Tải bản đầy đủ (.pdf) (219 trang)

Quá trình cải cách kinh tế-xã hội của cộng hoà nhân dân Trung hoa (từ 1978-đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (82.14 MB, 219 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HOC TỔNG HỌP HÀ NỘI
Đ IN H C Ô N G TU Â N
Qơé TRÌNH CẢI CfiCH KINH TÊ - XÃ HỘI
cỏfĩ CỘNG HÒfĩ NHÂN Dận TRUNG HOfi
( Từ 1978 ĐẾN N0Y )
*
CHUYÊN N(ỈÀNH : LỊCH sử CẬN VÀ HIỆN ĐẠI
M Ã SỔ : 5 0 3 04
L U Ậ N ÁN P H Ó T IẾ N S ĩ K H O A H Ọ C L Ị C H s ử
NGUỜI HƯỚNG DẪN : PGS. NGUYÊN VĂN HỒNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TổNG HỢP HÀ NỘI
HÀ NỘI - 1995
M Ụ C L Ụ C
A . P H Ấ N M Ở Đ Ấ U :
I. Mục đ í c h , ý nghĩa nghiên eứti và lv do ehtm ứê tài

1
II.LỊeh sử vấn đê , đóng góp eữa (íêtàTTà
giói hạn vấn đẽ nghiên m u 4
III.Phương pháp nghiên cứ u
9
tv‘
IV. Nguồn tuíiệu 9
V. Giới thiệu bò cục luận án
10
B. P H Ầ N N ổ i D U N G :
*
CHƯƠNG THỬ NHẤT:
HOÀN CẢNH , LỊCH sử RA ĐỜI VÀ c ơ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG c u ộ c CẢI
CÁCH KINH TẾ - XÃ HỘI Ở TRUNG QUỐC
1. Hoàn cảnh lịch sử ra đời của cải cách


12
ỉ .'Giai đoạn 1949 - 1952
( giai đòạn khôi phjxf kinh tế -« ải cách ruộng đất)

13
2.Giai đoạn 1953 - 1958
( giai ,đốạn cải tạo XHCN - xây dựng
kếlioạch 5 năm lần thứ nhất) 16
3.N(jiai đoạn 1958 - 1961
( ghụ đoạn thực hiện kể hoạch 5 năm lần thứ hai với
những^ai lầm nchiêm trọng về chính trị - kinh tế )

20
4. Giai đoạn 1961 - 1965
V
( giai đoạn đíều diinh kinh tế - xã h ộ i) 22
5.Giai đoạn 1965 - 1V7K
( giai đoạn " đại cách mầRg văn hóa" và
hpn loạn trước cải cách )
24
II. Hoàn cảnh quốc tê của cải cách

26
III. Co sở lý luận của cải cách 29
1.Tiếp thu có chọn lọc các lý luận , quan điểm và
kinh nghiêm phát triển kinh tế của thế giới

29
l í i ' tó ĩ
2.Khôi-pk«€ và phát triển những luận điểm

kinh tế trong thời kỳ điều chỉnh ( 1961 - 1965) 33
'vUý 11
3.I=ấy-cácJ4iậỉị4iêfrrrarữ5drcủa Đặng Tiểu Bình -—
(Cuk cỊryiq i

.
'ìMi.định hướng ty4uâtt-v^ubành-dỏng GhcK:ải cách

37
CHƯƠNG THỨ HAI:
TIẾN TRÌNH CẢI CÁCH KINH TẾ - XÃ HỘI CÚA CHN1) TRUNG HOA
Từ 12 /1978 ĐẾN NAY
I. (rt»i-4eạỉKĨ : Cải <-ác4i ^iong thôn ỉà-ehính
(từ 12 /1978 đến 10 /19 8 4)
42
"XfCaTcach nông thôn làdsàẾaỉỉ 43
2.Thử_agbịêm £ải cách ế thành th ị. — . .TÍÍ j . 1.YU iầAi:.ị.\ỳĩù.lMộ. 56
3.TreTrhrm-k triở cửa kinh tế đối ngoại 60
IL (ỉiairđtEỊii-H-: Cải cách toàn diện nên kinh tế; Èãịỹ cỉyy (MĂìv
cải cách thành t h ì i j (i0/1984 - 9/1988)
63
1.Những cải cách chủ yếu ở thành phố
64
2.Những bước cải cách tiếp theo ở nône thôn 75
3.T+&p_iiu:^ay mạnh mở cửa kinh tế váã-bên ngoài

84
III. (t4ì»ì đoạn Hi t?*" Chân chỉnh , cải tạo " nên kinh tế
" quá nóng "( 9/1988 - 12 /1 9 91 )
85

IV . OinivdiMafr r lX ; I^ÌKsâỉỉisytấhg'-nhl&fth/ Klĩip ứ ó <"ui ^ ú cK , ^iitỶcứiỉ
*Xày dựng nên kinh tẻ thị trường XHCN ( từ 1992 đến nay)

95
V. Phát triển xã hội - kết quả của cải cách kinh t ế 111
1. Các chỉ tiêu về kinh tế 111
2. Các chỉ tiêu về cơ cấu xã h ội 115
3. Các chỉ tiêu về tố chất nhân khẩu và đời sống nhân dân

127
CHƯƠNCÌ THÚ BA:
THÀNH TỰU , TỒN TẠI VÀ NHỮNG BÀI HOC VÊ CÔNG c u ộ c
CẢI CÁCH KINH TẾ XÃ HỘI CỦA CHND TRUNG HOA
[. Thành tựu và tôn tại của cải cách
135
1 .Thành tựu 135
2.Tôn tại 148
II.Những bài học kinh n ghiệm
167
1 .Đường lố i, phương pháp cải cách đứngrđứTT-nhân-tế
ttêa-quyếLđảm-bảalhầữlì-eửỉtg 169
2.Xây dựng và hoàn thiện hệ thốn" lý luận,
yế tì^ế -tỊtrm rlT ọ m r ^

172
r ỤầÚ ửtừ )
3."Các thính sách và biện phápxĩỠTHĩTtaỉĩ 4} W uy êníTrhân
đtfa4éi-thàftb-cômỉ
176
4 ^ S e-sá fth ~ e ả ỉ- c á i i i k io ll-ljếx ú tt'T T n n g " Q ư ô c -v ữ i

