KHOA LU Ậ T
ÍO ♦> 0 3 t o
£ 0
♦> 0 3
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
NGUYỄN LỘC
rĐ ề ^ 7 « /':
ĐẤU TRANH PHÒNG CHÔNG TỘI GIẾT n g ư ờ i
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH DAK LAK
C H U Y ÊN NGÀNH : TƯ PH Á P - HÌNH s ự
MÃ SỐ : 50512
- L U Ặ N V Â N T H Ạ C S Y L U Ạ T H Ọ C -
■ ■ ■ ■
Neười hướng dẫn khoa hoc : PGS.TS ĐÔ NGỌC QUANG
- HÀ NỘI 2002 -
-M Ụ C L Ụ C -
CĨIƯ ƠNG I : Một số nội dung cơ bản về đâu tranh phòng 08
chông các tội giết người.
1.1. Khái quát quy trình về các lội giết người Irong pháp luậl OK
hình sự Việt Nam.
I .! . 1. K hái niệm vồ các tội giết người trong pháp luật hình sự. 08
1.1.2. K hái quát sự phái triển của pháp luậl hình sự V iệt Nam 12
Irony lịch sử vồ tội giết người.
1.1.3. Các dấu h iệ u pháp lý đ ặc trưng c á c Lội g iế t n gư ời trong 20
B L H S 1999.
1.2. L ý luận chung vồ đấu Iranh phòìig chống các tội giết người. 23
1.2.1. Khái niệm đấu tranh phòng chổng các tội giếl người. 23
1.2.2. Các nguyên tắc cơ bán trong đấu tranh phòng chông các tội 28
phạm giết người.
1.2.3. Các biện pháp đấu tranh phòng chông tội phạm giết người. 3 ]
1.2.4. Chủ Ihổ đấu tranh phòng chống tội giết người. 37
CIIƯ Ơ N G I I : Sô" liệu cư bản về tình hình phạm tội giết người 40
trên địa bàn tỉnh Dak Lak.
2.1. Một số net VC lình hình địa lý, dân cu’ tĩnh Dak Lak . 40
2.2. Sổ liệu lình hình lội phạm giết người trôn địa bàn tỉnh Dak 43
L a k từ nă m 1996 đến 2001.
2.2.1. Sổ liệu tình hình chung về tội phạm gict người từ năm 1996 43
- 2001.
Trang
LỜI NÓI ĐẦU 01
ro
2.2.2. Những đặc điếm hình sự liên quan v,à nhân Lhan người phạm 48
lội giết người.
.2.3. Tình hình đâu tranh phòng chống lội phạm giôl người xay ra 55
trôn địa bàn tỉnh Dak Lak.
2.3.1. K ct quả phòng ngừa, điều tra, khám phá, xử lý đối vđi các 55
vụ án giết người.
2.3.2. Những tồn tại trong đâu tranh phòng chông lội phạm giết 58
người trôn địa bàn tỉnh Dak Lak.
2.4. Những nguyên nhân và diều kiện làm phát sinh tội phạm 61
giếl người trên địa bàn tỉnh Dak Lak.
2.4.1. Những nguyên nhân và điều kiộn vồ kinh'tế. 62
.4.2. Những nguyên nhân về văn hóa, xã hội. 63
2.4.3. Những nguyên nhân và điều kiện về lâm lý xã hội. 65
2.4.4. Những nguyên nhân về lổ chức cô n g lá c phòng ngừ a. 66
2.4.5. Nguyên nhân về những hạn chế trong việc đấu tranh phòng 67
chống tội giềl người của các cơ quan bao vệ pháp luật ở Dak
Lak.
2.4.6. Những hạn chê của pháp luật thực định. 70
CHƯƠNG I I I : Những giải pháp nồng cao hiệu quả đấu tranh 72
phòng chống tội phạm giết người trên địa bàn
tính D ak L a k
3.1. Những giải pháp nâng cao hiệu quả đãu tranh phòng chông 72
tội phạm giết người trên địa bàn tỉnh Dak Lak.
3.1.1 Dự báo về lình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Dak 72
Lak trong những năm tới.
3.1.2 Dự háo tình hình tội giết người xáy ra trên địa hàn tỉnh Dak 76
Lak trong thời gian tới.
3.2.1. Những giải pháp về phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, 78
giáo dục ở tĩnh Dak Lak.
3.2.2. Những giải pháp về quản lý hành chính Irong một sô" lĩnh 82
vực.
3.2.3. Những giải pháp lổ chức, quản lý và phối hỢp với chính 86
quyền địa phương, đoàn thể quần chúng.
3.2.4. N h ữ ng giải pháp hoàn Ihiện pháp luật. 88
3.2.5. Những giải phá]) nâng cao hiệu quả đấu Iranh phòng, chống y2
lội phạm giết người của các cơ quan bảo vệ pháp luật ở tỉnh
Dak Lak.
KÍÍTLƯẬN ()7
3.2. Những giải pháp cụ thể. . 7K
L Ờ I N Ó I Đ Ầ U
L Tính cáp thiết của đề tà i:
M ỗi con người không phân biệt chủng tộc, giai cấp, giới tính, tôn
giáo Đều có các quyền cơ bản như quyền sống, quyền bình đẳng, quyền
tự do và nếu thiếu những quyền đó thì không có phẩm chất của con
người. Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền của L iê n hiệp quôc ngày
10/12/1948 tại điều 3 đã ghi nhận : "M ỗi người đều có quyền sông, tự do
và an toàn cá nhân". Con người là nhân tô" quyết định sự tồn tại và phát
triển của xã hội. Dưới chế độ xã hội - xã hội chủ nghĩa tính mạng con
người được coi là vốn quý nhất, được pháp luật Nhà nưđc ta đặc biệt quan
tâm bảo hộ. V ì vậy, Hiến pháp năm 1992 cửa Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa V iệt Nam tại điều 71 đã quy định Công dân có quyền bất khả
xâm phạm về thân thể được pháp luật bảo vệ về tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm".
Sau hơn 15 năm thực hiện đường lôi đổi mới của Đảng với mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh ; Nước ta đã đạt được
những thành tựu đáng kể trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như về
chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, Song do sự tác động của nền kinh tế
thị trường đã làm xuất hiện những vấn đề xã hội có thể coi là những tác
nhân xấu làm ảnh hưởng đến mọi hoạt động của con người. Nhiều người
có tư tưởng và tham vọng làm giàu bằng nhiều hình thức, cho dù hình thức
đó thể hiện sự dã man, tàn ác gây nên tội ác như : G iết người Mặt khác
trong quá trình vận hành của nền kinh tế thị trường đã tạo ra sự phân hóa
giàu nghèo rõ rệt; các quan hệ trong đời sống xã hội càng trở nên phức
lạp. Đồng thời những quan niệm về chuẩn mực giá trị đạo đức, văn hóa
dưới sự tác động của nền kinh tế thị trường đã bị xói mòn và tha hóa; thậm
chí biến dạng hoặc chệch hướng. Lối sống ngoại lai và tôn sùng vật chất
ngày càng trở nên phổ biến. Trong khi đó, các loại văn hóa phẩm đồi trụy,
nạn bạo lực cùng với các loại rượu bia, ma túy và các loại thuôc kích thích
mạnh, theo con đường ngoại nhập tràn vào đất nước ta đã và đang đe dọa
đến nền đạo đức xã hội và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt
Nam
Tất cả những vấn đề nêu trên là nguyên nhân và điều kiện làm phát
sinh và phát triển tội phạm hình sự nói chung và tội phạm giết người nói
riêng; đã gây tác hại cho xã hội về nhiều mặt và gây nên một tâm lý
hoang mang lo sỢ trong quần chúng nhân dân.
