Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Quản lý thuế khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Hà Tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (51.71 MB, 102 trang )

DẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TÉ
ĐÀO DUY DƯƠNG
QUẢN LÝ THUẾ KHU
vực
KỈNH TÍ
*
NGOÀI QUỐC DOANH ở HÀ TÂY:
THỤC TRẠNG VÀ (ĩlẪl PIỈÁP
• *
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC KỈNH TE
C H U Y Ê N N G À 1ÏH : K IN K T Ế C H ÍN H T R Ị
MÃ SỐ. 5 0 20 :
MỤC LỤC
PHẨN MỎ ĐẨU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài. 1
2. Tinh hình nghiên cứu đề tài 2
3. Mục đích và yêu cầu 2
4. Đối urợnũ phạm vi nghiên cứu 3
5. Phươns pháp nghiên cứu 3
6. Đóng góp mới về mặt khoa học và luận văn 3
7. Kết cấu của luận văn 3
CHƯƠNG 1: TỔNG QUÁT VỂ THUẾ VÀ QUẢN LÝ THUẾ KHU 4
VỰC KINH TÊ NGOÀI QUỐC DOANH
1.1. Một sỏ vấn đề lý luận về thuế 4
1.1.1. Khái niệm - bản chất, đặc điểm của thuế 4
1.1.2. Vai trò của thuế 9
1.2. Khu vực KTNQD và quản lý thuế đối với K ĩ NQD 12
1.2.1. Đặc diêm của kinh tế NQD 12
1.2.2. Ycu cầu và nội dung của công tác quản lý thu thuế NQD 17
1.2.2.1. Mục tiêu yêu cầu của quản lý thu thuế NQD 18


1.2.2.2. Nội dung cơ bản của quản lý thu thuế KTNQD 21
1.3. Nội dung cơ bản của một sô sắc thuế đối với KTNQD ở việt nam 29
1.3.1. Thuế môn bài 30
1.3.2. Thuế GTGT 30
1.3.3. Thuế TNDN 33
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ KHU 36
Vực KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH Ở HÀ TÂY
2.1. Đặc điếm tự nhiên, kinh tế xã hội và thực trạng khu vực kinh 36
tế ngoài quốc doanh ở Hà Tây
2.1.1. Đặc diểm tự nhiên, kinh tế - xã hội 36
2.1.2. Thực trạng khu vực kinh tế ngoài quốc doanh (NQD) ở Hà Tây 43
2.2. Tình hình quản lý thuế khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Hà 49
Tây những năm qua
2.2.1. Xây đựng bộ máy quản lý ngành thuế 49
2.2.2. Tổ chức quán lý thu thuê' 54
2.2.2.1. Quân lý thu thuế các doanh nghiệp NQD 54
2.2.2.2. Quản lý thu thuế hộ cá thể kinh doanh 59
2.2.3. Cônti tác thanh tra chống thất thu trong quản lý thuế khu vực 65
kinh tế ngoài quốc doanh tại Hà Tây
2.3. Đánh giá chung 67
2.3.1. Những kết quả đã đạt được 67
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân 71
2.3.2.1. Những hạn chế 7 L
2.3.2.2. Những nguyên nhân 72
CHƯƠNG 3: NHŨNG QUAN ĐIỂM đ ịn h h ư ớ n g và g iả i 74
PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ KHU v ự c
KINH TẾ NQD Ở HÀ TÂY NHŨNG NẢM TỚI
3.1. Một sô quan điểm cơ bản nhằm hoàn thiện quản lý thu thuê 74
ngoài quốc doanh ở Hà Tây
3.1.1. Quán lý thu thuế là nhiệm vụ chung của cơ quan thuế, chính 74

quyền địa phương và cơ quan liên quan
3.1.2. Báo đãm bình đẳng về nghĩa vụ nộp thuế 76
3.1.3. Quản lý thuế NQD phải được đổi mới theo: ĐTNT tự tính, tự khai 77
và tự nộp thuế
3.2. Một sô giải pháp về tăng cường quản lý thuế đối với khu vực 78
kinh tếNQD
3.2.1. Nâng cao chất lượng công tác quản lý thuế đối với KTNQD trên 78
địa bàn
3.2.2. Kiện toàn bộ máy quản lý thuế, nâng cao chất lượng công tác 81
tuyển dụng, đào tạo bổi dưỡng cán bộ.
3.2.3. Hoàn thiện chế độ sổ sách kế toán, chứng từ hoá đơn trong quản 84
lý thu thuế
3.2.4. Tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp uỷ, chính quyền địa phương 91
trong quản lý thu thuế
3.2.5. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền chính sách thuế 92
KẾT LUẬN 95
DANH MỰC 97
CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
1. GTGT : Giá trị gia tăng
2. KTNQD : Kinh tế ngoài quốc doanh
3. NQD : Ngoài quốc doanh
4. NSNN : Ngân sách Nhà nước
5. TNCT : Thu nhập chịu thuế
6. TNDN : Thu nhập doanh nghiệp
7. TSCĐ : Tài sản cố định
8. TTĐB : Tiêu thụ đặc biệt
9. ƯBND : ưỷ ban nhân dân
10. XDCB : Xây dựng cơ ban
11. XHCN : Xã hội chủ nghĩa
12. XNK : Xuất nhập khẩu

0
PHẨN MỎ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thuế do Nhà nước tổ chức và thực hiện. Đó là sự chuyển dịch một chiểu
thu nhập từ phía doanh nghiệp và dân cư (khu vực tư) vào khu vực công. Phía sau
quá trình chuyên dịch này gồm nhiều vấn đề đặt ra như: tương quan giữa số thuế
thu được trong hiện tại và tương lai, ảnh hưởng của thuế đến hành vi kinh doanh,
đến động thái tiêu dùng xã hội, thuế và tăng trường kinh tế, tiến bộ xã hội
Do đó, thuế là một lĩnh vực phức tạp, bởi lẽ thuế không chi thể hiện ra
là những vấn đé kinh tế mà còn chứa đựng nhiều vấn đổ xã hội sâu sắc. Thuế
không những đòi hỏi tính khoa học về mặt lý luận, sự chính xác irons luật
định mà còn cẩn đến nghệ thuật tinh tế trong hành thu.
Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN - hàng năm số thu về thuế chiếm
khoảng 80% đến 90% tổng thu NSNN. Điều đó đòi hỏi Nhà nước cẩn tu chỉnh
các Luật thuế, các văn bản pháp lý khác về thuế nhằm hoàn thiện hệ thống
thuế, đưa thuế ngày càng tiếp cận thực tiễn. Để phản ánh và theo kịp bước
chuyển của nền kinh tế thì công tác quản lý thuế cần phải thay đổi và hoàn
thiện nhằm đáp ứng tình hình phát triển kinh tế của đất nước cũng như các
cam kết quốc tế trong giai đoạn hiện nay. Qua đó khai thác tối đa những uy
lực vốn có của thuế để kích thích sự phát tricn kinh tế - xã hội, phát triển sản
xuất kinh doanh của mọi đơn vị thuộc các thành phđn kinh tế và đám báo thực
hiện đúng nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước.
ở Việt Nam, hoạt động của khu vực KTNQG đã và đang ngày càng mở
rộng trên khắp các địa bàn trong từng địa phương và cả nước. Song chế độ sổ
sách kế toán, chứng từ hoá đơn còn thực hiện tùy tiện, chưa đúng chế độ, hiện
tượng khai man trốn thuế, lậu thuế còn nhiều từ đó tạo ra sự bất binh đẳng và
sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các thành phẩn kinh tế. Vì vậy quản lý
thu thuế đối với khu vực KTNQG phải tiếp tục cải tiến và hoàn thiện nhằm
thực hiện được mục tiêu, yêu cẩu của hệ thống thuế đặt ra.
Hà Tây là một tỉnh thuộc đồng bằng - trung du Bắc bộ, số thu về thuế