(Mi ffiértÍTứTtếxtiỉt-A^-Ntiffl 184
C.PHẢN KẾT LUÂN 196
PHÂN PHU LUC THỐNG KẼ
PHẢN CHỦ THÍCH VẢ TÀI LIÊU THAM KHẢO
1
A. PHẢN MỔ ĐÂU:
L MUC ĐÍCH, Ý NGHiA n g h iê n c ứ u vả lý do c h o n đê tải : . /
Trung Quốc là một quốc gia lớn trên cả hai bình diện : diện
tích 9.600.000 kmZ đứng thứ ba trên thế giới, và dân số 1,2 tỷ
người .đứng thứ nhất trên thế giới.
Xét trên khía cạnh văn hóa : Trung Quốc được thế giới công
nhận là một trong ba cái nôi điển hình cho ba trung tâm văn hóa cổ
của loài người ( Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp ). Ngay từ thế kỷ
thứ 18, người châu Âu đã có công phát hiện ra văn minh Trung
Hoa. Diderot đã từng nhận xét : " mọi người đều công nhận rằng
dân tộc ấy văn minh hơn hết thảy các dân tộc khác ở châuẠ: lịch
sử của họ cổ hơn, tinh thần , nghệ thuật cũng tiến bộ hơn họ
không kém các nước văn minh nhất của châu Âu" (1)
Điều đó cắt nghĩa vì sao mà bộ môn " Trung Quốc học"
chuyên nghiên cứu về nước Trung Hoa - mà trước hết là văn minh
Trung Hoa lại sớm hình thành và phát triển ở các nước phương Tây
như Pháp, Anh, Đức, Hà lan,
Xét trên các khía cạnh kinh tế, xã hội thì Trung Quốc hiện
nay đang được xem như một phòng thí nghiệm khổng lồ của thế
giới về vấn đề cải cách và phát triển. Năm 1997 hcýtiếp nhận Hồng
Kông, năm 1999 thu lại Ma Cao, và cùng với Đài Loan - mà
CHND Trung Hoa coi là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng không
là một siêu cường với tổng sản phẩmquốc dân ( GDP) vượt Mỹ,
Cộng đồng châu Âu ( EC) , Nhật Bản . Họ sẽ là nước buôn bán
/

thể chia cắt của h( ột nước " Đại trung hoa" trong thế kỷ 21 sẽ
2
hàng đầu có trong tay những khoản dự trữ ngoại tệ lớn nhất thế
giới, có nguồn khoa học, công nghệ và y tế tiên tiến, là nước tiêu
thụ lớn nhất, có thể sẽ là hội viên của 9 nước lớn (2)
Trong nền kinh tế thế giới hiện nay ngoài ba cực : Mỹ, Nhật
Bản, Cộng đồng châu Âu, sẽ xuất hiện một cực thứ tư nữa, đó là "
Nước Đại Trung Hoa" năm 2000.
Theo dự báo của Ngân hàng thế giới , nhập khẩu ròng của "
Đại Trung Hoa" năm 2002 sẽ là 639 tỷ USD so với 521 tỷ USD của
Nhật Bản. uờc tính " Đại Trung Hoa" sẽ có tổng sản phẩm trong
nước là 9.800 tỷ USD so với 9.700 tỷ USD của Mỹ. Nếu dự báo này
thành hiện thực thì nước "Đại Trung Hoa" không chỉ là một cực
kinh tế thứ tư,mà nó sẽ trở thành cực lớn nhất trong nền kinh tế thế
giớiL(3)
Những điều dự báo trên thật làiý thú. Nhưng dựa trên cơ sở
nào mà các học giả nước ngoài lại mạnh bạo đoán định như thế?
Có phải chăng "Con rồng phương Đông" đã bay lên khiến cho thế
giới phải kinh ngạc và không thể coi thường nó? Hãy bắt đầu xem
xét Trung Quốc từ hơn 16 năm cải cách và mở cửa vừa qua, với
mức tăng trưởng bình quân 9, 47 % một năm trong suốt 16 năm ấy,
thì những điều dự báo về Trune Quốc trong tương lai quả là không
ngoa.(4)
Dãu sao, việc nghiên cứu quá trình cải cách kinh tế - xã hội
của Trung Quốc cũng cần được xem xét trên cả ba phương diện :
quá trình cái cách diễn ra trong lịch sử bao gồm các bước đi và các
phương pháp tiến hành; những thành tựu và các vấn đề tồn tại của
quá trình cải cách đó ; các bài học kinh nghiệm lịch sử của nó.
3
Việc nghiên cứu đó sẽ là việc làm có ý nghĩa khoa học, các

kết quả nghiên cứu dù ít nhiều cũng đóng góp cho kho tàng tri thức
của thế giới nói chung và từng quốc gia nói riêng trong việc lựa
chọn và tìm tòi con đường phát triển cho đất nước mình.
2. Việt Nam và Trunc Quốc là hai quốc gia độc lập, có hoàn cảnh
địa lý và lịch sử rất gần gũi và gắn bó. Có lẽ cái duyên địa lý, cái
duyên văn tự đã làm cho hai quốc gia này có những bước thăng
trầm lịch sử giống nhau. Việt Nam và Trung Quốc đều phải trải
qua mấy ngàn năm phong kiến lạc hậu ,bảo thủ. Từ địa vị một dân
tộc thuộc địa , Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đã
đánh đổ ách ngoại xâm, phong kiến giành quyền độc lập tự do cho
dân tộc vào tháng 8 / 1945. Còn Trung Quốc cũng là một nước nửa
phong kiến nửa thuộc địa - tuy có nhiều cuộc cách mạng nổ ra,
nhưng nói chung các cuộc cách mạng đó đều thiếu triệt để, chỉ có
dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, tháng 10/ 1949, nước CHND
Trung Hoa được thành lập thì dân tộc ấy mới bước vào trang sử
mới. Hai nước Việt -Trung sau khi giành được độc lập đã tự
nguyện lựa chọn con đường xây dựng CNXH ở nước mình. Nhưng
do vận dụng cứng nhắc, thậm chí sao chép mô hình xây dựng
CNXH của Liên Xô vào nước mình, mà cả hai nước đều mắc phải
những căn bệnh rất giống nhau, đó là ấu trĩ, tả khuynh, duy ý chí
trong tư tưởng và hành động. Trong đường lối xây dựng kinh tế đã
quá tập trung vàotay chính quyền trung ương bằng các kế hoạch
pháp lệnh, chỉ huy kinh tế bằng mệnh lệnh từ trên áp đặt xuống
không tuân theo các quy luật kinh tế thị trường, cào bàng
trong phân phối VI vậy mà trong 30 năm xây dựng chủ nghĩa xã
4
hội , bên cạnh những thành tựu đã thu được, cả hai nước đều phải
trả giá đắt cho những sai lầm ấy. Trước tình hình đó , không còn sự
lựa chọn nào khác, cả hai nước đều tiến hành sự nghiệp đổi mới và
cải cách.Tuy thời gian tiến hành, các phương pháp và biện pháp

