ổn định tương đối
Tính ổn định tương đối trong sách giáo dục được hiểu là những thông tin
khoa học trong nội dung của sách vừa đảm bảo tính nhất quán trong phạm vi
thời gian cần thiết , vừa đảm bảo yêu cầu bổ sung và cập nhật thông tin để nội
dung sách không bị lạc hậu.
Tính ổn định tương đối là thuộc tính vốn có và là yêu cầu đặt ra trong
quá trình biên soạn sách giáo dục, giúp giáo viên và học sinh có điều kiện
giảng dạy và học tập, tiếp cận những tri thức vừa mới vửa mang tính ổn định.
Đảm bảo tính ổn định tương đối trong sách giáo dục sẽ là cơ sở để Nhà
nước và xã hội tiết kiệm kinh phí đầu tư cho xuất bản, phát hành sách giáo
dục và để người sử dụng được cập nhật lượng kiến thức ổn định, tránh bị lạc
hậu nhưng vẫn đảm bảo việc cập nhật thông tin mới phù hợp với yêu cầu của
thực tiễn , từ đó tạo nên sự hoàn thiện của mỗi bộ sách.
1.2.3 Mặt hàng sách giáo dục gắn liền với sự phát triển xã hội và đổi mới
của chương trình Giáo dục quốc gia
Trong những năm gần đây cùng với sự đổi mới và phát triển nền kinh tế

đất nước, hoạt động kinh tế đối ngoại chính phủ Việt Nam đặc biệt coi trọng,
Việt Nam có điểm xuất phát vào loại thấp nhất thế giới nên yêu cầu phát triển
đối ngoại được đặt ra như một nhu cầu sống còn, hoặc là phát triển vượt lên
trước hoặc là tụt lại về sau và ngày càng xa rời các cơ hội phát triển. Từ cuối
năm 80 trở lại đây nền kinh tế Việt Nam đang đi dần vào thế ổn định và phát
triển. Quan hệ đối nội và đối ngoại ngày càng được mở rộng. Các chính sách
ngoại thương luôn được coi là những chính sách nằm trong chiến lược kinh tế
xã hội.
Xã hội phát triển sẽ là điều kiện quan trọng để phát triển giáo dục. Thông
qua những chính sách cải cách giáo dục., sách giáo dục có cơ hội phát triển và
ngày càng trở thành công cụ học tập quan trọng trong nhà trường.
Khóa luận tốt nghiệp
Đinh Thị Hằng – Lớp PH27A
11
Sách giáo dục là sự cụ thể hóa của chương trình giáo dục quốc gia áp
dụng với các cấp học, bậc học. Trong đó đã được lồng ghép mục tiêu và
nguyên lý giáo dục. Cho đến nay nền giáo dục nước ta đã trải qua 3 lần cải
cách :
- Lần 1: ( 1950- 1951)
- Lần 2: (1956-1957)
- Lần 3: (1980-1981)
Hiện nay, Bộ Giáo dục – Đào tạo đã tổ chức cải tiến nội dung sách giáo
khoa lần thứ 4 bắt đầu từ năm học 2002 đến năm học 2010 hoàn thành cải
cách giáo dục. Trong các dự thảo, văn kiện của đại hội như: Báo cáo chính trị,
chiến lược phát triển kinh tế - xã hôi (2011 -2015) đều xác định đến năm 2015
sẽ thực hiện chương trình giáo dục mới.
1.2.4 Mặt hàng sách giáo dục luôn tăng nhanh về số lượng và chất lượng
Trong những năm gần đây cùng với sự đổi mới và phát triển nền kinh tế
đất nước ,hoạt động kinh tế đối ngoại chính phủ Việt Nam đặc biệt coi trọng,
Việt Nam có điểm xuất phát vào loại thấp nhất thế giới nên yêu cầu phát triển

đối ngoại được đặt ra như một nhu cầu sống còn, hoặc là phát triển vượt lên
trước hoặc là tụt lại về sau và ngày càng xa rời các cơ hội phát triển.
