BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Lê Hương
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Lê Hương
Chuyên ngành : Quản lý giáo dục
Mã số : 60 14 05
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ BÍCH HỒNG
Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
LỜI CẢM ƠN
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn:
- Ban giám hiệu trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh,
phòng Sau Đại học và các phòng chức năng liên quan; các thầy
cô khoa Tâm lý Giáo dục của trường đã tạo điều kiện thuận lợi
cho chúng tôi học tập và nghiên cứu;
- Ban lãnh đạo Sở Giáo dục và Đào tạo Cần Thơ, Phòng Giáo
dục và Đào tạo quận Ninh Kiều, quý thầy cô Ban giám hiệu,
tập thể giáo viên, học sinh, quý vị phụ huynh học sinh các
trường THCS Đoàn Thị Điểm, THCS Tân An, THCS Lương
Thế Vinh, THCS Thới Bình, THCS Trần Ngọc Quế, và THCS
An Hòa 1 đã tạo điều kiện, hỗ trợ và cun
g cấp các thông tin, tài
liệu nghiên cứu luận văn cho chúng tôi;
- Bạn bè, gia đình và những người đã giúp đỡ tác giả thực hiện
luận văn;
- Đặc biệt, xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến Cô,
TS Nguyễn Thị Bích
Hồng, đã dành nhiều thời gian, công sức
tận tình hướng dẫn tác giả hoàn thành luận văn này.
Tác giả,
Nguyễn Lê Hương
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghị quyết Đại hội Đảng lần IX khẳng định mục tiêu tổng quát chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001- 2010 là “đưa nước ta thoát khỏi tình trạng
kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân,
tạo nền tảng đến năm 2010 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại hóa ”. Để đạt được mục tiêu đó thì vai trò của giáo dục và khoa học
công nghệ là quyết định và nhu cầu phát triển giáo dục là rất bức thiết. Mới đây,
phó t
hủ tướng, bộ trưởng Bộ Giáo Dục và Đào Tạo Nguyễn Thiện Nhân cũng đã
triển khai các giải pháp mang tính đột phá giai đoạn 2007 – 2010, trong đó nhấn
mạnh đến việc chăm lo đầu tư phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo
dục, nâng c
ao hiệu quả hoạt động giáo dục và đào tạo, phân cấp và quản lý theo tiêu
chí chất lượng. Như vậy công tác quản lý đóng một vai trò không nhỏ trong việc
thực hiện mục tiêu chiến lược là phát triển giáo dục ở nước ta.
Quản lý là một công tác không thể thiếu trong bất kỳ lĩnh vực nào vì chính
nó quyết định sự thành công và việc đạt được mục tiêu của một tổ chức. Quản lý là
một chu trình bao gồm các bước căn bản là: lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm
tra đánh gi
á và điều chỉnh. Kiểm tra là một mắt xích trong chu trình đó. Quản lý mà
buông lỏng kiểm tra sẽ ảnh hưởng tiêu cực cho hoạt động chung của toàn đơn vị,
đồng thời cũng thể hiện sự yếu kém về năng lực của nhà quản lý. Trong quản lý
giáo dục, việc quản lý hoạt động dạy của thầy và học của trò là một trong những nội
dung thiết yếu. Thông qua kiểm tra h
oạt động sư phạm sẽ giúp hiệu trưởng có được
những thông tin quan trọng về năng lực sư phạm, trình độ chuyên môn, tư cách đạo
đức của giáo viên cùng chất lượng học tập, tình hình học sinh của đơn vị mà mình
đang quản lý, từ đó người hiệu trưởng sẽ có kế hoạch điều chỉnh kịp thời và hợp l
ý
nhằm đưa đơn vị mình đi vào hoạt động một cách ổn định và phát triển hơn.
Trong giai đoạn hiện nay của đất nước, ngành giáo dục đang thực hiện việc
đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp dạy - học theo hướng tích cực “lấy
người học làm trung tâm” và đổi mới sách giáo khoa - giáo trình. Đồng thời các nhà
quản lý giáo dục đang tập trung nâng cao năng lực quản lý mà trong đó chú trọng
đến công tác kiểm tra hoạt động dạy học nhằm nắm được thực trạng chất lượng học
sinh hiện nay trong nhà trường, tìm nguyên nhân để khắc phục “căn bệnh thành
tích”, xóa bỏ hiện tượng ngồi nhầm lớp của học sinh. Đồng thời qua đó các nhà
quản lý cũng đánh giá được năng lực sư phạm của đội ngũ giá
o viên để có biện
pháp nâng cao tay nghề, chuẩn hóa cho đội ngũ này và từng bước đưa đơn vị mình
đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Hiện nay, công tác kiểm tra hoạt động dạy học ở các cấp học của Cần Thơ
nói chung và quận Ninh Kiều nói riêng, đang được các cấp lãnh đạo quan tâm chỉ
đạo thực hiện theo tinh thần đổi mới. Việc đổi mới cơ chế và phương thức quản l
ý
giáo dục theo hướng phân cấp hợp lý là nhằm phát huy được tiềm năng, sức sáng
tạo, tính chủ động và tự chịu trách nhiệm của các trường. Thông qua công tác kiểm
tra đánh giá bằng các biện pháp quản lý chặt chẽ sẽ nâng cao được chất lượng giáo
dục, đạt được các mục tiêu mà ngành đã đề ra. Trong các báo cáo tổng kết hàng
năm về công tác thanh - kiểm tra, Phòng GD&ĐT quận Ninh Kiều đã chỉ ra những
hạn chế như vẫn c
ó nơi chưa thực sự thấy rõ tầm quan trọng của công tác kiểm tra
nội bộ trường học nên còn buông lơi việc kiểm tra, hoặc kiểm tra đánh giá chung
chung, chiếu lệ... Có những nơi còn chạy theo thành tích đã làm thay đổi kết quả,
che đậy những yếu kém, tô hồng thành tích. Điều đó đã cho thấy chất lượng thực
chất của việc dạy và học ở một số trường chưa đư
ợc khả quan. Bên cạnh đó hoạt
động này vẫn chưa được thống nhất đồng đều theo một tiêu chí chung cho tất cả các
trường nên chưa có sự “đều tay” khi đánh giá chất lượng giáo dục ở mỗi trường.
Chính vì vậy cần có nhận thức đúng đắn về vị trí và tầm quan trọng của việc kiểm
tra đánh giá hoạt động dạy học, có những giải phá
p khắc phục các nhược điểm
nhằm làm cho công tác này được thuận lợi, có tác dụng thiết thực và đạt hiệu quả
hơn.
Việc kiểm tra hoạt động dạy học là một vấn đề được nhiều người quan tâm vì
đây là một trong những công tác chính trong hoạt động của nhà trường. Đã có nhiều
đề tài nghiên cứu về công tác này ở các cấp học, các địa phương, nhưng đối với
quận Ninh Kiều thì vấn đề này còn hoàn toàn mới mẻ.
Từ những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài “Thực trạng kiểm tra hoạt động
dạy học trên lớp của hiệu trưởng trường THCS quận Ninh Kiều, thành phố Cần
Thơ” với hy vọng đóng góp cho việc đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục
của địa phương.