đổi mới và cai cách ở mỗi nước có khác nhau, nhưng về mục đích
thì giống nhau, đó là chuyển nền kinh tế kế hoạch tập trung kiểu
cũ sang nền kinh tế thị trường XHCN. Ở Trung Quốc, cái mốc
đánh dấu sự nghiệp cải cách và mở cửa được bát đầu từ tháng 12/
1978 , ( Hội nghị trung ương 3 khóa XI ) với quyết định chuyển
trọng tâm của đất nước từ đấu tranh giai cấp sang xây dựng, phát
triển kinh tế . Còn ở Việt Nam, đại hội Đảng cộng sản VI năm 1986
đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước mà trước hết là đổi
mới về kinh tế.
Trải qua hơn 16 năm cải cách ở Trung Quốc và hơn 9 năm
đổi mới ở Việt Nam, cả hai nước đều thu được những kết quả rất
đáng khích lệ , được cả thế giới đang chăm chú quan tâm, theo dõi.
Nghiên cứu quá trình cải cách kinh tế - xã hội của Trung Quốc hơn
16 năm qua, ngoài ý nghĩa tìm hiểu một mô hình cải cách, chúng
ta mong muốn được tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm quý
báu rút ra từ bài học thành c|ông và thất bại của nước bạn , có giá
trị tham khảo cho việc hoạch định các đường lối , chính sách đổi
mới của chúng ta. Đó cũng chính là ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Từ hai ]ý do trên, tôi mạnh dạn lựa chọn và đi sâu vào đề tài
nghiên cứu này.
II. LỊCH SÚ VẤN ĐÊ, ĐỎNG GÓP CÚA ĐÊ TÀĨ VẢ GIỚI HAN VẤN
ĐẺ NGHIÊN CỨU:
5
1. Quá trình cải cách kinh tế - xã hội của Tru nu Quốc đã đựoc
nhiều cơ quan khoa học ở Trung Quốc nghiên cứu, tổng kết và
bước đầu rút ra các bài học cụ thể. Đó là các công trình khoa học
của " Úy ban cải cách thể chế kinh tế quốc gia", " Trung tâm
nghiên cứu cải cách và phát triển của Quốc vụ viện Trung Quốc", "
Trung tâm nghiên cứu kinh tế kế hoạch quốc gia" , " Viện nghiên
cứu của ủy ban cải cách thê chế kinh tế quốc gia" , " Học viện

KHXH Trung Quốc", " Cục thống Kê nhà nước " , " Trung tâm
thông tin nhà nước", các trường đại học và các viện khoa học xã
hội các tỉnh, thành toàn quốc. Tống Đình Minh đã"Tổng thuật 10
năm cái cách thể chế kinh tế của Trung Quốc" ( xuất bản năm
1988) . Tác giả Cao Thượng Toàn đã phân tích lịch trình " Cái cách
thể chế kinh tế của Trung Quốc" bằng cuốn sách cùng tên xuất bản
năm 1991. Lưu Quốc Quang trong cuốn " Nhìn lại 10 năm Lý luận
cải cách kinh tế" ( xuất bản 1991) đã có cách nhìn hồi c^ về chặng
đường lịch sử của công cuộc cải cách kinh tế của Trung Quốc .
Trong cuốn sách " Lịch trình cái cách và mở cửa của Trung Quốc
từ năm 1949 tới năm 1989 " ( xuất bản tháng 4/1991) , Vương
Hồng Mô chủ biên, vấn đề cả^i cách kinh tế xã hội đã được xem
xét dưới góc độ của nhà nghiên cứu lịch sử. Tháng 10/ 1993, nhà
xuất bản Vănj/liến KHXH đã cho ra mắt bạn đọc cuốn sách " Cải
cách kinh tế của Trung Quốc" . Với 276 trang, các tác giả Trung
Quốc và Mỹ đã tổng thuật lại công cuộc cái cách kinh tế 15 năm
qua ( 1978 - 1993), nêu lên những vấn đề cả^ịcách kinh tế nông
thôn thành thị với những thành tựu, tồn tại rất cụ thể Đến tháng 4
/1994, nhà xuất bản Kinh tế Tài chính Trung Quốc lại cho ra mát
6
bạn đọc cuốn sách " Báo cáo cải cách và phát triển của Trung
Quốc (1992 - 1993) - những đột phá và thách thức mới". Cuốn
sách này do tổ chuyên gia của cơ quan khoa học ở trung ương biên
soạn. Ngoài việc phân tích tiến trình lịch sử của công cuộc cải cách
kinh tế xã hội Trung Quốc từ 1978 đến 1991, các tác giả còn phân
tích nhiệm vụ mới của công cuộc cải cách từ 1992 trở lại đây .Đó là
thời kỳ cải cách toàn diện , đi sâu vào cải cách. Gần đây các tạp
chí "Nghiên cứu kinh tế"," Nehiên cứu lịch sử " của Trung Quốc
đã đăng tải hàng loạt các bài về chủ đề cải cách kinh tế - xã hội
trong giai đoạn hiện nay.