không nhiều, chưa đủ đáp ứng nhu cầu chi tiêu của địa phương, nhưng trong
đó KTNQG đã đóng góp một phần không nhỏ vào số thu hàng năm của ngân
sách địa phương. Nhiều năm qua ngành thuế tính Hà Tây nói chung, thuế
NQD nói ricng đã hoàn thành kế hoạch pháp lệnh của Nhà nước giao. Nhưng
với tính chất đa dạng và phức tạp của khu vực kinh tế này, công tác quán lý
]
thuế ờ tỉnh Hà Tây cần được khắc phục những mặt hạn chế và tồn tại, đảm bảo
nuôi dưỡng nguồn thu, thu đứng, thu dù theo quy định của pháp luật.
Xuất phát từ tình hình trên, luận văn với đề tài “Quản lý thuế khu vực
kỉnh tế ngoài quốc doanh ở Hà Tày -Thực trạng và giải pháp ” hy vọng đưa
ra dược một số giải pháp đáp ứng những ycu cầu bức xúc của đời sống kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay đã có khống ít để tài nghicn cứu xung quanh vấn đề về
thuế và công tác quản lý thu thuế. Mỗi đề tài nghiên cứu đều có mục đích, đối
tượng, phạm vi nghiên cứu, cách tiếp cận và mục tiêu cụ thể khác nhau.
- Vũ Công Nhĩ: "Thất thu thuế ở Việt Nam. Thực trạng, nguyên nhân
và giải pháp". Luận án PTS khoa học kinh tế - 1995.
- Nguyễn Thị Hiền: "Một số vấn đề về hoàn thiện hệ thống thuế ở Việt
Nam". Luận án thạc sĩ khoa học kinh tế - 1997.
- Vũ Thị Toản: "Công tác quản lý thu thuế NQD trên địa bàn Hà Nội".
Luận án thạc sĩ khoa học kinh tế - 1996.
Ngoài ra còn nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài viết thiết thực,
nhiều cuộc hội thảo đã được tổ chức
Tuy nhiên, chưa có một tác giả nào nghiên cứu bàn về quản lý thuế
NQD trên địa bàn tỉnh Hà Tây.VI vậy, luận văn nghicn cứu là cần thiết, qua
đó chỉ những nguyên nhân còn hạn chế trong quản lý thu thuế NQD, trên cơ
sở đó đề xuất những giải pháp khả thi ở địa bàn tỉnh Hà Tây, nhằm thực hiện
được mục tiêu của hệ thống thuế tại địa phương.
3. Mục đích và nhiệm vụ.
- Mục đích: Làm rõ những ván đề đặt ra trong công tác quản lý thu thuế khu

vực kinh tế NQD ở Hà Tây; đề xuất một số giải pháp thiết thực nhằm tăng cường,
hoàn thiện quản lý thu thuế NQD trên địa bàn, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội của Hằ Tây.
- Nhiệm vụ của luận văn:
+ Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về thuế và quản lý thu thuế đối
với khu vực KTNQD.
+ Phân tích đánh giá thực trạng quản lý thu thuế NQD trcn địa bàn tỉnh
Hà Tây.
+ Đề xuất quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục hoàn thiện và
tăng cường quản lý thu thuế NQD tại tỉnh Hà Tây
4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu.
ở Việt Nam KTNQD là một khu vực kinh tế đang hình thành và phát
triển, cách hiểu về nó cũng còn nhiều vấn đề chưa thống nhất. Vì vậy, nghiên
cứu về quản lý thu thuế khu vực KTNQD. đề tài chí tập trung tìm hiểu công
tác quản lý thuế đối với các đơn vị trong các hoạt động sản xuất kinh doanh -
dịch vụ gồm: Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Doanh nghiệp tư
nhân, Hộ kinh doanh công thương nghiệp và dịch vụ.
Cũng do điều kiện và mục đích nghiên cứu, luận vàn chỉ giới hạn việc
khảo sát, đánh giá khu vực KTNQD trên địa bàn tỉnh Hà Tây trong một số
năm gần đây- chù yếu là từ năm 2000, khi Luật doanh nghiệp được thực hiện
đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong quá trình thực hiện đề tài, luận văn kết hợp sử dụng nhiều
phương pháp cụ thể như: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp
thống kê, so sánh đổ rút ra những kết luận cần thiết.
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
- Chỉ ra thực trạng, những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những
tồn tại trong công tác quản ỉý thuế đối với khu vực KTNQD ở tỉnh Hà Tây.

- Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường và hoàn thiện cổng tác
quản lý thu thuế NQD trên địa bàn tỉnh Hà Tây hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1: Tổng quan về thuế và quản lý thuế ngoài quốc doanh
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý thuế khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh ở Hà Tây.
Chương 3: Những quan điem định hướng và giải pháp hoàn thiện công
tác quản lý thuế khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ớ Hà Tây
những năm tới.
3
Chương 1
TỔNG QUAN VỂ THUẾ VÀ QUẢN LÝ THUẾ
KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH
1.1. M ỘT SỐ VẤN ĐỂ LÝ LUẬN VỂ TH UẾ
1.1.1. Khái niệm - bản chất, đặc điểm của thuế
- Khái niệm - bản chất:
Thuế là một phạm trù kinh tế tài chính mang tính khách quan, đồng thời
cũng là một phạm trù lịch sử - thuế ra đời, tồn tại, phát triển cùng với sự ra
đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước. Trong thời kỳ Cộng sản nguyên thuỷ,
khi điều kiện lao động của con người còn thô sơ, con người lao động đủ để
duy trì sự sống của mình, chưa có Nhà nước lúc đó xã hội chưa biết thuế là gì.
Cùng với sự phát triển của sản xuất xã hội, xã hội loài người có sự phân chia
thành giai cấp và đấu tranh giữa các giai cấp, Nhà nước ra đời. Để duy trì bộ
máy Nhà nước, phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế, quốc phòng - an ninh
đòi hỏi Nhà nước phải có nguồn tài chính để chi tiêu. Nguồn tài chính này có
được là do sự đóng góp của mọi thành viên trong xã hội và sự đóng góp này
mang tính bắt buộc. Theo Ph.Ảngghen: “Để duy trì quyền lực công cộng cần
phải có sự đóng góp của những người công dán cho Nhả nước, đố thuế m á”

(14, tr.552). Với tiến trình phát triển của xã hội loài người, Nhà nước xuất
hiện, thuế cũng từ đó ra đời, tồn tại và phát triển
Lịch sử phát triển của xã hội loài người cho thấy, một khi Nhà nước chỉ
làm nhiệm vụ quản lý hành chính đơn thuần thi nhu cầu chi tiêu của Nhà nước
ở chừng mực nhất định, xã hội ngày càng phát triển hơn nên Nhà nước có
thêm nhiệm vụ điều hành, quản lý nền kinh tế thì chi tiêu của Nhà nước ngày
càng nhiều hơn. Đến khi Nhà nước đảm nhận thêm công việc chăm lo đời
sống, văn hoá, xã hội của cộng đồng thì thuế lại được động viên càng lớn với
nhiều sắc thuế và ở tất cả mọi hoạt động trong nền kinh tế
Như vậy, khi vai trò, nhiệm vụ của Nhà nước ngày càng được mở
rộng, đòi hỏi nguồn tài chính phục vụ cho việc chi tiêu ngày càng tăng
lên. Điều đó, không thể thiếu sự đóng góp của người dân và các tồ chức
kinh tế, đó là thuế.
Theo phân tích trên, thuế xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước
và thuế ra đời khi hoạt động lao động sản xuất của xã hội loài người tạo ra
4
sản phẩm thặng dư. Với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá, sự chuyển
dịch giá trị sản phẩm thặng dư từ thành phần kinh tế này sang thành phần
kinh tế khác, từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác rất đa dạns và phức tạp. Cho
nên, đứng trên giác độ toàn xã hội, dồi hỏi phải có hệ thống thuế để điều tiết
thoả đang số sản phẩm thặng dư xã hội tạo ra sao cho hợp lý và công bằng. Vì
vậy, khi xã hội càng văn minh thi thuế khoá lại càng đa dạng và phát triển.
Tóm lại, quá trình phát triển của Nhà nước và thuế cho chúng ta thấy,
thuế và Nhà nước là hai phạm trù gắn bó hữu cơ với nhau. Nhà nước tồn tại tất
yếu phải có thuế. Thuế là cơ sở vật chất đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển
của Nhà nước.
Trén các sách báo kinh tế, cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất tuyệt
đối khái niệm về thuế. Nhìn chung các quan điểm của các nhà kinh tế đưa ra
mới nhìn nhận từ những khía cạnh khác nhau của thuế, do đó chưa phán ánh
đầy đủ bản chất chung của phạm trù này. Chẳng hạn, theo các nhà kinh điển