2. Mục đích nghiên cứu
Xác định thực trạng việc kiểm tra h
oạt động dạy học trên lớp của hiệu trưởng
trường THCS quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ và đề xuất một số giải pháp nâng
cao hiệu quả công tác quản lý của hiệu trưởng.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý của hiệu trưởng trường trung học cơ sở quận Ni
nh Kiều, TP
Cần Thơ.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Công tác kiểm tra hoạt động dạy học trên lớp của hiệu trưởng trường trung
học cơ sở quận Ninh Kiều, TP Cần Thơ.
4. Giả thuyết khoa học
Theo nhìn nhận của tác giả, việc kiểm tra hoạt động dạy học trên lớp của
hiệu trưởng trường trung học cơ sở quận Ninh Kiều, thà
nh phố Cần Thơ nhìn chung
đang có sự chuyển biến tích cực. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số hạn chế như việc
lập kế hoạch kiểm tra còn chung chung, chưa cụ thể và kiểm tra còn nặng tính hình
thức, thiếu hiệu quả. Nguyên nhân của các hạn chế này có thể là do các nhà quản lý
trường học còn quản lý theo “kinh nghiệm”, chưa nhận thức đúng rằng kiểm tra là
một chức năng c
hính của quản lý chứ không phải là biện pháp hỗ trợ cho quản lý.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Phân tích cơ sở lý luận về công tác kiểm tra hoạt động dạy học trên lớp
của hiệu trưởng các trường trung học cơ sở .
5.2. Khảo sát thực trạng việc kiểm tra hoạt động dạy học trên lớp của hiệu
trưởng trường trung học cơ sở quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ, từ đó làm rõ
nguyên nhân của thực trạng này.
5.3. Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra hoạt động
dạy học ở các trường THCS quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp luận
- Dựa trên qua
n điểm lịch sử để tìm hiểu sự phát triển và quy luật của vấn đề.
- Dựa trên quan điểm hệ thống cấu trúc để làm rõ cơ sở lý luận của đề tài.
- Dựa trên quan điểm thực tiễn để làm rõ thực trạng mà đề tài đề cập đến.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
6.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết (phân tích và tổng hợp lý thuyết):
tham khảo các tài liệu, văn bản của Nhà Nước, của ngà
nh; các quy chế, điều lệ có
liên quan làm cơ sở lý luận cho đề tài.
6.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Quan sát sư phạm: dự giờ, dự họp tổ chuyên môn, đánh giá thi đua,...
- Điều tra giáo dục: trưng cầu ý kiến, điều tra bằng phiếu (bảng hỏi dành cho
hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, tổ trưởng c
huyên môn, giáo viên, học sinh).
- Phỏng vấn, trò chuyện để khảo sát nguyên nhân, tham khảo giải pháp.
6.2.3. Phương pháp thống kê: xử dụng phần mềm SPSS để xử lý số liệu kết
quả điều tra.
7. Giới hạn của đề tài
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu công tác kiểm tra hoạt động dạy học trên lớp
của hiệu trưởng ở 6/10 trường THCS, cụ thể là các trường: Đoàn Thị Điểm, Lương
Thế Vi
nh, Tân An, Trần Ngọc Quế, Thới Bình, và An Hòa 1; không nghiên cứu các
hoạt động khác ở những trường này.
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC KIỂM TRA
HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC TRÊN LỚP CỦA
HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG THCS
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Sơ lược tình hình nghiên cứu liên quan đến việc kiểm tra trong
quản lý và hoạt động dạy học trên thế giới
1.1.1.1. Trong hoạt động quản lý
Hoạt động quản lý là một hoạt động lâu đời nhưng lý thuyết về khoa học
quản lý lại mới xuất hiện trong xã hội hiện đại. Cho đến cuối thế kỷ 19, các nghiên
cứu và lý thuyết về khoa học quản lý c
òn rất mờ nhạt, chưa có một công trình tổng
hợp nào về nguyên tắc và kỹ thuật quản lý một cách đầy đủ. Trong giai đoạn này,
nhiều nhà nghiên cứu đã đã khái quát được các chức năng quản lý mà kiểm tra là
một trong những chức năng đó:
- F.W.Taylor là một trong những người đầu tiên đã đặt nền tảng cho các lý
thuyết quản lý hành chính, như: sự phân biệt rõ quyền hành và trách nhiệm, phân
biệt giữa hoạch định và hoạt động cụ thể, tổ chức các bộ phận c
hức năng, sử dụng
tiêu chuẩn để kiểm tra. Năm 1911, với tác phẩm “Các nguyên tắc quản lý một cách
khoa học”, ông đã đưa ra “hệ thống giám sát theo chức năng” để áp dụng vào quá
trình điều hành của nhà quản trị trong sản xuất. Quan điểm của ông chỉ xem kiểm
tra như một biện pháp của quyền lực để giúp cho các quản đốc “điều hành tiến độ
sản xuất, theo dõi thời gian và t
hao tác, duy trì kỷ luật” [12, tr.44]
- Bằng các nghiên cứu thực tiễn và lý luận, Henrry Fayol đã đưa ra các
nguyên tắc quản lý, qua đó ông nhấn mạnh rằng để thành công các nhà quản lý cần
hiểu rõ các chức năng quản lý cơ bản như hoạch định, tổ chức, điều khiển, kiểm tra.
Tuy nhiên ông không bàn sâu và
o các chức năng này (trong đó có việc kiểm tra) mà
chỉ tập trung cho việc áp dụng các nguyên tắc quản lý nhất định.
Kiểm tra trong hoạt động quản lý đã được nhiều tác giả sau này nghiên cứu
chuyên sâu hơn, đầy đủ các vấn đề hơn. Trong các công trình nghiên cứu về lý
thuyết khoa học quản lý, các tác giả đều đã có hẳn những chương mục rõ ràng bàn
về mọi khía cạnh của vấn đề kiểm tra trong quản lý hoặc có những nghiên cứu riêng
về kiểm tra trong quản lý, như Robert J. Mockler với tác phẩm “Diễn trình kiểm tra
quản trị” (The Management Control Process). Trong đó tác giả đã đưa ra khái niệm:
“Kiểm tra là một nỗ lực có hệ thống phản hồi thông tin, nhằm so sánh những thành
tựu thực hiện với định mức đã đề ra và để bảo đảm rằng những nguồn lực đã và
đang đư
ợc sử dụng có hiệu quả nhất, để đạt mục tiêu của đơn vị” [12, tr.287]. Các
tác giả Harold Koontz, Cyril O’Donnell, Heinz Weihrich trong tác phẩm “Những
vấn đề cốt yếu của quản lý” đã đưa ra những vấn đề sau:
- Mục đích kiểm tra nhằm “đo lường và chấn chỉnh sự hoạt động các bộ phận
cấp dưới để tin chắc rằng các mục tiêu và các kế hoạch để đạt mục tiêu này đã và
đang được hoà
n thành”. [24, tr. 541]
- Quá trình kiểm tra cơ bản: xây dựng các tiêu chuẩn, đo lường việc thực
hiện, điều chỉnh sai lệch.