Những năm qua, ngành giáo dục nước ta cũng đã có những bước tiến
tích cực. Các chính sách đầu tư cho giáo dục luôn được coi trọng hàng đầu.
Chính vì thế nên mặt hàng sách giáo dục cũng không ngừng tăng nhanh về cả
số lượng, chất lượng nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của người dân đặc biệt
đối với giáo dục phổ thông.
Những năm gần đây số lượng học sinh đến trường không ngừng tăng ở
các cấp học. (đối với bậc tiểu học, chương trình phổ cập giáo dục đã hoàn
thành năm 2000, đối với bậc Trung học cơ sở, chương trình giáo dục phổ cập
từ năm 2000 đến hết năm 2010). Do đó số lượng học sinh đến trường luôn ở
Khóa luận tốt nghiệp
Đinh Thị Hằng – Lớp PH27A
12
mức cao và ổn định. Hiện nay ngành giáo dục cũng thực hiện đổi mới nội
dung chương trình sách giáo khoa phổ thông và sử dụng sách giáo khoa mới.
Vì vậy, lượng sách giáo dục tăng mạnh. Nếu trước đây một bộ sách giáo khoa
chỉ có vài quyển sách cơ bản với số lượng sách tham khảo hạn chế thì nay đã
có số lượng sách giáo khoa nhiều hơn và kèm theo hàng chục sách tham khảo
khác nhau. Chỉ tính riêng bộ sách giáo khoa lớp 6 đã có 14 đầu sách, mỗi tên
sách có hàng chục đầu sách tham khảo kèm theo.
Về mặt chất lượng thì sách giáo dục hiện nay cũng đã được đầu tư rất
đúng mức. Nội dung sách được biên soạn hết sức khoa học với những thông
tin cập nhật, hình thức rõ nét. Sách giáo khoa hiện nay đã được cải cách , sách
tham khảo cũng được biên soạn, chỉnh lý theo chương trình mới, đảm bảo
cung cấp cho các em những kiến thức mới nhất, đầy đủ nhất.
Việc tăng nhanh về mặt số lượng và chất lượng sách giáo dục sẽ là cơ sở
quan trọng cho việc phát triển nhanh về cơ cấu sách giáo dục phổ thông. Qua
đó phục vụ tốt hơn việc cải cách giáo dục phổ thông, là nền tảng cho việc phát
triển xã hội.

1.2.5 Mặt hàng sách giáo dục tạo nên hiệu quả của quá trình học tập và
giảng dạy
Tất cả các loại sách giáo dục luôn bao hàm trong đó những chức năng
giáo dục cơ bản hoặc giáo dục nâng cao. Chính vì vậy nội dung của sách giáo
dục vừa có khả năng trao đổi cung cấp thông tin vừa có khả năng dẫn dắt và
định hướng cho người đọc, người học và chuẩn mực cao nhất vì nó được sử
dụng thống nhất và bắt buộc trên toàn quốc.
Sự phát triển về trí tuệ, khả năng tiếp cận tri thức của học sinh liên quan
trực tiếp đến nội dung của sách. Đồng thời chuẩn bị kiến thức trong sách giáo
khoa cũng là cơ sở để giáo viên cung cấp thông tin, truyền thụ, giảng dạy và
là tiêu chí để đánh giá mức độ tiếp nhận kiến thức của học sinh, là cơ sở khoa
học để học sinh tiếp cận bài giảng của giáo viên.
Khóa luận tốt nghiệp
Đinh Thị Hằng – Lớp PH27A
13
1.2.6 Mặt hàng sách giáo dục mang tính thời vụ cao
Thời điểm mùa vụ của sách giáo dục là bắt đầu từ tháng 4 kéo dài đến
hết tháng 9. Đây là thời điểm mà nhu cầu sử dụng sách giáo khoa tăng cao và
bức thiết, hàng hóa tiêu thụ với số lượng lớn, doanh số tăng cao chiếm đa
phần doanh số cả năm của cả doanh nghiệp phát hành sách giáo dục.