Dak Lak - Với đặc thù là một tỉnh miền núi nằm ở Cao nguyên Nam
Trung bộ. Khi mới giải phóng tỉnh Dak Lak có khoảng hơn 30 vạn dân,
nhưng đến nay dân sô" đã tăng lên khoảng gần 2 triệu người thuộc 44/54
dân tộc khác nhau trên cả nước đến đây làm ăn sinh sống. Dak Lak có 19
đớn vị hành chính trực thuộc, gồm Thành phô" Buôn Ma Thuột và 18
huyện, với 207 xã, phường. Dak Lak có diện tích tự nhiên 1.959.950 km2,
có đường biên giới chạy dọc theo Campuchia dài 193 Km , vđi nguồn tài
nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng, đất đai màu mỡ, có hơn 70 vạn ha
đấl đỏ Bazan là điều kiện thuận lợi đổ phái triển Nông - Lâm nghiệp toàn
diện, có trên 1 triệu ha rừng là vùng rừng tập trung lớn nhất đất nước cả
về diện tích và trữ lượng gỗ. Do có tài nguyên thiên nhiên rất đa dạng và
phong phú, có vị trí và hệ thống đường giao thông thuận lợi, các quôc lộ
14, 26, 27 và sân bay Buôn Ma Thuột nối liền với các tỉnh T ây Nguyên,
các tỉnh duyên hải Nam Trung bộ, Đông Nam bộ và TP . Hồ Chí Minh, đã
tạo sự hấp dẫn và khả năng thu hút đầu tư, giao lưu kinh tế, thương mại,
du lịch. Đây được coi là địa bàn có vị trí chiến lược rất quan trọng cả về
chính trị kinh tế và quốc phòng an ninh của T ây Nguyên nói riêng và cả
nước nói chung cho nên có thể nói Dak Lak là tỉnh có tiềm năng to lớn để
xây dựng thành trung tâm kinh tế, văn hóa - xã hội của Tây Nguyên.
Chính những điều kiện thuận lợi đó, mà nhiều người đến đây làm ăn sinh
sống, đã tạo nên sự gia tăng về dân sô" một cách đột biến, trong đó điều
đáng quan tâm là tình trạng dân di cư tự do một cách ồ ạt, thoát ly sự quản
]ý của chính quyền địa phương. Thực trạng trên đã làm cho tình hình kinh
tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Dak Lak ngày càng phức tạp. Bên cạnh đó thì
sự tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường đã làm xuất hiện những
yếu tô" mđi tác động đến hoạt động của bọn tội phạm hình sự nói chung và
tội phạm "giết người" nói riêng.
Trong những năm qua trên địa bàn tỉnh Dak La k , tình hình tội phạm
hình sự nói chung và đặc biệt là tội phạm "giết người" nói riêng có chiều
hướng gia tăng cả về sô" lượng và tính chất nghiêm trọng và phức tạp.
Trưđc tình hình đó, Đảng Nhà nước, các cơ quan, các tổ chức xã hội, nhân
dân và đặc biệt là các cơ quan bảo vệ pháp luật đã có nhiều cô" gắng rất
lổn trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm này và đã đạt được
những kết quả nhất định. Tuy nhiên, nghiêm túc đánh giá một cách khách
quan thì thấy trong một chừng mực nào đó hiệu quả công tác đấu tranh
phòng chông loại tội phạm này vẫn chưa cao, vì chúng ta chưa đặt vấn đề
quan tâm đúng mức; chưa có kế hoạch cụ thể, lâu dài có trọng tâm, trọng
điểm . Các cơ quan tiến hành tô" tụng, các cơ quan Nhà nưđc, tổ chức xã
hội là chủ thể có trách nhiệm với công tác này thì hoạt động còn mang
tính riêng lẻ, chưa có sự phôi hợp đồng bộ, thông nhất hoặc ỷ lại, phó thác
cho các cơ quan bảo vệ pháp luật mà không thấy trách nhiệm của mình.
Giết người trái pháp luật là một tội ác mà bất cứ ai cũng đều phẫn nộ và
lên án - Nó không những gây bao đau thương mất mát cho gia đình các
nạn nhân; mà còn gây tác hại cho xã hội về nhiều mặt, làm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến tình hình trật tự trị an trong xã hội, gây bao nỗi kinh
hoàng trong cộng đồng xã hội, gây tâm lý hoang mang lo sỢ trong quần
chúng nhân dân.
Đấu tranh phòng, chông tội phạm "giết người" xảy ra trên địa bàn
tỉnh D ak Lak hiện nay là một vấn đề cấp bách. Nó là một bộ phận quan
trọng trong công cuộc đấu tranh bảo vệ trật tự an ninh xã hội, bảo vệ an
toàn về tính mạng cho nhân dân. Nó có ý nghĩa quan trọng trong việc góp
phần thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về việc nâng
cao chất lượng cuộc sống, củng cô" lòng tin của nhân dân; đồng thời lập lại
một trật tự kỷ cương pháp luật trong xã hội, nâng cao tính tự giác tôn trọng
pháp luật, tôn trọng tính mạng của con người.
M ặt khác, việc đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này có hiệu quả
sỗ có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển về kinh tế, văn hóa, xã hội trên
địa bàn tỉnh Dak Lak nói riêng và cả nước nói chung. Như vậy, xét trên cả
2 phương diện về lý luận và thực tiễn thì vấn đề đấu tranh đối với tội
phạm "giết người" là vấn đề đặt ra hết sức gay gắt và cấp bách.
Xuất phát từ những lý do được phân tích ở trên, vđi tư cách là người
làm công tác thực tiễn trong ngành Tòa án, tôi đặt vấn đề nghiên cứu đề
lài "Đ â u tranh phòng, chống tội giết người xảy ra tại tỉnh D a k L a k " là
một yêu cầu cấp thiết.
2. Tinh hình nghiên cứu :
Xung quanh những vấn đề có liên quan đến tội "giết người" đã được
nhiều Luật gia nghiên cứu và đề cập đến trên nhiều sách báo dưới những
góc độ khác nhau.