Các công trình nêu trên đã được các nhà khoa học Trung
Quốc nghiên cứu ratty mỉ, cụ thể và công phu. Tuy vậy, các tác giả
đã viết theo cách cảm nhận của người Trung Quốc về công cuộc
cải cách của Trung Quốc, vì vậy đôi khi cách giải qbỵết chưa thật
sự khách quan.
Các nhà Trung Quốc học ở Đài Loan, Hồng Kông, Nhật Bản,
CHLB Đức, Mỹ, Pháp , CHLB Nga cũng có những công trình ở
các khía cạnh khác nhau đã tổng kết, đánh giá và nhận xét về quá
trình cải cách của Trung Quốc trong những năm vừa qua. Các ý
kiến đó hết sức đa dạng, còn tồn nghi nhiều cách lý giải khác nhau,
cân được tiếp tục bàn bạc, nghiên cứu . Tác giả Khâu Hoành Huy
( Đài Loan) trong các tác phẩm của mình như "10 năm cải cách
kinh tế của Trung Cộng ", " những cuộc cải cách kinh tế của Trung
cộng từ năm 1978" "Phân tích vấn đề cải cách kinh tế của Trung
cộng" đã đanh giá chặng đường cải cách kinh tế- xã hội của
Trung Ọnnr <CP ơăn nhipn khó khăn .Ngược lại các học giả ở CHLB
Nga trong các bài viết ớ tạp ch í" Những vấn đề Viễn Đông" lại wiL
bài học thành công của Trung Quốc trong quá trình
cải cách kinh tế - xã hội vừa qua. Còn các học giả Mỹ một mặt đa
khái quát tiến trình cải cách của Trung Quốc bằng một mô hình hết
sức độc đáo: họ cho ràng cơ sở lý luận của cải cách ở Trùn? Quốc
được kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý thuyết phát triển của phương
Tây ( học thuyết Keynes ) với lý luận hết sức đặc thù của phương
Đông ( điển hình là lý luận của nhà kiến trúc cải cách ầạistài/Đặng
Tiểu Binh) , với phương pháp chỉ đạo công cuộc cải cách của
Trung Quốc là: "qua sông dò đá" và họ đã đưa ra những dự báo
khônỉĩ phải là không có cơ sở về một nước Đại Trung Hoa hùng
mạnh sau cải cách
Tinh hình nghiên cứu về đề tài này ở Việt nam trong những
năm gần đây cũng hết sức sôi động. Một số tạp chí như " Nghiên

cứu kinh tế"," Những vấn đề kinh tế thế giới"," Nghiên cứu Trung
Quốc" , " Kinh tế châu - Thái Bình Dương " Nghiên cứu lịch
sử", " Thông tin Khoa học xã hội", " Nghiên cứu Đông Namầ", "
Tạp chí Xã hội học " của trung tâm khoa học xã hội và nhân văn
quốc gia, các tạp chí "Tạp chí Cộng sản" , " Nghiên cứu quốc tế","
Thông tin lý luận" ở các cơ quan của Đảng và nhà nước Việt nam
đã giới thiệu, phân tích, đánh giá về quá trình cải cách kinh tế xã
hội của Trung Quốc trong những năm vừa qua. Các cuốn sách
Trung Quốc từ Mao đến Đặng" do phó giáo sư Văn Trọng chủ
biên, xuất bản năm 1984; cuốn " Nghiên cứu Trung Quốc hiện đaị"
do phó giáo sư Hoàng Việt chủ biên, xuất bản năm 1985; đặc biệt
hai cuốn sách " Trung Quốc trên đường cải cách " do phó giáo sư
8
Nguyễn Đức Sự chủ biên, xuất bản năm 1991 và cuốn "Trung
Quốc cải cách mở cứa" do phó giáo sư Vũ Hữu Ngoạn chủ biên,
xuất bản năm 1992 là những tác phẩm nghiên cứu toàn diện quá
trình trước và sau cải cách. Gần đây, nhà xuất bản KHXH liên tiếp
xuất bản hai cuốn sách có nội dung về chủ đề cải cách kinh tế - xã
hội của Trims Quốc, cuốn " Trune Quốc - thành tựu và triển vọng
r c,.yn " xuất bản năm 19941 và cuốn " Cải cách kinh tế của CHND Trung
Hoa: lựa chọn mới cho sự phát triển " của PTS Nguyễn Minh Hằng
xuất bản năm 1995 . Đây là hai cuốn sách quý , rất đáng được tham
Tác giả bản luận án này đã phân tích, lựa chọn và kế thừa có
chọn lọc các kết quả nghiên cứu của tất cả các công trình trong và
ngoài nước kể trên. Tác giả mong muốn được trình bày có hệ thống
những nét khái quát về tiến trình lịch sử của công cuộc cải cách
kinh tế - xã hội của Trung Quốc hơn 16 năm qua. Trên cơ sở đó
sắp xếp có trình tự các ý kiến đánh giá về thành tựu và những vấn
đề tồn tại của công cuộc cải cách đó. Cuối cùng thử đưa ra những
bài học lịch sử, kinh nghiệm quý báu của Trung Quốc trong sự