thì thuế được quan niệm rất đon giản: “Thuế khoá là cái vú sữa của Chính
phủ” [13, tr317].
Sau này khái niệm về thuế được bổ sung và hoàn thiện hơn. Trong cuốn
Từ điển Kinh tế của hai tác giả người Anh Chrisopher Pass và Bryan Lowes
cho rằng: “Thuế là một biện pháp của Chính phủ đánh trên thu nhập của cái và
vốn nhận được của các cá nhân hay doanh nghiệp (thuế trực thu), trcn việc chi
tiêu hàng hoá và dịch vụ (thuế gián thu) và trên tài sản”.
Một định nghĩa về thuế tương đối hoàn chính được nêu lên trona cuốn
“Economics” của hai nhà kinh tế Mỹ như sau:
Thuế nhà nước là một khoản chuyển giao bắt buộc bâng tiền (hoặc
hàng hoá, dịch vụ) của các Công tỵ vả các hộ gia đình cho Chính phủ, mà
trong sự trao đổi đó họ không nhận được một cách trực tiếp hàng hoá hoặc
dịch vụ nào cả, khoản nộp thuế đó không phải lả tiền phạt mà ĩ oà Ún tuyên
phạt do hành vi vỉ phạm pháp luật ” /31, tr.lOỈ.
ở nước ta cũng chưa có một định nghĩa thống nhất về thuế. Theo
một số nhà nghiên cứu: Thuế là hình thức động viên, phân phối và phân
phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân theo pháp luật của
Nhà nước quy định, nhằm đáp ứng những khoản chi tiêu cần thiết của
Nhà nước. Đó là khoản thu của Nhà nước đối với các tổ chức (chủ yếu là
tổ chức kinh tế) và mọi thành viên trong xã hội; khoản thu này mang tính
bắt buộc không hoàn trả trực tiếp [11, ir. 1 ].
5
Gần đây, trong một số công trình nghiên cứu về ihuế, các nhà kinh tế
cho rằng, đè’ vạch rõ bản chất của thuế thì trong định nghĩa phải nêu bật các
khía cạnh sau đây: Nội dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các quan hệ
tiền tệ giữa Nhà nước với pháp nhàn và thể nhân; những mối quan hệ dưới
dạng tiền tệ này được nảy sinh một cách khách quan và có ý nghĩa xã hội đặc
biệt - việc chuyển giao thu nhập có tính chất bắt buộc theo mệnh lệnh Nhà
nước, xét theo khía cạnh luật pháp thuế là khoản nộp cho Nhà nước dược pháp
luật quy định theo mức thu và thời hạn nhất định.

Kết hợp những hạt nhân hợp lý của những quan niệm về thuế kể
trên có thể nêu lên khái niệm tổng quát về thuế như sau: Thuế là một
khoan chuyển giao thu nhập bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho
Nhà nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật quy định, nhằm sử
dụng cho mục đích cồng cộns [31, tr. 1 lj.
- Đặc điểm của th u ế:
Bản chất của thuế được thể hiện bởi các thuộc tính bên trong vốn có của
thuế. Những thuộc tính đó có tính ổn định qua từng giai đoạn phát triển.
Nghiên cứu về thuế người ta thấy nó có những đặc điểm riêng để phân biệt với
các công cụ tài chính khác.
+ Thuế là một khoản chuyển giao thu nhập cửa các tầng lớp trong xã
hội cho Nhà nước mang tính bắt buộc phi hình sự:
Tính bắt buộc phi hình sự là thuộc tính cơ bản vốn có của thuế, nó
phân biệt thuế với các hình thức huy động tài chính khác của NSNN. Đặc
điểm này vạch rõ nội dung kinh tế của thuế là những quan hệ tiền tệ, được
hình thành một cách khách quan và có một ý nghĩa xã hội đặc biệt - việc
động viên mang tính chất bắt buộc của Nhà nước mà kết quả của quá trình
đó là một bộ phận thu nhập của người nộp thuế được chuyển giao cho Nhà
nước mà không kèm theo một sự cấp phát hoặc những quyền lợi nào khác
trực tiếp cho người nộp thuế.
Tính chất cưỡng chế bắt buộc của việc chuyển giao thu nhập bắt nguồn
từ những lý do sau:
Thứ nhất: hình thức chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không
gắn với lợi ích cụ thể của người nộp thuế, do đó không thể sử dụng phương
pháp tự nguyện trong việc chuycn giao. Đế đám bảo nhu cầu chi tiêu công
cộng, Nhà nước tất yếu phải sử dụng quyền lực chính trị để bắt buộc mọi đối
tượng có thu nhập phải chuyển giao.
6
Thứ hai: trong xã hội văn minh nhu cầu của các thành viên cộng đồng
về hàng hoá công cộng ngày càng tăng cao. Để duy trì hoạt động đó thì thu

nhập về hàng hoá công cộng từ những người thụ hưởng phải bù đắp đủ các chi
phí bỏ ra. Nhưng hàng hoá công cộng lại có tính chất đặc biệt, nó không thể
phân bổ theo ‘'khẩu phần” để sử dụng và người thụ hưởng cũng không muốn
sử dụng theo “khẩu phần”. Mặt khác, hàng hoá công cộng không có tính cạnh
tranh và không thể đem trao đổi trực tiếp trên thị trường để bù đắp các chi phí.
Chính vì vậy trong việc cung cấp hàng hoá công cộng đã xuất hiện những
“người ăn không”, nghĩa là không ai tự nguyện trả tiền cho việc thụ hưởng
hàng hoá công cộng. Do đó, để đảm bảo cung cấp hàng hoá côns cộng, Nhà
nước chỉ có thể sử dụng phương pháp thuế để buộc “người ăn không” phải
chuyển giao thu nhập từ khu vực tư sang khu vực công.
Tuy nhién, tính bắt buộc của thuế không có nội dung hình sự, nghĩa là
hành động đóng thuế cho Nhà nước không phải là hành động xuất hiện khi có
biểu hiện phạm pháp, mà hành động đóng thuế là hành độns thực hiện nghĩa
vụ của người công dân.
Từ đặc điểm này, thuế không giống như các hình thức huy động tài
chính khác của NSNN như: lệ phí, công trái hoặc hình thức phạt bằng tiền.
Hình thức phạt bằng tiền cũng là hình thức bắt buộc, song việc phạt tiền chỉ
xảy ra đối với người nộp phạt khi có hành vi vi phạm luật lệ làm phương hại
đến lợi ích Nhà nước hoặc cộng đồng. Hình thức phí, lệ phí, công trái nói
chung mang tính tự nguyện và có tính chất đối giá. Tính bắt buộc của phí và lệ
phí chỉ xảy ra khi người trả phí, lệ phí thụ hưởng trực tiếp những dịch vụ do
Nhà nước cung cấp.
+
Việc chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không mang tính hoàn
trả trực tiếp:
Tính không hoàn trả trực tiếp của thuế được biểu hiện trên các mặt sau:
Thứ nhất, sự chuyển giao thu nhập thông qua thuế không mang tính
chất đối giá, nghĩa là mức thuế mà các tầng lớp xã hội chuyển giao cho Nhà
nước không hoàn toàn dựa trên mức độ người nộp thuế thụ hưởng những dịch
vụ hàng hoá công cộng do Nhà nước cung cấp. Người nộp thuế cũng không có

quyền đòi hỏi Nhà nước phải cung cấp hàng hoá, dịch vụ công cộng trực tiếp
cho mình mới phát sinh khoản chuyển giao thu nhập cho Nhà nước; mặt khác
mức độ cung cấp dịch vụ công cộng của Nhà nước cũng không nhất thiết
ngang bằng mức độ chuyển giao. Mức chuyển giao thu nhập nhiều hay ít chỉ
7
căn cứ vào kết quả hoạt động kinh tế và mục tiêu phát triển kinh tế -xã hội
cũng như nhu cầu tài chính cung của Nhà nước.
Thứ hai, khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không được
hoàn trả trực tiếp có nghĩa ià người nộp thuế suy cho cùng sẽ nhận được một
phần các dịch vụ công cộng mà Nhà nước cung cấp chung cho cả cộng đồng,
giá trị phần dịch vụ đó không nhất thiếl lương đồng với khoản tiền thuế mà họ
nộp cho Nhà nước. Đặc điểm này giúp ta phân biệt sự khác nhau giữa thuế và
các khoản phí, lệ phí.
+ Việc chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế được quy định trước
bằng luật pháp:
Đặc điểm này một mặt the hiện tính pháp lý cao của thuế, mặt khác
phản ánh sự chuyển giao thu nhập không mang tính chất tuỳ tiện mà dựa trcn
những cơ sở pháp luật nhất định và đã được xác định trước trong các luật thuế,
pháp lệnh thuế, đó là: đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế, mức thuế phải
nộp, thời hạn cụ thể và những chế tài mang tính cưỡng chế khác.
+ Các khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế chịu sự ảnh hưởng
của các yếu tố kinh tế, chính trị và xã hội trong những thời kỳ nhất định:
Yếu tố kinh tế tác động đến thuế thường là mức độ tăng trưởng của nền
kinh tế quốc dân, thu nhập bình quân đầu người, giá cả thị trường (trong nước
và quốc tế), sự biến động của NSNN,
Yếu tố chính trị, xã hội tác động đến thuế thường là thể chế chính trị
của Nhà nước, tâm lý, tập quán của tầng lớp dân cư, truyền thống văn hoá, xã
hội của dân tộc
Do thuế chịu sự ràng buộc của các yếu tố kinh tế, chính trị và xã hội nên
người ta thường nói đến thuế mang ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội tổng hợp.