- Nhiều tác giả quan tâm đến hình thức lỗi như : Nguyễn Ngọc Hòa,
Nguyễn Khắc H ải, Đinh Văn Hồng, Kiều Thanh Nghĩa, Nguyễn Cường
- Nhiều tác giả quan tâm đến vấn đề định tội danh, phân biệt giữa tội
G iết người (Đ iều 93) với tội Cô" ý gây thương tích dẫn đến chết người
(Điều 104/K3) hoặc giữa tội G iết người (chưa đạt) với tội Cô" ý gây thương
tích và các tội phạm gần giống như : Tội làm chết người trong khi thi
hành công vụ (Đ iều 97 Bộ luật hình sự), Vô ý làm chết người (Điều 98 Bộ
luật hình sự), G iết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều
96 Bộ luật hình sự) như : Đinh Văn Quế, Đặng Quang Phương, Vương
Ngọc L ý , K iều Thanh Nghĩa, Hoàng Minh Tuấn
- Nhiều tác giả quan tâm đến những tình tiết tăng nặng định khung
hình phạt, hình phạt và quyết định hình phạt, trách nhiệm hình sự đôi với
tội xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe như : Đinh Văn Quế, Trần Văn
Độ, Nguyễn Phan Khiêm
Nhìn chung các công trình nghiên cứu và các bài viết trên đây đều đã
đề cập đến những vấn đề lý luận cơ bản của tội "G iết người" dưới những
khía cạnh khác nhau : Luật hình sự, Tội phạm học Tuy nhiên, do thực
tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm "Giết người"
nói riêng đang diễn ra hàng ngày với những biến động, thay đổi dưới sự
tác động của rất nhiều yếu tô" về kinh tế, xã hội và pháp lý khác nhau.
Cho nên vấn đề tiếp tục nghiên cứu để tổng kết thực tiễn và tìm những
hiện pháp đấu tranh hữu hiệu đốì với loại tội phạm này vẫn thường xuyên
phải đặt ra, nhất là trên địa bàn tỉnh Dak Lak , loại tội phạm này vẫn
thường xảy ra và có chiều hướng gia tăng cả về sô" lượng lẫn tính chất,
mức độ nghiêm trọng.
Trên cơ sở nghiên cứu và tiếp thu có chọn lọc những thành quả lý
luận cửa các công trình nghiên cứu trên, đây là luận văn thạc sỹ đầu tiên
liếp cận với loại tội phạm này từ góc độ tội phạm học, trên cơ sở tập hợp
và phát triển một cách có hệ thống các vấn đề về lý luận và thực tiễn
trong công tác đấu tranh phòng chông tội phạm "Giết người" xảy ra trên
địa bàn tỉnh Dak Lak.
3. Muc đích, nhiêm vu và pham vi nghiên cứu :
- Mục đích của luận văn là tổng kết thực tiễn, phân tích, đánh giá về
mặt lý luận một cách khái quát về thực trạng, nguyên nhân, điều kiện của
tội "G iết người" và hiệu quả cuộc đấu tranh của các cơ quan bảo vệ pháp
luật ỏ Dak Lak trong thời gian qua. Đồng thời chỉ ra những hạn chế trong
quá trình đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này Từ đó đưa ra dự báo
những nét cơ bản về tình hình tội phạm giết người trong những năm sau
Trên cơ sở đó mà xác định, đề xuất những biện pháp nhằm tăng
cường hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này.
- Để thể hiện mục đích trên, luận văn phải thực hiện những nhiệm vụ
sau :
+ Đ iểm qua những nét cơ bản về lịch sử phát triển của tội phạm "G iết
ngiíời" trong Luật hình sự Việt Nam. Phân tích làm rõ các dấu hiệu pháp
lý của tội phạm G iết người, nêu ra những điểm chưa phù hợp, đồng thời
phân biệt tội này với một sô" tội phạm khác gần giông với nó trong pháp
luậi hình sự hiện hành.
+ Tập trung phân tích, đánh giá thực trạng tội phạm Giết người xảy ra
trên địa bàn tỉnh Dak Lak trong những năm gần đây (1996 - 2001). Nêu
lên nguyên nhân của tình hình đó; đồng thời phân tích, đánh giá những nét
cơ bản nhất thực trạng cuộc đấu tranh của các cơ quan bảo vệ pháp luật ở
Dak La k - Nêu hiệu quả và những hạn chế.
- Nhiệm vụ đặt ra cho luận văn này là dự báo những nét cơ bản về
tình hình tội phạm "Giết người" xảy ra ở tỉnh Dak La k trong những năm
sau đó; đồng thời đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của
việc đấu tranh phòng, chông loại tội phạm này.
- Luận văn này chủ yếu xem xét vấn đề dưới khía cạnh của lý luận
về luật hình sự, tội phạm học. Các sô" liệu tham khảo trong luận văn chỉ
giới hạn trong khoảng thời gian từ năm 1996 trở lại đây.
4. Phương pháp nghiên cứu :
- Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã dựa trên cơ sở phương
pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Các quan điểm của Đảng và Nhà nưổc ta về nhiệm vụ đấu tranh
phòng, chống tội phạm, bảo vệ tính mạng của con người được thể hiện
trong H iến pháp và Pháp luật hình sự.
- Ngoài ra luận văn còn sử dụng lý luận khoa học về tội phạm học;
luật hình sự và các phương pháp nghiên cứu truyền thống của khoa học xã
hội nói chung và khoa học pháp lý nói riêng như phương pháp lịch sử,
phương pháp so sánh, phương pháp thống kê hình sự, phương pháp phân
tích tổng hợp, tổng kết thực tiễn
5. Ỷ nghĩa thức tiễn và những điểm mđi của luân văn :
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng để tham khảo và
vận dụng để xây dựng các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công
tác đấu tranh phòng, chống tội G iết người.
- 6 -
- Luận văn cũng có thể dùng để tham khảo trong việc nghiên cứu;
giảng dạy chuyên đề về các tội xâm phạm đến tính mạng con người hoặc
tham khảo trong công tác áp dụng pháp luật ở các cơ quan điều tra, V iện
kiểm sát và Tòa án.
- Những giải pháp mà luận văn đề xuất có ý nghĩa cả về mặt lý luận
và thực tiễn; có thể làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, giảng dạy cũng
như việc áp dụng pháp luật
- Điểm mới của luận văn là đã nêu lên được một khái niệm tương đối
đầy đủ về tội phạm G iết người. Đồng thời khái quát và phân tích một cách
cổ hệ thống về các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm này và đưa ra
một số’ dấu hiệu cơ bản để phân biệt giữa tội phạm này với một số tội
phạm khác gần giống với nó trong Bộ luật hình sự.
- Luận văn cũng khái quát một cách tương đôi về tình hình và các
nguyên nhân, điều kiện cũng như hiệu quả cuộc đấu tranh đối với tội
"Giết người" xảy ra tại tĩnh Dak Lak trong thời gian qua. Đồng thời cũng
mạnh dạn nêu ra những dự báo và đề xuất những biện pháp nhằm tăng
cường hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm hình sự nói chung và tội
phạm G iết người nói riêng.
6. BôT cuc của luân văn :
Bô" cục của luận văn bao gồm :
- Lời nói đầu :
- Có 3 chương :
+ Chương 1 : Một số nội dung cơ bản về đấu tranh phòng chống các
tội phạm giết người.
+ Chương 2 : Sô" liệu cơ bản về tình hình phạm tội giết người trên địa
bàn tỉnh Dak Lak .
+ Chương 3 : Những giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng
chông tội phạm giết người trên địa bàn tỉnh Dak La k .