Vào đầu năm học mới nhu cầu sử dụng sách tăng cao làm cho thị trường
sách trở nên sôi động hơn bao giờ hết.Nhiều tổ chức cá nhân cùng tham gia đã
làm thị trường có sự cạnh tranh gay gắt. Một mặt cạnh tranh là động lực và cơ
hội cho doanh nghiệp, một mặt đây cũng là thách thức buộc doanh nghiệp
phải đối mặt và khắc phục.
1.3 Nội dung hoạt động phát hành sách giáo dục
1.3.1 Tổ chức nghiên cứu nhu cầu sách Giáo dục.
Sách giáo dục được xếp vào loại nhu cầu văn hóa tinh thần với hàm
lượng tri thức cao. Sự mong muốn đòi hỏi của con người về sách giáo dục là
nhằm thỏa mãn yếu tố về văn hóa, giải trí và nâng cao trình độ cho cá nhân

mỗi người, mỗi nhóm người và những cộng đồng người trong từng quốc gia,
dân tộc. Nhu cầu sử dụng sách giáo dục của mỗi người phụ thuộc vào nhiều
yếu tố như tuổi, đối tượng sử dụng Chính vì thế đòi hỏi chúng ta cần phải
tiến hành nghiên cứu nhu cầu để xác định được nhu cầu của khách hàng ở
dạng gì? Từ đó các doanh nghiệp sẽ xác định nguồn khai thác, số lượng hàng
phù hợp để chuẩn bị cho quá trình kinh doanh.
Nghiên cứu nhu cầu là việc áp dụng các biện pháp kĩ thuật và nghiệp vụ
để xác định nhu cầu sách của khách hàng và trong những khoảng thời gian và
không gian nhất định. Quá trình nghiên cứu là quá trình thu thập thông tin, số
liệu liên quan đến nhu cầu sách. So sánh phân tích những số liệu đó và rút ra
kết luận. Nghiên cứu nhu cầu giúp doanh nghiệp xác định được quy mô kinh
doanh, cơ cấu và chủng loại mặt hàng kinh doanh. Nghiên cứu nhu cầu giúp
doanh nghiệp xác định được số lượng hàng hóa đã kinh doanh.
Khóa luận tốt nghiệp
Đinh Thị Hằng – Lớp PH27A
14
Nhu cầu sách đa dạng và phong phú không ngừng theo thời gian và
không gian nghiên cứu nhu cầu giúp chúng ta tìm hiểu được thực trạng các
tiêu chí như : mức cầu, khả năng cạnh tranh, khả năng tiêu thụ nhằm tìm ra
các biện pháp đáp ứng nhu cầu, dự báo nhu cầu và khai thác các nhu cầu
mang tính tiềm năng của khách hàng.
Phương pháp nghiên cứu nhu cầu:
Phương pháp nghiên cứu tại văn phòng
Là phương pháp khá phổ biến vì nó ít tốn kém, tận dụng được kết quả
nghiên cứu của những người trước. Để nghiên cứu thành công người nghiên
cứu phải phát hiện ra các nguồn thông tin tin cậy, đầy đủ, triệt để khai thác
các thông tin đó.
Tuy nhiên hạn chế của phương pháp này thu thập thông tin đã diễn ra
nhưng nó không phù hợp với thực tiễn và tương lai, những dữ liệu có thể do
nhiều người xây dựng và thiết kế nên chịu nhiều ảnh hưởng của quan điểm

nghiên cứu. Với phương pháp này đòi hỏi người nghiên cứu phải có trình độ
khách quan và kinh nghiệm để đánh giá những điều thu thập được.
Phương pháp nghiên cứu tai hiện trường
Là phương pháp nghiên cứu nhu cầu quan trọng trong nhu cầu sách. Có
thể thực hiện được sau khi đã có kết quả sơ bộ trong nghiên cứu tại văn
phòng. Đây là phương pháp phức tạp, tốn kém và không phải người nghiên
cứu nào cũng thực hiện được. Bởi vì đây là phương pháp đòi hỏi người
nghiên cứu phải trực tiếp đến hiện trường, phải có kế hoạch trước về nội dung
nghiên cứu ở hiện trưởng, phải là những người có chuyên môn, có kinh
nghiệm ứng xử Ngoài ra người nghiên cứu còn phải lựa chọn, chuẩn bị hiện
trường phù hợp với mục đích và nội dung nghiên cứu. Nghiên cứu nhu cầu tại
hiện trường có các phương pháp quan sát, phỏng vấn, điều tra.