+ Các khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế chỉ được giới
hạn trong phạm vi biên giới quốc gia với quyển lực pháp lý của Nlià nước đối
với con người vả tài sản:
Các đạo luật về thuế chỉ có tác dụng điểu tiết các hoạt động kinh tế và
sự chuyển giao thu nhập trong khuôn khổ biên giới của mỗi quốc gia, nơi mà
quyền lực pháp lý của nhà nước được duy trì. Điều này cũng có nghĩa là, trong
các hoạt động kinh tế quốc tế, các giao dịch diễn ra ở nước ngoài phái chịu sự
chi phối của luật pháp nói chung, những quy định về thuế nói riêng của nước
ngoài. Chính vì điều này, trong quá trình hội nhập quốc tế, các quốc gia phái
xây dựng hệ thống thuế theo hướng phù hợp với thông lộ quốc tế để tạo thuận
lợi cho các chủ thể kinh tế trong và ngoài nước.
8
Tóm lại, những đặc điểm cơ bản trên đây của thuế đã phản ánh bản
chất và nội dung bên trong của thuế. Từ những đặc điểm đó, giúp chúng
ta phân biệt thuế với các hình thức động viên khác của NSNN trên nhiều
phương diện khác nhau.
1.1.2. Vai trò của thuế
+
Thuế là công cụ chủ yếu huy động tập trung nguồn lực cho Nhà nước
:
Bất kỳ một chế độ Nhà nước nào muốn tồn tại và phát triển đều
phải tạo cho mình một nền tài chính quốc gia vững chắc và lành mạnh,
trong đó nguồn tài chính chủ yếu được động viên từ thuế và phí ở nội bộ
nền kinh tế quốc dân.
“Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN”. Ở nước ta từ khi có các
luật thuế ra đời, nguồn thu từ thuế ngày càng tăng lên, ngày càng chiếm
tỷ trọng cao trong tổng số thu ngân sách, năm 1990 đạt 86%; năm 1997
đạt 87%, năm 1998 đạt 88%,đến nay khoảng 90% [23, tr.10]. Vai trò của
thuế thực sự được nâng lên và thể hiện rõ trong quản lý điều tiết vĩ mô
nền kinh tế

Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý và điều
tiết của Nhà nước, thuế được áp dụng thống nhất đối với các thành phần
kinh tế không phân biệt kinh tế Nhà nước và 'KTNQD, nó bao quát và
điều tiết các hoạt động kinh doanh, mọi nguồn thu nhập, mọi tài nguyên
thiên thiên và mọi hoạt động tiêu dùng trong xã hội.
Chính sách động viên về thuế có tác dụng bồi dưỡng nguồn thu
vững chắc, lâu dài cho NSNN. Cơ chế thuế suất không nên quá phức tạp,
quá cao mà cẩn nghiên cứu và tính toán dựa trên những căn cứ khoa học
và sự phát triển của nền kinh tế sẽ phù hợp hơn với khả năng đóng góp
của đối tượng nộp thuế, đảm bảo nguồn thu ngân sách được ổn định
thường xuyên. Thuế suất được điều chỉnh giảm có thể sẽ dẫn đến phát
sinh lo lắng không đảm bảo nguồn thu cho ngân sách. Nhưng trên thực tế
nếu hệ thống thuế hợp lý, thuế suất ở mức vừa phải thì sẽ tranh thủ được
sự đồng tình ủng hộ của mọi tầng lớp nhân dân, đối tượng nộp thuế thấy
mức thuế hợp lý sẽ tự nguyện khai báo nỘD thuế tốt hơn. Diện thu thuế
được mở rộng, diện miễn giảm thu hẹp, vừa được lòng dân vừa đảm bảo
nhiệm vụ thu theo kế hoạch. Tỷ iệ động viên về thuế cần tính toán khoa
học, đầy đủ mọi khoản đóng góp cho NSNN, bao gồm mọi khoản thuế,
phí và lệ phí. Cần khắc phục tình trạng các ngành, các địa phương tuỳ
tiện đặt ra các khoản thu trái với quy định của Nhà nước.
9
Thuế tạo nguồn thu cho NSNN, nhưng nguồn thu đó được hình
thành trên cơ sứ nén kinh tế tăng trướng và đạt hiệu quả cao. Đây là vấn
đề luôn được các quốc gia quan tâm đúng mức trong quá trình hoạch
định chính sách và tổ chức quản lý thu thuế.
+ Thuế là câng cụ điểu tiết vĩ mỏ nền kinh tể:
Thuế là công cụ chủ yếu của Nhà nước dùns để quán lý điều tiết vĩ
mô nền kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng lưu thông hàng hoá,
nâng cao hiệu quà sản xuất kinh doanh. Một chính sách thuế đặt ra
không chỉ đơn thuần tạo nguồn thu eho NSNN, mà quan trọng hơn là

thực hiện chức năng quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Hiện nay, nền kinh tế nước ta đã và đang chuyển sang nền kinh
tế thị trường. Cùng với sự kích thích sán xuất phát triển, cơ chế thị
trường cũng là môi trường làm nảy sinh những khuyết tật vốn có của
nó. Vì vậy, để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa có sự quản lý của Nhà nước, Nhà nước phải sử dụng các công cụ
kinh tế, tron đó đặc biệt là công cụ thuế nhàm tạo lập các cân đối vĩ
mô, điều tiết thị trường, đảm bảo sự thống nhất ẹiữa tăng trưởng kinh
tế và công bằng xã hội.
Sự điều tiết của Nhà nước thông qua thuế gồm hai mặt: khuyến
khích và hạn chế. Điều đó được thể hiện ra trong việc xây dựng cơ cấu
các loại thuế và mối quan hệ giữa chúng cũng như việc xác định thuế
suất, chế độ miễn - giảm thuế phù hợp với điều kiện thực tế. Khuyến
khích đối với những ngành nghề những hoạt động sản xuất kinh doanh
phục vụ cho đại đa số quần chúng nhân dân thì áp dụng thuế suất thấp.
Hạn chế, thu hẹp những ngành nghề không có lợi cho sự phát triển của
nền kinh tế, cho nhu cầu tiêu dùng của nhân dân hoặc những ngành nghề
ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục, đến sức khoe của nhân dân thì áp
dụng thuế suất cao. Trong nền kinh tế thị trường, các thành phần tự do
lựa chon ngành nghề nào mang lại lợi nhuận cao nhất mà không tính đến
hậu quả để lại sau quá trình sản xuất kinh doanh. Nhà nước đùng công cụ
thuế để điều chỉnh và hướng các hoạt động sản xuất kinh doanh đi vào
con đường phát triển có hiệu quả mang lại nhiều lợi ích cho quốc kế dân
sinh.
Trong điều kiện hiện nay, hệ thống thuế của Nhà nước Việt Nam
thể hiện rất rõ quan điểm khuyến khích các ngành nghề sán xuất hơn là
các hoạt động thương mại, dịch vụ. Sán xuất các mặt hàng thiết yếu được
10
khuyến khích hơn sản xuất các mặt hàng và dịch vụ khác. Để khuyến
khích các ngành nghề sản xuất hàns xuất khẩu, sản xuất sản phẩm thay