- Kết luận :
- 7 -
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ NỘI DUNG cơ BÀN VỄ
ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG CÁC TỘI GIẾT NGƯỜI
1.1. KHÁI QUÁT QUY ĐỊNH VỀ CẮC TÔI GIET ngư ời
TRONG PHẤP LUẢT HÌNH sư VIÈT NAM
1.1.1. Khái niêm về các tôi giết người trong pháp luât hình sư
T ộ i giết người có thể được hiểu theo hai nghĩa. Theo nghĩa hẹp, tội
giết người chỉ được quy định tại Điều 93 Bộ luật hình sự 1999. Theo nghĩa
rộng, tội giết người là một nhóm tội phạm được quy định tại một số điều
luật trong Bộ luật hình sự năm 1999 : Điều 93 :"Tội giết người"; Điều 94:
"Tội giết con mới đẻ"; Điều 95 :"Tội giết người trong trạng thái tinh thần
bị kích động mạnh"; Điều 96 :"Tộ i giết người do vượt quá giới hạn phòng
vệ chính đáng", sở dĩ tội giết người được quy định trong một sô" điều luật
là do sự khác nhau trong đặc điểm của người bị hại hoặc của người phạm
tội. Hướng nghiên cứu của luận văn này tập trung vào tội giết người theo
nghĩa rộng bao gồm một nhóm tội phạm nêu trên.
Trong khoa học luật hình sự, cho đến nay, vẫn chưa có nhận thức
thống nhất để định nghĩa như thế nào là tội giết người. Thực tiễn có quan
điểm cho rằng, tội giết người là hành vi cổ ý tước đoạt tính mạng của người
khác một cách trái pháp luật, trực tiếp xâm hại đến quyền sống con người.
Nhưng cũng có quan điểm khác lại xác định tội giết người không thể tước
đoạt tính mạng của người khác vì theo tự điển tiếng V iệt thì tước đoạt có
nghĩa "chiếm lấy cái của người khác, biến nó thành của mình". Trong khi
đó, người phạm tội giết người không thể biến cuộc sống của người khác
Ihành cuộc sống của mình được mà chỉ có thể "hủy hoại hoặc xóa bỏ cuộc
sống" của người khác một cách trái pháp luật. Điều này được thể hiện rất
rõ trong Đ iều 94 Bộ luật hình sự :"Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề
của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết
hoặc vứt bỏ đứa con mđi đẻ đó dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết, thì bị phạt
cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc bị phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm”.
Hậu quả đứa trẻ chết có nghĩa là lẽ ra nó có quyền được sống, nhưng do
hành vi giết đứa trẻ mà làm nó chết. Do vậy cần đưỢc hiểu thông nhất
khái niệm tội giết người để có các biện pháp đấu tranh phòng chống tội
phạm này là hết sức cần thiết.
- Trước tiên cần phải hiểu rằng tất cả mọi người sinh ra đều có quyền
được sống, quyền tự do và được mứu cầu hạnh phúc. Đ ây là quyền tự
nhiên của mỗi con người mà không thể bất kỳ ai theo ý chủ quan của mình
xóa bỏ được, trừ trường hợp xóa bỏ tính mạng của người khác trong trường
hớp phòng vệ chính đáng (Điều 15 Bộ luật hình sự), trong tình thế cấp thiết
hoặc thi hành 1 mệnh lệnh hợp pháp của nhà chức trách hoặc người đó vi
phạm pháp luật ở mức đặt biệt nghiêm trọng cho xã hội, nếu cứ để họ tiếp
lục sông thì sẽ gây nguy hại cho xã hội về nhiều mặt. T ất nhiên, trong
trường hợp này đòi hỏi người đó bị đưa ra xét xử và có bản án kết tội tử
hình của Tòa Án đã có hiệu lực Pháp luật và đã qua các trình tự, thủ tục
theo luật định đưa bản án này ra thi hành (Điều 229 B L T T H S ). Do vậy,
mọi trường hợp cô" ý xóa bỏ quyền được sống của mỗi con người không
được Tòa án quyết định theo thủ tục luật định đều là trái pháp luật và
được coi là tội phạm giết người.
- Thứ hai, con người, với tư cách là cơ thể sống phải được sinh ra một
cách tự nhiên. Cuộc sống tự nhiên của con người được bắt đầu từ khi sinh
ra đến khi chết đi theo quy luật cuộc sống như vậy sự sống con người được
xác định từ khi đứa trẻ ra khỏi bụng mẹ cất tiếng khóc chào đời cho đến
khi tế bào não hoàn toàn bị tê liệt. Khẳng định điều này có ý nghĩa pháp
lý nhằm xác định hành vi xâm hại vào thai nhi (chưa được người mẹ sinh
ra) hoặc tử thi (một người đã chết rồi) không được coi là hành vi giết
người. Cho nên đối vđi thai nhi còn nằm trong bụng mẹ hay những người
đã chết không còn nằm trong phạm vi của khái niệm này. Như vậy thì
những hành vi xâm phạm đến sự sổng của thai nhi hoặc xâm phạm đến
trạng thái bình thường của xác chết có thể không phải là tội phạm hoặc
nếu có chỉ là một tội phạm khác chứ không thể là tội giết người. V í dụ:
- 9 -
phá thai dù thai đó ở tháng thứ mấy cũng không phải là giết người. Hoặc
giết phụ nữ đang có thai cũng không phải là giết nhiều người mà chỉ là
tình tiết tăng nặng của tội giết người (Điều 93 K I điểm b Bộ luật hình sự).
Như vậy cần xác định một người đã chết là người mà các bộ phận ở trong
cơ thể đã ngừng hoạt động. Tuy nhiên, trong trường hợp vẫn còn một hoặc
một sô" bộ phận của con người vẫn còn hoạt động (như tim còn đập) thì
người đó vẫn được coi là còn sống. Nếu có hành vi tác động làm một hoặc
một số bộ phận này ngừng hoạt động thì vẫn được coi là phạm tội giết
người. Hoặc trường hợp người phạm tội tưởng nhầm xác chết đó là người
còn sông mà có những hành vi với ý thức giết thì vẫn coi là phạm tội
giết người nếu các dấu hiệu khác của cấu thành tội phạm thỏa mãn - khoa
học Luật hình gọi trường hợp này là sai lầm về đốì tượng.
- Thứ ba : Tội giết người là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Tính nguy
hiểm của hành vi này thể hiện ở chỗ, nó có thể bằng hành động (dùng sức
mạnh vật chất tác động lên thân thể của người bị hại, có thể sử dụng các
loại công cụ, phương tiện nguy hiểm như bắn, đâm, chém ) hoặc không
hành động ( đó là những trường hỢp chủ thể có nghĩa vụ phải hành động,
phải làm những việc nhất định để đảm bảo sự an toàn về tính mạng của
người khác, nhưng họ đã không hành động, không thực hiện những việc
làm đó như hành động của người mẹ không cho con mình bú dẫn đến đứa
bé chết ). Tính nguy hiểm của hành vi này thể hiện ở chỗ hướng vào
nhằm xóa bỏ quyền được sống của người khác. Hành vi nguy hiểm này
được thực hiện dưói hình thức lỗi cô" ý (cố ý trực tiếp hoặc cô" ý gián tiếp).