- Phân cấp trong kiểm tra: việc kiểm tra còn thay đổi theo từng cấp bậc của
các nhà quản lý và họ phải có trách nhiệm đối với việc thực thi các kế hoạch. Công
việc kiểm tra cần phải được thiết kế theo các kế hoạch, các chức vụ, theo cá nhân
các nhà quản lý và t
heo cá tính của họ
- Nguyên tắc: khi kiểm tra cần vạch rõ những chỗ khác biệt tại các điểm thiết
yếu; kiểm tra cần phải khách quan, linh hoạt phù hợp với bầu không khí của tổ
chức, phải tiết kiệm
và phải dẫn đến tác động điều chỉnh.
- Văn hóa kiểm tra: phương Đông chú trọng đến hình thức tự kiểm tra, mang
tính giúp đỡ nhau sửa chữa khuyết điểm, hoàn thành công việc tập thể trong khi
phương Tây và Bắc Mỹ lại chú trọng đến việc bộ phận này kiểm tra bộ phận khác
nhằm đảm bảo công việc đạt được mục tiêu của tổ chức và đánh giá cá nhân.
Trong
hoạt động chính trị, nhiều nhà lãnh đạo cũng đã xem công tác kiểm
tra như một công cụ để đảm bảo cho việc “giữ gìn kỷ cương, phát huy sức mạnh của
nhà nước, chỉnh đốn lại công việc” (V.I.Lênin). Trong bài báo cáo tổng kết của Ban
chấp hành Trung ương Đảng cộng sản (B) toàn Liên Xô tại Đại hội Đảng lần XVII,
năm 1934, Xtalin đã nhắc đến tầm quan trọng của công tác kiểm tra: “Tổ chức tốt
công tác kiểm tra việc chấp hành, đó là một ngọn đèn pha cho phép bất kỳ lúc nào
soi sáng được tình hình hoạt động của bộ máy (...) Ta có thể nói chắc rằng chín
phần mười những khuyết điểm và thiếu sót của chúng ta đều là do thiếu tổ chức
đúng đắn công tác kiểm tra việc chấp hành mà ra ”.
Như vậy, c
ác lý thuyết về vấn đề kiểm tra trong quản lý ngay từ đầu đã được
nhiều người quan tâm nghiên cứu, từ đơn giản chỉ ra đó là một chức năng trong
quản lý đến chuyên môn hóa thành một lý thuyết chung về kiểm tra. Các lý thuyết
đó theo những quan điểm khác nhau nhưng tựu chung lại vẫn thống nhất rằng kiểm
tra là chức năng không thể thiếu của nhà quản lý mà nhờ có nó có thể đạt đư
ợc hiệu
quả cao trong điều hành công việc chung. Tất cả các lý thuyết này đều được các nhà
quản lý lựa chọn để áp dụng vào công tác chuyên môn riêng của mình.
1.1.1.2. Trong hoạt động giáo dục
Những lý thuyết nền tảng về khoa học quản lý đã giúp cho các nhà giáo dục
học xây dựng nên lý thuyết khoa học về quản lý giáo dục, đồng thời tạo tiền đề
thuận lợi cho việc nghiên cứu hoạt động kiểm
tra trong nhà trường. Trong các công
trình nghiên cứu đó, các tác giả cũng đều khẳng định kiểm tra là một chức năng cơ
bản của công tác quản lý nhà trường. Có nhiều quan điểm khác nhau về kiểm tra
hoạt động dạy học như:
- Kiểm tra để đánh giá theo mục tiêu dạy học, theo tiêu chí hay hướng vào
mục đích yêu cầu của chương trình giảng dạy là phổ biến và giữ vai trò chủ đạo so
với cách sử dụng chuẩn trung bình của nhóm để kiểm tra. Việc kiểm tra h
oạt động
dạy học từng bước được cụ thể hóa theo các cấp: chung, bộ phận, cụ thể. Ngay từ
thế kỷ 19, nhiều nhà giáo dục học cũng đã đưa ra các hình thức kiểm tra trong dạy
học, như O.W.Caldwell và S.A.Courtis đã có kế hoạch áp dụng hình thức kiểm tra
theo tinh thần đảm bảo tính khách quan và độ tin cậy như các bài trắc nghiệm (test
)
hiện nay từ năm 1845; hay Truman Lee lại quan tâm đến các bộ thang đo (scale
book) mà một hiệu trưởng người Anh, Fischer, tạo ra vào năm 1864 để đánh giá
thành tích và chất lượng dạy học trong các môn chính tả, số học, tập đọc và ngữ
pháp. Nhà giáo dục học Hoa Kỳ, Ralph Tyler, vào những năm 20 – 30 của thế kỷ
trước đã chú ý nhấn mạnh hơn tầm quan trọng, cách tiến hành việc đánh giá giáo
dục và đưa ra định nghĩa về đánh giá giáo dục: “Quá trình đánh giá chủ yếu là quá
trình xác định mức độ thực hiện được của các mục tiêu trong các chương trình giáo
dục.” [31, tr.11-12] Việc đánh giá học sinh cũng là quá trình xác định mức độ thay
đổi hành vi của học sinh vì mục tiêu giáo dục là nhằm tạo ra các thay đổi trong hành
vi của học sinh.
- Kiểm t
ra để đo lường hiệu quả dạy học. Nhà bác học Hoa Kỳ Rice đã đưa
ra một luận điểm quan trọng mà ngày nay vẫn còn có giá trị thực tiễn là cần phải
“đo tính hiệu quả dạy học” [34, tr.29-30]. Kiểm tra phải hướng đến hiệu quả đào
tạo, chất lượng giáo dục. Makarenco, nhà giáo dục học
Xô Viết cho rằng tính hiệu
quả của quá trình giáo dục phụ thuộc vào sự kiểm tra việc tiến hành công tác đã có
hiệu quả đến đâu. Sự kiểm tra cần thiết cho việc tìm hiểu hiệu quả quá trình giáo
dục, chất lượng hoạt động của các giáo viên và trình độ của học sinh. Hiệu quả
kiểm tra phụ thuộc vào việc tổ chức rõ ràng, lập kế hoạch, phân công đúng đắn
trách nhiệm, sự thay thế lẫn nhau và lựa chọn t
hời gian thích hợp dành cho việc
kiểm tra. [28, tr.9].
- Kiểm tra dạy học là để điều chỉnh và cần tiến hành theo quy trình. Tác giả
Robert F.Mager người Pháp đã nhận định việc kiểm tra đánh giá là việc nhìn nhận
tình hình học sinh và giáo viên để có kế hoạch cho công việc tiếp theo và giúp cho
học sinh tiến bộ. Tác giả M.I.Kondakov trong bài “Cơ sở khoa học của quản lý giáo
dục” đã cho rằng kiểm
tra trong giáo dục không phải là sự soát xét mà là sự kiểm tra
nghiên cứu, sự phân tích công tác sâu sắc. Điều đó cho thấy chính nhờ kiểm tra
người lãnh đạo đi sâu vào bản chất của quá trình sư phạm, hiểu rõ mọi kế hoạch,
cách tổ chức, thực hiện kế hoạch đó đã đạt được hiệu quả như thế nào, những bất
cập, thiếu sót nào cần điều chỉnh... Cũng từ những yêu cầu của công tác quản l
ý
trường học nói chung và việc thực hiện các chức năng kiểm tra nói riêng,
M.I.Kondakov đã nêu ra phong cách và phương pháp công tác của người lãnh đạo
nhà trường, đồng thời nêu lên những phẩm chất và năng lực cần thiết để tiến hành
kiểm tra hoạt động dạy học trên lớp một cách hiệu quả. Tác giả N.A.Subin khi bàn
về công tác kiểm tra nội bộ trường học, đã chú ý đến việc phân cấp quản lý trong
kiểm tra và vai trò của lực lượng kiểm tra trong các bước tiến hành kiểm tra. Sự
phân cấp đó định ra chế độ làm việc hợp lý cùng năng lực, phẩm chất của những
người kiểm tra để từ đó có sự giao nhiệm vụ và nhận trách nhiệm của lực lượng
kiểm
tra. [19, tr. 200-203].