thế hàng nhập khẩu cần thiết khi trong nước chưa sản xuất được hoặc sản
xuất được hoặc sản xuất nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu hav đầu tư vào
những vùng có điều kiện kinh tế khó khăn, vùng không thuận lợi cho sức
khoe, sinh hoạt người dân, Nhà Iiưức thường áp dụng thuế ưu đãi đe
thúc dẩy kinh tế phát triển một cách có hiệu quả, đồng bộ theo hướng có
lợi cho quốc kế dân sinh.
Hiện nay, Nhà nước ta sử dụng tổng hợp hệ Ihống chính sách thuế,
nhằm: khuyến khích mạnh mẽ các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi
thành phẩn kinh tế cạnh tranh lành mạnh trcn cơ sở bình đẳng trước pháp
luật; góp phần thúc đẩy việc khai thác tư nguyên liệu trong nước, tranh
thủ vốn đầu tư nước ngoài để mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế hànơ
hoá đẩy mạnh xuất nhập khẩu đáp ứng yêu cầu tiêu dùng và tích luỹ; bào
đảm lợi ích; bảm đảm lợi ích giữa Nhà nước và xã hội, lợi ích của các
bên hợp tác, vừa đảm bảo sản xuất trong nước phát triển nâng cao đời
sốna của người dân.
+ Thuế góp phấn điều hoa thu nhập thực hiện công bằng xã hội
trong phân phối:
Theo Adam Smith, nền kinh tế thị trường tự đo không có sự điều
chỉnh, can thiệp của Nhà nước, mà được điều tiết bởi “bàn tay vô hình”.
Đó là nền kinh tế tự điều chỉnh và hoạt động có hiệu quả. Tuy nhiên, lịch
sử cũng cho thấy kinh tế thị trường tự do chứa đựng những mặt trái hay
những “khuyết tật” khó tránh khỏi. Nổi bật trong những “khuyết tật” đó
là vấn đề phùn phối thu nhập. Trong điều kiện phân phối thu nhập của thị
trường tự do, một bộ phận dân cư sẽ giàu lên nhanh chóng, trong khi đó,
đại đa số lao động trở nên nghèo túng và đời sống càng khó khăn hơn.
Tinh trạng trên không chỉ liên quan đến vấn đè đạo đức, công bằng xã
hội mà còn tạo nên tình trạng lũng đoạn, độc quyền và lâu dài sẽ không
thể đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng được.
Trong thực tế, sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia đều có sự đóng
góp của cộng đồng, của toàn xã hội. Chính vì vậy mà thành quả kinh tế đạt

được trong hiện tại và tương lai phủi được phân phối trên cơ sở của cộng
đổng. Cho nên, cần có sự can thiệp của Nhà nước trong quá trình phân
phối thu nhập, sự phân phối này chủ yếu nhờ vào công cụ thuế để điều
tiết. Nền kinh tế của nước ta hiện nay là nền kinh tế thị trường định hướng
11
XHCN có sự quản lý của Nhà nước, thì vai trò tạo sự bình đẳng giữa các
thành phẩn kinh tế và người dân trong động viên điều tiết thuế và công
bằng xã hội ngày càng được nâng cao hơn, bao quát hơn.
Sự thành công trong việc đổi mới chính sách thuế của Nhà nước ta
trong những năm qua là: hệ thống thuế mới được áp dụng chung cho các
ngành nghề, hoạt động sản xuất kinh doanh, không phân biệt thành phần
kinh tế cũng như các tầng lớp nhân dân nhằm mục tiêu đảm bảo sự công
bằng bình đẳng trong điều tiết. Sự bình đẳna, công bàng thể hiện thông qua
các chính sách động vicn như nhau giữa các thành phần kinh tế, chủ thể sản
xuất kinh doanh và mọi tầng lớp dân cư. Thông qua một hệ thống các sắc
thuế, Nhà nước điều chỉnh mức thu nhập giữa các cá nhàn trong xã hội,
người có thu nhập cao phải đóng thuế cao và ngược lại (thể hiện thôns qua
hoạt động tiêu dùns chịu sự điều tiết của các sắc thuế gián thu và thuế thu
nhập đối với những người có thu nhập cao). Tổ chức và cá nhân kinh doanh
có lợi nhuận cao phải đóng góp thuế cao hơn những tổ chức và cá nhân kinh
doanh có lợi nhuận thấp (thể hiện ở sắc thuế TNDN).
1.2. KHU Vực KTNQD VÀ QUAN lý t h u ế đ ối vớ i KTNQD
1.2.1. Đặc điểm của kinh tê NQD
Kinh tế thị trường hình thành và phái triển trôn cơ sở của sớ hữu tư
nhân và các loại hình kinh tế tư nhân là hình thức thống trị trong các nền
kinh tế thị trường tự do.
Cùng với sự gia tăng vai trò của nhà nước đối với đời sống kinh tế,
kinh tế thị trường tự do đã phát triển thành nền kinh tế hỗn hợp gồm hai
khu vực lớn: Kinh tế Nhà nước và kinh tế phi nhà nước hay như chúng ta
nói - KTNQD.

Khu vực kinh tế nhà nước dựa trên cơ sở của sở hữu nhà nước chủ
yếu thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ công cộng, mục tiêu cơ bản là
lợi ích chung của toàn xã hội - đảm bảo cho sự phát triển hiệu quả, công
bằn và ổn định cho toàn bộ nền kinh tế.
Khu vực KTNQD là khu vực kinh tế bao gồm các tổ chức, cá nhân
hoạt động kinh doanh bằng vốn của các tổ chức, của một số cá nhân góp
lại; hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường vì mục tiêu lợi nhuận.
Trong cơ cấu sản xuất xã hội, KTNQD được coi là một thực the khách
quan, gồm các thành phần kinh tế được xác định tuỳ theo đặc điểm kinh
tế - xã hội và đường lối chính trị cứa mỏi Nhà nước trong từng giai đoạn
12
khác nhau như, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế cá the, kinh tế tư
bản Nhằ nước KTNQD có nhiều đặc điểm riêng biệt, nhưng có thể
khái quát một số đặc điểm cơ bản sau:
+ Dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sân xuất là chủ yếu, được tổ
chức ở đủ loại quy mô lớn, vừa và nhỏ, nhưng đéu do tư nhân quản lý và
phân phối lợi nhuận.
+ Số lượng cơ sở rất lớn, thường xuyên biến động, tuỳ thuộc vào
tình hình kinh doanh (chu kỳ kinh tế) và chính sách, chế độ của Nhà
nước trong từng thời kỳ.
+ Hoạt động trong hầu hết mọi lĩnh vực của nền kinh tế. ơ các
nước phát triển, KTNQD bao gồm cả những tập đoàn kinh doanh xuyên
quốc gia, có ảnh hưởng không chỉ đối với nền kinh tế trong nước mà còn
chi phối nhiều lĩnh vực kinh tế - tài chính quốc tế.
+ Số thu hàng năm chiếm tỷ trọng quan trọng trong tổng số thu ngân
sách nhà nước (Tỷ trọng này khác nhau đối với các nước: ở các nước phát
triển, thu từ khu vực KTNQD là nguồn thu chủ yếu của ngán sách nhà nước,
ngược lại, ở các nền kinh tế đang phát triển, do khu vực KTNQD còn nhỏ bé,
sự tham gia của chúng vào tiến trình tăng trướng cũng như thu ngân sách chỉ
với mức khiêm tốn hơn).