Nếu nó được thực hiện dưới hình thức lỗi vô ý ( vô ý phạm tội do cẩu thả
hoặc vô ý phạm tội do quá tự tin) thì không coi hành vi này là phạm tội
giết người mà là hành vi làm chết người. Điều này có ý nghĩa quan trọng
nhằm phân biệt tội giết người với các tội phạm khác có hậu quả gây nên
cái chết cho người khác. V í dụ: Tộ i làm chết người trong khi thi hành công
vụ. (Đ iều 97 Bộ luật hình sự); tội vô ý làm chết người (Điều 98 Bộ luật
hình sự) v.v
- 10 -
- Thứ tư, c o n người là một loại động vật sống có ý thức luôn luôn
nhận thức được ý nghĩa trong hành vi của mình. Chính từ điều này, con
người đã thoát khỏi giới động vật và cuộc sống của con người tạo thành xã
hội loài người. Mỗi con người được sinh ra, lớn lên trong xã hội loài người
đều có ý thức về cuộc sông, luôn lựa chọn cách ứng xử hành vi theo đúng
pháp luật, phù hợp với đạo đức, phong tục, tập quán xã hội. Do vậy, trong
khoa học luật hình gọi ý thức hành vi con người là khả năng nhận thức và
khả năng điều khiển hành vi. Trong trường hỢp một người không có khả
năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi mà lại có những hành
động gây nến cái chết cho người khác thì cũng không thể truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội giết người đôi với họ. Cho nên, người thực hiện hành
vi phạm tội giết người bao giờ cũng có mốì liên hệ vổi người bị hại. M ốì
liên hệ này có thể hiện ở chỗ, có thể giữa người phạm tội và người bị hại
có những mối thù cần phải trả thù hoặc che giấu những hành vi vi phạm
pháp luật của chính người phạm tội. Đây là điểm rất phức tạp cần phải
được nghiên cứu mới có thể đưa ra các biện pháp phòng ngừa có hiệu quả.
- Thứ năm , thực hiện hành vi nguy hiểm trong tội giết người, người
phạm tội bao giờ cũng hướng đến mục đích là làm cho người bị hại chết
(chết ngay tức khắc). C ái chết của chính người bị hại mới làm thỏa mãn sự
mong muốn của người phạm tội. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp
người phạm tội đều đạt được mục đích đặt ra của mình sau khi thực hiện
tội phạm vì các lý do khác nhau. Nhưng xác định điều này cũng nhằm
phân biệt tội giết người vổi một số tội phạm khác cũng có hậu quả chết
người. V í dụ : Tộ i hoạt động phỉ (Đ iều 83 Bộ luật hình sự) có hành vi giết
người; tội khủng bố (Điều 84 Bộ luật hình sự) có hành vi xâm phạm tính
mạng cán bộ, công chức hoặc công dân v.v Trong các tội này, mục đích
trực tiếp của người phạm tội nhằm chống lại chính quyền nhân dân hoặc
làm suy yếu chính quyền nhân dân.
Từ sự phân tích những điểm đã trình bày trên có thể rút ra kết luận :
Các tội giết người trong pháp luật hình sự Việt Nam là những hành vi
nguy hiểm cho xã hội, được thực hiện một cách cố ý, hướng vào việc xóa
- 11 -
bỏ quyền được sông của người khác một cách trái pháp luật do sự thù tức;
hoặc do ảnh hưởng nặng nề tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách
quan đặc biệt; hoặc do động cơ khác để trả thù; để thực hiện hay che giấu
hành vi trái pháp luật hoặc để tự vệ với mục đích làm cho người bị hại
chết để thỏa mãn mong muôn chủ quan của người phạm tội.
1.1.2 Khái quát SƯ phát triển của pháp luât hình SƯ Viẽt Nam
trong lich sử về tôi giết người.
Sự hình thành và phát triển Nhà nước V iệt Nam trong lịch sử được
bắt đầu từ thời kỳ Hùng Vương xây dựng nhà nước Văn Lang - Âu Lạc.
Cho đến nay, việc xác định thời điểm hình thành của Nhà nước Văn Lang
- Âu Lạc còn chưa được thông nhất, nhưng có thể giới hạn khoảng thế kỷ
thứ IV - III trước Công nguyên. Nhà nưđc Văn Lang - Âu Lạc mang tính
sơ khai của ch ế độ nhà nưđc chủ nô. Trong xã hội tồn tại kiểu Nhà nước
có tầng lớp quý tộc, bộ lạc và những người nô lệ. Luật pháp trong thời kỳ
này chủ yếu là luật tục dùng chung cho người Lạ c V iệt.
Từ thế kỷ I trưổc Công nguyên đến thế kỷ X sau Công nguyên, khi
An Dương Vương thất bại trong cuộc chiến tranh chông Triệu Đà, Nhà
nước Âu L ạ c bị sát nhập và Nam V iệ t và trở thành một huyện của Nhà
nước phong kiến phương Bắc. Khoảng thời gian hơn 1000 năm đó, pháp
luật nói chung và pháp luật tố tụng hình sự nói riêng được thực hiện với
người V iệ t là pháp luật của Nhà nước phong kiến Trung Quốc ở các mức
độ khác nhau, nhưng chủ yếu là các quy định có tính pháp luật của nhà
Hán giữ vai trò chủ đạo.
T h ế kỷ thứ X là thời kỳ xây dựng Nhà nước độc lập bắt đầu từ thời
họ Khúc (K húc Thừa Dụ, Khúc Hạo), đến đời họ Ngô (Ngô Quyền), họ
Đinh (Đinh Bộ Lĩnh) và thời tiền L ê (Lê Hoàn) sau khi đã trải qua các
cuộc kháng chiến chông quân xâm lược nhà Đường, nhà Tống của nhiều
chế độ phong kiến thuộc nhà nước Trung Quốc. Nhà nước Đ ại cồ V iệ t
được hình thành mang tính châl là một Nhà nưổc phong kiến. Từ thế kỷ X I
đến thế kỷ X III, nhà L ý trị vì đất nước (L ý Công u ẩn, L ý Thái T ổ ), Nhà
- 12 -
nước Đại Cồ V iệ t đổi tên thành Nhà nước Đại V iệt. Năm 1042, L ý Thái
Tông ra lệnh cho Quan Trung Thư xây dựng Bộ Hình Thư để dân thi hành
cho tiện. Trong Bộ Hình Thư, nhà L ý có quy định chủ yếu là những qui
phạm hình sự đôi với những trường hợp phạm tội, nhất là phạm các tội
liên quan đến các tội Thập ác ( Phản quốc, đại nghịch, giết vua, giết cha
mẹ, nổi loạn, phản bội, hung ác bạo nghịch, không có đạo đức, bất kính,
hất hiếu, loạn luân). Như vậy, tội giết người đã được quy định trong Bộ
Hình Thư nhà L ý thế kỷ X I. Từ thế kỷ X III đến thế kỷ X V là thời kỳ giữ
nước của nhà Trần (Trần Thái Tông, Trần Dụ Tông ) Nhà Trần đã sử
dụng Bộ Hình Thư của nhà lý để trị vì đất nưđc. Nhưng đến năm 1244,
nhà Trần có xâ y dựng Bộ Hình Thư mới, có bổ sung thêm những quy
phạm hình sự liên quan đến tội giết người như tội đánh giết ông bà, cha,
mẹ (ác nghịch), đánh giết những người thân thuộc gần, đánh chết chồng
(bất m ục), trò giết thầy đều phải chịu hình phạt nghiêm khắc.