Khóa luận tốt nghiệp
Đinh Thị Hằng – Lớp PH27A
15
1.3.2 Tổ chức khai thác mặt hàng sách giáo dục
Nguồn hàng là điều kiện của kinh doanh thương mại, thúc đẩy sản xuất,
lưu thông phát triển, làm cho quy mô sản xuất lưu thông tăng lên và sự phân
công chuyên môn hóa sâu sắc thêm. Đây là khâu ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt
động kinh doanh. Vì nếu doanh nghiệp lựa chọn được nguồn hàng tốt , chủng
loại đa dạng và phong phú, số lượng hợp lý, chất lượng tốt, đúng thời điểm,
giá cả phải chăng thì sẽ góp phần thúc đẩy kinh doanh đạt hiệu quả cao, còn
nếu không thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn, tồn kho ế đọng, thậm chí là phá
sản vì đây là hoạt động được đầu tư với số vốn rất lớn. Do tầm quan trọng của
hoạt động này nên các doanh nghiệp phải có quá trình nghiên cứu tổng hợp để
chuẩn bị tốt toàn bộ hoạt động đầu vào cho quá trình kinh doanh như: tiềm
lực của công ty,khả năng huy động vốn, số lượng hàng nhập phải sát với nhu
cầu thực tế, tránh hiên tượng tồn kho. Các nguồn hàng được lựa chọn phải có
uy tín và chất lượng tốt. Quyết định nhập hàng khi nào cần theo dõi sự biến
động của thị trường, cũng như thời điểm mùa vụ. Quy luật của thương mại là

mua rẻ, bán đắt. Do đó người làm công tác khai thác không chỉ tìm được
nguồn hàng có hàng hóa tốt mà còn phải có giá rẻ. Tất cả những yêu cầu trên
đều nhằm mục tiêu kinh doanh có lãi.
Khai thác sách giáo dục là quá trình nghiên cứu tổng hợp để chuẩn bị
toàn bộ mặt hàng cho việc phát hành sách giáo dục của doanh nghiệp với
những yêu cầu khoa học về số lượng, chất lượng, thời điểm và giá cả nhằm
mục đích phục vụ các nhiệm vụ chính trị và kinh doanh có lãi. Trong xã hội
hoạt động khai thác xuất bản phẩm góp phần thỏa mãn tốt nhu cầu cơ bản về
xuất bản phẩm của người dân, từ đó góp phần mở mang tri thức, góp phần mở
rộng thị trường xuất bản phẩm. Khai thác mặt hàng sách giáo dục là khâu
nghiệp vụ đầu vào trong quá trình hoạt động kinh doanh sách giáo dục.
Khóa luận tốt nghiệp
Đinh Thị Hằng – Lớp PH27A
16
Chỉ tiêu mua vào thể hiện năng lực khai thác nguồn hàng nguồn hàng
của doanh nghiệp thông thường được áp dụng theo phương pháp thống kê
kinh nghiệm và cân đối.
M = X + Dck – Ddk
M + Ddk = X + Dck
Trong đó: M là chỉ tiêu mua vào trong kỳ
X là chỉ tiêu bán ra trong kỳ
Ddk là số dư đầu kỳ
Dck là số dư cuối kỳ
1.3.3 Tổ chức tiêu thụ mặt hàng sách giáo dục
1.3.3.1 Thiết lập kênh phân phối
Hàng hóa được sản xuất ra, các nhà sản xuất sẽ phải chuẩn bị những điều
kiện cần thiết để tung hàng hóa ra thị trường đó là việc phân chia gia công lại
hàng hóa và tim hướng đi cho hàng hóa. Quá trình đó gọi là quá trình xác
định kênh phân phối cho hàng hóa.