- Gần đây, Jacques Delors, Chủ tịch ủy ban quốc tế về giáo dục thế kỷ đã cho
rằng thanh tra trong giáo dục không chỉ để kiểm tra hoạt động giảng dạy của giáo
viên, mà còn để “duy trì các cuộc đối thoại của giáo viên về phát triển tri thức,
phương pháp và các nguồn thông tin.” [35, tr. 57-58] Từ đó ông nhấn mạnh cần xác
định và khen thưởng những giá
o viên tốt; đánh giá cụ thể, có hệ thống và thường
xuyên những gì mà học sinh đã học được và quan tâm đến kết quả học tập của học
sinh cũng như vai trò của giáo viên trong việc giúp học sinh đạt được những kết quả
đó.
- Năm 1977, E. Beeby cho rằng việc kiểm tra đánh giá giáo dục là sự thu
thập và lý giải có hệ thống có chứng cứ, như một phần của quá trình dẫn tới sự nhận
xét về giá trị theo quan điểm h
ành động.
Hiện nay, các nhà khoa học giáo dục đã và đang đưa ra những công trình
nghiên cứu có nhấn mạnh vai trò, khả năng thực hiện việc tự kiểm tra của nhà
trường, GV và HS trong hoạt động dạy học. Đồng thời các nước cũng đều quan tâm
đến việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ trên lĩnh vực kiểm tra
đánh giá giáo dục và
triệt để áp dụng các biện pháp giáo dục và xã hội để đảm bảo sự khách quan, công
bằng cùng hiệu quả của việc kiểm tra đánh giá.
1.1.2. Những nghiên cứu liên quan đến kiểm tra hoạt động dạy học trong
nước
Công tác kiểm tra trong nhà trường được xem như là một trong những vấn đề
trọng tâm của hoạt động giáo dục. Nghiên cứu và phát triển những lý thuyết về quản
lý đã và đa
ng được nhiều nhà nghiên cứu trong lĩnh vực giáo dục của nước ta thực
hiện.
- Tác giả Đinh Sĩ Đại đã đưa ra khái niệm kiểm tra trong quản lý trường học:
“Kiểm tra là một biện pháp quan trọng trong hoạt động quản lý trường học của
hiệu trưởng và kiểm tra, đó là một chức năng của lao động trong mọi hệ thống, kể
cả hệ thống trường học”. [19, tr. 200-225] Ngoài khái niệm, tác giả còn bàn đến
đối tượng của kiểm tra, nội dung kiểm tra, lực lượng kiểm tra, p
hương pháp kiểm
tra... Việc phân cấp kiểm tra các hoạt động giáo dục đảm bảo quản lý trường học
một cách tối ưu vì đây là phương pháp quản lý khoa học, nó quy định rõ nề nếp
quản lý, báo cáo của các bộ phận trong trường học, đảm bảo độ tin cậy cao làm cơ
sở cho việc điều chỉnh hoặc ra quyết định trong quản lý trường học.
- Trong đề tài khoa học cấp nhà nước: “Cơ sở lý luận của việc đánh giá trong
quá trình dạy học ở trường phổ thông” của Lê Đức P
húc (12/1995), đã khái quát
những lý luận chung nhất, nhấn mạnh một số quan điểm, nội dung về vấn đề tổ
chức kiểm tra để đánh giá chất lượng học tập của học sinh.
- Trong tài liệu: “Hiệu trưởng quản lý hoạt động dạy học và giáo dục trên
lớp” của Thạc sĩ Nguyễn Thị Bí
ch Yến, (2005) có đề cập việc thực hiện một quy
trình kiểm tra hoạt động dạy học của hiệu trưởng dựa trên cơ sở các chức năng QL.
- Nhiều tác giả khác cũng đưa ra các nhận định về thực trạng quản lý việc
kiểm tra đánh giá trong giáo dục hiện nay và các nguyên tắc cơ bản của kiểm tra
đánh giá là phải đảm bảo tính chính xác, tính hiệu quả,
tính kịp thời, tính thường
xuyên, tính thuyết phục, tính khách quan. Đồng thời các tác giả cũng bàn luận về
các phương pháp kiểm tra, các ưu điểm, nhược điểm của các hình thức kiểm tra
cùng các nhận định và giải pháp... như: “Việc dự giờ của người quản lý trường học”
của Đào Vĩnh (1981); “Đánh giá chất lượng giáo dục cần thống nhất về phương
pháp” của Lê Văn Giạng; “Đánh giá giờ dạy của giáo viên” của Quốc Chấn (1981);
“Vận dụng tư tưởng của Bác Hồ trong kiểm tra trường học” (tạp chí Nghiên cứu
giáo dục1990); “Về công tác kiểm tra việc dạy-học” của Lê Ngọc Thanh (1983);
“Kiểm định chất lượng giáo dục phổ thông” của Ngọc Hà; cùng nhiều bài báo, bài
viết trên các báo, tạp chí chuyên ngành, mạng Internet ...
- Vấn đề thanh kiểm tra trong quản lý giáo dục còn có cơ sở pháp lý là những
điều lệ, qui chế, quy định của Bộ GD&ĐT nước ta, trong đó có quy định về mục
đích yêu cầu, nội dung, tiến trình thanh tra, kiểm tra, đánh giá và xếp loại nhà
trường, giáo viên và học sinh. Đảng và Nhà nước thể hiện rõ trong đường lối, quan
điểm về giáo dục và đào tạo là thực hiện chức năng quản lý nhà nước theo sự phân
công của chính phủ để làm tốt các nhiệm vụ xâ
y dựng chiến lược, quy hoạch và kế
hoạch phát triển giáo dục; xây dựng cơ chế chính sách và cơ chế quản lý nội dung,
chất lượng đào tạo; tổ chức thanh tra và kiểm tra. Công tác thanh tra, kiểm tra để
đảm bảo chất lượng giáo dục là vấn đề rất được xem trọng. Trong luật giáo dục (số
38/2005 QH 11 ngày 14/6/2005 ) ở mục 4 về thanh tra giáo dục từ điều 111 -11
3
qui định rõ về nội dung, nhiệm vụ, quyền hạn trách nhiệm, tổ chức hoạt động của
thanh tra giáo dục.