T h ế kỷ X V là thời đại nhà L ê sau khi Lê Lợ i chiến thắng quân xâm
lược nhà M inh. Trong thời gian này, nhà Lê đã xây dựng Việt Nam thành
Nhà nước phong kiến trung ương tập quyền, hủy bỏ toàn bộ quyền tự trị
của các cồng xã, đẩy mạnh quá trình phong kiến hóa cơ cấu xã hội, phát
triển các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, văn học nghệ thuật và các bộ môn
khoa học khác (chính nhà Lê đã khắc tên tuổi những người đỗ Tiến sĩ ở
Văn M iếu còn lưu giữ đến ngày nay). Trong lĩnh vực xây dựng pháp luật,
thế kỷ X V của nhà Lê được coi là mốc quan trọng trong việc xây dựng
Nhà nước Pháp quyền V iệt Nam. Lê Thái Tổ đã cho xây dựng Bộ Luật
Hồng Đức lấy tên là Quốc Triều Hình Luật gồm 6 quyển (Bộ Luật Hồng
Đức được coi là đỉnh cao trong thành tựu lập pháp của lịch sử Nhà Nước
V iệt Nam vì nó là cơ sở cho việc biên soạn những bộ luật của xã hội
phong kiến V iệ t Nam vào những thế kỷ tiếp theo). Trong Bộ Lu ật Hồng
Đức đã quy định nhiều hành vi phạm tội giết người vđi các hình thức thực
hiện tội phạm khác nhau. Ví dụ: Đ iều 415 quy định về tội chủ mưu giết
người; Đ iều 416 quy định về tội giết những bậc tôn trưởng; Điều 417 quy
định về tội nô tỳ mưu giết chủ; Đ iều 418 quy định tội mưu giết sứ giả nhà
- 13 -
vua, mưu giết trưởng quan sở thuộc của mình, mưu giết quan ty đương
chức, mưu giết người cai quản; Điều 419 quy định tội không tố giác kẻ
giết người; Đ iều 420 quy định tội giết chết 3 người trong một gia đình
hoặc xả thây người; Điều 421 quy định tội giết người bằng thuôc độc;
Điều 422 quy định tội giết người bằng cách trói người, bỏ vào chỗ hiểm,
hóp cổ bịt miệng, mũi người, chẹn cửa đốt nhà làm người ta chết; Điều
423 quy định tội giết người bằng thuật tà ma hay làm bùa chú; Điều 425
quy định tội bắt được kẻ giết người mà lạ i tự tiện giết đi; Điều 467 tội cô" ý
đánh chết người; Điều 490 tội chủ nô đánh chết nô tỳ Hình phạt được áp
dụng đôi với những người phạm tội giết người nói chung thường xử tội
chém bêu đầu. Ví dụ : Điều 420 quy định: " Kẻ giết tđi 3 người trong một
gia đình hay xả thây người ta thì xử tội chém bêu đầu, tòng phạm xử tội
chém, điền sản của kẻ phải tội phải trả cho vợ con người bị giết Nói
chung, trong Bộ Luật Hồng Đức quy định một sô" hành vi thuộc loại ác
nghịch (đánh hoặc mưu giết ông bà, cha mẹ và các người thân thuộc bề
trên k h á c ); bất đạo (giết người một cách tàn bạo, đầu độc, dùng ma
thuật ); bất mục (đánh, mưu giết người thân thuộc gần, chồng, người hơn
tuổi ) ; bất nghĩa (dân giết quan, lính giết tướng, trò giết thầy ) đều bị
coi là những tội trong thập ác (10 tội). Hình phạt bị xử nặng, không được
chuộc bằng tiền, không được hưởng ân xá, không được giảm nhẹ theo chế
độ bát nghị (nghị thân, nghị cố, nghị cần, nghị năng, nghị công, nghị hiền,
nghị quỳ, nghị tân).
Từ thế kỷ X V I đến thế kỷ X V III là thời kỳ nội chiến phân liệt. Triều
Lê mất dần vai trò lịch sử, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực,
Trịnh (Trịnh Kiể m ) - Nguyễn (Nguyên Kim ) phân tranh. Có nhiều cuộc
khởi nghĩa nổ ra để chống lại Nhà nước phong kiến đương thời như cuộc
khởi nghĩa của T rần Cao, Mạc Đăng Dung Nước Đ ạ i V iệ t được chia làm
hai m iền : Đàng Trong và Đàng Ngoài lấy sông Gianh làm giới tuyến.
M ỗi phần Đàng Trong và Đàng Ngoài gần như quốc gia riêng chia cắt đất
nước. Trước nguy cơ đó, cuộc khởi nghĩa T ây Sơn do Nguyễn Huệ lãnh
đạo đã thống nhất đất nước về một môi, lập nên Triều đại T â y Sơn. Trong
- 14 -
ihời gian này, Bộ Lu ật Hồng Đức gần như được giữ nguyên phần hình sự,
và chỉ bổ sung thêm một số lĩnh vực kinh tế, tài chính.
Sau khi Triều đại Tây Sơn suy thoái, năm 1802, Nguyễn Ánh lên
ngôi vua, lấy hiệu là Gia Long đến năm 1858 (thời điểm thực dân Pháp
xâm lược). Trong thời gian Nguyễn Ánh trị vì đất nước, việc xây dựng
Pháp luật cũng được quan tâm chú ý. Năm 1815 Bộ Luật Gia Long có tên
là Hoàng Luật Lệ được xây dựng trên cơ sở của Bộ Luật Hồng Đức
kết hỢp với luật lệ của nhà Đ ại Thanh (Trung Quốc). Các quy phạm pháp
luật hình sự được cụ thể hóa nhiều hơn, mở rộng diện trừng trị theo
nguyên tắc một người phạm tội thì tập thể phải chịu hình phạt, nhất là các
tội xâm phạm vào lợi ích của nhà vua. Đối với tội phạm giết người, trong
Hoàng v l ề t Lu ật Lệ vần giữ nguyên như Bộ Luật Hồng Đức. Tuy nhiên,
có bổ sung thêm hành vi giết người. Ví dụ: Điều 254 có quy định: " Vợ
ngoại tình, cùng với tình nhân giết chồng thì bị xử lăng trì, nếu tình nhân
của vỢ giết chồng mà vợ không biết thì cũng bị xử giảo. Chồng bắt được
quả tang vỢ ngoại tình mà giết đi thì không có tội, nếu vợ không bị giết thì
bị phạt về tội thông dâm Điều 284 quy định : " Chồng giết vỢ đã đánh
và chửi ông bà, cha mẹ chồng thì bị phạt 100 trượng Nói chung Pháp
luật hình sự V iệt Nam thời phong kiến chưa đưa ra
được khái niệm về mặt
pháp lý thế nào là giết người mà chủ yếu mô tả hành vi bằng những
trường hỢp cụ thể. Ví dụ\ đánh người đến chết, chủ mưu giết người
Năm 1858 thực dân Pháp xâm lược V iệt Nam. Năm 1883, Triều đình
Huế ký với Pháp bản hiệp ưđc thừa nhận Nam K ỳ là xứ bảo hộ của Pháp.