Kênh phân phối hàng hóa xuất bản phẩm được hình thành bởi các tuyến

đi và phương thức di chuyển hàng hóa được tổ chức bởi hệ thống các lực
lượng trung gian làm chức năng di chuyển hàng hóa liên tục từ tay nhà sản
xuất đến người mua cuối cùng nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng và đạt
được mục tiêu của nhà kinh doanh.
Tổ chức kênh phân phối góp phần hỗ trợ tích cực cho tiêu thụ xuất bản
phẩm của doanh nghiệp. Việc di chuyển hàng hóa trong kênh đúng tiến độ là
một đòi hỏi gắt gao, đồng thời quá trình di chuyển hàng hóa đòi hỏi các đơn
vị phát hành phải sử dụng các công cụ, phương tiện thích hợp để đẩy nhanh
tốc độ hàng hóa. Quá trình di chuyển hàng hóa từ nhà sản xuất đến người tiêu
dùng người ta thường sử dụng phương thức bán lẻ hoặc bán buôn và quá trình
đó phải có một lần chuyển giao quyền sở hữu. Kênh phân phối bao gồm 3 bộ
Khóa luận tốt nghiệp
Đinh Thị Hằng – Lớp PH27A
17
phận : Nhà sản xuất, lực lượng trung gian, người tiêu dùng cuối cùng. Để tổ
chức kênh phân phối cần căn cứ vào hàng hóa, nhu cầu thị trường và chiến
lược kinh doanh của doanh nghiệp để xác định kênh phân phối cho hợp lý. Có
các loại kênh phân phối sau:
Kênh phân phối loại dài:
Xuất bản phẩm phải di chuyển qua nhiều trung gian mới đến tay người
sử dụng cuối cùng. Đồng thời xuất bản phẩm phải di chuyển trong thời gian
dài. Khi di chuyển hàng hóa vào kênh dài đòi hỏi nhà phân phối phải xác định
lực lượng trung gian tham gia vào kênh để thực hiện quá trình chuyển giao
hàng hóa. Yêu cầu:
+ Phải có một khoảng thời gian nhất định để đảm bảo cho hàng hóa di
chuyển đến những thị trường khác nhau.
+ Phải có đủ chi phí về tài chính và chiết khấu bán hàng cho lực lượng
tham gia trong kênh di chuyển tới đích đúng tiến độ.
Chi phí thời gian và tài chính liên quan đến tốc độ và hiệu quả di chuyển
hàng hóa. Chính vì vậy các nhà nghiên cứu phải thực hiện tính toán kỹ các

nhân tố trên.
Ưu điểm: Thực hiện được mục đích tuyên truyền, phổ biến tri thức sâu
rộng. Có khả năng loại trừ những xuất bản phẩm độc hại vì quá nhiều khâu
kiểm duyệt, chặt chẽ hơn. Tạo cơ hội và thu hút nhiều lực lượng tham gia, các
doanh nghiệp có thể mở rộng quan hệ mới, chia sẻ rủi ro.
Nhược điểm: Hàng hóa phải trả qua thời gian dài mới đến được tay
người sử dụng, đôi khi làm giảm bớt giá trị của hàng hóa, chi phí kinh doanh
lớn, lợi nhuận bị chia sẻ, mặc dù vậy nhưng nó vẫn là kênh được sử dụng khá
phổ biến.
Kênh phân phối loại ngắn :
Là kênh hàng hóa chỉ di chuyển qua một trung gian hoặc đến thẳng tay
người sử dụng.
Khóa luận tốt nghiệp
Đinh Thị Hằng – Lớp PH27A
18
Ưu điểm:
Thời gian di chuyển của hàng hóa rất ngắn, lực lượng tham gia ít và
hàng hóa được di chuyển ngay thị trường, nhưng người ta đưa xuất bản phẩm
vào kênh ngắn thì đó là thị trường trọng điểm, thị trường trung tâm của nhà
sản xuất, nhà cung cấp độc quyền. Kênh ngắn với phạm vi hẹp nên nhà cung
cấp không cần tổ chức nhiều lực lượng để di chuyển hàng hóa của mình. Thời
gian di chuyên rất ngắn , nhanh và cơ hội đem lại hiệu quả lớn. Tốc độ di
chuyển hàng hóa nhanh, chi phí thấp.