nghiệp cải cách vừa qua và so sánh với công cuộc đổi mới ở Việt
Nam hiện nay. Mặt khác, tác giả bản luận văn này mong muốn
được sáp xếp một thư mục các tư liệu trong và ngoài nước về đề tài
này, tạo cơ sở cho những ai muốn đi sâu vào việc nghiên cứu cải
cách của Trung Quốc
2. Nói đến khái niệm " quá trình cải cách kinh tế - xã hội ở Trung
Quốc từ năm 1978 đến nay" có nghĩa là muốn khẳng định vấn đề
nghiên cứu cho một chặng đường lịch sử với khoảng thời gian dài
hơn 16 năm từ 12/1978 đến đầu năm 1995 của một công cuộc cải
cách mà trước hết là cải cách kinh tế. Vấn đề xã hội bao gồm
những chỉ tiêu xã hội như : Tổng sản phẩm quốc dân theo đầu
người, kết cấu xã hội, tố chất nhân khẩu và chất lượng sống của
nhân dân sẽ được nêu ra và xem xét như những hệ quả của công
cuộc cải cách kinh tế. Vì vậy cấu trúc của luận văn chủ yếu tập
trung phân tích vấn đê cải cách kinh tế, còn vấn đề xã hội sẽ được
nhìn nhận như là| kết quả của cải cách kinh tế dẫn tới mà thôi. Tất
nhiên đây là một luận văn khoa học về lịch sử, nên tác giả không
sa đà vào những lý luận quá sâu về kinh tế. Vấn đề sẽ được xem
xét, đánh giá qua lăng kính của người nghiên cứu lịch sử kinh tế.
ĨII.PHUONG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Tác giả luận án trình bày vân ífê theo phương pháp lịch sử,
phân tích vấn đề bằng các sự kiện lịch sử, phân chia giai đoạn bằng
các mốc lịch sử theo thời gian . Kết hợp các phương pháp biên
niên, đối chiếu so sánh, biểu đồ trong mối quan hệ biện chứng
giữa lcygic và lịch sử , trong một hệ thống cấu trúc dưới ánh sáng
của phép biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác - Lênin.
IV. Nguỏn tư liêu :
Đề tài được nghiên cứu dựa trên hai nguồn tư liệu sau đây :
1. Sách, báo, luận văn bằng tiếng Trung Quốc bao gồm các văn
kiện đại hội Đẳng cộng sản Trung Quốc từ khóa VIII đến khóa

XIV. Các bài viết, phát biểu, nói chuyện của các lãnh tụ Trung
Quốc có liên quan đến đề tài. Các văn bản chính thức, c^c )fniên
giám thống kê, các chuyên luận đăng tải trên các sách, các tạp chí,
luận văn về đề tài này. Ngoài ra còn tham khảo thêm các tư liệu
bằng tiếng Nua, tiếng Anh. Rất may mắn cho tác giả đã được thực
tế tiếp xúc với cành và người Trung Quốc qua chuyến đi conítác tại
tỉnh Quáns Tây Trung Quốc vào tháng 10/1991 ; đã được học tập,
trao đổi kinh nghiệm nghiên cứu với các học giả Liên Xô qua
chuyến công tác ở Liên Xô tháng i 1/1990 và thực tập khoa học tại
Viện Viễn Đông Cộng Hòa Liên Bang Nga từ tháne 4/1993 đến
tháng 8/ 1994. Nhữnc; đợt thực tế , học tập , trao đối tại nước ngoài
đã rất có ích cho việc nghiên cứu và hoàn thành bản luận án với đề
tài cải cách này của tác giả.
2. Nguồn tư liệu bằng tiếng Việt được đăng trên các sách báo, tạp
chí, các báo cáo khoa học, các tài liệu trong các thư viện chuyên
ngành, các bài dịch, tổng thuật , thông tin đã được dịch ra tiếng
Việt cả các tác giả khác nhau trên thế giới như Mỹ, Pháp, Anh,
Nga, Nhật, Đài Loan, Hồng Kông
V. GIỚI THIÊU BỐ CLJC LUÂN ÁN:
S Luận án với tiêu đê " Quá trình cải cách kinh tế - xã hội
của Cộng Hòa Nhân dàn Trung Hoa từ 1978 đến nay" được
V chia thành ba phần :
j A- Phân mư đâu : Như đã trình bày ở trên
B- Phần nội dung: gồm ba chương
I. Chưưng thứ nhất : Hoàn cảnh lịch sử ra đời và cơ sở lý
luận của công cuộc cải cách kinh tế - xã hội của Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa
1. Hoàn cảnh lịch sử ra đời của cải cách
2. Công cuộc cải cách kinh tế xã hội của CHND Trung Hoa
phù hợp với hoàn cảnh quốc tế

10
II.Chương thứ hai : Tiến trình cái cách kinh tế xã hội ở
CHND Trung Hoa từ 12/1978 đến nay
1. Giai đoạn 1 cải cách nông thôn là chính (từ 12/ 1978 đến
10/ 1984)
2. Giai đoạn 2 cải cách tòan diện nền kinh tế, lấy thành thị
làm trọng điểm ( từ 10/ 1984 đến 9/ 1988)
3.Giai đoạn 3 chấn chỉnh , cải tạo nền kinh tế "quá nóng" (
9/1988 đến 12/1991)
4.Giai đoạn 4 đi sâu, tăng nhanh nhịp độ cải cách - mở cửa,
thiết lập nền kinh tế thị trường XHCN ( 1/1992 đến nay)
5. Phát triển xã hội - kết qua của cải cách kinh tế.
III. Chưưng thứ ba: Tliành tựu , tồn tại và những bài học về
công cuộc cải cách kinh tế xã hội ở CHND Trung Hoa.
1. Thành tựu và tồn tại của cải cách
2. Nhận xét và những bài học
c . Phần kết luận
K.PHAN NOI DUNG.
CHƯƠNG THỬ NHẤT
HOÀN CANH LÍCH sử RA ĐỜỊ VÀ CO SỎ LÝ LUÂN CỦA
CONG CUQC CAI CẢCH KĨNH TẾ - XẢ HỔĨ Ớ CHND TRUNCÌ HOA
L HOẰN CẢNH LÍCH sú RA ĐỜI CỦA CẢI CÁCH:
Trung Quốc cổ xưa đã trải qua xã hội phong kiên
đến sau cuộc " chiến tranh nha phiến"( năm 1840), đất nước này đã
chuyển từ xã hội phong kiến thành xã hội nửa thực dân , nửa phong
kiến. Cho đến trước giải phổng (10/1949), trong đời sống kinh tế
của Trung Quốc, kinh tế tư bản chủ nghĩa chỉ chiếm một tỷ trọng
rất nhỏ, nền công nghiệp thời kỳ cận , hiện đại lấy thao tác cơ khí
làm tiêu chí hầu như không có. Sản phẩm công nghiệp cá thể,
thủ công nghiệp chiếm đến 90% trong tổng sản phẩm công nghiệp;