Trong suốt thời gian 1858 đến 1945, thực dân Pháp đã thiết lập chính
quyền thuộc địa nửa phong kiến ở V iệt Nam. v ề pháp luật, thực dân Pháp
sử dụng hai loại vào hai thời kỳ. Thời kỳ đầu từ 1858 đến 1883, có luật
riêng dành cho người Pháp phạm tội được xử nhẹ hơn người bản xứ và do
Tòa Á n của Pháp xét xử. Đối với người V iệ t phạm tội được sử dụng theo
Hoàng vfêfc Luật L ệ . Thời kỳ tiếp theo từ năm 1883 đến 1945, sau khi
Nam K ỳ trở thành xứ bảo hộ của Pháp thì chúng hoàn toàn sử dụng luật
của Pháp để tiến hành điều tra, xét xử người phạm tội. Còn xứ Trung K ỳ
- 15 -
và Bắc K ỳ được sử dụng theo Hoàng v ltẻ p Luật Lệ có bổ sung thêm tội
chống lại Chính Phủ Pháp. Đôi vổi người Pháp phạm tội vẫn được điều
tra, xét xử riêng theo luật của Pháp. Tuy nhiên, tội giết người trong thời
gian này có tên thống nhất chung là " tội cô" sát Trong Bộ Hình Luật Bắc
kỳ (1918), Hình Điển Trung Việt (Hoàng V iệt Hình Luật) (1933) và Bộ
Luật canh cải Nam phần đều quy định : cô" sát là chí tâm giết người, bị
phạt tới khổ sai chung thân. Nếu cô" sát "bị gia trọng " thì can phạm bị tử
hình (cô" sát, dự mưu, mai phục, cô" sát ông bà, cha mẹ, vợ giết chồng hoặc
chồng giết vỢ cả, em giết anh chị, cháu giết chú, bác, thím, mỢ, cậu, cô,
dì, cố sát quan lạ i đương chức, đương sự khi làm việc, trò giết thầy, tớ giết
chủ, cô" sát bằng độc dược v.v ). Nhìn chung, tội giết người trong pháp
luật hình sự thời kỳ Pháp thuộc đã mô tả rõ hơn về hành vi giết người
irong những dấu hiệu pháp lý đặc trưng. Ngoài ra luật còn quy định những
trường hợp tăng nặng và giảm nhẹ của tội cố sát, để làm căn cứ cho việc
quyết định hình phạt phù hợp với tính chất và mức độ của hành vi phạm
Cách mạng tháng 8 năm 1945 đã mở ra thời kỳ mới cho đất nước Việt
Nam, xóa bỏ hoàn toàn chế độ nửa thuộc địa phong kiến, lập nên Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước của nhân dân lao động do
Đảng lãnh đạo. Cùng với việc củng cố, bảo vệ chính quyền non trẻ, Đảng
và Nhà nước ta đã quan tâm đặc biệt đến việc xây dựng và áp dụng pháp
luật để bảo vệ Tổ quốc. Do chưa thể có ngay các văn bản pháp luật để
điều chỉnh các quan hệ xã hội ở đất nước mới được giải phóng, Chính phủ
nước V iệt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành sắc lệnh sô" 47 ngày 10
tháng 10 năm 1945 về việc tạm thời sử dụng luật lệ cũ với điều kiện
không được xâm phạm tới chủ quyền và nền độc lập của dân tộc Việt
Nam và chính thể dân chủ cộng hòa. Đồng thời không đi ngược lại lợi ích
của Nhà nước, sắc lệnh này là biện pháp hết sức kịp thời, nhằm hạn chế
đến mức thấp nhất những xáo trộn trong cuộc sông của nhân dân, đồng
thời đảm bảo duy trì trật lự xã hội, không phương hại đến nền độc lập và
- 16 -
nền dân chủ cộng hòa của đất nước mới giành được chính quyền. Do vậy,
lội giết người vẫn được quy định theo pháp luật của chế độ cũ nhưng
không trái vổi nền độc lập và lợi ích của đất nước.
Sau năm 1954, ở miền Bắc thực hiện nhiệm vụ xây dựng C N X H , đấu
iranh thống nhất đất nước, yêu cầu tăng cường chuyên chính vô sản, đồng
ihời mở rộng dân chủ ngày càng cao đòi hỏi phải được thể chế hóa trong
các văn bản pháp luật. Trong thời kỳ này tuy Nhà nước chưa có điều kiện
ban hành văn bản pháp luật hình sự có giá trị pháp lý cao và có tính hệ
thông cao quy định các tội phạm chông nhân thân. Trong đó có tội giết
người và hình phạt tương ứng nhưng cùng vđi việc ban hành các văn bản
pháp luật khác, Nhà nưổc ta cũng đã ban hành một sô" văn bản pháp luật
về hình sự, trong đó có quy định tội giết người như:
- Thông tư 442/ T T g ngày 19/01/1955 của Thủ Tướng Chính Phủ tại
Mục I, T iế t I, Chương III có quy định tội giết người như sau: " Người nào
cố ý giết người thì bị phạt tù từ 5 năm đến 20 năm. Nếu có trường hợp nhẹ
có thể hạ xuống đến 1 năm. G iết người có dự mưu có thể phạt đến tử hình
- Công văn sô" 452/ H S2 ngày 10/8/1970 của Tòa Án nhân dân Tối
cao tổng kết thực tiễn xét xử loại tội giết người và đã rút ra một số’ kinh
nghiệm trong việc phân biệt giữa tội giết người vổi những tội gần giống
vổi nó như tội cố ý gây thương tích nhân thương làm chết người. T ộ i giếl
người chưa đạt với tội cố ý gây thương tích và một sô" tội khác; cũng như
việc vận dụng một sô' tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ.
- B ản tổng kết 452/ HS của T A N D T C cũng hướng dẫn : chủ thể của
tội giết người là bất kỳ người nào đã đạt đến 14 tuổi tròn không bị bệnh
tâm thần hay một bệnh khác làm mất đi khả năng nhận thức và điều khiển
hành vi của mình. Trong thực tiễn xét xử , nhìn chung các can phạm dưới
14 tuổi tròn không bị truy tô", xét xử về tội giết người, cho nên cũng như
đôi với các loại tội phạm nghiêm trọng khác thì có thể nói trách nhiệm
hình sự đối với tội giết người bắt đầu từ 14 tuổi tròn trừ một sô' trường
V' L c / / f f -
hợp hết sức cá biệt, trong đó can phạm rõ ràng là chưa có ý thức về tính
chất nguy hiểm về hành vi giết người của mình. Ngoài ra, vì tội giết người
là tội hết sức nguy hiểm mà lứa tuổi từ 14 tuổi trở lên đã có thể nhận thức
đước ít nhiều tính chất, cho nên nói chung cần truy tô", xét xử các trường
hỢp giết người mà can phạm từ 14 tuổi tròn trở lên.