Nhược điểm:
Không phải nhà xuất bản nào cũng có thể đưa vào kênh ngắn, chúng ta khó
có thể kiểm soát được nội dung và ngăn chặn những xuất bản phẩm sai định
hướng. Những xuất bản phẩm này có thể tạo ra sự xáo động trên thị trường ảnh
hưởng đên hoạt động kinh doanh và sự hưởng thụ tri thức trong xã hội.
Kênh phân phối rộng:
Là kênh phân phối có sự kết hợp giữa 2 hoặc nhiều nhà tiêu thụ cùng cấp

để khai thác các cơ hội kinh doanh mới. Sử dụng kênh này thì hàng hóa đến
tay người sử dụng nhanh hơn so với kênh dài, hình thành những cụm thị
trường có điều kiện và đặc điểm động nhất, tạo ra khả năng tổ chức các mối
quan hệ hiệu quả. Hạn chế của kênh phân phối này chỉ có thể phân phối vài
chủng loại hàng hàng hóa chứ không phải tất cả các mặt hàng, không phải lúc
nào cũng tổ chức được theo kênh này.
1.3.3.2 Các hình thức tiêu thụ
Hình thức tiêu thụ là những cách thức bán hàng mà doanh nghiệp sử
dụng tại những địa điểm thời gian nhất định tương ứng với các nhóm đối
tượng khách hàng nhất định trong xã hội trong xã hội. Mỗi một cách thức có
những kỹ năng khác nhau đòi hỏi nhà kinh doanh phải thực hiện những hành
vi khác nhau phù hợp với hàng hóa, môi trường và bản lĩnh kinh doanh. Có
một số hình thức tiêu thụ sau:
Khóa luận tốt nghiệp
Đinh Thị Hằng – Lớp PH27A
19
Tiêu thụ tại điểm cố định:
Là hình thức tiêu thụ giữ vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng đối với
doanh nghiệp. Điều đó không chỉ thể hiện thông qua khối lượng hàng hóa tiêu
thụ được để thỏa mãn nhu cầu của khách hàng mà nó còn tạo ra hình ảnh
thương hiệu của doanh nghiệp trên thị trường. Bán cố định là bán xuất bản
phẩm ở những địa điểm cố định thường xuyên liên tục và sử dụng các hệ
thống cửa hàng, cửa hiệu, kiot và các trang thiết bị nhằm đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của khách hàng. Với hình thức tiêu thụ này hàng hóa phả được
sắp xếp trưng bày, phân loại theo đặc điểm tính chất, điều kiện của cửa hàng.
Tổ chức phục vụ khách hàng theo tính chất của hoạt động bán hàng với các
hoạt động tư vấn, định hướng, tuyên truyền quảng cáo, trực tiếp bán hàng và
có thể bao gồm cả hoạt động bán buôn. Thường xuyên tiếp nhận những ý kiến
của khách hàng để bổ sung kịp thời những thiếu sót, những cái chưa tốt, chưa
làm được.

Ưu điểm của hình thức này là doanh nghiệp có thể tiêu thụ được lượng
hàng hóa phong phú, đa dạng và khối lượng lớn. Thị trường tiêu thụ ổn định
và có được số lượng khách hàng quen thuộc. Sử dụng được nhiều hình thức
bán hàng tại điểm cố định như: bán buôn, bán lẻ, bán tự chọn, bán qua mạng.
Trang thiết bị, cơ sở vật chất đầu tư cho nguời bán đều được đầu tư hiện đại.
Đảm bảo cho hoạt động kinh doanh diễn ra thường xuyên liên tục theo những
quy ước nhất định. Đem lại doanh số và lợi nhuận cao, tạo nên hình ảnh và
thương hiệu của doanh nghiệp, thực hiện các hình thức và biện pháp khác
nhau, rèn luyện được các kỹ năng bán hàng, giao tiếp. Hình thức tiêu thụ tại
điểm cố định sẽ là nơi cung cấp hàng hóa ra thị trường, đào tạo chủ yếu nhân
sự đồng thời là trung tâm tiếp nhận thông tin từ thị trường.