+ Mục tiêu của chủ doanh nghiệp trong khu vực KTNQD chính là
lợi nhuận. Do vậy một mặt, các cơ sở KTNQD cạnh tranh quyết liệt với
nhau trong kinh doanh; mặt khác, trong quan hệ với nhà nước, không ít
cơ sở luôn tìm mọi cách, mọi sơ hở của cơ quan thuế, cán bộ thuế, chính
sách, chế độ, để luồn lách, trốn thuế.
Các hình thức tổn tại phát triển của khu vực KTNQD rất đa dạng
với số lượng, ý thức trong việc thực hiện luật pháp với mức độ khác nhau,
tuỳ theo trình độ phát triển ở mỗi quốc gia. Song rõ ràng đây là một lĩnh
vực phức tạp trong quản lý thuế.
Sự phát triển ỏ khu vực KTNQD ờ nước ta những năm qua đã tạo
thêm nhiều của cải vật chất cho xã hội, giải quyết việc làm cho người lao
động, góp phần không nhỏ vào sự ổn định xã hội và tăng trưởng kinh tế.
- ư u nhược điểm của kinh tẻ NQD:
KTNQD có tiềm năng lớn về trí tuệ, kiến thức, tiền vốn, lao động,
sản phẩm, hợp tác, liên doanh, liên kết
+ Tiềm năng quan trọng nhấl của KTNQD là khả năng vô tận về trí
tuệ, sáng kiến cá nhân trong đội nsũ những người lao động, trong nhân
13
dân. Kinh nghiệm của các nước có nhiều thành công phát triển kinh tế
(Hồng Kông, Đài Loan, Singapo, Nhật Bản, Hàn Quốc ) cho thấy các
tiềm năng bên trong như đất đai, tiền vốn trong thời kỳ đầu của sự phát
triển ở các nước này đều rất hạn chế. Nhưng nhờ phát huy dược trí tuệ,
sáng kiến cá nhân và đầu tư xây dựng kinh tế, đồng thời có sự quản lý
đúng đắn của Nhà nước,cho ncn chỉ sau một thời gian không dài đã làm
nên những kỳ tích vĩ đại trong phát triển kinh tế.
Đối với nước ta, khi công cuộc đổi được triển khai từ Đại hội Đáng toàn
quốc lần thứ VI, nhiều sáng kiến cá nhân của quần chúng lao động,của nhân
dân đã và đang được phát huy cả trong lao động sản xuất cũng như tronsĩ việc
tìm tòi các hình thức kinh tế thích hợp, năns động, từng bước đáp ứng yêu cầu
ngày càng đa dạng và phong phú của thị trường.

+ Tiềm năng về kiến thức, kinh nghiệm quản lý, nâng cao tay nghề,
đặc biệt là phát huy kiến thức, bí quyết truyền thống được tích lũy qua
nhiều đời là nguồn tiềm năng vô cùng to lớn cho sự tăng trưởng kinh tế
nếu được khởi động với những chính sách, chủ trương thích hợp. Hiện
nay nguồn “chất xám” của KTNQD cũng rất đa dạng, có loại được Nhà
nước đào tạo trong các trường chính quy từ công nhàn, kỹ sư, nhà kinh tế
đến các thạc sĩ, tiến sĩ, phó giáo sư, giáo sư Có loại cá nhân tự bỏ tiền
ra để học lấy một nghề nhất định ở trong hoặc ngoài nước. Có loại do
doanh nghiệp NQD sau khi tuyển dụng lao động bỏ tiền đào tạo hoặc đào
tạo lại.
+ Nguồn vốn trong khu vực KTNQD nối tiếp từ thế hệ này sang thế
hệ khác đã và đang được tích luỹ ngày càng lớn. ở hầu hết các nước có
lịch sử phát triển kinh tế thị trường lâu đời, nguồn vốn đầu tư từ phía Nhà
nước không đáng kể (chiếm từ 13% - 30% tổng vốn đầu tư). Các nước
đều có chính sách thoả đáng để huy động nguồn lực to lớn từ nguồn vốn
của KTNQD. Nếu Chính phủ có chính sách đúng đắn, tạo môi trường
thuận lợi, tạo lòng tin trong nhân dân, nhất định họ sẽ sẵn sàng bỏ vốn
đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát
triển và tăng trưởng mạnh mẽ.
+ KTNQD có tiềm năng lao động to lớn và góp phần đáng kể vào
việc giải quyết việc làm cho xã hội. Ở nước ta hàng năm bình quân có
khoảng 1,243 triệu người đến tuổi lao động, bao gồm: lực lượng thanh
niên đến luổi lao dộng, số học sinh tốt nghiệp dạy nghề, trung học, cao
đẳng, đại học hoặc những người lao động thất nghiệp do sắp xếp lại biên
14
chế trong các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp hoặc do sắp xếp lại
sản xuất trong các ngành kinh tế quốc dân, những người bán thất nghiệp
ở nông thôn, thành thị. Đây là nguồn lao động rất dổi dào mà Nhà nước
ta chưa khai thác hết được. Nếu chỉ thông qua các doanh nghiệp Nhà
nước thì sẽ không thu hút được hết những người lao động. Thực tế trong

những năm qua cho thấy, ở thời điểm cao nhất kinh tế Nhà nước chỉ thu
hút khoảng 2 triệu lao động. Troníỉ khi đó riêng kinh tế NQD trong công
nghiệp và dịch vụ năm 1992 đã thu hút trên 1,2 triệu lao động [5]. Chỉ
thông qua KTNQD với mọi hình thức, mọi quy mồ, mọi loại ngành nghề,
áp dụns nhiều phương thức tổ chức, mọi quy mồ, mọi loại ngành nghề,
áp đụnỉĩ nhiều phương thức tổ chức, sử dụng một cách linh hoạt mọi loại
lao động của xã hội mới có thể tận dụng được các lực lượng dối thừa.
ở các nước Tây Âu, hơn 70% kết quá tăng trưởng của nền kinh tế
là do lao động tạo ra, 30% còn lại là do tiền vốn thiết bị. Đối với Việt
Nam có đội ngũ lao động đông đảo, nếu biết cách phát huy và khai thác
thì đó là một lợi thế lớn cho phát triển kinh tế.
Lao động của KTNQD ở Việt Nam còn có tiềm năng quan trọng
được bộc lộ rõ thông qua quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Trong
cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp, bộ máy Nhà nước đã
bành trướng quá mức. Khi chuyển sang kinh tế thị trường định hướng
XHCN với cơ chế quản lý mới có sự quản lý của Nhà nước, chính khu
vực kinh tế Nhà nước đã là nguồn cung cấp nhân lực dồi dào cho
KTNQD. Theo tài liệu điều tra của Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế
Trung ương, đã có 72% giám đố các Công ty trách nhiệm hữu hạn đã
từng ià công chức Nhà nước, 10,4% giám đốc các Công ty này đã từng là
giám đốc doanh nghiệp Nhà nước. Đối với các doanh nghiệp tư nhân,
30% giám đốc đã từng là cán bộ công chức Nhà nước. Khi chuyển sang
lĩnh vực KTNQD, không những họ đã sử dụng trình độ lành nghề trong
kinh doanh mà còn có vả vốn liếng tích luỹ được (bằng tiền trợ cấp thôi
việc, bằng tiền hưu trí ), thậm chí máy móc kỹ thuật từ nguồn thanh lý,
giải thể của các doanh nghiệp Nhà nước. Điều này có thổ lý giải phần
nào tình hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong khi một bộ phận
lớn cua kinh tế Nhà nước bị thu hẹp, giải thổ hoặc ngững do làm ăn thua
lỗ, không thích ứng được với cơ chế kinh tế mới [5].
+ KTNQD còn là môi trường thuận lợi để hợp tác kinh tế với nước

ngoài. Trong nền kinh tế mở hiện nay, sự giao lưu với các nước phát triển
15
mạnh vể mọi mặt đó là một tất yếu khách quan. Đại hội Đảng lần thứ IX
đã xác định:
Phát triển đa dạng kinh tế Nhà nước dưới các hình thức liên doanh,
liên kết giữa kinh tế Nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước,
ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh;
chú trọng phát triển các hình thức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều
hình thức sở hữu, giữa các thành phán kinh tế với nhau, giữa trong nước,
ngoài nước [32, tr.99].
Tại các nước, liên doanh với nước ngoài chủ yếu là do KTNQD
thực hiện vì là khu vực năng động, làm ăn có hiệu quả, thích ứng nhanh
với sự biến động hoặc thay đổi của thị trường, của khách hàng. Trong khi
đó ở nước ta hiện nay, các liên doanh với nước ngoài chủ yếu là do kinh
tế Nhà nước thực hiện. Nhiều Việt Kiều về quê hương gặp không ít khó
khăn trong việc tìm đối tác liên doanh
+Sự đa dạng của KTNQD tạo ra nguồn sản phẩm đa dạng, phong
phú đáp ứng mọi nhu cầu tiêu dùng của xã hội ở mọi nơi, mọi thời điểm.
Thực tế nhiều năm qua ở các nước XHCN và ở Việt Nam đều cho thấy
nền kinh tế chủ yếu dựa trên KTQD thì hàng hoá sẽ nghèo nàn về chủng
loại, số lượng, ở Liên Xô cũ, sau 70 năm xây dựng CNXH với các doanh
nghiệp Nhà nước chỉ có 10 triệu loại sản phẩm. Trong khi đó ở Nhật Bản
một nước nhỏ bé hơn nhiều về dân số và diện tích có tới 1,4 triệu doanh
nghiệp với hơn 50 triệu loại sản phẩm.
Ồ nhiều nước Đông Nam Á, KTNQD đang được đánh giá là nguồn
chủ yếu của tăng trưởng kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực xuất khẩu,có thể
tạo thu nhập quốc dân tính theo đầu người tăng lên rất nhanh.
Đường lối phát triển kinh tế - xã hội dựa vào KTNQD về cơ bản là
một chiến lược hướng vào thị trường. KTNQD có thể quyết định và điều
chỉnh nhanh chóng sản xuất cái gì, đẩu tư vào đâu để có lợi nhuận nhiều