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu giáo dục của chúng ta đã có nhiều công trình
nghiên cứu về quản lý giáo dục, nhưng đối với việc kiểm tra hoạt động dạy học thì
mới chỉ dừng lại ở các chuyên đề rời rạc, bàn bạc về các khía cạnh của vấn đề mà
chưa có một công trình nào chuyê
n sâu về vấn đề này.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Hoạt động dạy học và quá trình dạy học
1.2.1.1. Hoạt động dạy học
a) Hoạt động: Cuộc đời con người là một chuỗi các hoạt động. “Hoạt động
được biểu hiện là một tổ hợp các quá trình con người tác động vào đối tượng nhằm
đạt mục đích thỏa mãn một nhu cầu nhất định và chí
nh kết quả của hoạt động là sự
cụ thể hóa nhu cầu của chủ thể.” [37, tr.78] Qua đó có thể thấy, hoạt động bao gồm
hai thành tố là chủ thể và đối tượng tác động nhau nhằm đạt được kết quả nhất định.
b) Dạy học: cũng là một dạng hoạt động luôn gắn liền với lịch sử của loài
người, đư
ợc hiểu đơn giản là quá trình truyền thụ những khái niệm, hay là “một quá
trình biến năng lực của loài người thành năng lực của thế hệ trẻ.”[37, tr. 73]
c) Hoạt động dạy học: bao gồm hoạt động dạy của thầy và hoạt động học
của trò mà trong đó thầy là chủ thể tác động lên trò là đối tượng nhằm đạt được kết
quả là nhân cách của trò. Hoạt động dạy là hoạt động truyền thụ kiến thức, kinh
nghiệm lịch sử của thế hệ trước cho thế hệ sau. Đi kèm với hoạt động dạy là hoạt
động học mà thế hệ sau tiếp thu những kinh nghiệm của hoạt động dạy, truyền thụ
và biến chúng thành năng lực, phẩm chất, nhân cách của riêng mình. Hai hoạt động
này gắn bó mật thiết, biện chứng với nha
u. Hoạt động dạy học có thể diễn ra ở bất
cứ đâu, trong bất cứ thời gian nào, bởi bất cứ ai, cho bất cứ người nào. Nhưng trong
nhà trường, hoạt động dạy học, được truyền thụ theo “phương thức nhà trường”, là
“một hoạt động có mục đích, nội dung, phương pháp, phương tiện xác định” [30, tr.
28]; mang tính khoa học và tính hệ thống do các nhà sư phạm
chuyên nghiệp đảm
trách. Trong hoạt động dạy học, người giáo viên tổ chức, điều khiển các hoạt động
của học sinh nhằm giúp cho các em lĩnh hội tri thức, hình thành những kỹ năng, kỹ
xảo, thái độ và hành vi.
Tóm lại, hoạt động dạy học là hoạt động đặc thù của con người mà trong đó
người dạy đóng vai trò là chủ thể tổ chức, điều khiển hoạt động của đối tượng là
người học nhằm giúp họ lĩnh hội nền văn hóa xã hội, tạo ra sự phát triển tâm lý và
hình thành nhân cách.
1.2.1.2. Quá trình dạy học
- “Quá trình dạy học là hệ thống những hành động liên tiếp và thâm nhập vào
nhau của thầy và trò dưới sự hướng dẫn của thầy, nhằm làm cho trò phát triển được
nhân cách và qua đó mà đạt được mục đích dạy học” [16, tr.11]
- Theo thạc sĩ Nguyễn Thị Bích Yến thì quá trình dạy học là sự tương tác thâm
nhập và
o nhau, sinh thành ra nhau và có tính chất cộng tác của hoạt động dạy và
hoạt động học trong một hệ thống toàn vẹn mà trong đó dạy giữ vai trò chủ đạo.
[21]
- Bản chất của quá trình dạy học là quá trình nhận thức và quá trình xã hội.
Quá trình dạy học còn gọi là quá trình sư phạm. [26, tr. 46 - 47] Đây là một hệ
thống bao gồm nhiều thành tố mà chúng có mối qua
n hệ mật thiết với nhau, ảnh
hưởng qua lại với nhau, quyết định chất lượng của nhau. Các thành tố đó bao gồm:
mục đích, nội dung dạy học, phương pháp dạy học, phương tiện, điều kiện dạy học,
thầy và trò, kết quả dạy học. Toàn bộ quá trình dạy học không vận hành một cách
độc lập, riêng lẻ mà hoạt động trong sự ảnh hưởng của môi trường kinh tế, chính trị,
xã hội như trong sơ đồ 1.1[37, tr. 69]:
Qua sơ đồ trên có thể thấy mục đích dạy học quyết định nội dung dạy học
cũng như chi phối thầy-trò để lựa chọn phương phá
p, phương tiện dạy học phù hợp
và dựa trên mục đích ấy để đưa ra các tiêu chí đánh giá kết quả dạy học. Ngược lại,
các thành tố đó cũng tác động điều chỉnh trở lại mục đích dạy học thông qua kết quả
kiểm tra đánh giá. Tuy nhiên, chính môi trường bên ngoài đòi hỏi mục đích, nội
dung, phương pháp dạy học … phải đáp ứng các yêu cầu của xã hội, phù hợp với
nền ki
nh tế hiện hữu. Do đó, quá trình dạy học không thể độc lập riêng rẽ với nền
kinh tế - xã hội.
Tóm lại, quá trình dạy học là một hệ thống đan xen, tương tác nhau giữa hoạt
động dạy và hoạt động học trong một khoảng không gian nhất định, nhằm thực hiện
nhiệm vụ dạy học. Các thành tố của quá trình dạy học có tác động qua lại lẫn nhau,
điều c
hỉnh nhau, bổ sung cho nhau trong một hệ thống nhất định, chặt chẽ dưới sự
ảnh hưởng của môi trường kinh tế - xã hội; mà nếu thiếu đi một trong các thành tố
đó thì quá trình dạy học sẽ bị phá vỡ.
Chú thích:
M: Mục đích dạy học
N: Nội dung dạy học
PP: Phương pháp dạy học
PT: Phương tiện dạy học
KT ĐG: Kiểm tra - đánh
giá kết quả dạy học
Th: Thầy
Tr: Trò
KT-XH: Kinh tế - Xã hội
Môi trường
KT-XH
KT ĐG
M
Tr
PP
PT
Môi
trường
KT-XH
Môi trường
KT-XH
Môi
trường
KT-XH
Th
N
Sơ đồ 1.1. Mối quan hệ của các thành tố trong quá trình dạy học
1.2.2. Quản lý hoạt động dạy học trên lớp
1.2.2.1. Hoạt động dạy học trên lớp
Có ba hình thức dạy học trong nhà trường hiện nay, gồm: hoạt động dạy học
trên lớp, hoạt động ngoài giờ lên lớp và hoạt động lao động, hướng nghiệp và dạy
nghề:
a) Hoạt động dạy học trên lớp là hình thức tổ chức chủ yếu của quá trình
dạy học trong nhà trường và là hoạt động đặc thù của nhà trường phổ thông,
được
qui định bởi đặc thù lao động sư phạm của người giáo viên. Đây là hoạt động chủ
yếu của thầy và trò trong một năm học, làm nền tảng quan trọng để đạt được mục
tiêu giáo dục toàn diện của nhà trường, đồng thời quyết định kết quả đào tạo của
nhà trường.
b) Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là những hoạt động được tổ chức
ngoài giờ học của các môn học ở trên lớp. “Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là
sự tiếp nối hoạt động dạy – học trên lớp, là con đường gắn lí thuyết với thực tiễn,
tạo nên sự thống nhất giữa nhận thức với hành động của học sinh” [3, tr.99] Đây là
sự phối hợp giữa nhà trường với các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường trong việc
tổ chức các hoạt động ngoại khóa nhằm ph
át triển năng lực toàn diện của học sinh
và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu; các hoạt động giáo dục môi trường; các hoạt
động lao động công ích; các hoạt động xã hội; các hoạt động từ thiện phù hợp với
đặc điểm sinh lí lứa tuổi học sinh.” [4]
c) Hoạt động gi
áo dục lao động, hướng nghiệp và dạy nghề trong trường
phổ thông chính là hoạt động nhằm giúp cho học sinh có những hiểu biết ban đầu
về kỹ thuật và hướng nghiệp, giúp học sinh củng cố, mở rộng kiến thức và thực
hành những điều đã học được theo nguyên lý giáo dục “Học đi đôi với hành”, đồng
thời tăng cường t
hể lực, có ý thức và tinh thần sẵn sàng lao động, có óc thẩm mỹ về
lao động. Giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường phổ có mục đích giáo dục học
sinh trong việc chọn nghề, giúp các em tự quyết định nghề nghiệp tương lai trên cơ
sở phân tích có khoa học về năng lực, hứng thú của bản thân và nhu cầu nhân lực
của các ngành sản xuất trong xã hội.
Trong ba hình thức hoạt động trên thì hoạt động dạy học trên lớp là hoạt
động đặc thù và giữ vị trí trung tâm trong các hoạt động giáo dục của nhà trường
phổ thông. Do đó, nhà quản lý trường học phải nhận thức đúng vị trí quan trọng và
tính đặc thù của hoạt động này để có những biện pháp quản lý khoa học và sáng tạo
nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường.
1.2.2.2. Quản lý hoạt động
dạy học trên lớp
a) Quản lý
Có rất nhiều định nghĩa về quản lý:
- Thuật ngữ “quản lý” (tiếng Việt gốc Hán) thể hiện đầy đủ bản chất của hoạt
động này trong thực tiễn. Nó gồm hai quá trình tích hợp vào nhau. Quá trình “quản”
gồm sự coi sóc, giữ gìn, duy trì ở trạng thái ổn định; quá trình “lý” gồm sửa sang,
sắp xếp, đổi mới, đưa hệ vào thế phát triển. [26, tr. 3]
- Quản lý là một hoạt động mang tính hướng đích. Theo TS. Hoàng Tâm Sơn
thì hoạt động quản lý là một quá trình mà chủ thể quản lý tiến hành tổ hợp các chức
năng quản lý để đưa hệ khách thể quản lý tiến đến mục tiêu.
- Quản lý còn được hiểu là sự kết hợp giữa tri thức với lao động. Vận hành sự
kết hợp này cần có một cơ chế quản l
ý phù hợp. Cơ chế đúng, hợp lý thì xã hội phát
triển, ngược lại thì xã hội phát triển chậm hoặc rối ren. [41, tr. 39]
Như vậy có thể thấy quản lý được xem xét dưới hai góc độ là hoạt động và
chính trị xã hội. Nhìn chung, quản lý có tác dụng định hướng sự phát triển của tổ
chức trên cơ sở xác định mục tiêu và hướng mọi nỗ lực của các cá nhân, của cả tổ
chức vào mục tiêu chung đó. V
iệc tổ chức điều hòa, phối hợp và hướng dẫn hoạt
động của các cá nhân trong tổ chức, tạo động lực, thuận lợi cho sự phát triển cá
nhân và tổ chức là nhằm đảm bảo đạt được mục tiêu một cách hiệu quả.
b) Quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục là một quá trình mà trong đó có sự tham gia của hai thành tố:
- Chủ thể quản lý:
+ Cá nhân: hiệu trưởng, Giám đốc sở GD&ĐT...;
+ Một tổ chức, một tập thể: Bộ GD&ĐT, P
hòng GD&ĐT...;
- Đối tượng quản lý:
+ Tư tưởng: quan điểm, đường lối, chính sách, chế độ, nội dung, phương
pháp, tổ chức...;
+ Con người: cán bộ giáo dục, giáo viên, học sinh, nhân viên...;
+ Quá trình dạy học diễn ra trong không gian và thời gian xác định;
+ Vật chất: cơ sở, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho việc dạy và học...
Quản lý giáo dục là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản l
ý
giáo dục đến khách thể quản lý giáo dục nhằm thực hiện các mục tiêu dự kiến. Quản
lý giáo dục (nói riêng là quản lý trường học là quản lý tập thể giáo viên và học sinh
để chính họ lại quản lý (đối với giáo viên) và tự quản lý (đối với học sinh) quá trình
dạy học.
c) Chức năng quản lý
Đây là một dạng hoạt động quản lý, sinh ra một cách khách quan từ hoạt động
của khác
h thể quản lý. Chính thông qua chức năng quản lý, chủ thể quản lý tác động
vào khách thể quản lý nhằm thực hiện một mục tiêu nhất định. Quản lý bao gồm
bốn chức năng cơ bản là hoạch định, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.
Theo sơ đồ 1.2 ta thấy đây là một chu trình tuần hoàn khép kín. Chức năng
hoạch định giữ vai trò chủ đạo vì nó xác định mục tiêu và định hướng cho nhiệm vụ
quản lý. Từ đó nó sẽ quyết định việc tổ chức như: soạn thảo ra quyết định, lựa chọn,
sắp xếp, sử dụng, bồi dưỡng nhân sự, chuẩn bị ngân sách kinh phí để chỉ đạo thực
Hoạch định
Thông tin Tổ chức
Chỉ đạo
Kiểm tra
Sơ đồ1.2. Bốn chức năng quản lý
hiện quyết định; cuối cùng là kiểm tra đánh giá. Kết quả có thể tương ứng hoặc
không tương ứng với dự kiến – mục tiêu. Trên cơ sở phân tích các kết quả và thông
tin thu thập được về đối tượng quản lý, người quản lý lại vạch ra tất cả các giai đoạn
của quá trình quản lý này. Chức năng kiểm tra là giai đoạn cuối của một chu trình
quản lý, giữ vai trò nghịch
của quá trình đó, giúp chủ thể thu nhận những thông tin
một cách đúng đắn.
d) Quản lý hoạt động dạy học trên lớp
Trong nhà trường, hoạt động dạy học trên lớp là hoạt động trung tâm có đặc
thù riêng. Đó là mối quan hệ điều khiển: thầy, bằng hoạt động dạy, tổ chức và điều
khiển hoạt động học của trò. Chính đặc thù này cũng quy định tính đặc thù của công
tác quản lý nhà trường nói chung và quản lý hoạt động dạy học nói riêng. Do đó,
quản lý hoạt động dạy học trên lớp trong nhà trường chủ yếu tập trung và
o hoạt
động giảng dạy của thầy và thông qua đó để quản lý hoạt động của trò. Công tác
quản lý hoạt động dạy học trên lớp có mục tiêu là quản lý chất lượng đào tạo, là nền
tảng để người hiệu trưởng xác
định các mục tiêu khác trong hệ thống quản lý nhà
trường.