kinh tế nông thôn Trung Quốc rơi vào tình trạng lạc hậu ; tự nhiên,
bán tự nhiên Dựa trên một cơ sở kinh tế như vậy, dưới sự lãnh
đạo của giai cấp công nhân,nhân dân Trung Quốc đã tiến hành
cuộc cách mạng dân chủ mới, tháng 10/ 1949 cách mạng thành
công, cả nước Trung Quốc hăng hái tiến lên xây dựng CNXH .Kể
từ tháng 10/ 1949 đến tháng 12/ 1978 ( năm cả nước Trung Quốc
bát đầu công cuộc cải cách kinh tế - xã hội )j Trong suốt 30 năm
rv&ỵì »Vn*<
năm,
xây dựng CNXH theo kiểu cũ đó, nước CHND Trung Hoa đã trải
qua những bước thăng trâm,biến đổi và bế tắc ; nền kinh tế hàng
hóa không phát triển , cơ sở vật chất của CNXH rất yếu kém,
không thể nào giải quyết được mâu thuẫn cơ bản giữa sức sản xuất
xã hội lạc hậu với nhu cầu ngày càng cao trong đời sống vật chất
và văn hóa của nhân dân; nền kinh tế kế hoạch hóa cứng nhác là
chủ đạo , kế hoạch kinh tế mệnh lệnh từ Trung ương áp đặt xuống
địa phương, nhà nước quản lý mọi vấn đề từ tài nguyên ( nhân lực,
vật lực) đến khâu sản xuất và phân phối chính nhu' chỉ cho phép
hai hình thức sở hữu : nhà nước, tập thể tồn tại, còn các hình thức
khác đều bị xóa bỏ Sự phát triển của xã hội Trung Quốc sau 30
năm xây dựng CNXH kiểu trại lính;tập trung^quan liêu, bao cấp đã
đưa Trung Quốc vào con đường bế tắc : sản xuất bị đình đốn,
không phát triển; đời sống nhân dân neày càng nghèo nàn tất cả
những điều đó buộc Trung Quốc phải tích cực tiến hành công cuộc
cải cách kinh tế - xã hội nhằm mục đích đưa xã hội Trung Quốc
phát triển đi lên. Cái cách thực sự là động lực của quá trình phát
triển. Có thể khái quát 30 năm Trung Quốc xây dựng CNXH kiểu
cũ bằng năm giai đoạn như sau:
1. €rtaHk»anỊl949 -
cách ruỏng đất) ^

Sau khi giành được chính quyền tháng 10 /1949, Trung
Quốc đã mau chóng đề ra nhiệm vụ xây dựng và củng cố hệ thống
nhà nước mới : nhà nước Dân chủ Nhân dân . Bản hiến pháp mới
của Nhà nước Dân chủ Nhân dân đã qui định vai trò lãnh đạo của
Đáng Cộng sản với bốn kiên trì ( kiên trì chủ nghĩa Mác và tư
13
1952j( triai đoan khỏi phuc kinh tẽ và cái
14
tưởng Mao Trạch Đó nu; kiên trì xây dựng chủ nghĩa xã hội; kiên
trì chuyên chính dân chủ nhân dân; kiên trì sự lãnh đạo của đảng
cộng sản) .
Vê lĩnh vực kinh t ế , Trung Quốc tiến hành khôi phục lại nền
kinh tế sau chiến tranh bao gồm cả nông nghiệp và công nghiệp. "
Đến cuối năm 1952, giai đoạn khôi phục lại nền kinh tế quốc dân ở
Trung Quốc đã kết thúc, về cơ bản nhiệm vụ xóa bỏ tàn dư phong
kiến đã hoàn thành, sản lượng thép của Trung Quốc đã vượt quá
sản lượng của năm cao nhất trước giải phóng là 46,2%, tương tự
như thế, sản lượng than vượt 7,4%, lương thực vượt 17,9%" (5).
Song song với quá trình khôi phục lại nền kinh tế, sau chiến tranh
Trung Quốc đã tiến hành rầm rộ công cuộc cải cách ruộng đất trên
địa bàn rộng rãi khắp cả nước. Như mọi người đều biết " chế độ
phong kiến của Trung Quốc rât-bèt-hợp lý : bọn địa chủ phú nông V
A * yi Ắ.
chỉ chiếm 10% dân số ở nông thôn nhưng lại chiếm đến 70% -
80% ruộng đất toàn nông thôn. —
________________________ _

Dân nghèo bao gồm bần nông , trung nông chiếm đến 90%
dân số ở nông thôn mà chỉ được sử dụng từ 20%- 30% diện tích
ruộng đất ở nông thôn"(6). Người nông dân Trung Quốc dù có cần

cù(vất vả quanh năm nhưng vãn không đủ ăn. Đó chính là nguồn
gốc cơ bản khiến Trung Hoa bị áp bức bóc lột và rơi vào tình trạng
đói nghèo lạc hậu . Tinh trạng đó nếu không được cải cách triệt để
thì nông dân sẽ không được hưởng quả thực cơ bản mà cách mạng
đã đem lại. Vì vậy mà dưới sự lãnh đạo của Đảna; cộng sản Trung
Quốc0 ^)0 triệu) nông dân Trung Quốc đã tiến hành cải cách ruộng
^ Ait để xóa bỏ quyền sở hữu cuả bọn phong kiến địa chủ bóc lột,
15
đem lại ruộne đất cho dân cày. Từ tháng 6 / 1950, sau khi nhà nước
công bố " cái cách ruộng đất", ở khắp những vùng giải phóng đã
triển khai phontĩ trào này rất rầm rộ. " Đến tháng 9/1952 chỉ trừ
khu vực các dân tộc thiểu số sinh sống, toàn bộ Tru nu Quốc về cơ
bản đã hoàn thành công cuộc cải cách ruộníĩ đất. Cải cách ruộng
đất là một cuộc cách mạng to lớn, triệt để nhất về chế độ ruộng đất
lịch sử mấy ngàn năm của Trung Quốc . Toàn quốc ước có
nông dân đã được chia 700 triệu mẫu đất với hàng loạt
J sản xuất" (7) . Từ đó mà sức sản xuất nông nghiệp đã
được giải phóng, khối liên minh công nông và chuyên chính dân
chủ nhân dân đã được củng cố mạnh mẽ, tạo những cơ sở vững
chắc cho công cuộc cải tạo XHCN sau này. Trong thời kỳ cải cách
ruộng đất, Trung Quốc đồngthời còn gánh vác nghĩa vụ quốc tế "
iện Triều^chống Mỹ" , vì thế tài chính quốc gia gặp nhiều khó
khăn. Nhưng nhờ có các chính sách về đầu tư, giá cả trợ giúp cho
nông nghiệp, đã khơi dậy những phong trào khôi phục sản xuất
nồng nghiệp trong cả nước. Vì vậy trong giai đoạn cải cách ruộng
đất, sản xuất nông nghiệp ở Trung Quốc đã phát triển mạnh mẽ.
Tổng giá trị sản lượng nông nghiệp năm 1952 tăng 48,5% so với
năm 1949 ; tống sản lượng lương thực tăng 44,8%; sản lượng bông
tăng 1,93 lần; dầu ăn tăng 60% ( 8).
Nhưng bên cạnh các thành tựu đã thu được, trong giai đoạn