Tiêu thụ lưu động
Là việc tổ chức mang các xuất bản phẩm ra khỏi khỏi cửa hàng hoặc
Khóa luận tốt nghiệp
Đinh Thị Hằng – Lớp PH27A
20
khỏi địa điểm của doanh nghiệp đến một điểm xác định trong những khoảng
thời gian nhất định và phục vụ những nhóm khách hàng nhất định. Với hình
thức này thì hàng hóa không phong phú đa dạng, số lượng xuất bản phẩm sẽ
không nhiều. Bởi các nhà kinh doanh xác định chỉ bán trong những thời điểm
nhất định chứ không bán thường xuyên, liên tục, bán cho một vài đối tượng
nhất định chứ không bán cho tất cả các đối tượng vì đây không phải là thị
trường quen thuộc nên các nhà phát hành khó có khả năng tổ chức và quản lý.
Hình thức tiêu thụ này chỉ có thể sử dụng một cách bán hàng trực tiếp, có khả
năng thỏa mãn tốt nhu cầu nhất, năng suất bán cao, tiêu thụ được cả những
hàng hóa khó bán.
Tiêu thụ qua mạng
Là hình thức tiêu thụ dùng công nghệ để thực hiện việc bán hàng. Doanh
nghiệp có thể phục vụ như cầu của khách hàng trên một thị trường rộng lớn
với đông dảo các nhóm đối tượng khách hàng khác nhau. Hình thức này giúp

doanh nghiệp có thể tiêu thụ được số lượng hàng hóa với số lượng lớn và đạt
hiệu quả cao. Đây là hình thức đòi hỏi yêu cầu cao về cơ sở vật chất kỹ thuật
như phải có hệ thống máy tính, lập trang web bán hàng và các phương tiện kỹ
thuật khác có liên quan. Đội ngũ bán hàng phải đáp ứng được yêu cầu về trình
độ tin học và ngoại ngữ.
1.3.4 Các biện pháp xúc tiến tiêu thụ
Không có thị trường nào tồn tại vĩnh viễn và vì vậy luôn luôn phải tiến
hành xem xét lại những chính sách sản phẩm, hoạt động quảng cáo và
khuyếch trương. Trên tất cả thị trường luôn có người thắng kẻ bại và lẽ
thường người chiến thắng thường đi theo một đường lối nhạy bén và thực tế
hơn so với kẻ thất bại. Nếu không đổi mới bạn sẽ mất tất cả. Khách hàng sẽ
ngán ngẩm với những sản phẩm đó được chào hàng theo phương pháp cũ. Ai
đó đã nói “ cùng ngành nghề chứ không cùng lợi nhuận, cạnh tranh là sự tất
Khóa luận tốt nghiệp
Đinh Thị Hằng – Lớp PH27A
21
yếu của thương trường. Cạnh tranh là sự so sánh đối chứng sức mạnh cơ bản
giữa các doanh nghiệp, những đe dọa thách thức, cơ hội của doanh nghiệp,
chủ yếu có được từ quá trình đối kháng của sức mạnh này”. Mua chưa phải là
mục đích cuối cùng của thương mại, mà mua là để bán, có bán mới mua được.
Hàng hóa được luân chuyển thường xuyên liên tục sẽ thúc đẩy nhanh và quay
vòng vốn từ đó mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, doanh
nghiệp phát hành xuất bản phẩm còn là doanh nghiệp đặc thù do điều kiện
mặt hàng văn hóa tinh thần nên hoạt động này phải thực hiện mục tiêu xã hội.
Doanh nghiệp phải có trách nhiệm định hướng cho khách hàng, làm lành
mạnh hóa nhu cầu.