Như vậy, quản lý hoạt động dạy học trên lớp là sự tác động có mục đích của
chủ thể quản lý (hiệu trưởng) vào quá trình dạy học (được thực hiện bởi tập thể giáo
viên, học sinh và các lực lượng xã hội) nhằm góp phần hình thành và phát triển toàn
diện nhân cách học sinh theo mục tiêu đào tạo của nhà trường.
1.2.3. Quản lý hoạt động
dạy học trên lớp ở trường THCS
- Theo Từ điển giáo dục học: “Trường THCS là cơ sở giáo dục phổ thông
tiếp nối bậc tiểu học và mở đầu bậc trung học, với bốn năm từ lớp 6 đến lớp 9 thuộc
cấp THCS. Trường THCS được tổ chức và hoạt động theo qui định của Luật giáo
dục và Điều lệ nhà trường.” [38, tr. 445]
* Điều lệ trường TH
CS, THPT và trường phổ thông có nhiều cấp học quy định [4]:
- Giáo viên của trường THCS là những người làm công tác giảng dạy, giáo
dục trong nhà trường; có trình độ chuẩn được đào tạo là tốt nghiệp cao đẳng sư
phạm, bao gồm: Hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, giáo viên bộ môn, giáo viên tổng
phụ trách Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh.
- Hiệu trưởng là người chịu trách nhiệm quản lý các hoạt động của nhà
trường và chịu trách nhiệm: tổ chức bộ máy nhà trường; xây dựng kế hoạch và tổ
chức thực hiện nhiệm vụ năm học; quản lý giáo viên, nhân viên, học sinh, quản lý
chuyên môn, phân công công tác, kiểm tra, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ của
giáo viên, nhâ
n viên; quản lý và giáo dục tổ chức học sinh; quản lý hành chính, tài
chính, tài sản của nhà trường; thực hiện các chế độ chính sách của nhà nước đối với
giáo viên, nhân viên, học sinh, tổ chức thực hiện qui chế dân chủ trong hoạt động
của nhà trường.
- Học sinh THCS là những học sinh đã hoàn thành chương trình bậc tiểu
học, ở lứa tuổi từ 11 đến 14. Các em có nhiệm vụ hoà
n thành việc học tập và rèn
luyện theo yêu cầu của nhà trường; tham gia các hoạt động tập thể của trường, của
lớp, của Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh.
- Hội đồng giáo dục là tổ chức tư vấn cho hiệu trưởng trong việc thực hiện
nhiệm vụ và quyền hạn của nhà trường, do hiệu trưởng thành lập vào đầu năm học
và làm Chủ tịch. Thành viên của Hội dồng G
iáo dục còn có: Phó hiệu trưởng, Bí thư
chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Công đoàn giáo dục nhà trường, Bí thư
Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, tổng phụ trách đội Thiếu niên tiền phong
Hồ Chí Minh, các tổ trưởng chuyên môn, một số giáo viên có kinh nghiệm trong
nhà trường và trưởng ban đại diện cha mẹ học sinh của nhà trường.
- Trong nhà trường, giáo viên được tổ chức thành các tổ chuyên môn theo
môn học hoặc nhóm các môn học. Mỗi tổ chuyên môn có một tổ trưởng và có thể
có một tổ phó do hiệu trưởng chỉ định và gia
o nhiệm vụ. Các tổ chuyên môn trong
trường THCS có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch hoạt động chung của tổ, quản lý kế
hoạch cá nhân theo kế hoạch dạy học, phân phối chương trình và các quy định của
Bộ GD&ĐT. Bên cạnh đó, tổ chuyên môn còn có nhiệm vụ bồi dưỡng chuyên môn,
nghiệp vụ, tổ chức kiểm tra
, đánh giá chất lượng thực hiện nhiệm vụ của giáo viên
theo kế hoạch của nhà trường.
Như vậy, trường THCS là đơn vị giáo dục phổ thông có trách nhiệm giáo dục
cho học sinh ở lứa tuổi thiếu niên. Trong trường THCS, hiệu trưởng là người đứng
đầu, cùng với sự tư vấn của hội đồng giáo dục thực hiện chức năng quản lý như: lập
kế hoạch, tổ chức, điều khiển, kiểm tra, đánh giá mọi hoạt động của giáo viên, tổ
chuyên môn và học sinh nhằm đạt được mục tiêu “củng cố v
à phát triển những kết
quả của giáo dục tiểu học; có học vấn phổ thông ở trình độ cơ sở và những hiểu biết
ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học trung học phổ thông, trung cấp,
học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.” [13, tr.14] Hoạt động chính của trường
TH
CS là hoạt động dạy học trên lớp. Do đó, quản lý hoạt động dạy học trên lớp ở
trường THCS là việc hiệu trưởng quản lý hoạt động dạy của thầy và học của trò có
mục đích, kế hoạch, biện pháp nhằm đạt được các mục tiêu giáo dục là nhân cách
của học sinh cũng như làm cho nhà trường đổi mới và phát triển.
1.2.4. Kiểm tra hoạt động dạy học trên lớp của hiệu trưởng trường
THCS
1.2.
4.1. Khái niệm kiểm tra
a) Kiểm tra – thanh tra
Thanh tra và kiểm tra trong quản lý giáo dục là hai khái niệm khác nhau.
- Thanh tra: xem xét và đánh giá việc thực hiện kế hoạch và chấp hành
chính sách của cơ quan đoàn thể. [39]
- Điều 1- Chương I Nghị định số 85/2006/NĐ-CP ngày 18/8/2006 của chính
phủ về tổ chức và hoạt động của thanh tra giáo dục: thanh tra giáo dục là “thực hiện
chức năng t
hanh tra hành chính (việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của
cơ quan, tổ chức, cá nhân) và thanh tra chuyên ngành (việc chấp hành những quy
định về chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý của ngành) trong phạm vi nhà nước
về giáo dục theo quy định của pháp luật” [17] nhằm đảm bảo việc thi hành pháp
luật, phát huy nhân tố tích cực, phòng ngừa và xử lý những vi phạm, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân tr
ong lĩnh vực giáo dục.
- Kiểm tra: xem xét kỹ để đánh giá tình trạng tốt hay xấu của công việc đang
làm. [39] Kiểm tra là một trong những chức năng quan trọng của công tác quản lý,
một kiểu liên hệ ngược, mà nhờ vào nó, người quản lý có thể biết được những yêu
cầu đưa ra được thực hiện đến đâu, cần bổ sung, điều chỉnh như thế nào. Đồng thời
qua đó người quản lý cũng biết được rõ hơn, đầy đủ hơn năng lực, phẩm chất của
cấp dưới để có thể giúp đỡ, giáo dục, đôn đốc họ hoàn thành nhiệm vụ. Kiểm tra có
tác dụng kích thích tích cực mỗi người trong hoạt động và nhà quản lý cũng kiểm
tra được sự đúng đắn trong công tác lãnh đạo của c
hính mình, từ đó tự đánh giá
được khả năng, trình độ và xác định phương hướng rèn luyện nhân cách của mình.