này , Trung Quốc đã bộc lộ những khuyết điểm sau đây: công cuộc
cải cách ruộng đất được tiến hành vội vã , khiên cưỡng, không tôn
trọng nguyên tắc tự nguyện , dùng những biện pháp đấu tố gay
gắt Những khuyết điểm này đến nay đã được chính phủ Trung
Quốc thừa nhận. Nó chẳng những đã hạn chế đến sự phát triển,
đồng thời còn là tiền đề cho những sai lầm "tả khuynh" trong xây
dựng CNXH sau này.
2. Giai đoan|l953
ílế hoach 5 nãrn lá
Năm 1953, Trung Quốc tuyên bố bắt đầu thực hiện kế hoạch
5 năm lần thứ nhất, đồng thời cả nước bước vào thời kỳ cải tạo
XHCN đối với chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, thiết lập hai hình
thức sở hữu toàn dân và tập thể.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, Trung Quốc tiến hành xây
dựng và phát triển " hợp tác xã sản xuất nông nghiệp sơ cấp" ( bán
XHCN) và " hợp tác xã nông nghiệp cao cấp " ( 100% XHCN) .
Hình thức " HTX sản xuất nông nghiệp sơ cấp " đựoc nông dân
Trung Quốc dễ chấp nhận hơn, bởi vì quy mô của 11Ó vừa phải (
một HTX gồm 20 đến 30 hộ nông dân), thích ứng với trình độ quản
lý của cán bộ, hiệu quả kinh doanh, sản xuất tốt. Với cách tổ chức:
nhập đất đai, gia súc, tư liệu sản xuất lại , thống nhất kinh doanh
sản xuất, phân phối theo lao động, chia hoa hồng dựa vào cổ phần
ruộng đất, gia súc và đóng góp của người nông dân HTX nông
nghiệp sơ cấp đã đảm bảo lợi ích của đa số nông dân , phù hợp với
nhu cầu tâm lý của xã viên, tạo thêm niềm tin tưởng của người
nông dân đối với con đường xây dựng CNXH. Nhưng do nóng vội,
muốn mau chóng tiến lên sản xuất lớn XHCN, Trung Quốc đã xây
dựng hàng loạt các " HTX nông nghiệp cao cấp". Để lập ra các "
HTX nông nghiệp cao cấp", người ta đã đem toàn bộ đất đai, tư
liệu sản xuất , gia súc gia nhập sở hữu tập thể; thủ tiêu chia hoa

16
17
hồrm ruộng đất; thực hành kinh doanh thống nhất tập thể; tập trung
lao động; phân phối thống nhất theo kiểu bình công ghi điểm, dựa
vào công điểm mà phân phối Thực ra phong trào hợp tác hóa
nông thôn là một việc làm có ý nghĩa quan trọng nhằm củng cố cơ
sở kinh tế XHCN, nhằm chuyển hướng sản xuất lớn, xã hội hóa
kinh tế nông thôn Nhưng do Đảng và Chính phủ Trung Quốc chỉ
chú trọng đến " thanh thế của phong trào" và " tốc độ của phong
trào" mà xem nhẹ con đườim phát triển cụ thể, không tìm tòi
phương thức hoạt động và tồn tại của HTX , do đó phong trào hợp
tác hóa đã diễn ra quá nhanh , vội vâng làm tổn thương đến lợi ích
kinh tế và tính tích cực sản xuất của người nông dân. Phong trào "
công xã nhân dân hóa" năm 1958 càng đẩy công cuộc cải cách chế
độ sở hữu ở nông thôn Trung Quốc đến cực đoan. Chỉ trong vòng
mấy tháng ngắn ngủi, phong trào "công xã nhân dân hóa" đã lấy
tốc độ " đại nhẩy vọt" để triển khai trên địa bàn toàn quốc, hơn 740
nghìn các "HTX nông nghiệp sơ cấp" toàn Trung Quốc đã biến
thành hơn 26 ngàn các " công xã nhân dân" (9).Thể chế " công xã
nhân dân" lấy " nhất đại.nhị công” ( một là lớn, hai là công hữu) và
" chính xã hợp nhất" ( chính quyền và công xã hợp nhất làm m ột)
làm đặc điểm c ơ bản cho việc xây dựng CNXH kiểu cũ trong suốt
30 năm.Công bằng mà nói, thể chế " công xã nhân dân" cũng có
những thành tựu nhất định trong việc cải tạo nông nghiệp truyền
*
thốns;, xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn như giao thông, đường
xá , thủy lợi, cơ giới hóa nông nghiệp nhưng với phương thức
quản lý tập trung, kinh doanh thống nhất, phân phối cào bằng kiểu
" nồi cơm đầy" đã gây trở ngại lớn lao cho sự phát triển nền kinh
Tỉ-Ì