nhất, ở các nước đang phát triển, KTNQD trở thành động lực kích thích
kinh tế phát triển tốt hơn so với sự can thiệp quá sâu của Nhà nước vào
quá trình kinh tế và dựa vào kinh tế Nhà nước là chủ yếu.
Việt Nam, tuy KTNQD mới được công nhận và phục hồi nhưng
trong những năm qua đã xác định được chỗ đứng xứng đáng, có vai trò
quan trọng trong sự nghiệp đổi mới đất nước.
Sự đóng góp của KTNQD không chỉ dừng lại ở việc làm tăng tổng
sản phẩm trong nước, thêm nhiều hàng hoá với nhiều mẫu mã đẹp, giá cả
16
hợp lý mà còn tạo ra môi trường thuận lợi cho giải quyết việc làm, nâng
cao đời sống xã hội, cả cho người sản xuất lẫn người tiêu dùng.
Từ một số thế mạnh của KTNQD, có quan điểm muốn tư nhân hoá
một cách triệt để nhằm huy động được tối đa mọi nguồn lực, khai thác
mọi tiềm năng, ỉợi thế đang tiềm ẩn trong KTNQD. Thực ra, quan điểm
này chưa thấy hết được những khiếm khuyết của KTNQD. Tuy là một
khu vực năng động nhưng thiếu định hướng và không bao quát hết mọi
nhu cầu xã hội, tự phát theo cơ chế thị trường, trốn tránh sự kiểm tra,
kiểm soát của các cơ quan Nhà nước, khôns ít cơ sớ đã hoạt động vô
Chính phủ, kinh doanh trái phép buôn bán trốn lậu thuế. Điều đó càng trở
lên khó khăn, phức tạp đối với một nền kinh tế sản xuất nhỏ, phân tán,
chưa quen với văn minh công nghiệp, hệ thống phấp luật chưa đồng bộ,
chưa hoàn thiện như ở nước ta.
Việc khuyến khích KTNQD để phát triển kinh tế - xã hội không đồng
nghĩa với việc buông lỏng quản lý, để mặc cho các thành phần kinh tế tự do
phát triển. Ngược lại, đòi hỏi Nhà nước phải quản lý, định hướng, phải có
hệ thống pháp luật được thể chế hoá đẩy đủ rõ ràng cả ở tầm vĩ mô lãn vi
mô, để có thể phát huy đến mức tối đa mặt tích cực và hạn chế đến mức
thấp nhất mặt tiêu cực của KTNQD trong cơ chế thị trường.
1.2.2. Yêu cầu và nội dung của công tác quản lý thu thuê NQD
Trên thực tế, hệ thống thuế là một chỉnh thể không thể chia cắt -

không quốc gia nào áp dụng ricng biệt những sắc thuế cho khu vực kinh
tế nhà nước hay khu vực KTNQD. ỏ các nền kinh tế phát triển, hầu hết
các đơn vị kinh tế đều dựa trên sở hữu phi nhà nước và chính sách thuế
của nhà nước chính là thuế đối với khu vực kinh tế này.
ở Việt Nam, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa là một chiến lược của Đảng và Nhà nước Việt Nam, do đó
trong tiến trình đổi mới kinh tế, Đảng và Nhà nước Việt Nam đặc biệt
chú ý tới việc xây đựng chính sách thuế đảm bảo cho sự phát triển bình
đẳng của mọi thành phẩn kinh tế, trong đó có việc khuyến khích sự phát
triển của KTNQD. Vì vậy, trong phần này, khi nói đến yêu cầu và nội
dung cơ bản của công tác quản lý thuế đối với khu vực KTNQD chủ yếu
là nói trên cơ sở những quan điểm của Đảng và nhà nước Việt Nam trong
việc xây dựng và thi hành chính sách thuế.
I'' LO/J4.4
17
1.2.2.1. M ục tiêu yêu cầu của quản lý thu thu ế NOD:
* Mục tiêu:
Là một ĩrona những nội dung quan trọng của còng tác quán lý tài
chính Nhà nước, quản lý thuế không the tách rời quản iý Nhà nước nói
chung và quản lý Nhà nước về kinh tế nói riêng.
Công tác quản lý thuế trong nền kinh tế quốc dân nhầm đạt dược
các mục tiêu cơ bản sau đây:
- Tập trung, huy động đầy đủ, kịp thời số thu cho NSNN trên cơ sứ
không ngừng nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu.
ơ hầu hết các quốc gia trên thế giới, số thu bằng thuế hàng năm
chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng số thu của NSNN. Vì vậy, làm tốt công
tác quản lý thuế sẽ có tác dụng lớn trong việc tập truns, huv động đầy đủ,
kịp thời số thu cho NSNN.
Mặt khác, các chính sách thuế, dù trực tiếp hay gián tiếp đều có tác
động đến thu nhập của các tổ chức kinh tế và cá nhân, qua đó tác động

đến quá trình phát triển - cơ sở tạo ra nguồn thu thuế trong tương lai. Để
tăng trưởng và ổn định số thu của NSNN trong lương lai, trong công tác
quản lý thuế cũng cần chú ý duy trì và phát triển các CƯ sở tạo ra nguồn
thu thuế. Về vấn đề này, người Pháp có câu nói rất nổi .tiếng: "Hãy cắt
lông cừu chứ đừng lột da nó", và câu chuyện ngụ ngôn "Con gà đỏ trứng
vàng" đáng để cho chúng ta ghi nhớ.
- Phát huy tốt nhất vai trò của thuế trong nền kinh tế.
Vai trò của thuế mang tính toàn diện trcn nhiều lĩnh vực. Song,
những vai trò đó không mang tính tự nó, mà là kết quả của những hoạt
động của chính con người. Những hoạt động này được thực hiện thông qua
những nội dung, những công việc cụ thể của công tác quán lý thuế.
- Tăng cường ý thức chấp hành pháp luật cho các tổ chức kinh tế và
dân cư.
Trong cơ chế kinh tế thị trường, Nhà nước thông qua công cụ luật
pháp để thực hiện sự tác động vào nền kinh tế ờ tầm vĩ mồ. Ý thức chấp
hành luật pháp của các tổ chức kinh tế và dân cư sẽ có ảnh hưởng không
nhỏ đến việc thực hiện những tác động của Nhà nước đến nền kinh tế. Qua
công tác tổ chức thực hiện và kiểm tra, thanh tra việc chấp hành các luật
thuế cùng với việc tăng cường tính pháp chế của các luật thuế, ý thức chấp
hành các luật thuế dược nâng cao, từ đó tạo thói quen "Sons và làm việc
thcu pháp luật" trong mọi tầng lớp ciân cư.
18
Để đạt được các mục tiêu trên, công tác quản lý thuế cần tuân chủ
một số nguyên tắc cơ bản sau đâv:
- Nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Nguyên tắc công khai.
- Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả.
* Yêu cầu:
- Tuyên truyền giáo dục sâu rộng chính sách, chế độ thuế:
Cần tập trung mọi hình thức thích hợp lăng cường việc tuyên truyền,