- Sắc luật sô" 03-SL/76 ngày 15/3/1976 của Hội Đồng Chính Phủ Cách
Mạng Lâm Thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tại Điều 5, Chương II có
quy định phạm tội cố ý giết người. "Người nào phạm tội cô" ý giết người
thì bị phạt tù từ 15 năm đến tù chung thân hoặc bị xử tử hình. Trường hợp
c ó tình tiết giảm nhẹ thì mức hình phạt có thể thấp hơn" và Thông tư số
03-BTP/T T ngày /4/1976 của Bộ Tư Pháp hưđng dẫn thi hành sắc luật
quy định tội cố ý giết người như sau : cô" ý giết người là một tội đặc biệt
nghiêm trọng, do đó sắc luật quy định hình phạt cao hơn các tội khác cùng
loại nói ở điều 5 của sắc luật, c ố ý giết người thì bị phạt tù từ 15 năm đến
20 năm, tù chung thân hoặc bị xử tử hình. Trường hỢp ít nghiêm trọng
hoặc có những tình tiết giảm nhẹ thì xử dưới 15 năm tù. Trường hợp ít
nghiêm trọng hoặc có những tình tiết giảm nhẹ là :
+ G iết người trong trường hỢp thần kinh bị kích động quá mạnh.
+ G iết người vượt quá phạm vi phòng vệ cần thiết.
+ Nạn nhân chưa chết và cũng chưa bị thương nặng. Nhưng cần chú ý
rằng có trường hợp tuy nạn nhân chưa chết, nhưng xét vụ án nghiêm trọng
cũng phải xử theo những hình phạt cao hơn, nghĩa là trên 15 năm tù, chung
thân hoặc xử tử hình.
Nhìn chung, các văn bản pháp luật hình sự quy định tội giết người
trong thời kỳ này so với Lu ật hình sự thời phong kiến thì có nhiều tiến bộ
hơn và khoa học hơn nhiều, nhất là việc quy định độ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự về tội giết người và đường lối xét xử đối với lứa tuổi vị thành niên
thì không nên áp dụng hình phạt tử hình và xử nhẹ hơn so với người thành
niên phạm tội. Những hưđng dẫn này thực tế cho đến nay vẫn còn phù
hỢp.
- 18 -
Trên cơ sở Hiến pháp 1980, Bộ luật hình sự đầu tiên của Nhà nước ta
được Quốc Hội thông qua ngày 27/6/1985 và có hiệu lực thi hành từ ngày
1/1/1986 đã kế thừa pháp luật hình sự của nhà nước V iệ t Nam trong các
giai đoạn trước đó. Bộ luật hình sự năm 1985 qui định về tội giết người tại
Điều 101 (Tội giết người) và Điều 102 (Tội giết người do vượt quá giổi
hạn phòng vệ chính đáng). Trong điều 101 :"Tội giết người" với 4 khung
hình phạt: Trong đó khung 2 là khung cấu thành cơ bản tội giết người;
khung 1 là khung cấu thành tăng nặng tội giết người; khung 3 khung cấu
thành giảm nhẹ tội giết người vổi tình tiết giết người trong tình trạng tinh
thần bị kích động mạnh và khung 4 quy định về người mẹ giết con mới đẻ.
Trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cho thấy về mặt kỹ thuật lập
pháp đôi với tội giết người trong Bộ luật hình sự 1985 như trên vẫn còn
lẫn lộn vì trong một tội lại quy định quá nhiều hành vi có tính chất và mức
độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau quá xa, động cơ mục đích của người
phạm tội cũng rất khác nhau, chưa phản ánh được tính riêng biệt và chính
sách hình sự của Nhà nưđc đốì với tội giết người. Mặt khác, khi nền kinh
tc đất nước ta chuyển từ cơ chế bao cấp, k ế hoạch hóa tập trung sang cơ
chế thị trường, thì nhiều thành phần đã tác động làm xuất hiện nhiều hình
thức giết người mđi. Điều này đặt ra sự cần thiết phải cụ thể hóa tội giết
người và cá thể hóa trách nhiệm hình sự đốì với tội giết người bằng các
điều luật cụ thể hơn trong Bộ luật hình sự. V ì vậy, Bộ luật hình sự năm
1999 đã quy định tội giết người được thể hiện trong 4 điều lu ậ t : Điều 93 :
Tội giết người; Điều 94 : Tội giết con mổi đẻ; Điều 95 : Tộ i giết người
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh; Điều 96 : T ộ i giết người do
vượt quá giổi hạn phòng vệ chính đáng. Sự phát triển của pháp luật hình
sự nói chung của Nhà nưổc V iệt Nam trong lịch sử và những quy định về
tội giết người như đã trình bày ở trên cho thấy, nhà nước Việt Nam (thời
kỳ phong kiến, pháp thuộc và hiện nay) đều rất nghiêm khắc trừng trị đối
với hành v i phạm tội giết người, bảo vệ quyền sống của con người V iệt
Nam nói chung.
- 19 -
1.1.3. Các dâu hiêu pháp lý đăc trưng các tôi pham giết nươời
trong Bô luât hình SƯ 1999.
Điều 93 : Tộ i giết người :
1) Người nào giết người thuộc 1 trong các trường hợp sau đây thì bị
phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, chung thân hoặc tử hình.
a) Giết nhiều người.
b) G iết phụ nữ mà biết là có thai.
c) Giết trẻ em.
d) G iết người đang thi hành công vụ hoặc v ì lý do công vụ của nạn
nhân.
đ) G iết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của
mình.
e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại phạm tội một rất
nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng.
g) Để thực hiện hoặc che dấu tội phạm khác.
h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân.
i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ.
k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp.
1) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người.
m) Thuê giết người hoặc giết người thuê.
n) Có tính chất côn đồ.
o) Có tổ chức.
p) T á i phạm nguy hiểm.
q) V ì động cơ đê hèn.
2) Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 điều
này thì bị phạt tù từ 7 năm đến 15 năm.
3) Người phạm tội có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm, phạt quản chế hoặc
cấm cư trú từ 1 năm đến 5 năm.
Điều 94 : Tội giết con mới đẻ:
- 20 -
Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong
hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết con mới đẻ hoặc vứt bỏ đứa trẻ đó
dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm
hoặc bị phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm.
Điều 95 : T ộ i giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
1) Người nào giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
do hành v i trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đốì với người đó, thì
bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.
2) G iết nhiều người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, thì
bị phạt tù từ 3 năm đến 7 năm.
Điều 96 : T ộ i giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
1) Người nào giết người trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3
tháng đến 2 năm.
2) Giết nhiều người trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng, thì bị phạt tù từ 2 năm đến 5 năm.
Phân tích các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm giết người là
vấn đề rất quan trọng vì cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý của trách
nhiệm hình sự. Một người chỉ có thể chịu trách nhiệm hình sự khi hành vi
của họ có đầy đủ dấu hiệu của một cấu thành tội phạm.
Cấu thành tội phạm giết người bao gồm 4 yếu tô" cấu thành sau đây :
1. Khách thể của các tôi pham siết nsư ờ i:
Khách thể của các tội phạm giết người là xâm phạm đến quyền được
sống của con người. Quyền được sống của con người được pháp luật bảo
vệ. Đối tượng của các tội phạm giết người là những chủ thể có quyền
được tôn trọng và bảo vệ tính mạng - Đó là những người đang sông, đang
tồn tại trong thế giổi khách quan với tư cách là con người.
2. M ăt khách auan của các tôi phạm giết n sư ờ i:
Mặt khách quan của các tội phạm giết người thể hiện bằng một trong
các hành vi hủy hoại, xóa bỏ cuộc sông của người khác một cách trái pháp
luật. Hành v i này có thể được thực hiện bằng hình thức hành động và thể
- 21 -