[32, tr. 244]
b) Kiểm tra trong quản lý giáo dục: là việc các nhà quản lý trường học tiến
hành xem xét và đánh giá các hoạt động giáo dục; điều kiện dạy – học và
giáo dục
trong phạm vi nội bộ nhà trường nhằm mục đích phát triển nhà trường, phát triển
người giáo viên và học sinh.
Từ các khái niệm trên có thể thấy thanh tra và kiểm tra trong giáo dục về cơ
bản giống nhau ở điểm: cùng thực hiện việc xem xét đánh giá nhằm phát triển và
hoàn thiện mọi mặt trong lĩnh vực giáo dục. Tuy nhiên hai công việc này cũng có
những điểm khác biệt:
Tha
nh tra Kiểm tra
- Dựa trên các chuẩn mực có tính chất
nhà nước và pháp luật.
- Do các tổ chức chuyên trách thuộc cơ
quan nhà nước thực hiện đối với cấp
dưới theo luật định.
- Có tính pháp lý cao khi xử lý, buộc đối
tượng phải chấp hành, có thể đình chỉ
hoạt động khi cần thiết.
- Dựa trên chuẩn mực có tính chất nhà
nước và sự chỉ đạo của từng cấp quản lý.
- Do các cơ quan quản lý và các bộ phận
chức năng thực hiện đối với cấp dưới,
đối với bản thân m
ình (tự kiểm tra).
- Chỉ xem xét, phát hiện, uốn nắn điều
chỉnh, giúp đỡ nội bộ đồng thời kiến
nghị và giám sát việc thực hiện những
kiến nghị.
c) Tự kiểm tra: là phương thức tự giác tiến hành xem xét, đánh giá và điều
chỉnh các hành vi, hoạt động của bản thân theo mục tiêu đã định hoặc theo những
chuẩn mực của tập thể, xã hội quy định. [38, tr.459] Tự kiểm tra trong giáo dục sẽ
giúp cho giáo viên và học sinh điều khiển tốt mọi hoạt động của mình vì luôn nắm
được các thông tin phản hồi từ các bước đi nên sẽ sớm đưa ra các quyết định đúng
đắn: tiếp tục phát triển, điều chỉnh lại hay đình chỉ công việc đang tiến hành. Hiện
nay, với phương pháp “lấy người học làm trung tâm” thì việc giúp học sinh tham
gia tích cực hơn vào quá trình tự kiểm tra, đánh giá nhằm làm cho các em học đư
ợc
cách suy nghĩ về việc học của mình để tự kiểm tra, đánh giá mình và các bạn học
một cách có phê phán so với những tiêu chuẩn phải đạt được; đồng thời sử dụng có
hiệu quả các lời nhận xét đánh giá của người khác sẽ giúp các em trở thành người
học độc lập, có năng lực học tập tí
ch cực, chủ động. [8, tr.335] Vì thế, tự kiểm tra sẽ
giúp cho các mục tiêu và kế hoạch của nhà trường đạt được hiệu quả cao vì hiệu quả
đó không chỉ đạt được nhờ vào những tác động sư phạm từ phía giáo viên và nhà
trường mà còn nhờ vào tính tự giác, tự kiểm tra mọi hoạt động và học tập của bản
thân học sinh.
1.2.4.2. Các vấn đề chung của việc kiểm tra hoạt động
dạy học trên lớp của
hiệu trưởng trường THCS
a) Mục đích kiểm tra
Việc kiểm tra sẽ xem xét và đánh giá mức độ hoàn thành mục tiêu của GV và
HS trong quá trình dạy học, từ đó tìm ra các nguyên nhân của ưu - khuyết điểm
đồng thời đề xuất những biện pháp để phát huy các mặt tích cực, khắc phục các mặt
hạn chế, thiếu sót; kích thích, phát hiện và lựa chọn phổ biến các kinh nghiệm,
những định hướng mới và kiến nghị với cấp quản lý để hoàn thiện dần hoạt động
dạy học. Do đó mục đích kiểm tra bao gồm:
- Nâng cao ý thức, tinh thần trách nhiệm trong dạy và học cho người được
kiểm tra, từ đó giúp họ có năng lực tự kiểm tra, có tính kỷ luật, tự giác;
- Kích thích sự cố gắng vươn lên và khả năng tiến bộ trong thực tế, sự tự
điều c
hỉnh, tự hoàn thiện hoạt động của bản thân, giúp cho đối tượng được kiểm tra
có ý chí vươn lên, tự tin vào sức lực của mình để vượt qua khó khăn đạt được kết
quả cao;
- Phát hiện thực trạng, tìm nguyên nhân cơ bản để có thể tổ chức thực hiện
hoàn thiện các hoạt động dạy học tốt hơn.
Như vậy, mục đích kiểm tra đã thể hiện ba tác dụng: giáo dục, phát triển và tổ
chức. Ba tác dụng này có mối liên hệ biện chứng lẫn nhau tạo ra mục đích kiểm tra
trong quản lý trường học. Kiểm tra hoạt động dạy học trên lớp cà
ng được tổ chức
tốt thì càng có nhiều tác dụng giáo dục và phát triển.
b) Nhiệm vụ kiểm tra [21]
- Kiểm tra: xem xét việc thực hiện nhiệm vụ dạy học của giáo viên và học
sinh so với các quy định trong văn bản quy phạm pháp luật và các hướng dẫn của
các cấp quản lý. Khi thực hiện kiểm tra phải tỉ mỉ, rõ ràng và có cảm thông để có
được sự hợp tác, chấp nhận của đối tượng.
- Đánh giá: xác định mức độ đạt được trong việc thực thi các nhiệm vụ dạy
học của giá
o viên và học sinh. Cần phải đánh giá khách quan, chính xác, công bằng
đồng thời định hướng, khuyến khích, tạo cơ sở cho sự tiến bộ của GV và HS.
- Tư vấn: qua kiểm tra nêu được những nhận xét, góp ý nhằm giúp cho giáo
viên và học sinh thực hiện tốt hơn và đạt hiệu quả cao
hơn trong nhiệm vụ của
mình, nhưng tư vấn phải sát thực, khả thi.
- Thúc đẩy: nhằm kích thích, phát hiện và phổ biến những kinh nghiệm tốt,
những định hướng mới và kiến nghị với các cấp quản lý nhằm hoàn thiện dần hoạt
động dạy học. Tuy nhiên các kinh nghiệm, định hướng phải xác đáng đối với các
cấp quản lý nhằm phát triển tổ chức, phát triển cá nhâ
n trong đơn vị.
Như vậy, việc kiểm tra hoạt động dạy học trên lớp có bốn nhiệm vụ là kiểm
tra, đánh giá, tư vấn và thúc đẩy quá trình dạy học. Đây cũng là một trong những
yếu tố tạo nên chất lượng giáo dục trong nhà trường.
c) Nguyên tắc kiểm tra
Để đạt hiệu quả trong công tác kiểm tra hoạt động dạy học trên lớp phải đáp
ứng được năm
nguyên tắc:
- Tính chính xác và khách quan: nhằm tạo điều kiện tối đa cho đối tượng
kiểm tra bộc lộ khả năng và trình độ của mình, phản ánh đúng chất lượng, những