giải thích chính sách, chế độ thuế sâu rộng làm cho mọi người dân hiểu
được thuế của ta là "của dân, do dân, vì dân", xoá bỏ ấn tượng xấu về thuế
là hình thức bóc lột, bần cùng hoá nhàn dân dưới thời thực dân, phong
kiến ở nước ta. Từ đó từng bước nâng cao dân trí về nghĩa vụ công dân đối
với thuế. Cần đưa chính sách, chế độ thuế cho dân trao đổi, quán triệt và
dân chủ bàn bạc về biện pháp triển khai thích hợp nhằm đạt hiệu quả cao
nhất và khắc phục được phiền hà không cần thiết đối với các nhà doanh
nghiệp. Thông qua các cuộc họp, giải đáp những thắc mắc cụ thể trong các
tầng lớp nhàn dân, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ công tác thuế, xây dựng
lực lượng hậu thuẫn vững chắc kiên quyết đấu tranh, lên án trốn ỉậu thuế:
uốn nắn những lệch lạc trong nhận thức và những sai sót trong đăng ký
thuế, trong việc nghiêm chỉnh chấp hành các chế độ hoá đơn, sổ sách kế
toán, kê khai, nộp thuế
Thực hiện quan điểm quần chúng của Đảng trong công tác tuyên
truyền, giáo dục về thuế không chỉ là "truyền đạt" một chiều từ trên xuống
mà thông qua công tác quản lý thường xuyên, cán bộ thuế phải thấy được
những khó khăn thực tế phát sinh trong tổ chức thực hiện. Phải khách
quan lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của các nhà doanh nghiệp, trung thực
phản ánh ý kiến lên trên nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung để chính sách thuế,
chế độ thuế ngày càng phù hợp với trình độ và khá năng đóng góp của
nhân dân.
- Tranh thủ được sự lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức Đảng và chính
quyển các cấp:
Thuế là một trong những chính sách kinh lế lớn của Đảng và Chính
phủ. Cơ quan thuế cần chủ động báo cáo các kế hoạch, chương trình công
tác để cơ sự chỉ đạo điều hành của tổ chức Đảng và chính quyên các cấp.
Mỗi cấp uỷ, ƯBND coi thuế là một công tác trọng tâm của đơn vị mình.
Thường xuycn đôn đốc, nhắc nhở việc thực hiện cồng tác thuế trong từng
19
thời kỳ cùng với các công tác khác về quán lý kinh tế - tài chính trên địa

bàn. Việc tranh thủ sự lãnh đạo, chi đạo của các cấp uỷ. chính quyền
không có nghĩa là khi có khó khán mới đến kêu gọi giúp đỡ. Cơ quan thuế
phải chủ động thực hiện đều đặn chế độ báo cáo để cấp uỷ và chính quyền
nắm chắc được quá trình thực hiện chính sách thuế, cả thuận lợi và khó
khăn. Cấp uỷ và chính quyền sẽ tăng cường cồng tác giám sát, đề cao pháp
chế XHCN, thiết lế kỷ cương theo yêu cấu của cơ chế quan lý mới, khen
thưởng, động viên những đơn vị, cá nhân chấp hành nghiêm chỉnh các luật
thuế, hoàn thành tốt nghĩa vụ thuế. Đồns thời phê phán trong nội bộ hoặc
sử dụng đài báo gây thành dư luận lên án trốn lậu thuế, dày dưa tiền thuế,
xử lý nghiêm minh tập thể, cá nhân vi phạm chính sách thuế, pháp luật
thuế, làm thất thu thuế
Mỗi cấp uỷ, UBND cần có chương trình kế hoạch cụ the, thiết thực
cho việc lãnh đạo, chỉ đạo, tạo điều kiện giúp đỡ, đôn đốc, kiểm tra các tổ
chức chính quyền, đoàn thể quần chúng, xã hội thực hiện tốt chương trình,
kế hoạch công tác về thuế, cử một cấp uỷ viên hoặc UV viên UBND có
năng lực thay mặt cấp uỷ, UBND trực tiếp chỉ đạo côna tác thuế trên địa
bàn.
- Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan có liên quan và
các đoàn thể quần chúng, xã hội.
Thuế là một mặt trận đấu tranh gay go, phức tạp, thậm chí quyết liệt
giữa lợi ích cục bộ cá nhân, tập thể với lợi ích chung của toàn xã hội
Đây không thể ỉà công việc đơn độc của ngành thuế, của cán bộ thuế mà
phải có sự phối hợp chặt chẽ của các cơ có liên quan và các đoàn thể quần
chúng, xã hội làm chỗ dựa vững chắc cho việc triển khai chính sách thuế.
Một mặt cơ quan thuế sẽ có thêm nhiều thông tin chính xác, đáy đủ về
hoạt động kinh doanh thực tế trong từng ngành nghề, từng địa bàn, thêm
những tài liệu "sống" cho việc đấu tranh chống thất thu thuế có hiệu quả,
đồng thời thêm lực lượng cưỡng chế để đảm bảo xử lý có hiệu quả về nợ
đọng, dây dưa tiền thuế, chống đối, hành hung cán bộ thuế. Mặt khác,
thông qua sự phối hợp chặt chẽ với các tổ chức quẩn chúng, xã hội, các cơ

quan thông tin tuyên truyền để giáo dục, thuyết phục các thành viên trong
tổ chức, giải thích chính sách, chế độ mới một cách sâu rộng trong các
tầng lớp nhân dân, hỗ trợ tích cực cho cơ quan thuế hoàn thành tốt nhiệm
vụ. Thực tiễn đã chứng minh một cách rõ ràng là ngành thuế không để
khai thác tốt các nguồn thu và chống thất thu có hiệu quá (dặc biệt là
20
trong khu vực KTNQD) nếu không phát huy được kết quả của cổng tác
phối hợp.
Việc thành lập Hội đổng tư vấn thuế phường xã bao gồm sự tham
gia của Mặt trận, Thanh niên, Phụ nữ, Hội nông dân đã tỏ rõ đâv là tổ
chức tổng hợp rộng rãi của các tổ chức quần chúng đối với nhiệm vụ thu.
Hoạt động của Hội đồng tư vấn thuế phường xã không chí góp phần tích
cực cho việc hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch thuế, tạo sự công bằng về
động viên đóng góp giữa các tầng lớp dân cư, mà còn siúp cho ngành thuế
giám sát, kiểm tra công tác của cán bộ thuế, chống tiêu cực, tuỳ tiện, làm
trong sạch đội ngũ cán bộ thuế. Hội đổng tư vấn thuế phường xã còn là mô
hình tổ chức giúp đỡ cho ngành thuế thực hiện tốt cơ chế "dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra" trong công tác thuế.
- Từng bước đưa việc thực hiện các quy trình, biện pháp quán lý, thu
thuế vào nề nếp, kỷ cương:
Yêu cầu chung đối với công tác thuế là "Phải thu đúng, thu đủ, thu
kịp thời" theo đúng pháp luật. Tổng cục thuế đã nghiên cứu, ban hành các
quy trình, chế độ nghiệp vụ cho từng loại đối tượng kinh doanh có thực
hiện hoá đơn, sổ sách kế toán hoặc khoán thuế thuộc diện quản lý, thu
thuế theo từng sắc thuế. Phải thực hiên đúng các quy trình nghiệp vụ để
nắm chắc cơ sở kinh doanh thực tế, có cơ sớ thu thuế dầy đủ về doanh, lợi
tức phát sinh theo từng cơ sở, từng thời gian, đám bảo được nguyên tắc lập
sổ thuế, duyệt sổ thuế, thông báo thuế và thu thuế đúng với thời gian quy
định và có cơ sở để giải quyết xử lý nộp chậm, dây dưa Liền thuế. Việc
tách công tác quản lý thành 3 bộ phận là nhằm tạo được sự hỗ trợ trong tổ

chức thuế, vừa chống được thất thu có hiệu quả, vừa khắc phục tuỳ tiện,
tiêu cực trong công tác quản lý, thu thuế. Một số yếu tố cơ bản để cơ quan
thuế xác định được việc thu thuế sát đúng với thực tế hoạt động sản xuất
kế hoạch là phải đảm bảo được việc thực hiện nghiêm chỉnh chế độ kê
khai đăng ký thuế, chế độ hoá đơn chứng từ, sổ sách kế toán ở tất cả các
cơ sở kinh doanh vừa và lớn.
1.2.2.2. Nộỉ dung cơ bản của quản lý thu thuê KTNQD
* Tổ chức bộ máy:
Cùng với việc cải cách hệ thống chính sách thuế, ngày 7/8/1990,
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 281/HĐBT về tổ chức hệ thống bộ
máy ngành thuế. Theo tinh thần của Nghị định này, bộ máy quản ỉý thuế
được tổ chức lại theo ngành dọc từ Trung ương đến các địa phương trên
21

×