Xúc tiến tiêu thụ là biện pháp thương mại bao gồm nhiều công cụ nhằm
kích thích thu hút và thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng: tuyên truyền
quảng cáo, hội chợ triển lãm, khuyến mại, khuyến mãi, giao tiếp bán hàng.
Các biện pháp xúc tiến tiêu thụ làm cho hàng hóa trở nên hấp dẫn hơn, thu hút

được khách hàng, bán hàng nhanh hơn, nhiều hơn và mang lại hiệu quả kinh
tế cao hơn, góp phần tạo dựng tốt hình ảnh của doanh nghiệp trên thị trường.
Có các biện pháp xúc tiến tiêu thụ sau:
+ Tuyên truyền quảng cáo
Là biện pháp xúc tiến tiêu thụ gây ảnh hưởng mạnh mẽ đến khách hàng.
Đây là một biện pháp xúc tiến hỗ trợ tích cực của doanh nghiệp trên thị
trường. Tuyên truyền quảng cáo được thể hiện qua cách sắp xếp trưng bày
hàng hóa một cách hợp lý, khoa học: có các biểu đề, biểu chỉ dẫn. Tuyên
truyền quảng cáo được thực hiện thông qua đội ngũ nhân viên bán hàng với
những kỹ năng bán hàng chuyên nghiệp. Ngoài ra tuyên truyền quảng cáo
thông qua các biển hiệu, pano áp phich, thông qua các phương tiện thông tin
đại chúng hiện nay đang trở thành một biện pháp xúc tiên tiêu thụ đạt hiêu
quả cao nhất.Tuy nhiên cần phải hiểu rõ quảng cáo không phải là sự phô
Khóa luận tốt nghiệp
Đinh Thị Hằng – Lớp PH27A
22
trương đánh lừa khách hàng mà là thông tin cho khách hàng biết về đặc điểm
sản phẩm, thu hút sự chú ý của khách hàng.
+ Hội chợ triển lãm
Là một hoạt động xúc tiến thương mại tập trung của các nhà kinh doanh.
Đó là việc tổ chức mang hàng hóa xuất bản phẩm đến một điểm nhất định
cùng với các đối tác khách để thực hiện việc khuếch trương và bán hàng. Hoạt
động này giúp cho các nhà tiêu thụ có khả năng gây ảnh hưởng lớn tới các đối
tác, các thị trường, đặc biệt là khách hàng. Hội chợ triển lãm là việc thực hiện
việc bán hàng tập trung trong một quy mô nhất định với không gian cụ thể.
Trong khi tham gia hội chợ triển lãm, các nhà kinh doanh phải thực hiện
những hành vi của mình phù hợp với yêu cầu của việc tổ chức hội chợ triễn
lãm như mang đến, tổ chức các hoạt động trong hội chợ triển lãm, tổ chức bán
hàng, tổ chức các mối quan hệ.
+ Khuyến mại, khuyến mãi

Thực hiện hoạt động này, nhà tiêu thụ phải nhường một phần lợi ích của
mình cho khách hàng nhằm khuyến khích sức mua của khách hàng, thu hút
khách hàng. Nhà kinh doanh phải xây dựng cho mình những chiến lược ngắn
hạn hay dài hạn trong một khoảng không gian và thời gian nhất định và đối
với từng loại hàng hóa nhất đinh. Biện pháp này có khả năng giới thiệu hàng
hóa một cách rộng rãi, thu hút khách hàng và nâng cao khả năng cạnh tranh
cho các doanh nghiệp.
+ Kỹ năng giao tiếp bán hàng
Là hoạt động xúc tiến trực tiếp hoặc gián tiếp nhằm xác lập các mối
quan hệ giữa con người với con người. Nghệ thuật giao tiếp bán hàng là một
nhân tố hết sức quan trọng bởi nố có khả năng thúc đẩy quá trình bán hàng là
một nhân tố hết sức quan trọng bởi nó có khả năng thúc đẩy quá trình bán
hàng. Giao tiếp chính là quá trình sử dụng nghệ thuật nói chuyện với đối tác,
Khóa luận tốt nghiệp
Đinh Thị Hằng – Lớp PH27A
23

×