IS
tế hàng hóa ở nô nu thôn Trung Quốc. Cấu trúc của công xã nhân
dân với bố cục vận hành của nền kinh tế tự nhiên, bán tự nhiên đã
đem lại cuộc sống đói nghèo , lạc hậu lâu dài cho ne ười nông dân
Trung Quốc. Đáng lẽ, những thay đổi của quan hệ sản xuất phải
thúc đẩy sức sản xuất phát triển, nhưng tình hình của công xã nhân
dân lại có kết quả trái lại, nó chẳng những kìm hãm sức sản xuất
phát triển mà còn làm tiêu tan tính tích cực kinh doanh sản xuất
của người nông dân, làm mất đi tình cảm thiêng liêng của họ với
mảnh đất mà họ vừa đước chia trong cải cách ruộng đất. Hiệu suất
lao động của họ chỉ bằng 1/5 hiệu suất vốn có .~Bĩó là bài học đau
thương của Trung Quốc do hậu quả của công xã nhân dân gây ra.
Sau này, người ta tìm ra 4 nguyên nhân chủ yếu thúc đẩy quá trình
công xã nhân dân hóa diễn ra nhanh chóng ở Trung Quốc :
1- Trung Quốc quá coi trọng sự phân hóa hai cực ở nông
thôn, họ cho ràng thế lực TBCN ở nông thôn phát triển nhanh
chóng tạo ra nguy cơ cho việc xây dựng CNXH .
2- Nhà nước đòi hỏi quá cao vào tính tích cực của người
nông dân đối với hợp tác hóa và cho rằng thời cơ phát triển hợp tác
hóa đã đến mà quên đi những yếu tố khác.
3- Nhà nước tính toán quá cao thành tích của hợp tác hóa,
cho ràng\ị cứ vào HTX là sẽ đời đời ấm no, xây dựng HTX càng lớn
càng tốt.
4-Nhà nước đã không nhận thức được sự phát triển không
đồng đều giữa các vùng kinh tế, xem nhẹ công tác phân loại chỉ
đạo trong hợp tác hóa.
19
Như vậy, ở nông thôn Trung Quốc xây dựng hành loạt các
công xã nhân dân với quy mô lớn, còn ở thành phố Trung Quốc
cũng xây dựng hàng loạt các xí nghiệp quốc doanh theo mô hình :

to ( về số lượng )- dầy ( về quy mô) - dài ( về kế hoạch) với đường
lố i" dĩ cương vi cươne" ( lấy cônq nghiệp nặng - gang thép làm cơ
sở ). Họ chỉ chấp nhận hai hình thức sở hữu : nhà nước và tập thể,
còn tất cả các hình thức sở hữu khác đều bị coi là CNTB và bị đào
thải. Trung Quốc đã bắt đầu trượt ra khỏi quỹ đạo chung trong sự
vận hành và phát triển chung của sự vật. Chủ nghĩa chủ quan duy ý
c h í" tả khuynh" trong tư tưởng và hành động xây dựng CNXH đã
phát triển . Đó là sai lầm có tính chiến lược trong đường lối xây
dựng CNXH ở Trung Quốc, hậu quả của nó sẽ âm ỉ và dai dẳng tàn
phá cơ chế kinh tế xã hội Trung Quốc trong suốt 30 năm sau. Giai
đoạn 1953 -1957 Trung Quốc sai lầm trong công cuộc cải tạo
XHCN , nhưng that khách quan mà nói, kế hoạch 5 năm lần thứ
nhất, họ cũng da thu được những thành tựu ban đầu, hơn thời kỳ
trước giải phóng." Đến cuối năm 1957, Trung Quốc đã hoàn thành
vượt mức kế hoạch 5 năm lần thứ I , so với năm 1952, giá trị tổng
sản lượng công nghiệp tăng 129% , nông nghiệp tăng 25%, tổng
thu nhập quốc dân tăng 53%, mức tiêu phí trung bình của cư dân
toàn quốc tăng 23% (10) .
Sau khi đất nước được giải phóng, có một tâm lý chung cho
tất cả các dân tộc trên thế giới là đều rất hăng hái, nhiệt tình xây
Vcv VWí
dựng lại đất nướcV Việc Trung Quốc thu được những thành tựu
trons; kế hoạch 5 năm lần thứ I đã khẳng định đó là những thành
tựu có tính thời đại, đồng thời còn thể hiện tính ưu việt của CNXH ,
20
đã tạo ra được nhữnu cơ sở vật chất ban đầu cho sự nghiệp xây
dựng CNXH sau này. Nhưng với lối suy nghĩ chủ quan, duy ý c h í,
những người cộng sán Trung Quốc đã bất chấp các quy luật kinh tế
khách quan, đấy nhanh quá trình xây dựng CNXH , thể hiện trong
công cuộc cải tạo XHCN, thúc đẩy nhanh quá trình công xã nhân

dân hóa, xây dựng các xí imhiệp quốc doanh “to - dầy - daì”, chỉ
chấp nhận hai hình thức sở hữu Tất cả những điều đó đã báo hiệu
cho những sai lầm " tả khuynh" sẽ càng trầm trọng hơn trong
những giai đoạn sau.
3. Giai đoan 1958 - 1961V Thưc hiên-kế hoach 5 năm làn
thủ II vứi nhũng sat-fe™ nohipm trong Ỳ t chjnh *"i, kính-té)
Do thu được những kết quả ban đầu trong kế hoạch 5 năm
lần thứ I , ĐCS Trung Quốc đứng đầu là chủ tịch Mao Trạch Đông
đã chủ quan, đưa ra đường lối phát triển kinh tế với sự tăng vọt lên
nhiều lần trong các kế hoạch phát triển 5 năm lần thứ II. Ở vòng 2
Đại hội VIII của ĐCS Trung Quốc ngày 5/5/1958 , căn cứ vào kiến
nghị của chủ tịch Mao Trạch Đông , Đại hội đã thông qua đường
lối chung là : " Dốc lòng hăng hái, tranh thủ vươn lên hàng đầu,
xây dựng CNXH nhanh, nhiều, tốt , rẻ" (11). Để thực hiện đường
lối chung đó, cả nước,Trung Quốc đã dấy lên phong trào " Ba ngọn
cờ hồng" ( đường lối chung, đại nhẩy vọt, công xã nhân dân) . Xuất
phát từ nhiệt tình cách mạng cuồng nhiệt của hàng trăm triệu nông
dân, với hy vọng trong một khoảng thời gian ngắn, Trung Quốc có
thể nhẩy vọt lên địa vị cường quốc trên thế giới, như chủ tịch Mao
đã nói " Trung Quốc có thể nhảy vọt chứ không đi lên CNXH như
trước kia nữa" (12).

×